Câu 1. Tại sao nói sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam tháng
2/1930 là sự phát triển biện chứng của cách mạng?
Bài làm
Lịch sử dân tộc Việt Nam, kể từ khi có Đảng là những trang sử hào hung
nhất, oanh liệt nhất và vẻ vang nhất. Kể từ khi có Đảng, nhân dân ta đã thốt
khỏi ách nơ lệ đứng lên làm chủ đất nước từ thắng lợi của Cách mạng Tháng
Tám năm 1945, lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hồ; tiếp đó là thành cơng
của công cuộc đổi mới đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đã và
đang khẳng định được uy tín ngày càng vững chắc trên trường quốc tế.
Từ bối cảnh quốc tế:
Cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh
sang chủ nghĩa đế quốc. Các nước tư bản đế quốc thực hiện chính sách: bên
trong tăng cường bóc lột nhân dân lao động, bên ngoài gia tăng các hoạt động
xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị của chủ nghĩa
đế quốc làm đời sống nhân dân lao động trên thế giới trở nên cùng cực. Mâu
thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt.
Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc
địa.
Năm 1917, với thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, chủ nghĩa Mác
-Lênin từ lý luận đã trở thành hiện thực, mở ra một thời đại mới trong lịch sử
loài người; là ánh sáng soi đường cho các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Tháng 3 năm 1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) ra đời đã thúc đẩy sự
phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế "Lần đầu tiên
trong lịch sử, quốc tế Cộng sản đã chỉ rõ sự đoàn kết tất yếu, liên minh chiến
đấu giữa giai cấp vô sản và các dân tộc thuộc địa đang rên xiết dưới ách thống
trị thực dân". Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trị quan trọng trong
việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đến yêu cầu của sự lãnh đạo cách mạng trong nước:
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam và từng bước thiết lập bộ
máy thống trị, biến nước ta từ một quốc gia phong kiến thành “một xứ thuộc địa,
dân ta là vong quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác”.
Chính sách thống trị của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có nhiều
thay đổi.
Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị thực dân, tước bỏ
quyền lực đối nội, đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn, đó là một
chính sách chun chế điển hình, chúng đàn áp đẫm máu các phong trào và
hành động yêu nước của người Việt Nam, mọi quyền tự do bị cấm. Chúng chia
rẽ ba nước Đông Dương, chia Việt Nam thành ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam
Kỳ) và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng.
Về kinh tế, thực dân Pháp cấu kết với giai cấp địa chủ để thực hiện chính
sách bóc lột tàn bạo, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; ra sức vơ vét tài
nguyên, cùng nhiều hình thức thuế khóa nặng nề, vơ lý; xây dựng một số cơ sở
công nghiệp, hệ thống đường giao thơng, bến cảng phục vụ chính sách khai thác
thuộc địa.
Về văn hóa, thực dân Pháp tiến hành chính sách ngu dân, chúng bưng bít,
ngăn cản ảnh hưởng của văn hóa tiến bộ trên thế giới, khuyến khích văn hóa độc
hại, xuyên tạc lịch sử, giá trị văn hóa Việt Nam và dung túng, duy trì các hủ tục
lạc hậu.
Sự phân hóa giai cấp và mâu thuẫn xã hội diễn ra ngày càng gay gắt
Phần lớn giai cấp địa chủ cấu kết với thực dân Pháp ra sức bóc lột nơng
dân; một bộ phận địa chủ có lịng u nước, đã tham gia đấu tranh chống Pháp
dưới các hình thức và mức độ khác nhau. Các giai cấp, tầng lớp khác trong xã
hội Việt Nam đều mang thân phận người dân mất nước và đều bị thực dân áp
bức, bóc lột, chèn ép nên đều căm phẫn thực dân Pháp. Do đó, mẫu thuẫn cơ
bản trong xã hội Việt Nam lúc này, không chỉ là mâu thuẫn giữa nhân dân, chủ
yếu là nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến, mà đã nảy sinh mâu thuẫn
ngày càng gay gắt giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm
lược.
Các cuộc khởi nghĩa và phong trào đấu tranh của quần chúng chống
thực dân Pháp xâm lược diễn ra mạnh mẽ nhưng đều bị thất bại, xã hội Việt
Nam rơi vào khủng hoảng về đường lối cách mạng
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các cuộc khởi nghĩa và các phong
trào đấu tranh của nhân dân ta diễn ra liên tục và mạnh mẽ. Tuy nhiên do thiếu
đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó
đã lần lượt thất bại. Phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến như phong
trào Cần Vương đã chấm dứt với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Hương Khê do
Phan Đình Phùng lãnh đạo (1896); phong trào nông dân Yên Thế của Hồng
Hoa Thám kéo dài 30 năm cũng khơng giành được thắng lợi. Phong trào yêu
nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh, Lương Văn Can lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái
do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại,… Cách mạng Việt Nam chìm
trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
Trước 1930, phong trào yêu nước ở Việt Nam nổ ra mạnh mẽ nhưng đều
bị thất bại, do bị khủng hoảng về đường lối cách mạng. Tình hình đó đặt ra u
cầu phải có Đảng của giai cấp tiên tiến nhất để lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Từ 1919 -1929, thông qua hoạt động của Nguyễn Ái Quốc đã chuẩn bị về
tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự thành lập Đảng. Nguyễn Ái Quốc đã ra sức
tuyên truyền chủ nghĩa Mác- Lê nin vào Việt Nam, chuẩn bị về tư tưởng chính
trị. Thành lập hội Việt Nam cách mạng thanh niên để thông qua tổ chức này
truyền bá chủ nghĩa Mác-Lê nin vào Việt Nam.
Những năm 1928 – 1929, chủ nghĩa Mác – Lê nin được truyền bá sâu
rộng vào Việt Nam, làm cho phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát
triển mạnh mẽ. Một yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải có đảng của gia cấp vơ sản
lãnh đạo. Đáp ứng yêu cầu đó ở Vịêt Nam lần lượt xuất hiện ba tổ chức cộng
sản. Sự hoạt động riêng rẽ của ba tổ chức cộng sản gây ảnh hưởng không tốt
đến tiến trình cách mạng Việt Nam.
Cuối năm 1929, những người cách mạng Việt Nam trong các tổ chức
cộng sản đã nhận thức được sự cần thiết và cấp bách phải thành lập một Đảng
cộng sản thống nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào cộng sản ở Việt
Nam. Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức và chủ trì hội nghị hợp nhất Đảng tại Hương
Cảng, Trung Quốc từ ngày 6-1 đến ngày 7-2-1930. Hội nghị đã quyết định hợp
nhất 3 tổ chức Đảng (Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng,
Đơng Dương Cộng sản Liên đồn) thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị
thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình
tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng. Vì vậy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
III của Đảng đã quyết nghị lấy ngày 3-2 hàng năm làm ngày kỷ niệm thành lập
Đảng. Hội nghị hợp nhất các tổ chức Đảng cộng sản ở Việt Nam thành một
Đảng Cộng sản duy nhất, theo một đường lối chính trị đúng đắn đã tạo nên sự
thống nhất về tư tưởng, chính trị và hành động của phong trào cách mạng trong
cả nước, hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Vì vậy có thể nói rằng sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam tháng
2/1930 là sự phát triển biện chứng của cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, là sự
khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng
Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta. Sự
ra đời của Đảng là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam. Chủ tịch Hồ
Chí Minh là hiện thân trọn vẹn nhất cho sự kết hợp đó, là tiêu biểu sáng ngời
cho sự kết hợp giai cấp và dân tộc, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc với chủ
nghĩa xã hội.
Việc thành lập Đảng là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử công nhân và của
cách mạng Việt Nam, chứng tỏ giai cấp vô sản nước ta trưởng thành và đủ sức
lãnh đạo cách mạng, chấm dứt thời kì khủng hoảng về vai trị lãnh đạo và đường
lối trong phong trào cách mạng Việt Nam. Từ đây, cách mạng Việt Nam đã
thuộc quyền lãnh đạo tuyệt đối của giai cấp công nhân mà đội tiên phong là
Đảng cộng sản.
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi ra đời,
Đảng đã có Cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường cách mạng là
giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vơ sản, chính là cơ sở để
Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào
cách mạng Việt Nam; giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường lối cách
mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra con đường
và phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam. Chính đường lối này là
cơ sở đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn
dân tộc cùng chung tư tưởng và hành động để tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại
giành những thắng lợi to lớn sau này. Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết định
phương hướng phát triển, bước đi của cách mạng Việt Nam trong suốt 90 năm
qua.
Câu 2. Phân tích vai trị của Đảng trong kháng chiến chống
thực dân Pháp ( 1945- 1954).
Bài làm:
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ra đời, đã tác động, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng
dân tộc của các nước thuộc địa; làm cho các thế lực đế quốc và bọn phản động
quốc tế hết sức lo sợ, tìm mọi cách chống phá hịng thủ tiêu Nhà nước cơng
nơng đầu tiên ở Đơng Nam Á. Thực tế, chính quyền cách mạng non trẻ của ta đã
phải đối phó với mn vàn khó khăn, đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi
tóc”. Bên trong, “giặc đói”, “giặc dốt”, giặc nội phản hoành hành, bên ngoài,
giặc ngoại xâm liên tục tấn cơng, hịng tiêu diệt chính quyền vừa thành lập.
Với dã tâm cướp nước ta một lần nữa, ngày 23-9-1945 được sự giúp đỡ
của quân Anh, thực dân Pháp nổ súng gây hấn ở Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến
tranh xâm lược Đông Dương lần thứ hai, rồi mở rộng đánh chiếm Nam bộ và
Nam Trung bộ, tìm cách đưa quân ra Bắc bộ, đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn,
Hải Dương, gây nhiều vụ xung đột, khiêu khích ở Hà Nội.
Trước tình hình đó, cùng với việc củng cố chính quyền, bài trừ nội phản,
cải thiện đời sống nhân dân, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm các
biện pháp đấu tranh mềm dẻo nhằm duy trì hịa bình, giữ vững độc lập dân tộc,
thống nhất Tổ quốc. Để tranh thủ thời gian củng cố lực lượng cách mạng, tránh
phải đối phó với nhiều kẻ thù, khi thì chúng ta tạm thời hịa hỗn với qn
Tưởng Giới Thạch, để rảnh tay đối phó với qn Pháp, khi thì tạm thời hịa hỗn
với Pháp để đuổi qn Tưởng và bọn tay sai ra khỏi đất nước.
Chúng ta đã chủ động đàm phán với Pháp để tránh cuộc chiến tranh, giữ
hịa bình cho cả hai dân tộc, rồi ký Hiệp định sơ bộ ngày 6-3-1946, sau đó ký
Tạm ước ngày 14-9-1946. Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn gửi thư tới nguyên thủ các
nước Anh, Mỹ, Liên Xô và các thành viên của Liên hiệp quốc, nêu rõ thiện chí
hịa bình, mong mỏi Liên hiệp quốc chấp nhận những yêu cầu chính đáng của
Việt Nam để duy trì hịa bình. Đồng thời, Người liên tục gửi thư cho Chính phủ,
Quốc hội, Thủ tướng Pháp và cử phái viên đến gặp người cầm đầu Pháp ở Đơng
Dương, tìm cách cứu vãn hịa bình, tránh cuộc chiến tranh đổ máu. Nhưng giới
cầm quyền thực dân đã khước từ mọi nỗ lực cứu vãn hịa bình của chúng ta.
Chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới. Bất chấp những
thiện chí hịa bình của Việt Nam, trong các ngày 15 và 16-12-1946, quân Pháp
nổ súng gây hấn nhiều nơi ở Hà Nội. Ngày 17-12-1946, chúng cho xe phá các
công sự của ta ở phố Lò Đúc, rồi gây ra vụ tàn sát đẫm máu ở phố Hàng Bún và
phố Yên Ninh. Ngày 18-12-1946, tướng Morlière gửi cho ta hai tối hậu thư địi
chiếm đóng Sở Tài chính, địi ta phải phá bỏ mọi cơng sự và chướng ngại trên
các đường phố, địi để cho chúng làm nhiệm vụ giữ gìn trị an ở Hà Nội. Chúng
tuyên bố nếu các yêu cầu đó khơng được Chính phủ Việt Nam chấp nhận thì
qn Pháp sẽ chuyển sang hành động chậm nhất là sáng ngày 20-12-1946. Tình
thế đó buộc Đảng, Chính phủ và nhân dân ta khơng có lựa chọn nào khác là cầm
vũ khí đứng lên chiến đấu toàn quốc để bảo vệ độc lập dân tộc.Chủ tịch Hồ Chí
Minh ra “lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” quyết tâm chống thực dân pháp
xâm lược, bảo vệ tổ quốc. Ngày 18 và 19-12-1946, tại Vạn Phúc, Hà Đông (nay
thuộc Hà Nội), Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng do Hồ Chủ tịch
chủ trì, đề ra đường lối, quyết định cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược.
Vai trò của Đảng được thể hiện rõ qua việc xây dựng đường lối
kháng chiến chống Pháp,cũng như xây dựng chế độ dân chủ nhân dân
trong giai đoạn này:
Về đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp 1946-1954 của Đảng
được hình thành, bổ sung, hoàn chỉnh qua thực tiễn. Trung ương Đảng và Hồ
Chí Minh đã chỉ đạo kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị với ngoại giao để làm
thất bại âm mưu của Pháp định tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam.
Thường vụ Trung ương Đảng mở Hội nghị Quân sự toàn quốc lần thứ
nhất diễn ra vào ngày 19-10-1946 do Tổng Bí thư Trường Chinh chủ trì. Hội
nghị đề ra nhận định “ Khơng sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng
nhất định phải đánh Pháp”. Cũng tại hội nghị Đảng ta đã đề ra những biện pháp,
chủ trương cụ thể cả về tổ chức và tư tưởng. Hồ Chí Minh đã nêu lên chỉ thị
Cơng việc khẩn cấp bây giờ (5-11-1946) những việc có tầm toàn cục khi bước
vào cuộc kháng chiến toàn cục và khẳng định lòng tin vào thắng lợi cuối cùng.
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp 1946-1954 được thể hiện tập
trung trong ba văn kiện lớn. Các văn bản này bao gồm văn kiện Toàn dân
kháng chiến của Trung ương Đảng (12-12-1946); Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến của Hồ Chí Minh (19-12-1946); tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng
lợi của Trường Chinh.
Nội dung đường lối:
- Mục đích kháng chiến: kế tục và phát triển sự nghiệp Cách mạng Tháng
Tám, “đánh phản động thực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất và độc lập”.
- Tính chất kháng chiến: trường kì kháng chiến, tồn diện kháng chiến.
- Nhiệm vụ kháng chiến: “Cuộc kháng chiến này chính là một cuộc chiến
tranh cách mạng có tính chất dân tộc độc lập và dân chủ tự do…nhằm hồn
thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc và phát triển dân chủ mới”.
- Phương châm tiến hành kháng chiến: tiến hành cuộc chiến tranh nhân
dân, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là
chính.
+ Kháng chiến tồn dân: “Bất kì đàn ông, đàn bà không chia tôn giáo,
đảng phái, dân tộc, bất kì người già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam phải đứng
lên đánh thực dân Pháp”, thực hiện mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng
xóm là một pháo đài.
+ Kháng chiến toàn diện: đánh địch về mọi mặt chính trị, qn sự, kinh
tế, văn hóa, ngoại giao. Trong đó:
Về chính trị: thực hiện đồn kết tồn dân, tăng cường xây dựng Đảng,
chính quyền, các đồn thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc u
chuộng tự do, hịa bình.
Về qn sự: thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân, tiêu diệt địch, giải phóng nhân dân và đất đai, thực hiện du kích
chiến tiến lên vận động chiến, đánh chính quy, là “triệt để dùng du kích, vận
động chiến. Bảo toàn thực lực, kháng chiến lâu dài… vừa đánh vừa võ trang
thêm; vừa đánh vừa đào tạo thêm cán bộ”.
Về kinh tế: tiêu thổ kháng chiến, xây dựng kinh tế tự cấp, tập trung phát
triển nền nông nghiệp, thủ cơng nghiệp, thương nghiệp và cơng nghiệp quốc
phịng.
Về văn hóa: xóa bỏ văn hóa thực dân phong kiến, xây dựng nền văn hóa
dân chủ theo ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng.
Về ngoại giao: thực hiện thêm bạn, bớt thù, biểu dương thực lực. “Liên
hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp”, sẵn sàng đàm phán
nếu Pháp công nhận Việt Nam độc lập,…
+ Kháng chiến lâu dài (trường kì): là để chống âm mưu đánh nhanh,
thắng nhanh của Pháp, để có thời gian phát huy yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân
hòa” của ta, chuyển hóa tương quan lực lượng từ chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ
ta mạnh hơn địch, đánh thắng địch.
+ Dựa vào sức mình là chính: “phải tự cấp, tự túc về mọi mặt”, vì ta bị
bao vây bốn phía. Khi nào có điều kiện ta sẽ tranh thủ sự giúp đỡ của các nước,
song lúc đó cũng khơng được ỷ lại.
+ Triển vọng kháng chiến: mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn song nhất
định thắng lợi.
Có thể nói rằng,với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, đánh lâu
dài, dựa vào sức mình là chính, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, Đảng ta đã tổ
chức, lãnh đạo nhân dân vượt qua mọi khó khăn, giành thắng lợi vĩ đại trong
cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược. Chiến thắng Điện Biên
Phủ (tháng 5-1954) đã đi vào lịch sử dân tộc ta như một Bạch Đằng, một Chi
Lăng hay một Đống Đa của thế kỷ XX, đi vào lịch sử thế giới như một chiến
cơng chói lọi, đột phá thành trì của đế quốc, báo hiệu sự sụp đổ hồn tồn khơng
tránh khỏi của chủ nghĩa thực dân cũ. Đánh giá ý nghĩa lịch sử của thắng lợi
này, Hồ Chủ tịch viết: "Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu
đã thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là thắng lợi vẻ vang của nhân dân
Việt Nam, đồng thời cũng là thắng lợi của các lượng hịa bình, dân chủ và
CNXH thế giới"... Thắng lợi đó đã làm sáng tỏ một chân lý: Trong điều kiện thế
giới ngày nay, một dân tộc dù nhỏ yếu nhưng một khi đoàn kết đứng lên, kiên
quyết đấu tranh dưới sự lãnh đạo của chính Đảng Mác-Lênin để giành độc lập
và dân chủ thì có đầy đủ lực lượng để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.