Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Luận văn Thạc sĩ Truyện ngắn dân tộc thiểu số Việt Nam đầu thế kỷ XXI từ góc nhìn văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (928.11 KB, 103 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
––––––––––––––––––––––

NGUYỄN THỊ THU HÒA

TRUYỆN NGẮN DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM
ĐẦU THẾ KỶ XXI TỪ GĨC NHÌN VĂN HĨA

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƠN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2018


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
––––––––––––––––––––––

NGUYỄN THỊ THU HÒA

TRUYỆN NGẮN DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM
ĐẦU THẾ KỶ XXI TỪ GĨC NHÌN VĂN HĨA
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã ngành: 8.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Đào Thủy Nguyên


THÁI NGUYÊN - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Truyện ngắn dân tộc thiểu số Việt Nam đầu thế
kỷ XXI từ góc nhìn văn hóa” là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, hoàn toàn không
sao chép của bất cứ ai. Các kết quả của đề tài là trung thực và chưa được công bố ở
các công trình khác.
Nội dung của luận văn có sử dụng tài liệu, thông tin được đăng tải trên các tác
phẩm, tạp chí, các trang web theo danh mục tài liệu tham khảo của luận văn.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thu Hòa

XÁC NHẬN CỦA

XÁC NHẬN CỦA

TRƯỞNG KHOA CHUYÊN MÔN

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

PGS.TS Đào Thủy Nguyên

i


LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Đào Thủy Nguyên - Trường
Đại học Sư phạm Thái Nguyên về sự hướng dẫn tận tình, đầy đủ, chu đáo và đầy tinh
thần trách nhiệm của cô trong toàn bộ quá trình em hoàn thành luận văn.
Em xin trân trọng cảm ơn sự tạo điều kiện giúp đỡ của Ban Giám Hiệu, quý
thầy cô giáo Khoa Ngữ văn, Khoa Sau đại học - Trường Đại học Sư phạm - Đại học
Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong śt q trình học tập và thực
hiện luận văn này.
Em cũng xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên và
nhiệt tình giúp đỡ em trong thời gian hoàn thành luận văn.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thu Hòa

ii


MỤC LỤC
Lời cam đoan ..................................................................................................................i
Lời cảm ơn .................................................................................................................... ii
Mục lục ........................................................................................................................ iii
MỞ ĐẦU .......................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................................2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.............................................................................6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................................7
5. Phương pháp nghiên cứu ...........................................................................................7
6. Đóng góp của luận văn .............................................................................................. 8
7. Cấu trúc luận văn .......................................................................................................9

NỘI DUNG .................................................................................................................10
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ..................................10
1.1. Cơ sở lý luận của đề tài.........................................................................................10
1.1.1. Khái niệm về “văn hoá” và “văn học” ............................................................... 10
1.1.2. Mối quan hệ giữa văn hoá và văn học ............................................................... 13
1.1.3. Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hoá ............................................................... 15
1.2. Khái quát về văn xuôi dân tộc thiểu số Việt Nam đầu thế kỷ XXI ......................17
1.2.1. Khái quát chung về văn xuôi dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại ....................17
1.2.2. Phác thảo diện mạo truyện ngắn dân tộc thiểu số Việt Nam đầu thế kỷ XXI ...20
Chương 2: VĂN HÓA MIỀN NÚI TRONG TRUYỆN NGẮN DÂN TỘC
THIỂU SỐ VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XXI .......................................................... 29
2.1. Thiên nhiên mang dấu ấn văn hóa miền núi .........................................................29
2.2. Con người văn hóa trong truyện ngắn dân tộc thiểu số đầu thế kỷ XXI ..............35
2.3. Những phong tục tập quán tốt đẹp trong đời sống văn hóa - xã hội miền núi .....45
2.4. Những mặt trái của đời sống văn hóa miền núi đương đại ...................................53
Chương 3: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN VĂN HÓA MIỀN NÚI TRONG
TRUYỆN NGẮN DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XXI ........60

iii


3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ..............................................................................60
3.1.1. Khắc họa nhân vật qua ngoại hình .....................................................................60
3.1.2. Khám phá, miêu tả đời sống nội tâm nhân vật ..................................................63
3.2. Nghệ thuật ngôn từ ............................................................................................... 68
3.2.1. Ngôn ngữ dân tộc gắn với cuộc sớng, con người miền núi ............................... 68
3.2.2. Ngơn ngữ bình dị, mợc mạc, đậm tính khẩu ngữ ..............................................74
3.3. Cớt trụn và ́u tớ ngồi cớt trụn ...................................................................78
3.3.1. Các kiểu loại cớt trụn .....................................................................................78
3.3.2. ́u tớ ngồi cớt trụn......................................................................................83

KẾT LUẬN .................................................................................................................91
TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................94

iv


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Văn học dân tộc thiểu số (DTTS) Việt Nam là những sáng tác của các nhà văn
DTTS viết về thiên nhiên và đời sống của đồng bào các DTTS trên mọi miền của tổ
q́c. Dịng văn học này đã và đang có mợt vị trí đặc biệt quan trọng trong tiến trình
văn học Việt Nam hiện đại. Với lịch sử phát triển hơn nửa thế kỷ qua, văn xi DTTS
có mợt sức hấp dẫn riêng, vừa rất độc đáo trong cách nhìn con người và c̣c sớng
vừa có nhiều nét đặc sắc trong nghệ thuật thể hiện. Tuy nhiên, nếu so với các cơng
trình nghiên cứu về văn xi Việt Nam hiện đại nói chung thì mảng nghiên cứu về
văn xi các DTTS ln ở tình trạng thua thiệt cả về sớ lượng và chất lượng. Vì vậy,
cần có những cơng trình nghiên cứu chuyên sâu về mảng sáng tác rất đặc sắc này.
1.2. Nền văn xuôi các DTTS Việt Nam đầu thế kỷ XXI, đặc biệt là truyện ngắn, đã có
được một đội ngũ người viết tương đối đông và đạt được mợt sớ thành tựu nhất định,
góp phần vào thành tựu chung của nền văn học Việt Nam hiện đại. Các cây bút viết
truyện ngắn DTTS ngày càng khẳng định được vị thế của mình trên văn đàn nước
nhà. Họ đã thực hiện sứ mệnh “Nuôi giữ ngọn lửa văn chương của dân tộc mình”.
Qua những sáng tác của chính những người con DTTS, bức tranh toàn cảnh miền núi
được hiện ra một cách chân thực, sống động với nhiều gam màu đặc sắc. Việc nghiên
cứu truyện ngắn DTTS sẽ cho chúng ta một cái nhìn đầy đủ hơn về những giá trị to
lớn của văn học ở những miền đất giàu trùn thớng văn hóa.
1.3. Văn hóa gắn liền với cuộc sống và sự phát triển của xã hội. Những giá trị văn hóa
là thước đo trình độ phát triển và đặc tính riêng của từng dân tợc. Nghiên cứu văn hóa
trong văn học là một hướng nghiên cứu giàu tiềm năng, nhất là trong bới cảnh hợi
nhập, tồn cầu hóa hiện nay. Nghiên cứu văn hóa dân tợc - một mặt, cho thấy đặc

trưng văn hóa của một cộng đồng người; mặt khác, cho thấy nét riêng trong phong
cách nghệ thuật của nhà văn. Văn hóa trong truyện ngắn DTTS là một vấn đề đặc sắc,
lý thú cần được quan tâm.
1.5. Là giáo viên giảng dạy của tổ Ngữ văn, trường Phổ thông Vùng cao Việt Bắc,
một trường phổ thơng có nhiệm vụ đào tạo con em các DTTS khu vực miền núi phía
Bắc, chúng tơi ḿn nghiên cứu truyện ngắn DTTS đầu thế kỷ XXI từ góc nhìn văn

1


hóa để hiểu thêm chính học sinh của mình, từ đó giáo dục các thế hệ học sinh người
DTTS biết trân trọng, bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp của đồng bào,
dân tộc mình trước sự tác đợng mạnh mẽ của q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
Từ những lý do trên đây cùng với niềm yêu thích say mê các truyện ngắn DTTS
Việt Nam đương đại, chúng tôi chọn đề tài “Truyện ngắn dân tộc thiểu số Việt Nam
đầu thế kỷ XXI từ góc nhìn văn hóa” làm vấn đề nghiên cứu cho luận văn của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Trong khoảng gần hai mươi năm trở lại đây, văn xuôi DTTS đã nhận được sự quan
tâm của nhiều cây bút nghiên cứu, lý ḷn phê bình và mợt sớ nhà văn, nhà thơ người
DTTS có ý thức sâu sắc về tiếng nói văn học của cợng đờng mình. Đã có những cơng
trình lớn, nhỏ quan tâm nghiên cứu văn xuôi DTTS từ nhiều góc độ khác nhau. Để phục
vụ cho những vấn đề mà đề tài nghiên cứu, chúng tôi chỉ tập trung tìm hiểu các cơng
trình nghiên cứu từ sau năm 1975 về văn hóa trong văn xuôi DTTS, mà ở đó bao gồm cả
những ý kiến đánh giá, nhận xét về truyện ngắn DTTS đầu thế kỷ XXI.
2.1. Các công trình, bài viết nghiên cứu về bản sắc văn hóa trong văn xi DTTS
nói chung
Trong ćn 40 năm văn hóa nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (1945 1985), Phong Lê khẳng định “Thành tựu của văn xuôi miền núi đã được xác định ở cố
gắng của người viết nhằm đi sâu nắm bắt cho được những nét riêng trong cảnh sắc sinh
hoạt, trong nét dáng tâm lý và ngôn ngữ con người - những nét hẳn chỉ là người viết dân

tộc mới có khả năng làm ánh lên được” [42, tr.264].
Ma Trường Nguyên - nhà thơ, nhà văn dân tợc Tày - trong ćn tiểu ḷn phê
bình Hiện đại mà dân tộc [38] cũng thể hiện rõ những trăn trở đau đáu về mối quan
hệ giữa hai yếu tố hiện đại và truyền thống trong bản sắc văn hóa dân tợc. Trong cơng
trình nghiên cứu của ơng có nhiều kiến giải hay về vấn đề bản sắc văn hóa trong văn
học DTTS.
Trong cơng trình nghiên cứu Văn xuôi Việt Nam hiện đại về dân tộc và miền
núi [37], Phạm Duy Nghĩa đã quan tâm đến vấn đề truyền thống và hiện đại, bản sắc
văn hóa dân tộc trong văn xuôi dân tộc và miền núi. Tuy nhiên, cơng trình này chưa
chú ý đến nét riêng của bản sắc dân tộc trong sáng tác của các nhà văn DTTS.

2


Tác giả Đào Thủy Nguyên trong cuốn sách Bản sắc văn hóa dân tộc trong văn
xi của các nhà văn dân tộc thiểu số [39] đã khẳng định những cảm hứng tư tưởng
mang đậm bản sắc dân tộc của đồng bào các DTTS. Đó là: Cảm hứng trân trọng vẻ
đẹp tâm hờn, tính cách của đờng bào các dân tợc thiểu số; Cảm hứng tự hào về các
giá trị văn hóa trùn thớng của dân tợc; Cảm hứng trữ tình về thiên nhiên, đất nước.
Năm 2014, nhà xuất bản Đại học Thái Nguyên in cuốn Văn học dân tộc thiểu
số Việt Nam truyền thống và hiện đại [67] do hai tác giả Trần Thị Việt Trung và
Nguyễn Đức Hạnh đồng chủ biên. Cuốn sách là tập hợp của nhiều công trình nghiên
cứu về văn xi và thơ ca DTTS. Trong đó, phần mợt bao gờm tám bài viết đề cập
đến những khía cạnh nợi dung và nghệ tḥt của văn xuôi DTTS qua tên tuổi của một
số tác giả với những tác phẩm tiêu biểu. Tuy nhiên ở cơng trình này, vấn đề văn hóa
dân tợc trong văn xi DTTS chưa phải là trung tâm chú ý của các nhà nghiên cứu.
Hồng Việt Qn trong ćn tiểu ḷn Bàn để làm đã đưa ra những nhận xét khái
lược về văn xuôi Yên Bái. Đồng thời, tác giả cũng đề xuất những phương hướng đổi mới
nhằm phát triển hơn nữa đội ngũ những người sáng tác văn xuôi của cả khu vực miền núi
phía Bắc. Ơng cho rằng “chỉ có tắm mình trong suối nguồn văn hóa dân gian của dân

tộc, từng bước thế hệ trẻ sẽ trưởng thành, sáng tạo ra những tác phẩm văn học nghệ
thuật vừa hiện đại vừa giàu bản sắc” [48, tr.26].
Lâm Tiến, nhà nghiên cứu văn học dân tợc Nùng - người có nhiều cơng trình
nghiên cứu về văn học DTTS đã có những nhận định giàu sức thuyết phục về vấn đề
bản sắc dân tộc trong sáng tác của các nhà văn DTTS: “Bản sắc dân tộc trong văn
học là do chính các nhà văn dân tộc sáng tạo ra. Nó thể hiện tâm hồn, tính cách dân
tộc qua cách cảm, cách nghĩ, cách nói riêng của nhà văn, là sự thể hiện một cách đẹp
đẽ, sáng tạo những truyền thống văn hóa của dân tộc trong điều kiện lịch sử nhất
định” [59, tr.292].
Nhà nghiên cứu Lợc Bích Kiệm trong ćn Văn học các dân tộc thiểu số một
bộ phận đặc thù của văn học Việt Nam cũng đã chỉ ra vai trò quan trọng của văn hóa
các dân tộc trong các sáng tác của các nhà văn DTTS. Trong đó, nhà nghiên cứu
khẳng định các nhà văn chính là người phát huy những giá trị văn hóa của dân tộc
mình: “Khi là nhà văn, là tri thức của dân tộc, họ không chỉ mang trong mình hành

3


trang văn hóa xứ sở mà cịn là người mang hành trang văn hóa xứ sở ấy tỏa sáng
mn nơi” [20, tr.38]. Tác giả cũng khẳng định bản sắc văn hóa được thể hiện từ
không gian, cuộc sống, con người, nếp nghĩ, nếp cảm, cách nói, cách diễn đạt của
người miền núi.
Bên cạnh các cơng trình nghiên cứu, những hợi thảo về văn học DTTS cũng đã
đặt ra vấn đề nghiên cứu, trao đổi về việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
thiểu số trong văn học - đặc biệt là trong văn xuôi DTTS.
Ngày 18/11/2011, tại thành phố Lạng Sơn, Hội Văn học Nghệ thuật các DTTS
Việt Nam đã tổ chức hội thảo Văn học dân tộc thiểu số với sự nghiệp xây dựng,
phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới. Nhìn lại quá trình hình thành và phát triển
văn học DTTS nói chung, văn xi DTTS nói riêng, ơng Nơng Q́c Bình - Chủ tịch
Hội Văn học nghệ thuật các DTTS Việt Nam đã khẳng định: Các nhà văn DTTS đã

mang lại cho văn học nước nhà sự phong phú trong nội dung và hình thức nghệ thuật.
Mỗi trang viết của nhà văn là tiếng nói tự hào, là sự kết tinh văn hóa mỗi tộc người
trên đất nước Việt Nam. Tuy vậy, để mỗi tác phẩm DTTS thật sự mang hơi thở của
cuộc sống, đáp ứng được sự mong mỏi của độc giả, nhiều vấn đề đang đặt ra như
những câu hỏi bức thiết và không dễ tìm được câu trả lời. Vấn đề mà chính các nhà
văn DTTS cũng trăn trở nhiều nhất là: Có lẽ vẫn cịn thiếu chất men gì đó trong hành
trình kiến tạo tác phẩm? Chất men này phải chăng chính là bản sắc văn hóa dân tộc
làm nên hồn cốt và sức hấp dẫn của tác phẩm văn học.
Ngày 15/5/2014, trong Hợi thảo khoa học tồn q́c Phát triển văn học Việt Nam
trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế được tổ chức tại Viện Hàn lâm khoa học
Việt Nam, vấn đề truyền thống và hiện đại trong văn học DTTS lại một lần nữa được đặt
ra với những trăn trở của nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu trong cả nước.
Những năm gần đây, một sớ ḷn văn, ḷn án đã bước đầu tìm hiểu vấn đề bản
sắc văn hóa dân tợc, tính dân tợc trong văn xuôi DTTS qua một vài tác phẩm cụ thể
hoặc qua sáng tác của từng nhà văn cụ thể, tiêu biểu như: Văn hóa và con người Tây
Nguyên trong văn xuôi nghệ thuật 1945 - 2000 (Đặng Văn Vũ - Luận án tiến sĩ),
Tính dân tộc trong tiểu thuyết Vi Hồng (Hoàng Văn Huyên - Luận văn thạc sĩ), Bản
sắc dân tộc trong sáng tác của Cao Duy Sơn (La Thúy Vân - Luận văn thạc sĩ), Bản
sắc văn hóa Mường trong sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh (Nguyễn Thị Bích Dậu Luận văn thạc sĩ)…

4


2.2. Các cơng trình, bài viết nghiên cứu về truyện ngắn DTTS đầu thế kỷ XXI
Cuốn Văn xuôi dân tộc và miền núi đầu thế kỷ XXI của Hội Văn học nghệ
thuật các DTTS Việt Nam, đã phản ánh khá tồn diện bức tranh văn học dân tợc và
miền núi. Cuốn sách đã tập hợp 63 truyện ngắn về đề tài dân tộc và miền núi, trong
đó có 26 truyện ngắn của các nhà văn DTTS. Lời giới thiệu của cuốn sách, ban biên
tập khẳng định: Truyện ngắn DTTS đầu thế kỷ XXI mới là “nụ” chưa thực sự là
“hoa” nhưng nó vẫn mang vẻ đẹp riêng của nó: “Với hơn một thập kỉ của thế kỷ XXI,

chúng ta có quyền mừng với những cái nụ đã hiện hữu, có chất lượng. Họ là những cây
bút có giọng điệu, bản sắc riêng, dẫu không phải họ sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ. Nói là có
chất lượng và bản sắc vì nhiều tác phẩm của tác giả ấy đã đạt các giải thưởng chính
thức về văn chương như Cao Duy Sơn, Hà Thị Cẩm Anh, Bùi Thị Như Lan…” [47, tr.6]
Tác giả Đào Thủy Ngun trong ćn Bản sắc văn hóa dân tộc trong văn
xuôi của các nhà văn dân tộc thiểu số [39] đã khẳng định: chưa bao giờ truyện ngắn
được in ra nhiều như những năm gần đây. Các truyện ngắn thời kỳ này đã đi sâu phản
ánh cả những nét đẹp của đời sống văn hóa, cả những mặt tiêu cực từ hệ lụy của nền
kinh tế thị trường. Tuy nhiên, cuốn sách cũng chưa thực sự đi sâu vào nghiên cứu
mảng truyện ngắn DTTS đầu thế kỷ XXI mà mới là cái nhìn chung về văn xi
DTTS Việt Nam đương đại nói chung.
Trong ćn Nghiên cứu, phê bình về văn học dân tộc thiểu số của nhà nghiên
cứu Trần Thị Việt Trung, ở bài viết Những người sẽ làm nên diện mạo văn học
DTTS Việt Nam đầu thế kỷ XXI, tác giả đã đi sâu tìm hiểu về đội ngũ sáng tác ở ba
thế hệ. Bài viết đã khẳng định: Những cây bút trẻ thuộc thế hệ 8X, 9X sẽ làm nên
diện mạo văn học DTTS đầu thế kỷ XXI như: Nông Quang Khiêm, Nông Quốc Lập,
Niê Thanh Mai… Các cây bút viết truyện ngắn này có những mặt mạnh và cả những
hạn chế nhưng sẽ đem đến cho truyện ngắn nói riêng và văn xuôi thời kỳ này nói
chung những tác phẩm “mang đậm bản sắc văn hóa tộc người nhưng với lối viết hiện
đại, khiến cho người đọc thú vị, hấp dẫn bởi hương vị độc đáo cùng mầu sắc riêng
biệt của nó” [68, tr.383].
Nhà phê bình Lâm Tiến trong ćn Tiếp cận văn học dân tộc thiểu số [60] đã
nghiên cứu về thơ văn DTTS sáu năm đầu thế kỷ XXI. Ở thể loại truyện ngắn, tác giả

5


đưa ra nhận định: Truyện ngắn viết đầu thế kỷ của Hà Thị Cẩm Anh có lới viết giản
dị nhưng sâu sắc, hấp dẫn. Tuy nhiên, Lâm Tiến mới chỉ đưa ra đánh giá về một tác
giả mà chưa đưa ra được những nhận định một cách hệ thống về tồn bợ các trụn

ngắn của các nhà văn DTTS thời kỳ này.
Nhìn chung, những bài viết trên chủ yếu đi sâu tìm hiểu, lí giải và phân tích
mợt vài khía cạnh của truyện ngắn DTTS đầu thế kỷ XXI mà chưa thực sự đi sâu vào
nghiên cứu một cách sâu sắc, tồn diện, hệ thớng về trụn ngắn DTTS đầu thế kỷ
XXI từ góc nhìn văn hóa. Thực tế đó đã gợi ý cho chúng tôi lựa chọn đề tài: Truyện
ngắn dân tộc thiểu số Việt Nam đầu thế kỷ XXI từ góc nhìn văn hóa. Kế thừa
những kết quả nghiên cứu của người đi trước, chúng tôi sẽ mở rộng, khơi sâu và làm
rõ những giá trị, dấu ấn văn hóa có trong nội dung và nghệ thuật của truyện ngắn
DTTS đầu thế kỷ XXI.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài Truyện ngắn dân tộc thiểu số Việt Nam đầu thế kỷ XXI
từ góc nhìn văn hóa nhằm làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa văn học và văn hóa,
dấu ấn và giá trị văn hóa trong truyện ngắn DTTS đầu thế kỷ XXI. Đồng thời khẳng
định những đóng góp của truyện ngắn dân tộc thiểu số đầu thế kỷ XXI trên cả hai
phương diện văn học và văn hóa.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận văn tạo một cơ sở lí ḷn cần thiết để soi tỏ mới quan hệ giữa văn học
và văn hóa. Từ đó có cơ sở để tìm hiểu truyện ngắn DTTS Việt Nam đầu thế kỷ XXI
trong mới quan hệ liên ngành văn hóa - văn học.
- Luận văn nhằm chỉ ra những nét đặc sắc về văn hóa DTTS được thể hiện
trong các truyện ngắn ở cả 2 phương diện: nội dung và nghệ thuật, giúp cảm thụ
truyện ngắn của DTTS một cách sâu sắc hơn. Từ đó góp phần khẳng định phong cách
nghệ thuật và đóng góp của các nhà văn DTTS đối với nền văn học Việt Nam hiện
đại cũng như đới với việc giữ gìn bản sắc và bời đắp văn hóa Việt Nam thời kì đổi
mới và hợi nhập.

6



4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung vào việc tìm hiểu truyện ngắn
DTTS Việt Nam đầu thế kỷ XXI dưới góc nhìn văn hóa ở hai phương diện là nội
dung và nghệ thuật.
- Phạm vi tài liệu nghiên cứu:
+ Văn học DTTS và miền núi được hiểu là bộ phận văn học viết về các dân tộc
thiểu số và miền núi. Đó là sản phẩm tinh thần của những tác giả là người DTTS và
những tác giả là người Kinh viết về DTTS và miền núi. Không thể phủ nhận một
điều, đóng góp của những nhà văn người Kinh đối với văn học DTTS là rất lớn và có
ý nghĩa, khơng những về chất lượng mà cả về số lượng. Mặc dù vậy, họ chưa thể có
được sự hịa nhập hồn tồn giữa chủ thể sáng tạo và đới tượng miêu tả như các nhà
văn DTTS viết về con người, cuộc sớng của dân tợc mình. Đây chính là điểm khác
nhau cơ bản giữa một tác phẩm người Kinh viết về miền núi và tác giả người DTTS
viết về vùng đất của dân tợc mình. Khơng được tắm mình trong dịng chảy của trùn
thớng văn hóa dân tợc, khơng có những kỉ niệm “máu thịt” thấm đượm tâm hờn dân
tợc thì khơng thể có tác phẩm mang được bản sắc dân tợc đó. Vì thế, trong q trình
nghiên cứu, chúng tơi tập trung nghiên cứu 26 truyện ngắn của các nhà văn DTTS
Việt Nam in trong cuốn Văn xuôi dân tộc và miền núi đầu thế kỷ XXI do Hội văn
học nghệ thuật các DTTS Việt Nam biên soạn, Nxb Văn hóa dân tợc, 2011. Ngồi ra,
chúng tơi cịn nghiên cứu các tập truyện của một số nhà văn tiêu biểu như Cao Duy
Sơn, Hà Thị Cẩm Anh, Bùi Thị Như Lan, Nông Quốc lập, H’Linh Niê…
+ Bên cạnh đó, ở mợt mức đợ nhất định, chúng tơi có sự so sánh với các sáng
tác của các nhà văn DTTS ở chặng trước để thấy được sự biến chuyển trong cách cảm
nhận và thể hiện đời sống của nhà văn từ góc nhìn văn hóa.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu cơ bản sau đây:
- Phương pháp khảo sát, thống kê, hệ thống: Chúng tôi vận dụng phương pháp
này để thẩm định, đánh giá mợt cách tồn diện, đầy đủ, khoa học và chính xác các
đặc điểm về nội dung và nghệ thuật các truyện ngắn DTTS Việt Nam đầu thế kỉ XXI

dưới góc nhìn văn hóa.

7


- Phương pháp so sánh, đới chiếu: Trong q trình thực hiện đề tài, chúng tơi
sưu tầm, tìm hiểu thêm tư liệu về các truyện ngắn DTTS Việt Nam thế kỉ XX để đới
chiếu nhằm tìm ra những nét đặc sắc, bước phát triển của truyện ngắn DTTS đầu thế
kỉ XXI. Đồng thời, chúng tôi cũng có sự so sánh, đối chiếu các truyện ngắn DTTS
theo các vùng miền để tìm ra nét riêng, cá tính sáng tạo của các tác phẩm từ góc nhìn
văn hóa.
- Phương pháp nghiên cứu tác phẩm theo đặc trưng thể loại: Phương pháp này
chúng tơi sử dụng để phân tích các trụn ngắn DTTS Việt Nam đầu thế kỉ XXI theo
đúng đặc trưng của thể loại truyện ngắn ở phương diện nội dung và nghệ thuật.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Luận văn tập trung nghiên cứu truyện
ngắn DTTS Việt Nam đầu thế kỉ XXI từ góc nhìn văn hóa, vì vậy chúng tôi vận dụng
phương pháp nghiên cứu liên ngành giữa tác phẩm văn học với các ngành khác như
lịch sử, địa lý, văn hóa để đánh giá mợt cách tồn diện, đầy đủ về các truyện ngắn
DTTS đầu thế kỉ XXI.
- Phương pháp tiếp cận từ góc độ lịch sử văn học: Chúng tôi vận dụng phương
pháp này để bước đầu khái qt q trình vận đợng và phát triển của các truyện ngắn
DTTS Việt Nam đầu thế kỉ XXI trong dịng chảy chung của văn học DTTS nói riêng
và văn học hiện đại Việt Nam nói chung.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu mợt cách tương đới tồn diện, có hệ
thớng về truyện ngắn DTTS Việt Nam đầu thế kỷ XXI từ góc nhìn văn hóa. Ḷn văn
góp thêm cái nhìn mới khẳng định phương diện văn hóa trong truyện ngắn DTTS đầu thế
kỷ XXI, khẳng định những thành tựu đặc sắc và đóng góp cơ bản của các nhà văn DTTS
đối với nền văn học Việt Nam hiện đại. Đồng thời cũng đặt ra những vấn đề cịn tờn tại
và u cầu phát triển của truyện ngắn DTTS đầu thế kỷ XXI.

- Luận văn có ý nghĩa thực tiễn, nhất là đặt trong bối cảnh hội nhập văn hóa toàn
cầu hiện nay nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa đang mở ra nhiều triển vọng mới
mẻ cho cách tiếp cận văn chương. Nghiên cứu truyện ngắn DTTS Việt Nam đầu thế kỷ
XXI từ góc nhìn văn hóa, một lần nữa, chúng tôi cũng góp phần khẳng định khuynh
hướng nghiên cứu này. Luận văn cũng có những đóng góp nhất định vào vấn đề giữ gìn
và phát huy giá trị văn hóa dân tộc.

8


7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận và tài liệu tham khảo, phần nội dung của luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề liên quan đến đề tài.
Chương 2: Văn hóa miền núi trong truyện ngắn dân tộc thiểu số Việt Nam đầu thế
kỷ XXI
Chương 3: Nghệ thuật thể hiện văn hóa miền núi trong truyện ngắn dân tộc thiểu
số Việt Nam đầu thế kỷ XXI.

9


NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lý luận của đề tài
1.1.1. Khái niệm về “văn hoá” và “văn học”
* Khái niệm “văn hoá”
Văn hoá là mợt khái niệm rất phức tạp. Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về văn
hóa tùy theo góc độ của người nghiên cứu muốn nhấn mạnh phương diện nào. Cho đến

nay, chưa có một định nghĩa thống nhất về văn hoá. Theo UNESCO, trên thế giới hiện
nay có khoảng hơn 400 định nghĩa về văn hoá. Theo từng góc đợ tiếp cận, có định nghĩa
x́t phát từ bình diện lịch sử, chính trị, xã hợi, có định nghĩa xuất phát từ những đặc
trưng, chức năng, cấu trúc… Tuỳ theo mỗi lĩnh vực, mỗi chuyên ngành nghiên cứu mà
các nhà khoa học lại có mợt cách định nghĩa khác nhau. Điều này đã tạo nên sự phong
phú cho khái niệm Văn hoá.
Bản thân từ văn hóa được dùng ở một số nước phương Đông hiện nay là một từ
của người Nhật dịch từ “culture” trong ngôn ngữ phương Tây. Theo các nhà ngôn
ngữ học phương Tây, Văn hoá (culture) - với tư cách là một danh từ độc lập - chỉ bắt
đầu được sử dụng vào cuối thế kỷ XVII. Người đầu tiên đưa thuật ngữ “culture” vào
khoa học là nhà nghiên cứu pháp luật người Đức S.Pufendorf (1632-1694). Ông đã sử
dụng thuật ngữ này để khẳng định việc giáo dục bồi dưỡng tâm hồn con người là vô
cùng quan trọng, giúp cho con người hoàn thiện, tiếp thu những cái đẹp, loại trừ
những cái xấu, làm cho tâm hồn con người phát triển. Sang thế kỷ XIX, văn hóa đã
thực sự trở thành đới tượng của việc nghiên cứu khoa học. Nó trở thành đới tượng
chủ ́u hoặc đối tượng quan trọng của các ngành khoa học như: dân tộc học, nhân
học văn hóa, văn hóa học, xã hội học văn hóa… Định nghĩa khoa học về văn hóa ra
đời sớm nhất ở châu Âu là định nghĩa của nhà nhân học văn hóa người Anh E. B.
Tylor đưa ra từ năm 1871 trong công trình nghiên cứu Văn hoá nguyên thuỷ xuất bản
năm 1881 tại Luân Đôn. Trong cuốn sách này, E.Tylor định nghĩa: “Từ văn hoá hay văn
minh, theo nghĩa rộng về tộc người học nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ
thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác được con

10


người chiếm lĩnh với tư cách một thành viên của xã hội”(Dẫn theo [61, tr.13]). Định
nghĩa này được nhiều nhà khoa học chấp nhận và sau đó, khi có những nhà khoa học đưa
ra những định nghĩa khác nhau thì nó vẫn được nhắc đến như một định nghĩa dùng để
tham khảo. Trong “Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa”, Tổ chức UNESCO cũng đã đưa

ra một định nghĩa khá đầy đủ về văn hoá mà theo chúng tôi đáng chú ý hơn cả: “Văn hoá
hơm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật chất, trí tuệ và
cảm xúc quyết định tính cách của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội. Văn hóa
bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người,
những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng. Văn hóa đem lại cho con người
khả năng soi xét về bản thân. Chính văn hóa đã làm cho chúng ta trở thành những sinh
vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lý. Chính nhờ
văn hóa mà chúng ta xét đoán được những giá trị và thực thi những sự lựa chọn. Chính
nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tìm tịi khơng biết mệt
những giá trị văn hóa mới mẻ và sáng tạo ra những cơng trình vượt trội lên bản thân”
[69, tr.5-6]. Như vậy, UNESCO đã nhìn nhận Văn hoá theo nghĩa rộng nhất của từ này.
Ở Việt Nam, văn hóa là cụm từ được nhắc đến nhiều nhất, nhưng thực sự vẫn
chưa có một khái niệm thống nhất theo cách hiểu cụ thể, mà vẫn đang tồn tại nhiều
lớp khái niệm với các tầng nghĩa khác nhau. Nhà nghiên cứu văn hóa Phan Ngọc đã
đưa ra một định nghĩa về văn hóa mang tính khái quát nhất: “Văn hoá là mối quan hệ
giữa thế giới biểu tượng trong óc một cá nhân hay một tộc người với cái thế giới thực
tại ít nhiều đã bị cá nhân này hay tộc người này mơ hình hố theo cái mơ hình
tồn tại trong biểu tượng. Điều biểu hiện rõ nhất chứng tỏ mối quan hệ này, đó là
văn hoá dưới hình thức dễ thấy nhất, biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng
của cá nhân hay tộc người, khác các kiểu lựa chọn của các cá nhân hay các tộc
người khác” [34, tr.20]. Nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm lại đưa ra một định nghĩa
khác về văn hóa dựa trên phương diên cấu trúc hệ thống và loại hình: “Văn hóa là
một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích
lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi
trường tự nhiên và xã hội” [61, tr.10].
Như vậy, căn cứ vào những định nghĩa về văn hóa trên, ta có thể hiểu khái quát:
Văn hóa là những giá trị vật chất và tinh thần do con người tạo ra trong quá trình

11



sống. Văn hóa được sáng tạo, lưu giữ và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Văn
hóa đồng thời mang những bản sắc riêng, đặc thù riêng để phân biệt giữa các dân tộc,
quốc gia.
* Khái niệm “văn học”
Văn học hiểu theo nghĩa rộng là thuật ngữ gọi chung mọi hành vi ngơn ngữ nói viết và các tác phẩm ngơn ngữ. Theo cách hiểu này thì các tác phẩm chính trị, triết
học, tơn giáo… cũng có thể được gọi chung là Văn học. Theo nghĩa hẹp mà ngày nay
chúng ta thường dùng thì khái niệm Văn học bao gồm các tác phẩm ngôn từ phản ánh
những vấn đề đời sống xã hội bằng hình tượng nghệ thuật. Như vậy khi hiểu Văn học
theo nghĩa hẹp, chúng ta đã loại ra ngồi các tác phẩm chính trị, triết học, tôn giáo.
Khái niệm Văn học có khi được dùng tương tự như khái niệm văn chương. Tuy nhiên,
khái niệm văn học thường có nghĩa rộng hơn khái niệm văn chương. Văn chương
thường chỉ nhấn mạnh vào tính thẩm mĩ, tính sáng tạo của văn học về phương diện
nghệ thuật ngơn từ.
Mỗi loại hình nghệ tḥt sử dụng những chất liệu khác nhau. Nếu âm nhạc lấy
chất liệu là âm thanh; hội họa là đường nét màu sắc… thì chất liệu đặc trưng của văn
học là ngôn ngữ. Nhưng ta có thể khẳng định rằng ngơn ngữ được sử dụng trong văn
học khơng phải là ngơn ngữ bình dân ta vẫn sử dụng hàng ngày trong sinh hoạt mà đó là
thứ ngôn ngữ đã được các nhà văn “tinh xảo, nhào luyện” từ ngôn ngữ đời thường để trở
thành thứ “ngơn ngữ biết nói”, giúp các nhà văn chuyển tải đến người đọc những thông
điệp cuộc sống đầy ý nghĩa. Mỗi nhà văn đều là những nhà sáng tạo ngôn ngữ khi biết
chắt lọc những ngôn từ trong cuộc sống thường ngày để tạo thành các ngôn từ nghệ
thuật. Sự “dụng công” đó tạo nên dấu ấn riêng của các nhà văn. Các tác giả trong cuốn
Từ điển văn học định nghĩa: “Văn học là loại hình nghệ thuật sáng tạo bằng ngôn từ.
Khái niệm văn học bao gồm cả văn học dân gian được sáng tác và lưu truyền bằng
miệng từ đời này sang đời khác và văn học viết được sáng tác và lưu truyền dưới
hình thức văn bản viết (…). Văn học là sự phản ánh của đời sống xã hội thể hiện
sự nhận thức và sáng tạo của con người(…) Văn học lấy con người làm đối tượng
nhận thức trung tâm. Văn học nhận thức con người với tồn bộ tính tổng hợp,
tồn vẹn, sống động trong các mối quan hệ đời sống phong phú và phức tạp của

nó trên phương diện thẩm mĩ” [41, tr.401-402].

12


Về bản chất văn học là mợt loại hình nghệ tḥt ngơn từ giàu tính nhạc, gợi cảm và
mang tính tạo hình cao. Văn học có khả năng phản ánh tất cả các phương diện của đời
sống, từ đời sống bình thường tới những thời kỳ giông tố, bão táp có tính bản lề của lịch
sử. Văn học phản ánh đời sớng xã hợi, con người và góp phần cải tạo và hồn thiện hơn
đời sớng trên nhiều phương diện, nhiều khía cạnh.
Tóm lại, văn học là mợt loại hình nghệ thuật đặc thù, góp phần tạo nên những giá
trị văn hóa riêng của mỗi dân tộc, quốc gia. Qua đó, văn học góp phần quan trọng thúc
đẩy sự tiến bợ đi lên của nhân loại trong tiến trình phát triển.
1.1.2. Mối quan hệ giữa văn hoá và văn học
Theo Trần Đình Sử thì “văn học có một vị trí khơng thể thiếu trong mỗi nền văn
hóa”, điều đó cho thấy giữa văn hóa và văn học có mới quan hệ khăng khít, gắn bó
mật thiết với nhau. Văn học cũng như triết học, tôn giáo, đạo đức… là một bộ phận
của văn hóa, chịu sự ảnh hưởng sâu sắc từ văn hóa. Mỗi q́c gia, dân tợc có nền văn
hóa khác nhau sẽ tạo nên dấu ấn văn học khác nhau. Nếu như văn hóa trong quá trình
hình thành và phát triển đã trải qua mợt chặng đường tìm kiếm, đấu tranh, sáng tạo
nên những giá trị văn hóa thì văn học chính là cơng cụ để lưu giữ những giá trị của
văn hóa không bị mai một hoặc mất đi theo thời gian, theo sự biến đổi của xã hội.
Điều này càng khẳng định văn học là tấm gương phản ánh văn hóa, biểu hiện văn hóa
bằng nghệ thuật ngôn từ. Nói như nhà nghiên cứu lý luận phê bình văn học Huỳnh
Như Phương: “Văn học là văn hoá lên tiếng bằng ngôn từ nghệ thuật”.
Ngày nay, văn hóa ngày càng phát triển mạnh mẽ và thâm nhập sâu vào nhiều
ngành khoa học xã hội và nhân văn, trong đó có văn học. Điều này đã khẳng định văn
hóa và văn học có sự gắn kết sâu sắc và không thể chia tách. Văn học là sự tự ý thức về
văn hóa. Văn học chịu ảnh hưởng trực tiếp từ môi trường văn hóa của một thời đại và
truyền thống văn hóa độc đáo của một dân tộc, nó thể hiện cả tâm lý văn hóa độc đáo

của một thời đại và một cộng đồng dân tộc, quốc gia. Cùng với hệ giá trị văn hóa mang
bản sắc riêng của một cộng đồng dân tộc, văn học đã tự giác tiếp nhận và thể hiện
những giá trị và bản sắc mà cả cộng đồng tôn trọng và tuân thủ theo. M. Bakhtin khẳng
định: “Văn học là một bộ phận không thể tách rời của văn hoá. Không thể hiểu nó ngồi
cái mạch ngun vẹn của tồn bộ văn hoá của một thời đại trong đó nó tồn tại” (Dẫn

13


theo [64, tr.362]). Mặt khác, nhà văn - chủ thể sáng tác là thành viên của một cộng đồng,
thuộc về một cộng đồng nhất định, cộng đồng đó có những giá trị văn hóa đặc thù. Chính
vì thế mà các nhà văn sẽ tiếp nhận những yếu tố văn hóa của cộng đồng mình, những
cách tư duy, tâm lý riêng của thời đại mình và thể hiện nó trong tác phẩm nghệ thuật.
Nhà văn dù có những dấu ấn sáng tạo riêng về vấn đề gì thì vẫn mang những yếu tố tâm
lý văn hóa độc đáo của dân tộc mình.
Khi tiếp cận một tác phẩm văn học, ta sẽ nhận thấy những dấu ấn văn hóa qua
sự tiếp nhận và phản ánh của nhà văn. Đó có thể là văn hóa nông nghiệp lúa nước của
người Việt qua các câu tục ngữ Việt Nam: “Cấy thưa thừa thóc, cấy dày cốc được
ăn”, “Mạ chiêm đào sâu chôn chặt, mạ mùa vừa đặt vừa đi”…; đó là những nét văn
hóa dân gian trong thơ Hồ Xuân Hương như trò chơi đánh đu, phong tục ăn
trầu…Bốn cột khen ai khéo khéo trồng/Người thì lên đánh kẻ ngồi trơng/Trai đu gối
hạc khom khom cật/ Gái uốn lưng cong ngửa ngửa lòng…; đó là những nét đẹp văn
hóa trùn thớng đã vang bóng một thời như thú thưởng trà, thư pháp,… trong tập
truyện “Vang bóng một thời” của ngịi bút tài hoa un bác Nguyễn Tuân; đó có thể
là sự biến thiên thay đổi của xã hội Việt Nam trong những năm sau 1975 trong
“Tướng về hưu” của Nguyễn Huy Thiệp; đó là những dấu ấn văn hóa đậm đà bản
sắc văn hóa các DTTS miền núi trong các sáng tác của Vi Hồng, Cao Duy Sơn, Hà
Thị Cẩm Anh… Những yếu tố văn hóa của thời đại, vùng miền đã chi phới, ảnh
hưởng sâu sắc đến các nhà văn từ việc lựa chọn đề tài, chủ đề, xây dựng nhân vật đến
các hình thức nghệ thuật. Để tiếp nhận được nét riêng về văn hóa trong tác phẩm,

người đọc cũng phải có những nhận thức nhất định về ́u tớ văn hóa của các dân tợc.
Và qua những nét văn hóa đó người đọc sẽ tăng cường vớn hiểu biết của mình về văn
hóa các cợng đờng.
Nếu như văn hóa chi phới hoạt đợng và sự phát triển của văn học thì ngược lại,
văn học cũng có những tác đợng nhất định tới văn hóa. Trước hết, văn học là nơi bảo
lưu những giá trị văn hố nhân loại. Có những giá trị văn hố từ lâu, nay đã khơng
cịn nữa mà người ta chỉ có thể biết đến nó trong các tác phẩm văn học. Văn học cịn
góp phần định hướng những giá trị văn hóa cho nhân loại, hướng mọi người đến
những giá trị văn hóa tớt đẹp, mang dấu ấn bản sắc riêng, là niềm tự hào của các dân

14


tợc. Các tác phẩm văn học tác đợng vào tình cảm, suy nghĩ của bạn đọc, qua đó điều
chỉnh lối sống, hành vi ứng xử của con người trong văn hóa cợng đờng như: tình u
thương đờng loại, niềm tự hào dân tộc…. Bên cạnh đó, các tác phẩm ngôn từ - văn
học đã lên án, phê phán, đấu tranh với những biểu hiện phản văn hóa, tác đợng xấu
đến đạo đức con người như sự xuống cấp về đạo đức của con người Việt Nam những
năm đầu thế kỷ XX trong sáng tác của Tú Xương… Văn học còn định hướng những
giá trị văn hóa mới.
Như vậy, văn hóa và văn học gắn bó hữu cơ mật thiết, chi phối, tác động lẫn
nhau. Một tác phẩm văn học là mợt sản phẩm văn hóa của thời đại, cợng đờng. Người
sáng tạo ra tác phẩm văn học là một nhà hoạt đợng văn hóa biết trao gửi những giá trị
văn hóa tớt đẹp đến người hưởng thụ văn hóa chính là người đọc, người tiếp nhận tác
phẩm văn học.
1.1.3. Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hố
Văn hóa và văn học có mới quan hệ chặt chẽ với nhau. Chính vì vậy, việc nghiên
cứu văn học trong mới quan hệ với văn hóa là một hướng đi cần thiết, quan trọng. Khi
tiếp cận một tác phẩm văn học các nhà nghiên cứu, bạn đọc có nhiều hướng tiếp cận
khác nhau từ phương diện thể loại, từ cái nhìn liên văn bản, từ góc độ thi pháp học

hay hướng tiếp cận phê bình sinh thái…. Trong đó, việc tiếp cận tác phẩm văn học từ
góc nhìn văn hóa đã thể hiện được hiệu quả của nó. Nghiên cứu văn học từ góc nhìn
văn hóa giúp chúng ta có khả năng khai thác sâu giá trị nội tại của tác phẩm, có cái
nhìn vừa bao qt, vừa sâu sắc, tồn diện đời sống văn hóa của cả cộng đồng dân tộc.
Những năm đầu thế kỷ XXI ở nước ta, hướng tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa
đã được nhiều học giả, nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu. Từ việc đưa ra những
quan điểm về mặt nhận thức, lí luận dựa theo lý thuyết phương Tây áp dụng vào thực
tiễn Việt Nam đến việc thực nghiệm trên một số tác phẩm của các tác gia tiêu biểu, giới
nghiên cứu đã tạo nên một bức tranh nghiên cứu văn hóa - văn học dưới sự soi rọi của
ánh sáng văn hóa. Ngày nay khi sự giao lưu tiếp xúc văn hóa ngày càng mạnh mẽ thì
việc tiếp cận tác phẩm văn học từ góc nhìn văn hóa đã “mở rộng phạm vi đề tài nghiên
cứu văn học, cho phép người ta nhìn văn học dưới nhiều góc độ mới đầy hứa hẹn” (Trần
Đình Sử).

15


Hướng nghiên cứu này chính là cách đặt tác phẩm văn học vào không gian văn
hóa đã chi phối, tác động đến tác phẩm văn học ấy. Mỗi một dân tợc, q́c gia đều có
những phơng nền văn hóa đặc trưng mang bản sắc riêng thể hiện được sự hình thành,
phát triển tín ngưỡng, tâm lý của dân tộc đó. Chính nền văn hóa dân tộc là mảnh đất
ươm mầm, nuôi dưỡng tâm hồn của các nhà văn để rồi nó chi phới, ảnh hưởng sâu sắc
đến thế giới nghệ thuật, cũng như ngôn từ trong các sáng tác văn học mà các nhà văn
tạo ra. Điều này tạo nên sức sống lâu bền của tác phẩm, trở thành món ăn tinh thần vô
giá, là màu sắc văn hóa riêng biệt không thể trộn lẫn giữa các dân tộc, nhà văn. Khi
nghiên cứu một tác phẩm văn học cần phải thơng qua văn hóa, tái hiện lại khơng gian
văn hóa trong đó tác phẩm ra đời, chú ý tới sự chi phối của các quan niệm triết học,
tôn giáo, đạo đức, chính trị, thẩm mĩ, quan niệm về con người, các phương diện trong
đời sống xã hội của thời đại. Hướng tiếp cận văn học từ văn hóa sẽ đưa đến cách tiếp
cận văn bản mợt cách tồn diện, giúp chúng ta nắm được ý nghĩa đích thực của tác

phẩm văn học.
Nghiên cứu văn học dưới góc nhìn văn hoá là hướng tiếp cận ngày càng được chú
trọng và mở rợng phát triển theo nhiều hướng tìm hiểu khác nhau. Có hướng nghiên
cứu nhằm nhận diện và miêu tả các biểu hiện văn hóa có trong các tác phẩm văn học;
cũng có hướng nghiên cứu thiên về giải mã các hình tượng nghệ thuật, tìm ra nền tảng
văn hoá lịch sử của chúng; lại có hướng nghiên cứu trên phương diện ngôn ngữ của các
văn bản nghệ thuật, đi tìm hiểu nghĩa và cơ chế kiến tạo nghĩa của nội dung / hình thức
của các tác phẩm văn học từ bối cảnh văn hóa - xã hội…
Năm 1994, trong cuốn sách Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, tác giả Phan
Ngọc cũng đã đưa ra những quan điểm về văn hóa, “cách tiếp cận văn hóa trong văn
học, gợi mở nhiều hướng nghiên cứu khác nhau cho các học giả sau này”. Nhà nghiên
cứu Trần Nho Thìn trong Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa đã có
mợt bước tiến mới khi đưa ra quan điểm nghiên cứu văn học trung đại từ những phạm trù
cơ bản của văn hóa trung đại để tránh hiện đại hóa văn học dân tợc. Ơng cũng đã đề cập
đến một số bài viết thành công theo hướng tiếp cận này của Hoài Thanh và Trần Đình
Hượu “Hoài Thanh đã chọn cách so sánh thơ mới với thơ cũ trên nền của sự thay đổi
văn hoá do cuộc tiếp xúc văn hoá Đơng - Tây… Trần Đình Hượu lại chọn cách đọc văn

16


học trung đại trên cơ sở phân tích ảnh hưởng của tư tưởng triết học - đạo đức - thẩm mĩ
của Nho giáo” [62, tr.11]. Càng về sau càng có nhiều những cơng trình nghiên cứu về
văn học trong mới quan hệ với văn hoá theo nhiều cách tiếp cận khác nhau.
Tóm lại, văn học ln có mới quan hệ chặt chẽ với các lĩnh vực khác nhau của
văn hóa. Nhà văn là một nhà hoạt động văn hóa, tác phẩm văn học là một sản phẩm
văn hóa và người đọc chính là người hưởng thụ những giá trị văn hóa. Hướng tiếp
cận văn học từ văn hóa là hướng tiếp cận đưa đến cái nhìn tổng thể, tồn diện cho các
tác phẩm văn học.
1.2. Khái quát về văn xuôi dân tộc thiểu số Việt Nam đầu thế kỷ XXI

1.2.1. Khái quát chung về văn xuôi dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại
Văn xuôi các DTTS Việt Nam hiện đại mới bắt đầu hình thành và phát triển
cách đây không phải là thời gian quá dài, mới chừng trên 70 năm kể từ sau khi Cách
mạng tháng Tám năm 1945 thành công. Khi mà văn xuôi Quốc ngữ đã phát triển mau
chóng thì văn xuôi DTTS Việt Nam mới bắt đầu có những bước đi “chập chững” đầu
tiên. Phải đến những năm cuối thế kỷ XX văn xuôi DTTS Việt Nam mới có những
bước chuyển mình mạnh mẽ, đạt được nhiều thành tựu nổi bật.
Thơ ca của văn học các DTTS là thể loại ra đời sớm hơn và đạt được một số
thành tựu đáng ghi nhận với những cây bút tiêu biểu như: Nông Quốc Chấn, Bàn Tài
Đoàn… Nhưng hiện thực cuộc sống vùng cao ngày càng phong phú, phức tạp, mà thơ
ca với độ hàm súc cao không đủ khả năng phản ánh hết mọi khía cạnh phức tạp đó
nên văn xuôi - loại hình nghệ thuật mang tính tự sự cao - đã ra đời để đáp ứng nhu
cầu văn hóa của quần chúng nhân dân. Văn xuôi các DTTS được đánh dấu bằng sự
xuất hiện của thể loại truyện ngắn. Tác phẩm Cuộc đời của Đoàn (1980) của Bàn Tài
Đoàn ra đời báo hiệu về nhu cầu sử dụng văn xuôi để mở rộng khả năng phản ánh.
Cột mốc quan trọng đánh dấu sự hình thành và phát triển thực sự của thể loại truyện
ngắn DTTS chính là tác phẩm Ché Mèn được đi họp của Nông Minh Châu viết năm
1958. Trong giai đoạn năm 1950 - 1960 xuất hiện hàng loạt các tập truyện ngắn
Bên bờ suối tiên của Triều Ân, Cuộn chỉ màu hột đỗ, Học chữ của Lâm Ngọc Thụ,
Chuyện Anh Thượng của Nông Minh Châu, Nước suối tiên đào của Vi
Hồng…Truyện ngắn phát triển mạnh vào cuối những năm 60 và giai đoạn 1970 -

17


1980. Các truyện ngắn dù còn non nớt, có nhiều dấu vết vụng về song đã thể hiện
được những nét riêng của các tác giả. Nhờ có sự quan tâm của Đảng mà tuyển tập của
nhiều tác giả hoặc của riêng từng tác giả đã ra đời: Tiếng hát rừng xa (1969) của
Hoàng Hạc - Triều Ân, Mây tan (1973, nhiều tác giả), Đoạn đường ngoặt (1973) của
Nông Viết Toại, Tiếng chim gô (1979) của Nông Minh Châu, Niềm vui (1979) của Vi

Thị Kim Bình, Tiếng khèn A Pá (1980) của Triều Ân, Những bơng hoa ban tím
(1982) của Sa Phong Ba… Sang những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI văn xuôi
DTTS phát triển khá mạnh mẽ. Các tác giả người DTTS đông đảo hơn và thành tựu
sáng tác cũng rực rỡ hơn: Cao Duy Sơn (các tập trụn Những đám mây hình người 2002, Ngơi nhà xưa bên suối - 2007); Bùi Thị Như Lan (các tập truyện Hoa mía 2006, Lời sli vắt ngang núi - 2007, Tiếng kèn Pí Lè - 2014); H’linh Niê (Êđê) với các
tập truyện Con rắn màu xanh da trời (1997), Gió đỏ (2004), Pơ Thi mênh mang mùa
gió (2009); Hà Thị Cẩm Anh (Mường) với Bài xường ru từ núi (2004), Mưa bụi
(2008), Một nửa của người đàn bà (2013);Nông Quốc Lập (các tập truyện Cánh cổng
thiên đường - 2007, Chiếc vịng tay kì lạ - 2015)...
Tiểu thút là thể loại ra đời muộn hơn truyện ngắn. Sáu năm sau khi truyện
ngắn đầu tiên xuất hiện thì thể loại tiểu thuyết mới bắt đầu sự hình thành của mình.
Nhà nghiên cứu Lâm Tiến nhận định: Tiểu thuyết Muối lên rừng của Nông Minh
Châu ra đời năm 1964 là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của văn xuôi DTTS. Nếu như
truyện ngắn phát triển liên tục với “những vụ mùa bội thu” thì tiểu thuyết lại “đi”
chậm hơn. Phải chăng do tiểu thuyết là thể loại tự sự cỡ lớn, cần phải có vốn sống
phong phú, khả năng tổng hợp cao nên các nhà văn dân tộc thiểu số gặp phải những
khó khăn nhất định trong quá trình sáng tác. Bước phát triển của tiểu thuyết trong
những năm 80- 90 của thế kỷ XX gắn liền với tên tuổi của Vi Hồng với 14 cuốn tiểu
thuyết: Đất bằng (1980), Núi cỏ yêu thương (1984), Thung lũng đã rơi (1985), Vào
hang (1990), Người trong ống (1990), Gã ngược đời (1990), Lòng dạ đàn bà
(1992), Dịng sơng nước mắt (1993), Ái tình và kẻ hành khất (1993), Tháng năm
biết nói (1993)… Ngoài ra, còn phải kể đến sự góp mặt của Ma Trường Nguyên với
Mũi tên ám khói (1991), Gió hoang (1992), Hoàng Thị Cành với Làm dâu (1992),
Cướp chồng (1992). Sang đến thế kỷ XXI, tiểu thuyết phải kể đến tên tuổi của Cao

18


Duy Sơn như Người lang thang (2005), Đàn trời (2006). Cao Duy Sơn đã khắc phục
được một số hạn chế trong nghệ thuật viết tiểu thuyết trước đó khi nhà văn chú ý
miêu tả nhân vật với một sự tự ý thức và sáng tạo được những nhân vật có cá tính

riêng biệt.
Thời kỳ này các nhà văn DTTS đã có sự trưởng thành vượt bậc, nâng cao chất
lượng nghệ thuật các tác phẩm. Các tác phẩm ra đời thực sự là những món ăn tinh
thần đối với bạn đọc khi đi sâu vào khám phá bức tranh thổ cẩm khảm kết nhiều sắc
màu của đồng bào DTTS Việt Nam trong thời kỳ hiện đại. Nội dung chủ yếu của các
tác phẩm văn xuôi DTTS Việt Nam hiện đại là phản ánh sinh động và chân thực cuộc
sống của đồng bào các DTTS vùng cao trong những giai đoạn lịch sử của đất nước.
Trước năm 1975, văn xuôi DTTS chủ yếu tập trung phản ánh cuộc đấu tranh cứu
quốc vĩ đại của dân tộc, có nhiệm vụ tuyên truyền cách mạng, ca ngợi quê hương, đất
nước, con người mới. Đến nay biên độ sáng tác đã mở rộng hơn. Văn xuôi dân tộc
thiểu số đã từng bước bắt nhịp vào đời sống của đất nước, ca ngợi cái mới, cái tốt
đẹp, đồng thời cũng phê phán cái xấu, cái lạc hậu, đi sâu miêu tả con người miền núi
với những số phận mới, khát vọng mới, phản ánh mối quan hệ phức tạp giữa con
người với con người và những xung đột giữa con người với thiên nhiên.
Về nghệ thuật bên cạnh những tìm tòi thể nghiệm của một số cây bút như
Inrasara, Cao Duy Sơn, Bùi Thị Như Lan… thì hầu hết các sáng tác văn xi DTTS
vẫn mang đậm dấu ấn của văn học dân gian truyền thống. Ngôn ngữ thường mang đậm
dấu ấn của tư duy trực giác, cảm tính. Nhân vật trong văn xuôi của các nhà văn dân tộc
thiểu số lúc đầu khá đơn giản, sơ lược, công thức nhưng dần dần đã được chú ý khai
thác ở đời sống nội tâm, xuất hiện những nhân vật đa diện. Cốt truyện được sắp xếp
theo trật tự tuyến tính và kết thúc thường có hậu. Tuy nhiên, cũng có nhiều nhà văn đã
sáng tạo cốt truyện đảo ngược và kết thúc mở. Có thể khẳng định văn xuôi DTTS đã
phản ánh phần nào những vẻ đẹp độc đáo, đa dạng trong hiện thực cuộc sống của mỗi
cộng đồng DTTS Việt Nam.
Cho tới nay, nhiều dân tộc thiểu số vẫn chưa có mặt trong cuốn biên niên sử của
văn học Việt Nam hiện đại. Văn xuôi DTTS đã có sự biến chuyển nhưng chưa thực
sự mạnh mẽ so với văn học hiện đại cả về tầm vóc lẫn số lượng, vẫn còn thiếu những

19



×