Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ năng lực thực tiễn của chỉ huy trưởng quân sự xã, phường, thị trấn ở tỉnh đồng nai hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (442.28 KB, 110 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

Chương 1:

THỰC CHẤT VÀ NHÂN TỐ CƠ BẢN QUY

3

ĐỊNH NĂNG LỰC THỰC TIỄN CỦA CHỈ
HUY TRƯỞNG QUÂN SỰ X, PHNG,
10

1.1.

TH TRN TNH NG NAI
Thực chất năng lực thực tiễn của chỉ huy trưởng quân

10

1.2.

sự xã, phường, thị trấn ở tỉnh Đồng Nai
Nhân tố cơ bản quy định năng lực thc tin ca ch

huy trng quõn s xó, phường, thị trấn ở tỉnh Đồng Nai
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG

27


CAO NĂNG LỰC THỰC TIỄN CỦA CHỈ HUY
TRƯỞNG QUÂN SỰ XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN Ở
52

2.1.

TỈNH NG NAI HIN NAY
Thc trng năng lực thc tin ca chỉ huy trưởng quân

52

2.2.

sự xã, phường, thị trấn ở tỉnh Đồng Nai hiện nay
Một số giải pháp cơ bản nâng cao năng lực thc tin
ca ch huy trng quõn s xã, phường, thị trấn ở tỉnh
Đồng Nai hiện nay

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

74
90
92
97


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln đặc biệt quan tâm đến cơng tác
cán bộ, từ đánh giá, lựa chọn, đào tạo, thử thách, rèn luyện đến sử dụng và đãi
ngộ... Người cũng yêu cầu người cán bộ: “ Phải có óc suy nghĩ, mắt trơng, tai
nghe, chân đi miệng nói tay làm. Chứ khơng phải nói sng, chỉ ngồi viết
mệnh lệnh. Họ phải thật thà nhúng tay vào việc” [35, tr.699]. Thực tế quá
trình xây dựng và trưởng thành của lực lượng vũ trang tỉnh Đồng Nai, hơn 70
năm qua đã khẳng định vai trò, trách nhiệm và năng lực hoạt động thực tiễn
của đội ngũ cán bộ quân sự địa phương nói chung và cán bộ chỉ huy trưởng
quân sự xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh nói riêng. Đội ngũ cán bộ chỉ
huy trưởng quân sự xã, phường, thị trấn ln xác định tốt chức trách, nhiệm
vụ, có ý chí khắc phục khó khăn, chịu đựng gian khổ, giữ vững phẩm chất
nhân cách, có năng lực hoạt động và góp phần tích cực trong việc xây dựng
bản lĩnh, tinh thần chiến đấu cho cán bộ quân sự địa phương, lực lượng dân
quân tự vệ ở các đơn vị địa phương và tồn thể nhân dân trong tỉnh, góp phần
quan trọng trong việc xây dựng quân đội vững mạnh về mọi mặt.
Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Đồng Nai với bề dày truyền thống vẻ vang của
mình, khơng thể khơng kể đến sự góp phần quan trọng của đội ngũ cán bộ
quân sự địa phương, trong đó có đội ngũ cán bộ chỉ huy trưởng quân sự xã,
phường, thị trấn. Lực lượng cán bộ chỉ huy trưởng quân sự xã, phường, thị
trấn ở lực lượng vũ trang tỉnh Đồng Nai đã phát huy được năng lực thực tiễn
trong các hoạt động đặc biệt là tham mưu cho cấp ủy Đảng, Ủy ban nhân dân
cấp xã, phường, thị trấn lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành thực hiện nhiệm vụ quốc
phòng, quân sự ở cơ sở; đăng ký, quản lý công dân trong độ tuổi thực hiện
nghĩa vụ tham gia dân quân tự vệ, công dân nam trong độ tuổi sẵn sàng nhập
ngũ; tuyển chọn công dân nhập ngũ, quản lý lực lượng dự bị động viên theo
3


quy định của pháp luật. Họ đã thực hiện có hiệu quả trong thực tế các nhiệm
vụ huấn luyện, giáo dục chính trị, tư tưởng, động viên, giúp đỡ các bộ, dân

quân tự vệ trong thực hiện nhiệm vụ, xây dựng các tổ chức, các lực lượng và
bảo đảm sự đoàn kết thống nhất trong đơn vị. Đội ngũ chỉ huy trưởng quân sự
xã, phường, thị trấn ở lực lượng vũ trang tỉnh Đồng Nai đã phát huy tốt tinh
thần trách nhiệm trong quán triệt, phát hiện và giải quyết các vấn đề theo chức
trách, nhiệm vụ được giao, góp phần tích cực vào việc hồn thành các nhiệm
vụ ở đơn vị. Tuy nhiên, trong q tình cơng tác vẫn còn một số cán bộ chỉ huy
trưởng quân sự xã, phường, thị trấn bộc lộ những hạn chế về năng lực thực
tiễn trong thực hiện các nhiệm vụ theo cương vị, chức trách như: công tác
tham mưu, huấn luyện, tuyển qn, báo cáo vẫn cịn chủ quan, khơng chính
xác với thực tế, nói khơng đi đơi với làm, sợ va chạm, bao che, nể nang v.v...
dẫn tới chất lượng thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng ở địa phương
chưa cao.
Từ những điểm tích cức và hạn chế về năng lực, phẩm chất của chỉ huy
trưởng quân sự xã, phường, thị trấn ở lực lượng vũ trang tỉnh Đồng Nai; từ
yêu cầu nhiệm vụ mới của quân đội và của quốc phịng địa phương. Đặc biệt,
từ vị trí, vai trị chức trách nhiệm vụ của người chỉ huy trưởng quân sự xã,
phường, thị trấn theo Khoản 2 điều 4 của Luật Dân quân tự vệ năm 2009, bảo
đảm cho họ xứng đáng với tư cách của người chủ trì lực lượng dân quân tự vệ
theo tư tưởng Hồ chí Minh đối với lực lượng dân quân tự vệ và du kích là một
“ bức tường sắt” của Tổ quốc. Đặt ra yêu cầu cao về năng lực và phẩm chất
của đội ngũ cán bộ này, trong đó năng lực hoạt động thực tiễn là vấn đề có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng.
Vì vậy, tác giả lựa chọn vấn đề nghiên cứu: “Năng lực thực tiễn của chỉ
huy trưởng quân sự xã, phường, thị trấn ở tỉnh Đồng Nai hiện nay” làm đề tài
nghiên cứu.
4


2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề nâng cao phẩm chất, năng lực cho đội ngũ cán bộ nói chung đã

có nhiều các cơng trình khoa học nghiên cứu, tiêu biểu như:
Tác giả Nguyễn Thanh Minh (2012), “Phát triển năng lực chuyện môn
của học viên trong sư đoàn ở Học viện Hậu cần hiện nay, đáp ứng yêu cầu
chiến tranh bảo vệ Tổ quốc”; Nguyễn Văn Hài (2015), “ Phát huy năng lực
làm chủ vũ khí trang bị của học viên ở Trường Sĩ quan Pháo binh hiện nay”,
Đỗ Mạnh Hà (2015); “ Phát huy năng lực huấn luyện quân sự của học viên
Trường sĩ quan Công binh hiện nay”... Các đề tài này đã tấp trung làm rõ tính
tất yếu phải nâng cao về mọi mặt của đội ngũ cán bộ, vấn đề phẩm chất, năng
lực, các vấn đề có liên quan tới thực tiễn và năng lực thực tiễn.
Đề cập đến vấn đề xây dựng cơ quan quân sự địa phương nói chung,
nhất là Ban chỉ huy quân sự cấp xã, phường, thị trấn nói riêng đã có nhiều
cơng trình nghiên cứu, tiêu biểu như: tác giả Hoàng Quốc Long (2007), “Xây
dựng đội ngũ cán bộ cơ quan quân sự huyện, thị xã của tỉnh Hà Tĩnh trong
giai đoạn hiện nay”; Phạm Văn Bé Tư (2008), “Xây dựng đội ngũ cán bộ
chính trị cơ quan quân sự huyện ở quân khu IX trong giai đoạn hiện nay” ;
Nguyễn Song Hỷ (2009), “Phẩm chất chính trị của đội ngũ cán bộ chủ trì
ban chỉ huy quân sự cấp huyện trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay”; Nguyễn
Đăng Dương (2015), “ Vấn đề bồi dưỡng năng lực quản lý của đội ngũ cán
bộ quản lý học viên ở Trường sĩ quan lục quân 2 hiện nay”; Dương Lê Ngọc
(2016),“ Xây dựng Ban chỉ huy quân sự xã ở Tây Ninh hiện nay” v.v...
Các cơng trình khoa học đã trình bày về vị trí, vai trị của ban chỉ huy
quân sự huyện và vai trò của đội ngũ cán bộ. Đồng thời các tác giả còn đề
cập thực trạng ban chỉ huy quân sự huyện và chất lượng đội ngũ cán bộ ban
chỉ huy quân sự huyện, chỉ ra nguyên nhân và một số kinh nghiệm, xác định
phương hướng và đề xuất một số giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ ban chỉ huy quân sự huyện.
5


Tiếp tục đề cập đế vấn đề này cịn có các cơng trình khoa học như: tác giả

Nguyễn Hữu Đức (2009), “Xây dựng xã đội vững mạnh đáp ứng yêu cầu của hệ
thống chính trị cơ sở trong tình hình mới”; Nguyễn Oanh Liệt (2009), “Vai trò
của cơ quan quân sự trong quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội gắn với xây
dựng khu vực phòng thủ tỉnh Kiên Giang”, v.v... các tác giả đã tập trung làm rõ
những vấn đề cơ bản về lý luận, thực tiễn của vấn đề nghiên cứu, nhất là phân
tích làm rõ vị trí, vai trị, chức năng của cơ quan qn sự trong các nhiệm vụ của
địa phương, cơ sở và đề xuất những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng, hiệu
quả thực hiện các nhiệm vụ của cơ quan quân sự các cấp ở địa phương.
Tác giả Trần Bích Nhuần, “Xây dựng đội ngũ bí thư đảng ủy xã ở tỉnh
Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay; Phạm Công Khâm, “Xây dựng đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long hiện nay” ;
Nguyễn Văn Phích, “Xây dựng đội ngũ bí thư đảng uỷ xã ở Kiên Giang trong
giai đoạn hiện nay"; Trần Trung Trực (2005), “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ
chốt hệ thống chính trị cấp xã ở huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh
giai đoạn hiện nay”; Lê Sơn Hà (2010), “Xây dựng ban chỉ huy quân sự xã,
phường, thị trấn vững mạnh tồn diện ở tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện
nay”; Trương Văn Thi (2014), “Nâng cao năng lực tham mưu, lãnh đạo của
chi bộ quân sự xã ở tỉnh Bình Phước hiện nay”, các tác giả đã nêu lên được
nhận thức, trách nhiệm của các tổ chức, các lực lượng về nâng cao năng lực
tham mưu, lãnh đạo của chi bộ quân sự xã; xác định nội dung nâng cao năng
lực tham mưu, lãnh đạo của chi bộ quân sự xã; kiện toàn chi uỷ và bồi dưỡng
nâng cao phẩm chất, năng lực về mọi mặt cho các chi uỷ viên, đồng thời tiến
hành tốt công tác xây dựng đội ngũ đảng viên trong chi bộ quân sự xã; nâng
cao chất lượng sinh hoạt và thực hiện tốt quy chế làm việc của chi bộ quân sự
xã; duy trì thực hiện nghiêm nền nếp, chế độ và các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt
của chi bộ quân sự xã; tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát của
cấp uỷ, tổ chức đảng cấp trên trong việc nâng cao năng lực tham mưu, lãnh
đạo của chi bộ quân sự xã.
6



Các bài báo khoa học đã được công bố đề cập đến vấn đề xây dựng Ban
CHQS xã, phường, thị trấn, liên quan đến đề tài luận văn của tác giả như:
Nguyễn Hữu Đức, “Xây dựng xã đội vững mạnh đáp ứng yêu cầu của hệ
thống chính trị cơ sở trong tình hình mới”, Tạp chí Dân qn tự vệ - Giáo dục
quốc phòng, số 31 năm 2006; bài báo khoa học đã tập trung làm rõ những vấn
đề cơ bản về lý luận, thực tiễn của vấn đề nghiên cứu, nhất là phân tích làm rõ
vị trí, vai trị, chức năng của cơ quan quân sự trong các nhiệm vụ của địa
phương, cơ sở và đề xuất những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng, hiệu
quả thực hiện các nhiệm vụ của cơ quan quân sự các cấp ở địa phương.
Đại tá Đậu Văn Nậm, “Xây dựng đội ngũ cán bộ quân sự xã, phường,
thị trấn trên địa bàn Qn khu 7” Tạp chí Quốc phịng tồn dân - số 7 năm
2014; bài viết làm rõ về vị trí, vai trị của cán bộ qn sự xã, phường, thị trấn
(gọi chung là cấp xã), được Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 7, cấp ủy, chính
quyền các địa phương trên địa bàn luôn quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ
này và xác định đây là một nội dung quan trọng; là nhân tố quyết định việc
hoàn thành nhiệm vụ quân sự ở địa phương, cơ sở. Đồng thời bài viết đã đề
một ra một số kinh nghiệm, làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận, thực tiễn
của vấn đề nghiên cứu, nhất là phân tích làm rõ vị trí, vai trị, chức năng của
cơ quan quân sự địa phương cơ sở, tập trung trong các nhiệm vụ của địa
phương, cơ sở và đề xuất những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng, hiệu
quả thực hiện các nhiệm vụ cụ thể của công tác quân sự quốc phòng địa
phương ở cơ sở trong giai đoạn cách mạng mới.
Tựu chung lại, những cơng trình khoa học trên đã đề cập, đánh giá rất
nhiều về Ban chỉ huy quân sự xã, phường, thị trấn; thậm chí cả phương pháp,
năng lực công tác của đội ngũ cán bộ quân sự xã, phường, thị trấn kết quả của
các công trình khoa học nêu trên là những tài liệu quan trọng mà tác giả có thể
nghiên cứu, kế thừa, vận dụng trong quá trình xây dựng luận văn tốt nghiệp.

7



Song, đề cập về năng lực hoạt động thực tiễn của chỉ huy trưởng xã, phường,
thị trấn ở tỉnh Đồng Nai chưa có một cơng trình khoa học nào đề cập. Vì vậy,
đề tài khơng có sự trùng lặp với các đề tài khoa học đã cơng bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về năng lực thực tiễn của chỉ
huy trưởng quân sự xã, phường, thị trấn ở tỉnh Đồng Nai; từ đó đề xuất những
giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực thực tiễn của chỉ huy trưởng quân sự
xã, phường, thị trấn ở tỉnh Đồng Nai hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ thực chất và nhân tố cơ bản quy định năng lực thực tiễn của chỉ huy
trưởng quân sự xã, phường, thị trấn ở tỉnh Đồng Nai.
Phân tích, đánh giá thực trạng năng lực thực tiễn của chỉ huy trưởng quân
sự xã, phường, thị trấn ở tỉnh Đồng Nai hiện nay.
Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực thực tiễn của
chỉ huy trưởng quân sự xã, phường, thị trấn ở tỉnh Đồng Nai hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Năng lực thực tiễn của chỉ huy trưởng quân sự xã, phường, thị trấn ở tỉnh
Đồng Nai.
* Phạm vi nghiên cứu
Năng lực thực tiễn của chỉ huy trưởng quân sự xã, phường, thị trấn ở tỉnh
Đồng Nai. Số liệu khảo sát và điều tra xã hội học từ năm 2013 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề thực tiễn, năng
8



lực thực tiễn của người cán bộ nói chung, đội ngũ cán bộ quản lý quân sự địa
phương nói riêng.
* Cơ sở thực tiễn
Đề tài dựa vào các báo cáo tổng kết của Đảng bộ tỉnh Đồng Nai về công
tác cán bộ quân sự địa phương, kết quả điều tra, khảo sát của tác giả về năng
lực thực tiễn của chỉ huy trưởng quân sự xã, phường, thị trấn ở tỉnh Đồng Nai
hiện nay.
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận duy vật biễn chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác - Lênin; kết hợp với các phương pháp nhận thức khoa học
như: phân tích, tổng hợp; quy nạp, diễn dịch, điều tra xã hội học và xin ý kiến
của chuyên gia.
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận,
thực tiễn và những giải pháp cơ bản nâng cao năng lực thực tiễn của chỉ huy
trưởng quân sự xã, phường, thị trấn ở tỉnh Đồng Nai hiện nay. Trên cơ sở đó làm
tài liệu tham khảo, vận dụng vào quá trình nâng cao chất lượng hoạt động của
chỉ huy trưởng quân sự xã, phường, thị trấn ở tỉnh Đồng Nai, đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ của công tác quân sự địa phương trong thời kỳ mới.
7. Kết cấu của luận văn
Đề tài bao gồm: mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.

9


Chương 1
THỰC CHẤT VÀ NHÂN TỐ CƠ BẢN QUY ĐỊNH NĂNG LỰC THỰC

TIỄN CỦA CHỈ HUY TRƯỞNG QUÂN SỰ XÃ, PHƯỜNG,
THỊ TRẤN Ở TỈNH ĐỒNG NAI

1.1. Thực chất năng lực thực tiễn của chỉ huy trưởng quân sự xã,
phường, thị trấn ở tỉnh Đồng Nai
1.1.1. Năng lực và năng lực thực tiễn của chỉ huy trưởng quân sự xã,
phường, thị trấn ở tỉnh Đồng Nai
Nghiên cứu phạm trù năng lực, hiện có nhiều cách tiếp cận khách nhau:
Theo từ điển Triết học năng lực được hiểu; “Theo nghĩa rộng là những đặc
tính tâm lý của cá thể điều tiết hành vi của cá thể và là điều kiện cho hoạt
động sống của cá thể. Năng lực chung nhất của cá thể là tính nhạy cảm được
hồn thiện trong suốt q trình phát triển về mặt phát sinh lồi và về mặt phát
triển cá thể. Hiểu theo nghĩa đặc biệt thì năng lực là tồn bộ những đặc tính
tâm lý của con người khiến cho nó thích hợp với một hình thức hoạt động
nghề nghiệp nhất định đã hình thành trong lịch sử” [ 49, tr.379].
Theo từ điển Tiếng Việt thì năng lực được hiểu là “ 1. Khả năng, điều
kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó. 2.
Phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho con người khả năng hoàn thành một loạt
hoạt động nào đó với chất lượng cao” [ 16, tr.565].
Theo Từ điển Giáo dục học, năng lực là: “ Khả năng được hình thành
hoặc phát triển, cho phép một con người đạt thành công trong một hoạt động
thể lực, trí lực hoặc nghề nghiệp” [48, tr.278].
Dưới góc độ tâm lý học: Năng lực là tổng hợp những phẩm chất cần thiết
của cá nhân đáp ứng với yêu cầu của hành động nhất định, đảm bảo cho hành
động ấy nhanh chóng, thành thạo và đạt hiệu quả.

10


Từ sự tiếp cận khác nhau ở trên, có thể hiểu năng lực là tổng hợp khả

năng nhận thức và khả năng hoạt động của con người trên các nhiệm vụ xác
định. Như vậy, năng lực của con người bao hàm cả khả năng nhận thức và khả
năng hành động để cải biến hiện thực, nó vừa dưới dạng tiềm năng, tiềm tàng,
vừa được bộc lộ qua những hành động trên thực tế. Năng lực bao giờ cũng là
một chủ thể xác định, một cộng đồng, một tổ chức hay một con người trong
việc tác động có hiệu quả cải tạo mọi đối tượng trong tự nhiên, xã hội và tư
duy. Năng lực còn được phân thành các cấp độ (cao, thấp) khác nhau như:
Năng lực thông thường, tài năng và thiên tài. Năng lực thông thường biểu
hiện phổ biến ở mỗi người trong lao động, nhưng tài năng lại biểu hiện vượt
trội ở một người hay ở một số người. Cho nên nói đến hạn chế, hoặc kém về
năng lực là biểu hiện của người kém hoặc khơng hồn thành được công việc
phụ trách.
Để hành động cải tạo thế giới và cải tạo bản thân, con người phải nhận
thức, muốn nhận thức được con người phải có năng lực. Theo C.Mác: “ Các
nhà triết học đã giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là
ở chỗ cải tạo thế giới” [31,tr12]. Quan điểm này đã vạch ra con người chinh
phục tự nhiên không thể bằng lý luận, bằng việc giải thích thế giới mà cần
thiết hơn đó là hoạt động thực tiễn, qua đó chống chủ nghĩa duy tâm chỉ coi
thường hoạt động lý luận là hoạt động đích thực của con người, khơng thừa
nhận hoặc coi nhẹ vai trò của thực tiễn. Cùng với năng lực thực tiễn là năng
lực nhận thức, nhất là nhận thức lý luận. Năng lực nhận thức ln có mối
quan hệ hữu cơ với năng lực thực tiễn. Điều này được xác định như hai mặt
cơ bản của một vấn đề, vì thực tiễn là cơ sở động lực, là mục đích của nhận
thức, là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý, lý luận có vai trị to lớn đối với hoạt
động thực tiễn.
Nhận thức của con người từ thực tiễn, mục đích của con người khơng chỉ
nhằm nhận thức, giải thích thế giới, mà quan trọng hơn là cải tạo thế giới. Do
11



đó, họ phải có khả năng hành động biến nhận thức thành hiện thực. C.Mác
viết: “ Nói chung, tư tưởng, căn bản khơng thể thực hiện được cái gì hết.
Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực
tiễn” [30, tr.181]. Trong thực tiễn, con người theo mục đích xác định mà vạch
ra kế hoạch cho mỗi hoạt động của mình, huy động mọi khả năng hiện có và
sẽ tạo ra, sử dụng các công cụ, phương tiện, tiến hành cải tạo thế giới theo
đúng quy luật khách quan. Q trình đó phải nhận thức sáng tạo. Bởi con
người khác con vật ở chỗ có ý thức, có nhân tính, do đó, năng lực gắn với bản
chất “ người” của con người. Trình độ “ người” càng cao thì khả năng nhận
thức và hành động của họ càng lớn. Năng lực không đứng độc lập mà luôn
luôn gắn liền với phẩm chất con người, thể hiện qua hành động, đo bằng hiệu
quả, phát triển thành phương pháp - trình độ - nhu cầu sáng tạo.
Như vậy, Năng lực là tổng hòa các yếu tố vật chất và tinh thần tạo cho
con người ( cộng đồng, cá nhân) khả năng nhận thức và hành động trong cải
biến hoàn cảnh sống ( tự nhiên, xã hội) của mình.
Trái ngược với động vật mà năng lực của con người là sự tổng hịa kinh
nghiệm lồi được truyền lại nhờ cơ chế di truyền sinh vật và kinh nghiệm cá
thể, năng lực của con người là sản phẩm của sự phát triển xã hội. Sự hình
thành năng lực địi hỏi cá nhân phải nắm được các hình thức hoạt động mà
lồi người đã tạo ra trong q trình phát triển lịch sử xã hội. Năng lực của
con người khơng những do hoạt động bộ não của nó quyết định, mà trước
hết là do trình độ phát triển lịch sử mà lồi người đã đạt được. Như vậy, thì
năng lực của con người gắn liền không thể tách rời với tổ chức lao động xã
hội và với hệ thống giáo dục thích ứng với tổ chức đó. Con người luôn chứa
đựng nhiều năng lực như: năng lực nhận thức, năng lực hành động, năng lực
thực hành, tư duy; trong đó, trước hết phải đề cập tới năng lực nhận thức và
năng lực hành động.

12



Năng lực thực tiễn
Vấn đề thực tiễn trong lịch sử triết học trước Mác có nhiều quan điểm đã
đề cập đến, do thế giới quan duy tâm hoặc do lập trường giai cấp chi phối cho
nên họ không chỉ ra đúng đắn vấn đề này. Trong luận đề đầu tiên của chủ
nghĩa duy vật cũ ( có Phoiơbắc), Các Mác viết: “ Khuyết điểm chủ yếu của
toàn bộ chủ nghĩ duy vật cũ kể cả chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc là ở chỗ: sự
vật, hiện tượng, thế giới cảm tính chỉ được xét dưới hình thức khách thể hoặc
dưới hình thức thực trạng mà khơng được xét đến với tính cách là hoạt động
cảm tính của con người, là thực tiễn, không được xét về mặt chủ quan” [31
,tr.9). Đây là sự khác biệt về nguyên tắc giữa chủ nghĩa duy vật của chủ nghĩa
Mác và toàn bộ chủ nghĩa duy vật cũ, là sự đối lập tính chất thực tiễn với tính
chất trực quan của tồn bộ hoạt động con người trong quan hệ với thế giới bên
ngoài.
Theo quan điểm triết học mácxít, thực tiễn là tồn bộ hoạt động vật chất
của con người có tính lịch sử - xã hội, nhằm mục đích cải tạo tự nhiên và xã
hội. Nếu con vật chỉ hoạt động theo bản năng, nhằm thích nghi một cách thụ
động với thế giới bên ngồi, thì hoạt động thực tiễn là hoạt động vật chất, có
mục đích, có tính xã hội, thích nghi một cách chủ động, tích cực với thế giới,
nhằm thảo mãn nhu câu của mình và cả nhu cầu của xã hội lồi người. Con
người thực tế khơng thể thỏa mãn với những gì mà tự nhiên cung cấp cho họ
dưới dạng có sẵn, vì vậy con người phải tiến hành lao động sản xuất ra của cải
vật chất để nuôi sống mình.
Để lao động có hiệu quả, con người phải chế tạo và sử dụng những công
cụ, những vật phẩm vốn khơng có sẵn trong tự nhiên. Khơng có hoạt động đó
con người, xã hội lồi người khơng thể tồn tại và phát triển được. Hoạt động
thực tiễn là hoạt động vật chất, hoạt động diễn ra ngồi đầu óc của con người,
tác động vào thế giới khách quan một cách trực tiếp bằng những công cụ vật
chất, hoạt động đó bằng các giác quan của con người có thể cảm nhận được,
cải biến hiện thực khách quan trên hiện thực.

13


Tuy nhiên, hoạt động vật chất không chỉ “ thuần cảm tính” mà nó có mối
quan hệ chặt chẽ với hoạt động tinh thần và được lý luận, tư tưởng dẫn dắt, C.
Mác nhận xét: “ Cố nhiên vũ khí phê phán không thay thế được sự phê phán
của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thế bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất,
lực lượng tinh thần cũng có thể trở thành lực lượng vật chất khi nó thâm nhập
vào quần chúng” [32, tr.580]. Như vậy, có thể nói rằng thực tiễn là phương
thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội, là phương thức tồn tại đầu tiên và
chủ yếu của mối quan hệ giữa con người và thế giới.
Thực tiễn không chỉ là hoạt động vật chất cảm tính mà cịn là dạng hoạt
động cơ bản của loài người trong sự phát triển của mình. Xét từ nội dung
cũng như từ phương thức thực hiện hoạt động, thực tiễn mang tính xã hội.
Hoạt động thực tiễn rất phong phú, đa dạng, song có thể khái quát thành ba
hình thức cơ bản: Một là, hoạt động sản xuất vật chất. Đây là hình thức cơ bản
nhất quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người trong một thời kỳ
lịch sử. Ph.Ăngghen khẳng định: lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của
toàn bộ đời sống loài người và như thế đến một lúc mà trên ý nghĩa nào đó
chúng ta phải nói: lao động đã sáng tạo ra chính bản thân con người; Hai là,
hoạt động chính trị - xã hội là hình thức hoạt động thực tiễn rất phong phú, là
hoạt động của các nhà nước, đảng phái chính trị và của giai cấp thống trị xã
hội; Ba là, hoạt động thực nghiệm khoa học là hình thức hoạt động của con
người để nghiên cứu bổ sung, hoàn chỉnh tri thức đã được phát hiện, từ đó tạo
ra tri thức mới ứng dụng trong hoạt động của con người.
Con người quan hệ với thế giới không phải bằng lý luận mà bằng thực
tiễn. Chính trong q trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận thức ở
con người được hình thành và phát triển. Thực tiễn khơng chỉ là cơ sở, động
lực, mục đích của nhận thức chân lý mà còn là tiêu chuẩn của chân lý, tiêu
chuẩn này vừa có tính tương đối, vừa có tính tuyệt đối. Thực tiễn có vai trị

hết sức to lớn đối với nhận thức của con người. Ph.Ăngghen khẳng định: “
Chính việc người ta biến đổi tự nhiên chứ khơng phải một mình giới tự nhiên
14


với tư cách tự nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp duy nhất của tư duy
con người và trí tuệ đã phát triển song song với việc mà người ta đã học cải
biến tự nhiên” [32, tr.720].
Từ sự phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về thực tiễn, đặt
ra yêu cầu nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn và
đây là vấn đề cơ bản, trước tiên để hiểu năng lực thực tiễn.
Năng lực và năng lực thực tiễn khơng hồn tồn đồng nhất mà nó có sự
thống nhất trong khác biệt. Năng lực của con người là phạm trù có phạm vi
rộng bao hàm mọi hoạt động, song năng lực thực tiễn chỉ là biểu hiện của
năng lực hoạt động cụ thể, năng lực hoạt động diễn ra ngồi đầu óc con
người, trực tiếp tác động vào thế giới khách quan bằng công cụ vật chất và cải
biến thế giới khách quan trên hiện thực. Năng lực thực tiễn gắn với chủ thể
hoạt động trong không gian và thời gian xác định. Năng lực thực tiễn tồn tại
và phát triển ở các thành viên với tính cách là chủ thể tham gia vào hoạt động
thực tiễn. Tuy nhiên, lại có sự khác nhau về trình độ do các yếu tố khách quan
và chủ quan chi phối.
Với hướng tiếp cận trên có thể quan niệm năng lực thực tiễn Là tổng
hòa những khả năng của chủ thể trong q trình sử dụng cơng cụ, phương
tiện tác động cải biến tự nhiên, xã hội, nhằm đáp ứng mục tiêu, nhu cầu cho
con người trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Trong hoạt động thực tiễn, ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể địi hỏi chủ thể
phải có năng lực tương ứng, phù hợp và đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Đồng thời
qua hoạt động thực tiễn, năng lực của chủ thể khơng ngừng phát triển hồn
thiện. Chủ thể trong hoạt động thực tiễn là giai cấp, dân tộc, nhân loại, là con
người cụ thể, năng lực của chủ thể được thể hiện ở nhiều cấp độ cao, thấp

khác nhau, giải quyết các nhiệm vụ khác nhau tùy từng lĩnh vực. Năng lực
thực tiễn của chủ thể được phạm vi luận văn tiếp cận là thể hiện năng lực
quán triệt về thực tiễn, năng lực phát hiện vấn đế trên thực tiễn và năng lực
15


giải quyết vấn đề nảy sinh từ thực tiễn v.v... Do vậy, năng lực thực tiễn được
thể hiện trên các nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, năng lực thực tiễn được thể hiện qua năng lực quán triệt các
nhiệm vụ. Bởi vì, năng lực thực tiễn có quan hệ hữu cơ với năng lực tinh
thần, để có năng lực thực tiễn, nhất thiết chủ thể phải có năng lực tinh thần chỉ
đạo, luận văn không bàn về năng lực tinh thần, nhưng đây là nhân tố bên
trong của năng lực thực tiễn, hoặc xét ở góc độ nào đó, đây là hai năng lực cơ
bản quan hệ hữu cơ với nhau trong một chủ thể xác định. Nói cách khác, đây
là nội dung được xác định như thành tố “ gián tiếp” của năng lực thực tiễn; là
một trong những chuẩn mực đánh giá chất lượng, hiệu quả thực hiện nhiệm
vụ; là thước đo trình độ, năng lực thực tiễn của chủ thể. Hơn nữa, các hoạt
động thực tiễn thường xuyên có sự thay đổi cùng với sự thay đổi của thực tiễn
xã hội, việc quán triệt và nhận thức đúng đắn về thực tiễn, là một yêu cầu đặc
biệt quan trọng trong năng lực thực tiễn. Việc quán triệt các hoạt động trên
thực tế được thể hiện tập trung ở ý thức, quan điểm, lập trường chính trị tiến
bộ, giải phóng mọi tiềm năng sáng tạo, hướng tới hành động của con người
ngày càng hồn thiện hơn, vì con người và vì xã hội.
Thứ hai, năng lực thực tiễn được thể hiện qua khả năng sử dụng công cụ,
phương tiện trong cải tạo hiện thực. Khi đặt vấn đề năng lực thực tiễn, điều
rất căn bản đó là chất lượng, hiệu quả công cụ phương tiện được chế tạo,
được sử dụng của các chủ thể. Như vậy, năng lực thực tiễn được thể hiện
thông qua khả năng sử dụng công cụ phương tiện, tổ chức các lực lượng tham
gia vào các hoạt động, nhiệm vụ có hiệu quả trên thực tế. Đây là nội dung
thiết thực, đóng vai trị quan trọng trong năng lực thực tiễn. Bởi vì, thực tiễn

ln vận động phát triển khơng ngừng, q trình đó sẽ có nhiều vấn đề nảy
sinh cần được giải quyết để phù hợp với tiến bộ xã hội, nếu chủ thể không kịp
thời phát hiện và giải quyết tốt, chất lượng và hiệu quả sẽ không cao trong
hoạt động. Do đó, việc phát hiện vấn đề trên thực tế là công việc thương
16


xuyên và cấp thiết đối với chủ thể, đòi hỏi chủ thể phải nghiên cứu đặc điểm
của đối tượng tiếp nhận giữ liệu, sự kiện phục vụ cho hoạt động có hiệu quả.
Thứ ba, năng lực thực tiễn được thể hiện qua năng lực phát hiện và giải
quyết những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn. Phát hiện và giải quyết những vấn
đề nảy sinh từ thực tiễn là nội dung quan trọng quyết định đến kết quả của
năng lực thực tiễn; là sự thể hiện mục đích của chủ thể trong nhận thức; là sự
vận dụng những kinh nghiệm khoa học được rút ra từ thực tiễn, để chống
những biểu hiện giáo điều, chủ quan, duy ý chí trong hành động. Cho nên,
trong hoạt động thực tiễn nếu con người thông qua nhận thức và vận dụng
những kinh nghiệm khoa học, thì sẽ chỉ đạo cải tạo biến đổi hiện thực theo
nhu cầu của mình. Bởi vì, ý thức của con người chỉ là “ý thức thuần túy” nếu
không gây được tác động gì đối với thế giới bên ngoài; mọi hoạt động của con
người chỉ là sự phản ánh và thực hiện những nhu cầu đã chín mồi của đời
sống xã hội, những nhiệm vụ mà con người phải giải quyết đều do lịch sử đặt
ra; điều kiện khách quan quy định nội dung, biện pháp thực hiện nhiệm vụ
của con người; phẩm chất, năng lực cũng như sức mạnh của chủ thể chính là
sự vận động khách quan của lịch sử, là quá trình phát hiện và hành động theo
những quan hệ tất yếu khách quan.
Tuy nhiên, con người với nhu cầu, năng lực, phẩm chất của mình, qua
quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn, đã buộc thế giới khách quan bộc
lộ bản chất, quy luật của nó. Do vậy, khơng phải là một thế lực thần bí đè
nặng lên con người mà nó ln bị con người vươn tới, nhận thức, khám phá,
phục vụ lợi ích, nhu cầu của mình.

Các nhà kinh điển Mác-Lênin cho rằng, lực lượng vật chât chỉ có thể bị
đánh đổ bằng lực lượng vật chất, cho lên muốn thực hiện tư tưởng phải thông
qua hoạt động thực tiễn. Thực tiễn là hoạt động căn bản nhất của con người,
là đặc trưng cơ bản của bản chất người. Con người tạo ra thế giới không phải

17


trực tiếp bằng ý thức mà bằng hoạt động vật chất, được ý thức chỉ đạo, tức là
bằng thực tiễn. Vì vậy, năng lực thực tiễn của chủ thể chỉ thực sự phát huy
hiệu quả khi kết hợp đầy đủ việc quán triệt, phát hiện và giải quyết những vấn
đề nảy sinh từ thực tiễn.
1.1.2. Quan niệm năng lực thực tiễn của chỉ huy trưởng quân sự xã,
phường, thị trấn ở tỉnh Đồng Nai
Tỉnh Đồng Nai nằm phía Đơng thành phố Hồ Chí Minh, là vùng đất nối
cực nam Trung Bộ, Nam Tây Nguyên với Nam Bộ. Nhận thức rõ tầm quan
trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và quốc phòng, an ninh của tỉnh.
Để nâng cao năng lực tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền về cơng tác qn
sự, quốc phịng, Đảng uỷ, Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh luôn chú trọng, tập trung
nâng cao chất lượng tổng hợp, trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu và sức
mạnh chiến đấu cho các lực lượng vũ trang, trước hết là chất lượng chính trị,
bảo đảm cho lực lượng vũ trang thực sự là nòng cốt trong việc xây dựng nền
quốc phịng tồn dân, là chỗ dựa tin cậy của Đảng bộ, chính quyền và nhân
dân, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ thường xuyên và đột xuất. Trên cơ sở kiện
toàn tổ chức biên chế, trang bị, bảo đảm số lượng hợp lý, thực hiện đổi mới
công tác cán bộ, nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, huấn luyện cho bộ
đội, nâng cao trình độ chỉ huy, quản lý của đội ngũ cán bộ các cấp; xây dựng
toàn diện cả lực lượng thường trực, lực lượng dự bị động viên, dân quân, tự
vệ có phẩm chất chính trị cao, trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng
và nhân dân, có trình độ năng lực và chun mơn kỹ thuật giỏi, sẵn sàng nhận

và hồn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ trong mọi tình huống, đấu tranh làm
thất bại âm mưu “diễn biến hồ bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù
địch, góp phần giữ vững sự ổn định chính trị, tạo điều kiện cho phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội.
Hoạt động giáo dục, đào tạo tại chỗ, huấn luyện, rèn luyện ở Bộ chỉ huy
quân sự tỉnh Đồng Nai, là quá trình tác động có mục đích, có hệ thống của các
18


lực lượng tham gia vào quá trình giáo dục, đào tạo, huấn luyện, rèn luyện ở
Bộ chỉ huy quân sự tỉnh đối với cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang tỉnh,
trong đó có đội ngũ cán bộ chỉ huy trưởng quân sự xã, phường, thị trấn. Hoạt
động đó, nhằm truyền thụ và lĩnh hội những tri thức khinh nghiệm; rèn luyện
kỹ năng, kỹ xảo, nghiệp vụ chuyên môn; bồi dưỡng phát triển năng lực
chuyên môn, phát triển những phẩm chất đạo đức nhân cách của người cán bộ
lực lượng vũ trang cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang
tỉnh, đáp ứng yêu cầu hoàn thành mọi nhiệm vụ của lực lượng vũ trang tỉnh.
Đây là quá trình giáo dục, đào tạo, huấn luyện, rèn luyện đội ngũ cán bộ,
chiến sĩ của địa phương có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối
với Đảng, với chế độ xã hội chủ nghĩa, có trình độ năng lực chỉ huy chiến
đấu, sẵn sàng chiến đấu, phục vụ chiến đấu giỏi, có kỷ luật nghiêm, tác phong
chính quy, đồn kết tốt, sức khỏe tốt. Q trình này được tổ chức chặt chẽ của
các lực lượng từ Đảng ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh; Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, các
cơ quan và các điều kiện tham gia giáo dục, đào tạo, huấn luyện, rèn luyện,
trong đó Trường quân sự tỉnh, Ban chỉ huy quân sự huyện, thị xã, thành phố
cùng với đội ngũ cán bộ chỉ huy trưởng quân sự xã, phường thị trấn là lực
lượng trực tiếp nhất.
Đối tượng giáo dục, đào tạo tại chỗ, huấn luyện, rèn luyện là cán bộ
chiến sĩ trong lực lượng vũ trang tỉnh. Mặt khác, tỉnh Đồng Nai luôn chịu sự
tác động với địa bàn phức tạp, dân nhập cư đơng tại các khu cơng nghiệp nói

riêng và trên địa bàn tỉnh nói chung với nhiều dân tộc và tơn giáo sống xen
kẽ nhau, có nhiều đạo giáo, khu công nghiệp và dân cư phát triển nhanh, an
ninh trật tự, tệ nạn xã hội có nhiều chiều hướng gia tăng v.v.. ảnh hưởng trực
tiếp đến các hoạt động của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh.
Quá trình giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh
được tiến hành trong điều kiện cơ sở vật chất và tinh thần khá đầy đủ, thường
xuyên được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy, Ủy Ban nhân dân
19


tỉnh, của cả hệ thống các ban, ngành, đoàn thể của tỉnh, tạo khơng khí sơi nổi;
mơi trường tập thể, các phong trào thi đua đạt thành tích cao trong toàn tỉnh.
Đặc điểm trên đã đặt ra cho các lực lượng của tỉnh, trong đó có năng lực
thực tiễn của chỉ huy trưởng quân sự xã, phường, thị trấn.
Chỉ huy trưởng quân sự xã, phường, thị trấn ở tỉnh Đồng Nai là những
cán bộ được đào tạo theo Luật Dân quân tự vệ (2009); Quyết định 267/QĐ- ngày
19/01/2012 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Nai về việc ban hành Đề án đào
tạo cán bộ quân sự Ban chỉ huy quân sự xã, phường, thị trấn trình độ trung
cấp chuyên nghiệp, cao đẳng ngành Quân sự cơ sở giai đoạn 2011- 2015 và
những năm tiếp theo.
Sau quá trình giáo dục, đào tạo tại chỗ, huấn luyện, rèn luyện họ có
đầy đủ các đặc trưng chung của người cán bộ chỉ huy trưởng quân sự xã,
phường, thị trấn trong lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, họ được đào tạo
cơ bản về trình độ chun mơn, có phẩm chất và năng lực, có sức khỏe tốt, đủ
tiêu chuẩn làm cơng tác tham mưu cho Đảng ủy, Ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn và chủ trì tiến hành cơng tác quân sự, quốc phòng ở địa
phương cơ sở.
Sự trưởng thành và phát triển của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Nai
gắn liến với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ của dân tộc
ta và tham gia giúp Đảng, Nhà nước, nhân dân Campuchia tiêu diệt chế độ

diệt chủng Bônpốt. Đội ngũ cán bộ chỉ huy trưởng quân sự xã, phường, thị
trấn thời kỳ này chủ yếu là những cán bộ, chỉ huy trưởng đã trải qua chiến
tranh, chưa được đào tạo cơ bản về năng lực tham mưu cho Đảng ủy, Ủy Ban
nhân dân xã, phường, thị trấn về chủ trì và tiến hành cơng tác quân sự, quốc
phòng ở địa phương cơ sở. Năm 1975 đất nước hoàn toàn thống nhất và
nhưng năm gần đây, do yêu cầu giáo dục, đào tạo, huấn luyện, rèn luyện đội
ngũ cán bộ trong giai đoạn mới, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh từng bước ổn định
và phát triển. Đây là thời kỳ vừa tìm tịi, vừa nghiên cứu và hoàn thiện nội
20


dung, biện pháp tự vươn lên của cán bộ chỉ huy trưởng quân sự xã, phường,
thị trấn để hoàn thành nhiệm vụ của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh.
Chỉ huy trưởng quân sự xã, phường, thị trấn, ở tỉnh Đồng Nai đại bộ phận họ
đã qua những năm tháng thực hiện nghĩa vụ quân sự và được đào tạo là những sĩ
quan dự bị của địa phương, tuy nhiên về điều kiện cơng tác, cũng như hồn cảnh
cịn gắp nhiều khó khăn: cơ sở vật chất phục vụ cho thực hiện nhiệm vụ cịn nhiều
thiếu thốn, hồn cảnh gia đình, mức thu nhập của họ cịn thấp; trình độ, tuổi tác
cịn có sự chênh lệch khác nhau.
Với những đặc điểm trên cho thấy chỉ huy trưởng quân sự xã, phường, thị
trấn ở tỉnh Đồng Nai vừa đan xen giữa cán bộ đã có kinh nghiệm qua thực hiện
nghĩa vụ quân sự với cán bộ chưa đi nghĩa vụ quân sự, giữa cán bộ có kinh
nghiệm với cán mới tốt nghiệp đào tạo ra trường, vừa không đồng đều về kiến
thức chính trị, quân sự và năng lực hoạt động thực tiễn. Nhưng họ là những người
tham mưu cho Đảng ủy, Uỷ ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn về cơng tác
qn sự, quốc phịng, là người trực tiếp chủ trì cơng tác qn sự, quốc phịng ở cơ
sở địa phương. Cho nên họ luôn phải phấn đấu vươn lên nâng cao trình độ tri thức
chuyên ngành và năng lực thực tiễn trong mọi hoạt động quân sự, quốc phòng địa
phương của mình, đồng thời cịn phải có đạo đức trong sáng, lối sống lành mành
mạnh, trung thực thẳng thắn, khoan dung, độ lượng, nhân ái.

Chỉ huy trưởng quân sự xã, phường, thị trấn ở tỉnh Đồng Nai có chức trách,
nhiệm vụ đặc thù là làm công tác tham mưu cho Đảng ủy và Uỷ ban nhân dân cấp
xã, phường thị trấn về cơng tác qn sự, quốc phịng và 2 nhiệm vụ cơ bản là chủ
trì thực hiện các nhiệm vụ quân sự, quốc phòng tại địa phương và phối hợp với
chính trị viên tiến hành cơng tác đảng, cơng tác chính trị trong thực hiện các
nhiệm vụ về cơng tác qn sự, quốc phịng của cấp xã, phịng thủ dân sự được
giao, công tác thi đua, khen thưởng, chính sách hậu phương qn đội, chính sách
người có cơng với cách mạng theo thẩm quyền. Tất cả những điều đó tạo nên
21


những đặc điểm riêng và đòi hỏi ở mỗi chỉ huy trưởng quân sự cấp xã, phường, thị
trấn cần phải phát huy tốt năng lực, trách nhiệm của mình.
Từ sự phân tích đặc điểm trên có thể quan niệm năng lực thực tiễn của chỉ
huy trưởng quân sự xã, phường, thị trấn ở tỉnh Đồng Nai là tổng hòa những khả
năng của người chỉ huy trưởng quân sự cấp xã, phường, thị trấn trong quá trình
quán triệt nhiệm vụ, tham mưu, chủ trì ,phát hiện vấn đề, giải quyết vấn đề, tiến
hành và phối hợp công tác, tổng kết,rút kinh nghiệm trong cơng tác qn sự, quốc
phịng ở địa phương phù hợp với quan điểm, đường lối của Đảng, luật pháp của
Nhà nước, góp phần thúc đẩy sự phát triển và hoàn thành mọi nhiệm vụ của Ban
chỉ huy quân sự xã, phường, thị trấn ở địa phương.
Năng lực thực tiễn của chỉ huy trưởng quân sự xã, phường, thị trấn ở tỉnh
Đồng Nai biểu hiện chủ yếu trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ chính là tham
mưu về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng cho Đảng ủy, Ủy Ban nhân dân xã,
phường, thị trấn và trực tiếp tiến hành cơng tác qn sự, quốc phịng ở địa phương
cơ sở. Đội ngũ cán bộ chỉ huy trưởng quân sự xã, phường, thị trấn ở tỉnh Đồng
Nai là một bộ phận quan trọng trong đội ngũ cán bộ chỉ huy quân sự của lực
lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, năng lực thực tiễn của họ có cái chung như
cán bộ chỉ huy trong lực lượng vũ trang Việt Nam, nhưng có cái riêng là thực hiện
trong lĩnh vực quân sự đặc thù ở Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Nai. Ở các đơn vị

huyện, thị xã, thành phố có Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự huyện, thị xã,
thành phố và chỉ huy trưởng quân sự xã, phường, thị trấn. Trong đó chỉ huy
trường quân sự xã, phường, thị trấn là người trực tiếp tiến hành công tác tham
mưu và chủ trì cơng tác qn sự, quốc phịng ở địa phương cơ sở, chỉ huy trưởng
ban chỉ huy quân sự huyện, thị xã, thành phố là người gián tiếp đối với nhiệm vụ
quân sự, quốc phòng xã, phường, thị trấn nhưng lại trực tiếp tiến hành công tác
quân sự, quốc phòng đối với chỉ huy trưởng quân sự xã, phường, thị trấn. Họ có
mối quan hệ trên, dưới cùng thực hiện chức trách tham mưu và thực hiện nhiệm
22


vụ chủ trì và tiến hành cơng tác qn sự, quốc phòng – anh ninh ở địa phương cơ
sở. Năng lực thực tiễn của chỉ huy trưởng quân sự xã, phường, thị trấn ở tỉnh
Đồng Nai được biểu hiện trên một số nội dung cơ bản sau:
Một là, năng lực qn triệt nhiệm vụ cơng tác qn sự, quốc phịng ở các xã,
phường, thị trấn đối với lực lượng dân dân tự vệ và các ban ngành đoàn thể và
nhân nhân ở địa phương. Đây là yếu tố cơ bản trong hoạt động của người chỉ huy
chỉ huy trưởng quân sự xã, phường, thị trấn là sự hiểu biết của họ về nhiệm vụ,
chức trách được giao. Năng lực này của người chỉ huy chỉ huy trưởng quân sự xã,
phường, thị trấn đi từ lượng thông tin mà họ lĩnh hội được trong quá trình học tập
và kinh nghiệm hoạt động tham mưu, chỉ huy, quản lý huấn luyện quân sự, giáo
dục chính trị, tư tưởng và rèn luyện ở đơn vị, là kết quả của quá trình nhận thức, là
điều kiện để họ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Chỉ huy trưởng quân sự xã, phường, thị trấn ở tỉnh Đồng Nai là người trực
tiếp tham mưu về quân sự, quốc phòng cho Đảng ủy, Ủy Ban nhân dân cấp xã,
phường, thị trấn và là người tiến hành nhiệm vụ qn sự, quốc phịng ở địa
phương mình, cho nên việc quán triệt nghị quyết, chỉ thị của Đảng các cấp là yếu
tố quan trọng nhất để giúp họ thực hiện chức trách, nhiệm vụ. Hệ thống kiến thức
chuyên ngành về tham mưu, quân sự, quốc phòng cùng với sự hiểu biết về địa
bàn, nhân dân địa phương mình cũng như các yếu tố đặc trương cơ bản của địa

phương và các mối quan hệ của họ có ý nghĩa trực tiếp quyết định chất lượng
công tác quân sự, quốc phịng của họ.
Khả năng qn triệt nhiệm vụ cơng tác quân sự, quốc phòng ở địa phương cơ
sở, là nền tảng cho quá trình tham mưu, chỉ huy, quản lý, huấn luyện, giáo dục
chính trị tư tưởng cho lực lượng dân quân, cơ quan ban ngành đoàn thể và nhân
dân ở địa phương cơ sở. Người chỉ huy trưởng quân sự xã, phường, thị trấn không
được thỏa mãn dừng lại với nhận thức của mình, bởi thực tiễn thường xuyên vận
động, và phát triển, trình độ của lực lượng dân quân và nhận thức của nhân dân
luôn được nâng nên, các yếu tố kinh tế, chính trị, quốc phịng, văn hóa - xã hội...
23


trên địa bàn ln ln biến động. Q trình nâng cao năng lực quán triệt của
người chỉ huy trưởng quân sự xã, phường, thị trấn, là q trình khơng ngừng vươn
tới sự tìm tịi, khám phá cái mới phù hợp với hoạt động của họ ở địa phương cơ
sở.
Nội dung quán triệt nhiệm vụ quân sự, quốc phòng ở địa phương xã,
phường, thị trấn bao gồm: đường lối quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước, chỉ thị, nghị quyết của cấp trên, mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ của Bộ
chỉ huy quân sự tỉnh, nhiệm vụ chính trị trung tâm của đơn vị, trong xây dựng các
tổ chức, các lực lượng v.v... được chuyển hóa thành hành động của người chỉ huy
trưởng quân sự xã, phường, thị trấn và lực lượng dân quân tự vệ và nhân dân ở địa
phương cơ sở.
Như vậy, khả năng quán triệt những vấn đề quân sự, quốc phòng theo chức
trách, nhiệm vụ từ thực tiễn địa phương là một bộ phận quan trọng của năng lực
thực tiễn của chỉ huy trưởng quân sự xã, phường, thị trấn ở tỉnh Đồng Nai, điều đó
tạo cơ sở, tiền đề củng cố, phát triển khả năng thực hiện nhiệm vụ của họ khi tham
mưu và tiến hành nhiệm vụ quân sự, quốc phòng – an ninh ở địa phương cơ sở.
Hai là, khả năng phát hiện và giải quyết vấn đề, đặc biệt là các vấn đề liên
quan tới nhiệm vụ quân sự, quốc phòng ở địa phương cơ sở. Phát hiện vấn đề theo

chức trách, nhiệm vụ là hoạt động tìm kiếm, là q trình cụ thể hóa lý luận vào
thực tiễn, phục vụ đắc lực cho hoạt động của họ, hoạt động này là sự biểu hiện của
năng lực thực tiễn của người chỉ huy trưởng quân sự xã, phường, thị trấn. Hơn
nữa, lĩnh vực quân sự, quốc phòng là lĩnh vực xã hội đặc thù, là “ vương quốc của
các yếu tố ngẫu nhiên”, đầy biến động. Hoạt động của người chỉ huy trưởng quân
sự xã, phường, thị trấn chịu ảnh hưởng trực tiếp từ mơi trường này. Họ cần có
năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, đặc biệt là các tình huống của hoạt động
qn sự, quốc phịng – an ninh. Vì vậy, là hoạt động phong phú, thường xuyên
nảy sinh các vấn đề thuộc về công tác tư tưởng, công tác tổ chức, công tác với con
người v.v... Cho nên cần phải thường xuyên phát hiện, cập nhật, lựa chọn hình
24


thức, nội dung, phương pháp phù hợp với thực tiễn mới để nâng cao hiệu quả
công tác. Ngược lại, không thực hiện được vấn đề này sẽ làm giảm uy tín, trách
nhiệm của họ trước tập thể đơn vị và họ không thể thực hiện được chức trách
tham mưu và nhiệm vụ quân sự, quốc phòng ở địa phương cơ sở.
Khả năng phát hiện vấn đề theo chức trách, nhiệm vụ của người chỉ huy
trưởng quân sự xã, phường, thị trấn ở tỉnh Đồng Nai được thể hiện trong việc
quan sát mọi hoạt động của đơn vị, như việc học tập, huấn luyện, rèn luyện;
những nội dung có liên quan đến trức trách tham mưu và chủ trì, tiến hành nhiệm
vụ quân sự, quốc phòng; những nội dung, phương pháp, hình thức phù hợp với
nhận thức và hoạt động của đơn vị và cả những vấn đề chưa phù hợp, vấn đề cấp
bách đang nảy sinh cần giải quyết, đòi hỏi tính kiên trì, say mê, ham học hỏi và có
phương pháp khoa học, như vậy chất lượng và hiệu quả công tác của người chỉ
huy trưởng quân sự xã, phường, thị trấn mới được nâng cao.
Người chỉ huy trưởng quân sự xã, phường, thị trấn có khả năng phát hiện vấn
đề nảy sinh từ thực tiễn đơn vị kịp thời, nhanh chóng và chính sác là cơ sở, động
lực giải quyết tốt chức trách và nhiệm vụ được giao. Bởi vì, hoạt động qn sự,
quốc phịng – an ninh ở địa phương là hoạt động mà đối tượng chủ yếu là con

người ở địa phương, hoạt động này liên quan đến tâm lý, tình cảm, tư tưởng, lập
trường quan điểm. Điều đó, thơi thúc người chỉ huy trưởng qn sự xã, phường,
thị trấn thực hiện chính xác trong huấn luyện, giáo dục, tuyên truyền, vận động,
phát hiện và giải quyết các vấn đề nảy sinh, đồng thời chủ động phát huy nghệ
thuật dẫn dắt, lôi cuốn lực lượng thuộc quyền và nhân dân tham gia tích cực vào
các hoạt động, các tình huống của địa phương đơn vị.
Khả năng giải quyết vấn đề của chỉ huy trưởng quân sự xã, phường, thị trấn
còn thể hiện ở khả năng xử lý theo điều lệnh, điều lệ, quy định của đơn vị, khả
năng xử lý mềm dẻo, linh hoạt các tình huống quân sự, quốc phòng ở địa phương
đơn vị, khả năng kết hợp giữa tuyên truyền, giáo dục quan điểm, đường lối của
Đảng, pháp luật của Nhà nước với định hướng phát triển đạo đức, nhân cách cho
25


lực lượng dân quan tự vệ và nhân dân thực hiện các nhiệm vụ cũng như giải quyết
tốt các mối quan hệ ở đơn vị, địa phương.
Ngày nay, những biến động chính trị, quân sự trên thế giới diễn ra ngày càng
phức tạp; trong nước kẻ thù tăng cường chiến lược “ diễn biến hóa bình” bạo loạn
lật đổ; tạo ra “ điểm nóng”; đối với lực lượng vụ trang, kẻ thù âm mưu “ phi chính
trị hóa”; mặt trái nền kinh tế thị trường cũng tác động không nhỏ tới quá trình
huấn luyện, giáo dục, tuyên truyền, rèn luyện của đội ngũ cán bộ chỉ huy trưởng
quân sự xã, phường, thị trấn... Từ tình hình biến động phức tạp trong nước và
quốc tế hiện nay đã đặt ra yêu cầu cao về năng lực của đội ngũ chỉ huy trưởng
quân sự xã, phường, thị trấn, trong đó có năng lực phát hiện và giải quyết các vấn
đề. Đồng thời tiến tới xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân “ các mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, đòi hỏi vai trò càng cao của người chỉ
huy trưởng quân sự xã, phường, thị trấn trong tiến hành cơng tác tham mưu và
nhiệm vụ qn sự, quốc phịng ở tỉnh Đồng Nai hiện nay.
Ba là, khả năng tổ chức các lực lượng, phương tiện, công cụ trực tiếp tham
gia thực hiện các nhiệm vụ cụ thể ở địa phương. Những công cụ, phương tiện vật

chất là thành phần hết sức cơ bản trong thực tiễn. Năng lực chỉ huy trưởng quân
sự xã, phường, thị trấn phải kể đến cơng tác tham mưu, khả năng chỉ huy, tổ chức
có hiệu quả, sáng tạo trong việc sử dụng công cụ, phương tiện cho hoạt động qn
sự, quốc phịng. Điều đó, được thể hiện ở tinh thần tích cực, chủ động, sáng tạo từ
khâu chuẩn bị lựa chọn nội dung, lựa chọn phương tiện, công tác huấn luyện, giáo
dục, tới việc tổ chức thực hiện chỉ huy, quản lý, huấn luyện quân sự, giáo dục
chính trị, tư tưởng, tuyên truyền cổ động, động viên ở đơn vị địa phương.
Như vậy, năng lực thực tiễn của người chỉ huy trưởng quân sự xã, phường,
thị trấn ở tỉnh Đồng Nai là sự thống nhất biện chứng giữa tri thức, tình cảm, ý chí,
động cơ, thái độ bên trong của người chỉ huy trưởng quân sự xã, phường, thị trấn
với chức trách tham mưu cho Đảng ủy, Ủy Ban nhân nhân xã, phường, thị trấn và
26


×