Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO đề cương thu hoạch đảng viên mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.62 KB, 45 trang )

Câu 1: Chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư
tưởng kim chỉ nam cho hành động của ĐCSVN, liên hệ bản thân
1. Đặt vấn đề: Sự phát triển năng động, đầy phức tạp của thế giới, đất nước;
kẻ thù của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đang tấn công cách mạng quyết liệt
trên các lĩnh vực; bộ phận thoái hoá, biến chất về chính trị, tư tưởng, đạo đức đang
tìm cách để chỉ trích chúng ta là những cơ sở khách quan yêu cầu Đảng, Nhà nước,
và toàn dân hết sức coi trọng nhiệm vụ tuyên truyền, bảo vệ, phát triển nền tảng tư
tưởng của Đảng, của dân tộc đó là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng HCM mà trong
cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được
thơng qua Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VII của Đảng năm 1991 đã chỉ rõ:
“Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng HCM làm nền tảng tư tưởng, kim
chỉ nam cho hành động” đến Đại hội toàn quốc lần thứ IX, X, XI tiếp tục khẳng
định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con
đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng HCM”.
2. Nội dung:
Chủ nghĩa Mác –Lênin là học thuyết cách mạng và khoa học. Đó là hệ thống
lý luận cách mạng được hình thành trên cơ sở vật chất giai cấp của giai cấp công
nhân và phong trào công nhân, là sự kế thừa, phát triển những tư tưởng tiên tiến
của nhân loại, bắt nguồn từ triết hộc cổ điển Đức, kinh tế chính trị Anh, chủ nghĩa
xã hội không tưởng Pháp. Học thuyết này chỉ ra quy luật vận động, phát triển
khách quan của tự nhiên, xã hội và tư duy, tìm ra quy luật vận động khách quan
của xã hội loài người là một quá trình lịch sử tự nhiên; khơng thấy được sự thống
nhất giữa phương pháp và lý luận cách mạng của học thuyết thì khơng thấy được
sự phát triển; bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác chính là sự gắn kết
không thể tách rời của phương pháp và học thuyết, làm cho học thuyết Mác- Lênin,
luôn vận động phát triển không ngừng.
Giá trị cao đẹp của học thuyết Mác- Lênin là đa dạng; là sự khái quát lý
luận, thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân, thể hiện rõ mục tiêu, lý tưởng, lợi
ích của giai cấp cơng nhân và quảng đại quần chúng nhân dân lao động. V.I.Lênin
chỉ rõ: chủ nghĩa Mác là lý luận của phong trào giải phóng của giai cấp vơ sản, vì



vậy nó tất yếu phải trở thành hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, của Đảng cộng
sản. Chủ nghĩa Mác-Lênin là một học thuyết cách mạng, khoa học, nắm được lý
luận cách mạng giai cấp vô sản và đội tiền phong của giai cấp cơng nhân mới có
được vũ khí tư tưởng mạnh mẽ nhất. Khi lý luận cách mạng thông qua sự lĩnh hội,
tổ chức phong trào của giai cấp công nhân sẽ trở thành sức mạnh vật chất vô cùng
to lớn; lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất to
lớn, một khi nó được thâm nhập vào phong trào quần chúng, nhân sức mạnh của
phong trào đấu tranh lên gấp bội. V.I.Lênin chỉ rõ: “ Khơng có lý luận cách mạng
thì cũng khơng thể có phong trào cách mạng”. Chủ nghĩa Mác-Lênin là ngọn đèn
chỉ lối dẫn đường, là yếu tố cơ bản hình thành tính tự giác để chuyển hố phong
trào cơng nhân thành cách mạng vơ sản. Thực vậy, khi chủ nghĩa Mác chưa ra đời,
chưa có lý luận cách mạng hướng dẫn thì phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân chỉ dừng lại ở đấu tranh kinh tế, đòi tăng lương giảm giờ làm, cuộc đấu tranh
rời rạc, lẽ tẻ mang tính chất tự phát, thiếu tổ chức chặt chẽ và đều bị giai cấp tư sản
đàn áp một cách dã man và bị thất bại. Khi chủ nghĩa Mác-Lênin ra đời từng bước
thâm nhập vào phong trào công nhân, thông qua sự truyền bá của các tổ chức tiến
bộ trong giai cấp công nhân, làm cho phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân
phát triển mạnh mẽ, các cuộc đấu tranh đó khơng chỉ dừng lại ở mục đích kinh tế
mà cịn thể hiện rõ mục tiêu chính trị là xố bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hố
nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta
giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ: Trong thời đại ngày nay có lắm chủ nghĩa nhưng chủ nghĩa Mác –
Lênin là chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất, là cơ sở thế
giới quan và phương pháp luận thực sự cách mạng và khoa học. Dưới ánh sáng của

chủ nghĩa Mác – Lênin, tổng kết kinh nghiệm cách mạng thế giới và thực tiễn tình
hình đất nước, Người đã chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức, cán bộ cho sự


ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, soạn thảo Chánh cương vắn tắt, Sách lược
vắn tắt, xác định đường lối đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Trong suốt quá
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người đã vận dụng nhuần nhuyễn chủ nghĩa
Mác – Lênin, giải quyết thành công những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam,
đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, qua đó, phát triển
sáng tạo, làm phong phú thêm kho tàng lý luận Mác – Lênin. Thắng lợi của sự
nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc và đưa đất nước phát
triển đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa theo tư tưởng Hồ Chí
Minh và đường lối của Đảng là một minh chứng sống động về sự vận dụng thành
công chủ nghĩa Mác – Lênin ở nước ta.
Thực tiễn cách mạng thế giới và cách mạng Việt Nam đã kiểm nghiệm tính
chân lý, bản chất cách mạng khoa học của học thuyết tư tưởng đó; Đồng thời, đây
là một trong những nguyên tắc cơ bản của V.I.Lênin về Đảng kiểu mới của giai cấp
công nhân là: chủ nghĩa Mác là nền tảng tư tưởng kim chỉ nam cho mọi hoạt động
của Đảng. Đảng là một bộ phận của giai cấp công nhân, là đội tiền phong chính trị
có tổ chức chặt chẽ nhất, giác ngộ nhất của giai cấp cơng nhân. Khi có chính quyền
Đảng là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị của chủ nghĩa xã hội và là một bộ
phận của hệ thống đó. Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản trong xây
dựng tổ chức sinh hoạt và hoạt động của Đảng. Đảng gắn bố chặt chẽ với quần
chúng, kiên quyết đấu tranh để ngăn ngừa và khắc phục bệnh quan liêu xa rời quần
chúng. Đảng là một khối thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức; Tự phê bình và
phê bình là quy luật phát triển của Đảng; Chủ nghĩa quốc tế vô sản là một trong
những nguyên tắc quan trọng của việc xây dựng tổ chức và hoạt động của Đảng
cộng sản. Trong đó nguyên tắc chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng, là vấn đề cốt lõi, là
một trong những tiêu chí cơ bản để khẳng định bản chất giai cấp công nhân của

Đảng, là cơ sở để phân biệt đảng Mác xít chân chính với đảng cải lương, cơ hội,
xét lại…
Do đó Đảng cộng sản Việt Nam khơng thể lấy học thuyết nào khác ngoài
học thuyết Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho mọi hoạt động của mình. Bởi vì, Đảng cộng sản Việt Nam là lãnh tụ chính trị,


bộ tham mưu chiến đấu có tổ chức cao nhất, chặt chẽ nhất của giai cấp công nhân
Việt Nam; Để làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong, lãnh tụ chính trị của giai cấp
cơng nhân Việt Nam, Đảng cộng sản Việt Nam phải được lý luận Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh hướng dẫn nhận thức và hành động đúng đắn tạo ra sự thống
nhất cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, cả ý chí và hành động, Đảng mới có cơ sở
định ra đường lối lãnh đạo đúng và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối. Vai trò
chiến sĩ tiên phong của Đảng được biểu hiện cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Đảng xác định đường lối sách lược, chiến lược phù hợp, phản ánh đúng yêu cầu
khách quan, phù hợp với lợi ích nguyện vọng chính đáng của đại đa số quần chúng
nhân dân lao động. Đường lối của Đảng cộng sản phải là khuôn mẫu bất biến, mà
đường lối ấy dựa chắc vào lý luận Mác, lấy lý luận Mác- Lênin làm cơ sở và không
ngừng bổ sung phát triển cho phù hợp với điều kiện hồn cảnh cụ thể, thơng qua
việc nắm bắt lý luận, tổng kết thực tiễn của đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng
cộng sản. Thực tiễn trong quá trình xây dựng và hoạt động cách mạng của các
Đảng cộng sản và của Đảng cộng sản Việt Nam cho thấy: Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh là một học thuyết cách mạng, khoa học nhất, không có học
thuyết nào thay thế được, nếu kiên trì vận dụng đúng đắn sáng tạo Đảng cộng sản
giữ vững được vai trị lãnh đạo của mình, cách mạng mới thành cơng, nếu xa rời
các ngun lý đó Đảng cộng sản sẽ bị biến chất, thoái hoá.
3. Liên hệ bản thân:
Bản thân tôi là 1 giáo viên THCS tôi nhận thức được rằng Đảng ta lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
mọi hành động. là sự khẳng định về những nội dung nguyên lý thể hiện lập trường

kiên định của Đảng ta trước sự phức tạp hiện nay, kẻ thù đang điên cuồng chống
phá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên mọi phương diện, đặc biệt
là những nguyên tắc về xây dựng Đảng cộng sản, góp phần vào việc thực hiện có
hiệu quả việc xây dựng và bảo vệ hệ tư tưởng của Đảng ta là chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Qua q trình được học tập và nghiên cứu tơi đã
thấu hiểu đầy đủ những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh để vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể; đồng thời tôi luôn chủ động tấn
công đánh bại những luận điểm xuyên tạc, phản động của các thế lực thù địch


nhằm phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng HCM, địi thực hiện đa ngun
chính trị, đa đảng đối lập , mà thực chất là phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng
cộng sản Việt Nam đối với cách mạng nước ta, đối với toàn bộ đời sống xã hội.
Mặt khác, việc vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
trong điều kiện thực tiễn nước ta hiện nay đang là vấn đề được Đảng ta hết sức
quan tâm, coi đó là một trong những nhiệm vụ hàng đầu. Vận dụng chủ nghĩa Mác
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phải đi liền với bổ sung và phát triển dựa trên
những vấn đề mà thực tiễn đặt ra. Phải chăm chú phát hiện, tổng kết thực tiễn để
tìm ra cái mới của lý luận, bổ sung cho kho tàng lý luận mác xít, dùng nó như một
kim chỉ nam dẫn đường chứ không phải kinh thánh để rơi vào giáo điều. Vì vậy, tơi
thường xun nghiên cứu vận dụng đấu tranh bảo vệ, phát triển và tuyên truyền
cho mọi người và giáo dục các học sinh về lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
HCM , đường lối quan điểm của Đảng, chính sách và luật pháp của Nhà nước.
Qua thời gian được học tập, tôi cũng đề nghị các cơ quan, tổ chức Đảng cần
phải thường xuyên đổi mới và nâng cao chất lượng cơng tác giáo dục lý luận chính
trị, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận, phẩm chất đạo đức cách mạng, bản lĩnh
chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng và đảng viên. Cơng
tác giáo dục lý luận chính trị cần đi sâu vào quần chúng hơn nữa nhằm củng cố
niềm tin cho quần chúng, xây dựng quyết tâm thực hiện thắng lợi công cuộc đổi
mới đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Việc kết hợp xây dựng và bảo vệ hệ tư
tưởng của Đảng địi hỏi trong q trình giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng

HCM phải gắn chặt với việc chỉ ra những nhận thức, quan điểm lệch lạc, sai trái
trong mỗi người, mỗi tổ chức, để hạn chế và triệt tiêu những điều kiện, những kẻ
hở mà kẻ thù có thể lợi dụng hịng chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng. Đồng
thời, quá trình đấu tranh để bảo vệ hệ tư tưởng của Đảng cũng là quá trình từng
bước nâng cao lý luận, củng cố vững chắc quan điểm, lập trường tư tưởng, bản lĩnh
chính trị cho đội ngũ đảng viên và các tổ chức đảng nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ của cách mạng đó cũng là góp phần xây dựng Đảng ta vững mạnh đủ sức lãnh
đạo cách mạng Việt Nam vững bước trên con đường xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa .


Câu 2: Chủ nghĩa xã hội, phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội ơ VN
1. ĐVĐ: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên
xuốt của cách mạng Việt Nam, là sự lựa chọn của chính lịch sử và phù hợp với
tồn dân. Đại hội IX đã khẳng định: Cương lĩnh là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi
của sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam từng bước quá độ lên CNXH, định hướng
cho mọi hoạt động của Đảng viên hiện nay và trong những thập kỷ tới. Đảng và
nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường XHCN trên
nền tảng chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng ta đã nhiều lần chỉ
rõ, mục tiêu cao cả, thiêng liêng, bất di bất dịch của nhân dân ta là xây dựng một
nước Việt Nam độc lập, thống nhất và tiến lên chủ nghĩa xã hội.Độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã hội gắn liền với độc lập dân tộc.Đây là
nguyên tắc, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ đường lối cách mạng nước ta. Đi lên
CNXH là một tất yếu khách quan theo đúng quy luật tất yếu của lịch sử.
2. Nội dung (gồm: con đường và phương hướng, đặc trưng CNXH)
Sự lựa chọn con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH dựa trên cơ sở
khách quan của lịch sử: Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, nhân dân
ta đã anh dũng đứng lên đấu tranh chống lại kẻ xâm lược. Từ 1858 đến năm 1930,
đã có hàng trăm cuộc khởi nghĩa, phong trào yêu nước diễn ra dưới sự lãnh đạo
của các sĩ phu, các nhân sỹ, trí thức, nơng dân, binh lính yêu nước diễn đã diễn ra

nhưng tất cả đều thất bại do khơng có đường lối cách mạng đúng đắn dưới sự chỉ
đạo của một hệ tư tưởng tiên tiến, khoa học và cách mạng. Vấn đề độc lập vẫn
không giải quyết được mà các nhà yêu nước đã thất bại và bị thực dân Pháp đàn áp
tàn bạo như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Hoàng Hoa Thám…..
Giữa lúc cách mạng Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng về đường lối
cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã rời đất nước ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân.
Bôn ba khắp năm chấu bốn biển vừa lao động vừa nghiên cứu lý luận và kinh
nghiệm của các cuộc cách mạng tư sản như ở Pháp, Mỹ… và tham gia các hoạt
động trong Đảng Xã hội Pháp sau đó trở thành người sáng lập ra Đảng Cộng Sản
Pháp. Người đã từng bước rút ra nhiều bài học quý báu và bổ ích cho sự lựa chọn
con đường cách mạng của mình.


Bước ngoặt lớn trong tư tưởng của Người diễn ra khi Người được đọc “Sơ
thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin.Và
theo Người chính con đường cách mạng vơ sản, giải phóng dân tộc gắn với giải
phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn với CNXH, giai cấp vô sản phải nắm lấy ngọn
cờ giải phóng dân tộc… Từ đây, Người đã quyết định đi theo con đường cách
mạng của Lênin, Cách mạng vơ sản. Đó là sự lựa chọn của lịch sử Việt Nam, của
toàn dân tộc Việt Nam. Chỉ có CNXH mới giải phóng được triệt để giai cấp vơ sản
và nhân dân lao động khỏi ách bóc lột, áp bức, bất công, mới đem lại cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân và đưa nhân dân lên làm chủ xã hội. Độc lập
dân tộc chỉ có gắn liền với CNXH thì mới vững chắc, bảo đảm quyền tự quyết dân
tộc, quyền lựa chọn chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa. CNXH thực sự bảo đảm
quyền làm chủ của nhân dân; nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, con người
được phát triển toàn diện, có năng lực và điều kiện làm chủ, xóa bỏ tình trạng áp
bức, bóc lột, nơ dịch của dân tộc này với dân tộc khác về chính trị, kinh tế và tinh
thần . Chủ nghĩa xã hội tạo ra sự trao đổi, hợp tác kinh tế, văn hóa giữa các nước
Dựa trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, vì
một thế giới khơng có chiến tranh ,khơng có sự hồnh hành của cái ác, của những

sự tàn bạo và bất công, bảo đảm cho con người sống trong an ninh và hạnh phúc.
Cách mạng XNCH tháng 10 Nga năm 1917 thành công đã mở ra thời đại
mới – thời đại quá độ từ CHTB lên CNXH. Chính tính chất của thời đại mới đã tạo
ra khả năng hiện thực cho nhữngdân tộc lác hậu tiến lên CNXH. Những khả năng
hiện thực này đã đem lại nhận thức mới mẻ và triệt để trong quan niệm cũng như
giải pháp để giải quyết vấn đề độc lập dân tộc. Tính chất mới mẻ và triệt để này thể
hiện ở những điểm mấu chốt:
Độc lập dân tộc thực sự đảm bảo cho dân tộc đó có quyền tự quyết dân tộc,
quyền lựa chọn chế độ chính trị, lựa chọn con đường và mơ hình phát triển, độc lập
cả về kinh tế, chính trị, văn hóa. Điều quan trọng là độc lập dân tộc phải thực sự
đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân; nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc; con người được phát triển tồn diện, có năng lực và điều kiện làm chủ.
Độc lập dân tộc địi hỏi phải xóa bỏ tình trạng áp bức, bóc lột, nơ dịch của
dân tộc này với dân tộc khác về kinh tế, chính trị và văn hóa tinh thần. Sự trao đổi,


hợp tác kinh tế, văn hóa giữa các nước dựa trên ngun tắc tơn trọng chủ quyền
của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, vì thế giới khơng có có chiến tranh, khơng có
sự hồnh hành của cái ác, của những sụ tàn bạo và bất công, đảm bảo co con người
sống trong an bình và hạnh phúc.
Thực tế cho thấy, độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết thực hiện CNXH và
CNXH là cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc. Không giành được độc lập
dân tộc thì khơng có điều kiện để xây dựng CNXH. Độc lập dân tộc thật sự địi hỏi
xóa bỏ áp bức, nô dịch của dân tộc này với dân tộc khác, gắn liền độc lập dân tộc
với tự do, bình đẳng, hạnh phúc của nhân dân, do đó chỉ có thể gắn liền với sự phát
triển xã hội XHCN. Chính nhờ sự kiên định nội dung tư tưởng đó mà Đảng ta đã
lãnh đạo dân tộc đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, viết nên một lịch sử Việt
Nam anh hùng với những mốc son chói lọi: Cách mạng Tháng 8 năm 1945, chiến
thắng Điện Biên Phủ năm 1954, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước và đi
lên xây dựng CNXH. với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn

minh”; củng cố vững chắc độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
Trong những năm tới, phương hướng cơ bản đi lên CNXH Trong văn
kiện đại hội XI của đảng. Một là, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. Hai là, phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ba là, xây dựng nền văn
hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân
dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng
và an ninh quốc gia, trật tự và an toàn xã hội. Năm là, thực hiện đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hồ bình, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế. Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn
kết toàn dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất. Bảy là, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Và xã hội XHCN mà nhân
dân ta xây dựng có 8 đặc trưng cơ bản: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng,
văn minh; Do nhân dân làm chủ; Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng
sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; Có nền văn hố tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc; Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều


kiện phát triển toàn diện; Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn
kết, tơn trọng và giúp nhau cùng phát triển; Có Nhà nước pháp quyền XHCN của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; Có quan hệ hữu
nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
3. Liên hệ bản thân
Là 1 giáo bản thân tôi luôn nhận thức rằng lựa chọn con đường đi lên CNXH
ở Việt Nam ta là sự lựa chọn phù hợp với quy luật vận động và phát triển tất yếu
của lịch sử xã hội loài người, phù hợp với xu thế chung của thời đại, là sự lựa chọn
từ bản chất ưu việt và tốt đẹp của CNXH, chủ nghĩa cộng sản. Đây cũng là sự lựa
chọn duy nhất đúng, là con đường do chính lịch sử dân tộc, do Bác Hồ, Đảng Cộng
sản và nhân dân ta lựa chọn. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, trước tình trạng

nhiều vấn đề xã hội bức xúc và gay gắt chưa được giải quyết tốt như nạn thiếu việc
làm, sự phát triển của tệ nạn xã hội, sự khó khăn về đời sống của một bộ phận nhân
dân, bốn nguy cơ mà Đảng ta đã cảnh báo là nguy cơ chệch hướng XHCN, tụt hậu
xa hơn về kinh tế, "diễn biến hịa bình" và tệ quan liêu tham nhũng của một bộ
phận cán bộ, đảng viên, công chức vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp thì việc giữ
vững định hướng, mục tiêu XHCN càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Trước
sự đan xen sâu sắc giữa những thời cơ và thách thức mà thời đại đặt ra, bản thân tôi
phải "lớn" hơn ngày hơm qua để trên bệ phóng của những thành công rực rỡ mà
cha ông đã xây dựng, thế hệ trẻ Việt Nam như tôi luôn được khát khao được là
người kế nghiệp xứng đáng. Và trước hết tôi nhận thức rằng: phải là sự trung thành
đối với Tổ quốc, với lý tưởng của Đảng và của nhân dân, kiên định lập trường cách
mạng, thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng HCM trong điều kiện mới,
đặc biệt là nhất quyết thực hiện sứ mệnh: bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
xây dựng thành công CNXH. Mặt khác, tơi thường xun tun truyền, giải thích
cho mọi người về mục tiêu, lý tưởng cao đẹp góp phần xây dựng niềm tin vào sự
thắng lợi của CNXH, đồng thời đấu tranh chống những quan điểm tư tưởng sai trái.
Đó là: Cho rằng, quá độ lên CNXH ở Việt Nam là quá sớm và sai lầm, do đó phải
“quay lại CNTB”. Cho rằng, cứ để Việt Nam phát triển TBCN, rồi do tiến trình lịch
sử tự nhiên sẽ phát triển lên CNXH. Cho rằng, hiện nay Việt Nam quá độ lên
CNXH là ảo tưởng, chủ quan, duy ý chí và trái với tiến trình lịch sử tự nhiên.


Ngồi ra, q trình giảng dạy tơi ln trung thành với đường lối quan điểm
của Đảng, vận dụng cụ thể và phù hợp trong giảng dạy cho học sinh với phương
châm giữ vững, bồi dưỡng và phát huy tinh thần truyền thống đoàn kết, yêu tổ
quốc và đồng bào. Định hướng cho học sinh học tập những điều hay, lẽ phải,
những chuẩn mực đạo đức XHCN, hướng các em vào những hoạt động vui chơi
lành mạnh để không sa vào những tệ nạn xã hội, đồng thời cùng với nhà trường,
gia đình góp phần chắp cánh cho những ước mơ, hồi bão có ích cho xã hội để
cùng với tồn Đảng, tồn dân tơi cùng với các em học sinh góp những viên gạch

nhỏ xây dựng thành cơng và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam XHCN (Đoạn này
có thể dùng liên hệ cho tất cả các câu).
Câu 3: Phân tích quan điểm của đảng ta về dân chủ và phát huy dân
chủ XHCN, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân. Liên hệ bản thân.
1. Dân chủ và phát huy dân chủ
* ĐVĐ: Dân chủ là vấn đề sống còn của sự nghiệp cách mạng nước ta. Chế
độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, xét về bản chất là chế độ đảm bảo quyền làm chủ
thực tế của nhân dân trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội và tinh thần; phát huy
cao độ tính tích cực sáng tạo của họ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và thông qua Nhà nước xã
hội chủ nghĩa. Đảng ta khẳng định: Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa
là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; thể hiện mối quan
hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Đối với nước ta thì chế độ dân chủ xã
hội chủ nghĩa bảo đảm quyền con người, quyền bình đẳng giữa các cơng dân,
nhưng đó vẫn là một chế độ dân chủ trong xã hội còn giai cấp, nhất là ở thời kỳ
quá độ. Bảo đảm quyền con người, quyền bình đẳng giữa các cơng trong hưởng
thụ các giá trị vật chất và tinh thần của xã hội. Đồng thời bảo đảm mọi cơng dân
đều bình đẳng trong việc tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần trong xã hội
* Nội dung : Đại hội XI khẳng định: “Phát huy hơn nữa quyền làm chủ, bảo
đảm lợi ích của nhân dân, vai trị giám sát của nhân dân đối với hoạt động của các
tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức.” Dân
chủ được xem xét theo nhiều khía cạnh: Vừa là chế độ chính trị, vừa là quyền tham
gia quản lý nhà nước và xã hội của công dân, vừa là phương thức và nguyên tắc tổ


chức xã hội. Dân chủ trong tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa có thể và cần phải tiếp thu và phát triển các giá trị của
nhân loại về dân chủ (trong đó có dân chủ tư sản). Việc xây dựng và phát triển dân
chủ là kết quả của một quá trình lâu dài về giáo dục ý thức cũng như nâng cao
năng lực thực hành dân chủ. Phải thực hiện dân chủ ở tất cả các cấp. Đặc biệt quan

tâm đến dân chủ trong Đảng và dân chủ ở cơ sở (đây là vấn đề cực kỳ quan trọng).
Phải ln gắn với thực tiễn để khơng ngừng hồn thiện các hình thức thực hiện dân
chủ một cách thực chất, có hiệu quả. Phải chủ động chống các biểu hiện lệch lạc
như: Dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ …Phải kiên quyết bác
bỏ các luận điệu xuyên tạc về dân chủ, nhân quyền của các thế lực phản động.
Trong tình hình hiện nay, phát huy dân chủ để tạo động lực cho sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, để xây dựng chỉnh đốn Đảng, để tạo sự đồng
thuận trong nhân dân, qua đó xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa vững
mạnh, giữ vững ổn định chính trị, đồng thời nó thể hiện bản chất và tính ưu việt
của chế độ XHCN
Trong giai hiện nay, trước tình hình thế giới và khu vực luôn biến đổi và
nhiều bất ổn thì chúng ta cần tiếp tục xây dựng và hồn thiện nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; mọi đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân
dân; cán bộ, cơng chức phải hồn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, tôn
trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân. Nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ
công dân, năng lực làm chủ, tham gia quản lý xã hội của nhân dân. Có cơ chế cụ
thể để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp. Thực hiện tốt hơn
Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
Phát huy dân chủ, đề cao trách nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ cương xã hội;
Đồng thời, phê phán và nghiêm trị những hành vi vi phạm quyền làm chủ
của nhân dân, những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh, trật tự, an toàn
xã hội; chống tập trung quan liêu, khắc phục dân chủ hình thức. Quan tâm hơn nữa
việc chăm lo hạnh phúc và sự phát triển tự do, toàn diện của con người, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc
tế về quyền con người mà Việt Nam ký kết. Dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta


do một Đảng lãnh đạo. Trong điều kiện đó, dân chủ trong Đảng gắn liền với dân
chủ trong xã hội có vai trị rất quan trọng. Chỉ có thực hiện tốt dân chủ trong Đảng

mới có thể nói đến xây dựng và phát triển tốt dân chủ trong xã hội.
* Liên hệ: Thông qua việc học tập và nghiên cứu dân chủ và phát huy dân chủ ở
nước ta, bản thân là 1 giáo viên tôi nhận thức được rằng việc phát huy dân chủ
luôn gắn với nâng cao đời sống nhân dân. Điều này bắt nguồn từ ngay vâng cao
năng lực hoạch định đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Tất
cả phải vì lợi ích của nhân dân, dựa trên ý kiến của nhân dân. Xây dựng một xã hội
dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và công chức phải thật sự là công bộc của dân
(gương mẫu trong thực hiện đường lối chính sách, trong đấu tranh chống tiêu cực,
trong vận động nhân dân). Ngồi ra, với tơi trong q trình giảng dạy tôi luôn phát
duy dân chủ ở các nội dung giáo dục cho học sinh, phát huy cao độ trí tuệ tập thể,
thường xuyên lắng nghe, chia sẻ những tâm tư, tình cảm, nguyện vọng chính đáng
của học sinh để động viên và tạo điều kiện tốt nhất cho việc học tập của học sinh
đạt kết quả tối ưu. Trong giảng dạy tơi thường xun lắng nghe những đóng góp
chân thành của các đồng nghiệp trong tổ, nhà trường nhằm điều chỉnh nội dung,
phương pháp giảng dạy cho phù hợp. Trong sinh hoạt, học tập tơi ln phát huy
tính tự phê bình và phê bình trên cơ sở đồn kết và xây dựng tập thể vững mạnh,
phát huy trí tuệ tập thể để cùng với chi bộ góp sức mình vào thực hiện thắng lợi
nghị quyết của chi bộ.
Mặt khác, để việc phát huy dân chủ đi vào cuộc sống thực tế của nhân dân,
quần chúng thì Đảng và Nhà nước ta cần chăm lo nâng cao đời sống dân trí, xác
định các hình thức tổ chức và cơ chế thích hợp để thu hút, tạo điều kiện cho mọi
tầng lớp nhân dân tham gia các công việc chung của đất nước, thực hiện quyền và
nghĩa vụ của mình. Đề cao trách nhiệm của các tổ chức của Đảng, Nhà nước đối
với nhân dân. Đồng thời tạo điều kiện để phát huy vai trò làm chủ của nhân
dân.nNhà nước và các tổ chức trong hệ thơng chính trị phải đề cao vai trò trong tổ
chức thực hiện đường lối của Đảng, và đề xuất ý kiến với Đảng trong quá trình xây
dựng và hoạch định chính sách. Ngồi ra, q trình giảng dạy tôi luôn trung thành
với đường lối quan điểm của Đảng, vận dụng cụ thể và phù hợp phát huy dân chủ
trong giảng dạy cho học sinh với phương châm giữ vững, bồi dưỡng và phát huy



tinh thần truyền thống đoàn kết, yêu tổ quốc và đồng bào. Định hướng cho học
sinh học tập những điều hay, lẽ phải, những chuẩn mực đạo đức XHCN, hướng
các em vào những hoạt động vui chơi lành mạnh để không sa vào những tệ nạn xã
hội, đồng thời cùng với nhà trường, gia đình góp phần chắp cánh cho những ước
mơ, hồi bão có ích cho xã hội để cùng với tồn Đảng, tồn dân tơi cùng với các
em học sinh góp những viên gạch nhỏ xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc
tổ quốc Việt Nam XHCN
2. Đại đoàn kết
* ĐVĐ: Đại đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta, được
hun đúc trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước; là một trong những bài học
lớn của cách mạng nước ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đại đoàn kết toàn dân tộc
trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí
thức, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động
lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để tăng cường và phát huy cao độ sức mạnh
đại đồn kết tồn dân tộc, vì mục tiêu của sự nghiệp cách mạng, Đảng và Bác Hồ
đã sáng lập và lãnh đạo tổ chức Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam .
* Nội dung:
Phát huy đại đoàn kết dân tộc phải trên nền tảng liên minh giai cấp cơng
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường
lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh chủ yếu và là nhân tố
có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Điều này được chứng minh từ khi có Đảng ra đời 1930, sự đồn kết đã
đưa đất ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác (CMT8/1945 ; ĐBP/1954)
Đại đoàn kết là sự nghiệp của tồn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt
nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình
thức, trong đó các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước có
ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Vấn đề đại đồn kết dân tộc bắt đầu từ sự đặt đúngvị
trí của yếu tố lợi ích, theo quan điểm được xác định từ Nghị quyết Trung ương 8

khóa VI là: “Động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực
của nhân dân và kết hợp hài hịa các lợi ích, thống nhất quyền lợi và nghĩa vụ công


dân”. Thực hiện dân chủ và phát huy chủ nghĩa yêu nước là những yếu tố quan
trọng để củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước
luôn luôn là động lực lớn nhất của dân tộc ta trong quá trình lịch sử. Dân chủ vừa
là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống
nhất Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh làm điểm
tương đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở
trong nước và người Việt Nam định cư ở bước ngoài. Đại đoàn kết là sự nghiệp của
cả hệ thống chính trị bao gồm Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đồn
thể nhân dân, trong đó vai trò hạt nhân lãnh đạo là tổ chức đảng. Để Đảng ta thực
sự là hạt nhân lãnh đạo khối đại đoàn kết dân tộc, Đảng phải tự đổi mới, tự chỉnh
đốn. Xây dựng những cơ chế cụ thể để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân động
viên nhân dân tham gia xây dựng Đảng; Đảng phải chăm lo lãnh đạo xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Mặt khác, đại đoàn kết phải được thực hiện từ cơ sở, trong từng cộng đồng
dân cư ở cơ sở, như : thôn, làng, bản, ấp, tổ dân phố, cơ quan, đơn vị, … thực hiện
tốt các cuộc vận động trong từng lĩnh vực cụ thể và cuộc vận động “Toàn dân đồn
kết phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh”,
phong trào “Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hóa”.Đề cao truyền thống
nhân nghĩa, khoan dung xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định
chính trị và đồng thuận xã hội. Thực hiện đồng bộ các chính sách, pháp luật của
Nhà nước nhằm phát huy dân chủ, giữ vững kỉ cương trong xã hội. Tổ chức và
động viên nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, làm kinh tế giỏi,
phát triển kinh tế với văn hóa – xã hội; mỗi người, mỗi hộ đều phấn đấu làm giàu
cho mình, cho cộng đồng và đất nước. Tôn trọng những ý kiến khác nhau không
trái với lợi ích của dân tộc. Chăm lo và bảo vệ lợi ích của các tầng lớp nhân dân,
bảo đảm công bằng xã hội. Tơn trọng và phát huy vai trị gương mẫu, dẫn dắt của

những người tiêu biểu, có uy tín trong cộng đồng dân cư, các dân tộc, tôn giáo, …
* Liên hệ:
Bản thân là giáo viên qua học tập, thực tiễn tơi nhân thức rằng đồn kết là
vấn đề sống còn của cách mạng nước ta trong suốt chiều dài lịch sử hơn 4000 năm
dựng và giữ nước, là quy luật trường tồn của dân tộc ta. Điều đặc biệt mà tôi nhận


thấy là ở đâu và bất cứ nơi nào nếu vấn đề đồn kết khơng được chăm lo, củng cố
thì luôn bị kẻ thù lợi dụng chống phá, xâm lược, đô hộ đất nước. Do vậy tôi nhận
thấy Nhà nước có vai trị lớn trong việc thực hiện đại đồn kết tồn dân tộc bằng
việc thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật; tổ
chức thực hiện các chính sách, pháp luật một cách có hiệu quả, thông qua bộ máy
công quyền trong sạch công tâm, hết lòng phục vụ nhân dân. Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các đồn thể nhân dân đóng vai trỏ đại diện cho lợi ích chung và lợi ích
từng giai cấp, từng giới quần chúng, đồng thời là cầu nối giữa Đảng, chính quyền
và nhân dân.
Bản thân ln cố gắng hồn thành tốt các nhiệm vụ, góp phần xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân mà trước hết là đồn kết ngay trong gia đình, trong khu phố,
trong tổ, trong trường và đặc biệt là giữ gìn đồn kết trong bộ “như giữ gìn con
ngươi trong mắt mình” Tích cực xây dựng gia đình, trường học, chi bộ vững mạnh
toàn diện đồng thời kiên quyết đấu tranh với những luận điệu sai trái, những quan
điểm xuyên tạc của kẻ thù nhằm phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân. Trong q
trình cơng tác giảng dạy tơi ln xóa bỏ mọi mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử
về quá khứ, thành phần giai cấp, dân tọc, tôn giáo. Đặc biệt là luôn quan tâm đến
những học sinh là người dân thiểu số, những học sinh có hồn cảnh khó khăn. Giáo
dục và định hướng trong các lớp học về tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái, lá
lành đùm lá rách trong mỗi lớp.
Ngồi ra, q trình giảng dạy tôi luôn trung thành với đường lối quan điểm
của Đảng, vận dụng cụ thể và phù hợp phát huy đại đoàn kết trong giảng dạy cho
học sinh với phương châm giữ vững, bồi dưỡng và phát huy tinh thần truyền thống

đoàn kết, yêu tổ quốc và đồng bào. Định hướng cho học sinh học tập những điều
hay, lẽ phải, những chuẩn mực đạo đức XHCN, hướng các em vào những hoạt
động vui chơi lành mạnh để không sa vào những tệ nạn xã hội, đồng thời cùng với
nhà trường, gia đình góp phần chắp cánh cho những ước mơ, hồi bão có ích cho
xã hội để cùng với tồn Đảng, tồn dân tơi cùng với các em học sinh góp những
viên gạch nhỏ xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam XHCN
Câu 4: Xây dựng , hoàn thiện, bản chất nhà nước pháp quyền XHCN


1. ĐVĐ:
Chế độ ta là chế độ do nhân dân làm chủ, quyền làm chủ của nhân dân được
thực hiện chủ yếu bằng Nhà nước. Ðảng ta là đảng cầm quyền, đảng lãnh đạo toàn
xã hội cũng chủ yếu bằng Nhà nước và thơng qua Nhà nước. Vì vậy, chăm lo xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thật sự của dân, do dân, vì dân, trong
sạch, vững mạnh, quản lý có hiệu lực, hiệu quả cao mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội,
quốc phòng, an ninh, đối nội, đối ngoại của đất nước luôn là mối quan tâm, là
nhiệm vụ hàng đầu của Ðảng và nhân dân ta. Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
của Ðảng đã thơng qua các văn kiện quan trọng, trong đó vấn đề xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân được đề cập một cách tồn diện,
từ những quan điểm chung đến những nhiệm vụ và giải pháp cụ thể, là một trong
những đặc trưng của xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng: “Xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân đặt dưới sự lãnh đạo của ĐCS”
2. Nội dung
Nhà nước pháp quyền là Nhà nước dựa trên chế độ pháp trị, tức là sự thượng
tôn pháp luật; pháp luật được đề cao; mọi tổ chức, cá nhân, mọi công dân đều phải
tuân thủ pháp luật, hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước pháp quyền
là Nhà nước dựa trên chế độ tam quyền phân lập; có sự độc lập tương đối trong
việc thực hiện ba quyền: Lập pháp, hành pháp và tư pháp. Bản chất và các nguyên
tắc cơ bản về tổ chức, hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN, như 'Tất cả
quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp

công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức, do Ðảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo'. 'Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện
đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và
chịu sự giám sát của nhân dân'. 'Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
cơng, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp'. 'Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân cơng, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ
đạo thống nhất của Trung ương'. Bản chất Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân được thể hiện bằng những đặc trưng sau:
Một là, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước.


Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân mà nịng
cốt là liên minh cơng – nơng – trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng
thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, là người
lãnh đạo để thực hiện quyền lực của nhân dân. Đó chính là tính chất giai cấp của
Nhà nước ta. Nhân dân với tư cách là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, thực
hiện quyền lực nhà nước với nhiều hình thức khác nhau. Hình thức cơ bản nhất là
nhân dân thông qua bầu cử lập ra các cơ quan đại diện quyền lực của mình. Đồng
thời nhân dân có quyền giám sát, yêu cầu các đại biểu và cơ quan do nhân dân lập
ra trả lời những vấn đề của nhân dân đặt ra trong việc thực thi chức năng, nhiệm
vụ, bảo đảm quyền lợi của nhân dân.
Hai là, Nhà nước CHXHCNVN là Nhà nước của tất cả các dân tộc trên lãnh
thổ Việt Nam, là biểu hiện tập trung của khối đại đồn kết tồn dân tộc.
Tính dân tộc của Nhà nước Việt Nam vừa là bản chất, vừa là truyền thống,
vừa là nguồn gốc sức mạnh của nhà nước ta. Ngày nay tính dân tộc ấy lại được
tăng cường và nâng cao nhờ khả năng kết hợp giữa tính giai cấp, tính nhân dân,
tính dân tộc và tính thời đại.
Ba là, Nhà nước CHXHCN Việt Nam được tổ chức và hoạt động trên cơ sở

nguyên tắc bình đẳng trong mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân. Cơng dân có
quyền tự do, dân chủ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, đồng thời phải làm trịn
nghĩa vụ trước Nhà nước.
Bốn là, tính chất dân chủ rộng rãi của Nhà nước CHXHCN Việt Nam.
Dân chủ hóa đời sống xã hội và hoạt động của Nhà nước là địi hỏi có tính
ngun tắc, nảy sinh từ bản chất dân chủ của Nhà nước CHXHCN Việt Nam. Thực
chất của dân chủ XHCN là thu hút những người lao động tham gia một cách bình
đẳng và ngày càng rộng rãi vào quản lý công việc của nhà nước và của xã hội. Quá
trình xây dựng nhà nước phải là q trình dân chủ hóa tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước, đồng thời phải cụ thể hóa tư tưởng dân chủ thành các quyền của
công dân, quyền dân sự, chính trị cũng như quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. Phát
huy được quyền dân chủ của nhân dân ngày càng rộng rãi là nguồn sức mạnh vô
hạn của Nhà nước.


Để xây dựng và hoàn thiện Nhà nước PQXHCN cần phải:
* Tiếp tục nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận hành để
thật sự bảo đảm đúng nguyên tắc tất cả quyền lực thuộc về nhân dân và nguyên tắc
quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp và kiểm sốt giữa các
cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ðồng thời,
việc xây dựng Nhà nước PQXHCN phải bảo đảm Nhà nước thực hiện tốt chức
năng quản lý kinh tế, quản lý xã hội phù hợp yêu cầu phát triển kinh tế thị trường
định hướng XHCN và hội nhập quốc tế; mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường
pháp chế XHCN, kỷ luật, kỷ cương trong mọi lĩnh vực của xã hội.
* Làm tốt chức năng quản lý, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước,
thực hiện có hiệu quả hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy
hoạch phát triển kinh tế - xã hội; quản lý và sử dụng có hiệu quả tài nguyên quốc
gia, thực hiện tốt chức năng chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước, phát triển
mạnh nguồn nhân lực và hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; củng cố, tăng
cường quốc phòng, an ninh, tăng cường và mở rộng quan hệ đối ngoại, giữ vững

độc lập, chủ quyền, thống nhất, tồn vẹn lãnh thổ, ổn định chính trị, trật tự an tồn
xã hội, tạo mơi trường quốc tế thuận lợi cho sự phát triển đất nước.
* Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước. Ðổi mới tổ
chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm để Quốc hội thật sự là cơ quan đại biểu
cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Nâng cao chất lượng
đại biểu Quốc hội. Cải tiến, nâng cao chất lượng các kỳ họp của Quốc hội, hoạt
động của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc
hội; nhất là cải tiến, nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật, quyết định và giám
sát các vấn đề quan trọng của đất nước.
* Ðẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng hệ thống
tư pháp trong sạch, vững mạnh. Hồn chỉnh chính sách, pháp luật về hình sự, dân
sự, thủ tục tố tụng tư pháp. Ðổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ
thống tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra, các tổ chức bổ trợ tư pháp...
* Xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức trong sạch, có phẩm chất và năng lực
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Bổ sung, hồn thiện quy chế quản
lý cán bộ, công chức, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm


của cán bộ, cơng chức ở từng vị trí cơng tác. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức cả về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo,
quản lý nhà nước. Ðổi mới chính sách đãi ngộ, động viên, khuyến khích cán bộ
hồn thành tốt nhiệm vụ, có cơ chế loại bỏ những người khơng hồn thành nhiệm
vụ, vi phạm kỷ luật, khơng có uy tín với nhân dân.
* Tích cực phịng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm bằng các
giải pháp đồng bộ, thực hiện công khai, minh bạch về kinh tế, tài chính trong các
cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nhà nước, các dự án đầu tư, mua sắm từ ngân sách
nhà nước, quản lý, sử dụng đất đai, tài sản công; thực hiện kê khai, công khai tài
sản, thu nhập của cán bộ, công chức. Xử lý nghiêm cán bộ tham nhũng, tịch thu tài
sản do tham nhũng mà có. Có cơ chế bảo vệ, khuyến khích người đấu tranh chống
tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Phát huy vai trò của nhân dân, của các cơ quan dân

cử, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các phương tiện thơng tin đại chúng trong đấu
tranh phịng, chống tham nhũng, lãng phí.
3. Liên hệ bản thân:
Qua q trình học tập bản thân là 1 giáo viên nhận thấy xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam là một tất yếu khách quan phù hợp với quy luật phát
triển của lịch sử, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước theo định hướng XHCN. Đồng thời, là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, Nhà
nước của dân, do dân, vì dân. Bản thân ln tích cực học tập, rèn luyện mọi mặt,
nâng cao bản lĩnh chính trị, xây dựng ý chí quyết tâm cao, có năng lực hành động
giỏi, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phát huy quyền làm chủ, tích cực tham gia
xây dựng nhà nước và chính quyền các cấp vững mạnh, nhất là chính quyền địa
phương và nơi giảng dạy; thực hiện tốt nghĩa vụ, trách nhiệm, quyền lợi của người
công dân, quân nhân, như: tham gia bầu cử, kiểm tra, giám sát, chất vấn các đại biểu
Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp. Ra sức học tập nâng cao hiểu biết về pháp
luật Nhà nước, gương mẫu chấp hành, tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện
nghiêm đường lối, chính sách của Đảng, Hiến pháp, Pháp luật Nhà nước. Trong
giảng dạy bản thân thực hiện tốt việc giáo dục tuyên truyền các quan điểm chủ
trương, chính sách của nhà nước cho học sinh, định hướng các em học sinh chấp


hành tốt các quy định của Nhà trường, của địa phương, Nhà nước. Lồng ghép giáo
dục pháp luật trong các bài học giúp các em tránh xa các tệ nạn xã hội, đủ sức miễn
dịch với sự cám dỗ mặt trái internet, kinh tế thị trường, các hành động bạo lực, lối
sống thực dụng đua đòi....đang xảy ra ngày càng nhiều hiện nay, cùng với các em
học sinh thực hiện nói và làm việc theo hiến pháp, pháp luật. Kiên quyết đấu tranh
với các hiện tượng tiêu cực, hiện tượng sai trái, vi phạm pháp luật....Đồng thời, bản
thân thực hiện tốt chức năng “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” nhằm góp
sức mình xây dựng và hồn thiện Nhà nước ta. Ngồi ra, q trình giảng dạy tơi
ln trung thành với đường lối quan điểm của Đảng, vận dụng cụ thể và phù hợp
về bản chất nhà nước ta trong giảng dạy cho học sinh với phương châm giữ vững,

bồi dưỡng và phát huy tinh thần truyền thống đoàn kết, yêu tổ quốc và đồng bào.
Định hướng cho học sinh học tập những điều hay, lẽ phải, những chuẩn mực đạo
đức XHCN, hướng các em vào những hoạt động vui chơi lành mạnh để không sa
vào những tệ nạn xã hội, đồng thời cùng với nhà trường, gia đình góp phần chắp
cánh cho những ước mơ, hồi bão có ích cho xã hội để cùng với tồn Đảng, tồn
dân tơi cùng với các em học sinh góp những viên gạch nhỏ xây dựng thành công
và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam XHCN
Câu 5: Quan điểm phát triển kinh tế trong chiến lược phát triển kinh tế
xã hội 2011 – 2020
1. ĐVĐ:
Trong bất kỳ hoàn cảnh nào và ở bất cứ giai đoạn nào thì nhiệm vụ phát triển
kinh tế luôn là nhiệm vụ quan trọng, quyết định đến mọi mặt của đất nước. Nói
một cách khác kinh tế luôn là vấn đề cơ bản, quan trọng và quyết định của mỗi
quốc gia. Chính vì vậy Đảng ta luôn xác định “Phát triển kinh tế là trung tâm, xây
dựng đảng là then chốt” và đại hội lần thứ XI, Đảng ta xác định mục tiêu chiến
lược phát triển kinh tế phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng
thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao


hơn trong giai đoạn sau. Đó là mục tiêu xuyên xuốt trong suốt q trình đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2. Nội dung
Chiến lược đã đề ra 5 quan điểm phát triển như sau:
Một là, phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền
vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược.
Phải phát triển bền vững về kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo
đảm an ninh kinh tế. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình

tăng trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng
đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế trí thức. Tăng trưởng
kinh tế phải kết hợp hài hoà với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; nâng cao
không ngừng chất lượng cuộc sống của nhân dân. Phát triển kinh tế - xã hội phải
luôn đi cùng với bảo vệ và cải thiện mơi trường. Nước ta có điều kiện phát triển
nhanh và yêu cầu phát triển nhanh cũng đang đặt ra hết sức cấp thiết. Phát triển
bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo nguồn lực cho phát
triển bền vững. Phát triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong
quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Phải đặc biệt quan
tâm giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường quốc phịng, an ninh, bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ để bảo đảm cho đất
nước phát triển nhanh và bền vững.
Hai là, đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây
dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh.
Kiên trì và quyết liệt thực hiện đổi mới. Đổi mới chính trị phải đồng bộ với
đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hồn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng và
trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương để thúc đẩy đổi mới toàn diện
và phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc vì mục tiêu xây dựng nước Việt
Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Lấy


việc thực hiện mục tiêu này làm tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá hiệu quả của quá
trình đổi mới và phát triển.
Ba là, mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là
chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển.
Phải bảo đảm quyền con người, quyền công dân và các điều kiện để mọi
người được phát triển toàn diện. Nâng cao năng lực và tạo cơ chế để nhân dân thực

hiện đầy đủ quyền làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để phát huy mạnh mẽ mọi khả
năng sáng tạo và bảo đảm đồng thuận cao trong xã hội, tạo động lực phát triển đất
nước. Phát huy lợi thế dân số và con người Việt Nam, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, trọng dụng nhân tài, chăm lo lợi ích chính đáng và khơng ngừng nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần của mọi người dân, thực hiện công bằng xã hội.
Bốn là, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, cơng
nghệ ngày càng cao, đồng thời hồn thiện quan hệ sản xuất và thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hoàn thiện thể chế để tháo gỡ mọi cản trở, tạo điều kiện thuận lợi để giải
phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, đẩy mạnh ứng dụng khoa học,
công nghệ; huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển. Phát
triển nhanh, hài hoà các thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp. Phải
tăng cường tiềm lực và nâng cao hiệu quả của kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và
điều tiết nền kinh tế, góp phần ổn định kinh tế vĩ mơ. Phát triển kinh tế tập thể với
nhiều hình thức hợp tác đa dạng mà nòng cốt là hợp tác xã. Khuyến khích phát
triển các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh với sở hữu hỗn hợp mà chủ yếu là
các doanh nghiệp cổ phần để loại hình kinh tế này trở thành phổ biến trong nền
kinh tế, thúc đẩy xã hội hoá sản xuất kinh doanh và sở hữu. Hồn thiện cơ chế,
chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực
của nền kinh tế. Khuyến khích kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển theo
quy hoạch. Tạo mơi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch. Phát triển đồng bộ,
hoàn chỉnh và ngày càng hiện đại các loại thị trường. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế
quản lý và phân phối, bảo đảm cơng bằng lợi ích, tạo động lực thúc đẩy phát triển
kinh tế-xã hội.


Năm là, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ngày càng cao trong điều kiện
hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, đồng thời tranh

thủ ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng để phát triển nhanh, bền
vững và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Phải không ngừng tăng cường tiềm
lực kinh tế và sức mạnh tổng hợp của đất nước để chủ động, tích cực hội nhập
quốc tế sâu rộng và có hiệu quả. Phát triển lực lượng doanh nghiệp trong nước với
nhiều thương hiệu mạnh, có sức cạnh tranh cao để làm chủ thị trường trong nước,
mở rộng thị trường ngồi nước, góp phần bảo đảm độc lập, tự chủ của nền kinh tế.
Trong hội nhập quốc tế, phải ln chủ động thích ứng với những thay đổi của tình
hình, bảo đảm hiệu quả và lợi ích quốc gia.
3. Liên hệ bản thân
Qua học tập bản thân nhận thức được rằng: muốn xã hội phát triển, nâng cao
dân trí, thực hiện tốt được dân chủ cơng bằng xã hội phải đi từ nền tảng cơ sở đó là
phát triển kinh tế. Bởi vì xét đến cùng vật chất quyết định ý thức; lực lượng sản
xuất quyết định quan hệ sản xuất và tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Do vậy
trên cơ sở kinh tế quyết định chính trị thì việc đẩy mạnh phát triển kinh tế là một
tất yếu khách quan và là cơ sở chắc chắn nhất quyết định CNXH chiến thắng chủ
nghĩa tư bản khi mà năng suất lao động của XHCN hơn hẳn tư bản chủ nghĩa. Do
vậy, quá trình học tập, bản thân đã nắm vững được chủ trương, đường lối phát triển
kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Trước hết bản thân luôn quán triệt và thức
hiện tốt các chủ trương, chính sách ấy. Đồng thời tích cực tham gia phát triển kinh
tế xã hội theo chức trách nhiệm vụ được giao, chủ động phát triển kinh tế gia đình
theo đúng quy định của luật pháp, thực hiện sản xuất và kinh doanh nhằm làm giàu
một cách chính đáng tạo nguồn lao động, nguồn thu nhập cho gia đình và cho xã
hội. Quá trình giảng dạy ở Nhà trường thì tích cực tun truyền cho đồng nghiệp
và giáo dục cho các em học sinh nắm vững đường lối phát triển kinh tế của Đảng
và Nhà nước ta, thực hiện nhất quán nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có
sự định hướng của Nhà nước. Giúp mọi người, các em học sinh nắm và trách xa
những mặt trái của kinh tế thị trường. Hiểu và thực hiện phát triển kinh tế phải đi
đôi với thực hiện an sinh xã hội với công bằng xã hội từ đó giáo dục cho các em



tinh thần tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, khơng vì lợi nhuận, lợi ích của bản thân mà
chà đạp lên lợi ích của tập thể của người khác. Giáo dục giúp đỡ các em học sinh
có hồn cảnh khó khăn, hướng các em tránh xa cám dỗ của đồng tiền, tránh xa
những hoạt động vô bổ tốn kém, lối sống hưởng thụ, thực dụng, vô cảm, coi khinh
bạn bè….Đồng thời bản thân kiên quyết đấu tranh trong Nhà trường và địa
phương, xã hội với những hiện tương sai trái, trục lợi cá nhân, tham ô, tham nhũng,
làm ăn phi pháp, bán rẻ danh dự - tập thể chỉ vì lợi nhuận…. Đặc biệt, trong giai
đoạn hiện nay bản thân kiên quyết đấu tranh với quan điểm “lợi ích nhóm” làm
thất thoát kinh tế của tập thể của xã hội, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế xã hội, là
nguyên nhân làm cho nhân dân mất niềm tin vào Đảng vào chế độ. Ngồi ra, q
trình giảng dạy tơi ln trung thành với đường lối quan điểm của Đảng, vận dụng
cụ thể và phù hợp về quan điểm phát triển kinh tế trong giảng dạy cho học sinh với
phương châm giữ vững, bồi dưỡng và phát huy tinh thần truyền thống đoàn kết,
yêu tổ quốc và đồng bào. Định hướng cho học sinh học tập những điều hay, lẽ
phải, những chuẩn mực đạo đức XHCN, hướng các em vào những hoạt động vui
chơi lành mạnh để không sa vào những tệ nạn xã hội, đồng thời cùng với nhà
trường, gia đình góp phần chắp cánh cho những ước mơ, hồi bão có ích cho xã
hội để cùng với tồn Đảng, tồn dân tơi cùng với các em học sinh góp những viên
gạch nhỏ xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam XHCN
Câu 6: Phát triển giáo dục và đào tạo KHCN
1. ĐVĐ:
Với quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đó là “Giáo dục và đào tạo là quốc
sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo
dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội” trong những năm qua giáo dục đào tạo luôn được phát triển và
đổi mới không ngừng. Đồng thời phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu
trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi
đôi với hành lý luận gắn với thực tiễn giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia
đình và giáo dục xã hội. Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát

triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc với tiến bộ khoa học và công nghệ phù hợp


quy luật khách quan. Chuyển phát triển giáo dục và đào tạo từ chủ yếu theo số lượng
sang chú trọng chất lượng và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu số lượng. Đổi mới
hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thơng giữa các bậc học, trình độ và
giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Chuẩn hoá, hiện đại hoá giáo dục và đào
tạo. Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo
đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và đào tạo. Phát triển hài
hịa, hỗ trợ giữa giáo dục cơng lập và ngồi cơng lập, giữa các vùng, miền. Ưu tiên
đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo đối với các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân
tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và các đối tượng chính sách. Thực
hiện dân chủ hóa, xã hội hóa giáo dục và đào tạo.
2. Nội dung
Với tinh thần đó, giáo dục đào tạo của dân tộc ta trong thời gian tới là phải tạo
chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo đáp ứng
ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân
dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm
năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào
sống tốt và làm việc hiệu quả. Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp,
dạy tốt, học tốt, quản lý tốt có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây
dựng xã hội học tập bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng chuẩn hóa, hiện đại
hố, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền
giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực. Điều này được thể hiện qua
các quan điểm phát triển giáo dục đào tạo của Đảng và Nhà nước ta, đó là
Một là, giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa của giáo dục, đào tạo, tạo ra
những lớp người vừa hồng, vừa chuyên để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Hai là, phải thực sự coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Giáo dục

và đào tạo là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước; đầu tư cho giáo dục là
đầu tư phát triển; giáo dục được coi là quan trọng hàng đầu trong kế hoạch phát
triển của các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương.


×