Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học PHẬT GIÁO và ẢNH HƯỞNG đến đời SỐNG xã hội VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (496.26 KB, 34 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

----------

MƠN HỌC: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
TIỂU LUẬN

TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO VÀ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
ĐỜI SỐNG XÃ HỘI VIỆT NAM

GVHD: PGS.TS. Đồn Đức Hiếu
MMH: LLCT120405
Nhóm sinh viên thực hiện:
1.
2.
3.
4.
5.

Nguyễn Tiến Đạt
Lê Đức Minh Hoàng
Trần Thanh Liêm
Nguyễn Quốc Huy
Đỗ Ngọc Huy

-

19147092
19147104


19147112
19147109
19147106

Học kỳ 2 – Năm học 2019-2020
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 6, năm 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

----------

MƠN HỌC: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
TIỂU LUẬN

TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO VÀ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
ĐỜI SỐNG XÃ HỘI VIỆT NAM

GVHD: PGS.TS. Đồn Đức Hiếu
MMH: LLCT120405
Nhóm sinh viên thực hiện:
6. Nguyễn Tiến Đạt
7. Lê Đức Minh Hoàng
8. Trần Thanh Liêm
9. Nguyễn Quốc Huy
10. Đỗ Ngọc Huy

-


19147092
19147104
19147112
19147109
19147106

Học kỳ 2 – Năm học 2019-2020
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 6, năm 2020


NHẬN XÉT
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
……………………………………………...……………………………………………
Ký tên

PGS. TS. Đoàn Đức Hiếu



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..................................................................................................................- 1 1. Lý do chọn đề tài...............................................................................................- 1 2. Mục tiêu nghiên cứu..........................................................................................- 1 3. Phương pháp nghiên cứu...................................................................................- 2 4. Kết cấu của tiểu luận.........................................................................................- 2 CHƯƠNG 1 : KHÁI QUÁT TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO..........................................- 3 1.1 Nguồn gốc ra đời của phật giáo.......................................................................- 3 1.2 Nội dung chủ yếu của tư tưởng triết học phật giáo..........................................- 3 1.3 Sự phát triển của Phật giáo............................................................................- 10 1.3.1 Sự phát triển của Phật giáo trên thế giới.................................................- 10 1.3.2 Sự du nhập và phát triển Phật giáo ở Việt Nam......................................- 13 CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG XÃ
HỘI VIỆT NAM.....................................................................................................- 19 1.2 Ảnh hưởng của triết học Phật giáo đến đời sống xã hội xưa kia....................- 19 2.2 Ảnh hưởng của triết học Phật giáo đến đời sống xã hội hiện nay..................- 20 2.3 Ảnh hưởng của Phật giáo tới thế hệ trẻ.........................................................- 21 2.4 Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa Phật giáo thời Lý – Trần trong nền văn hóa
Việt Nam hiện nay..............................................................................................- 25 KẾT LUẬN............................................................................................................. - 28 TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................- 29 -



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phật giáo là một trường phái triết học-tơn giáo điển hình của nền tư tưởng Ấn Độ cổ
đại có ảnh hưởng rộng rãi, lâu dài trên phạm vi thế giới. Hệ thống giáo lý của nó rất
đồ sộ và có số lượng phật tử đông đảo phân bố rộng khắp. Đạo Phật được truyền bá
vào nước ta khoảng thế kỷ II sao công nguyên và đã nhanh chóng trở thành một tơn
giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của người Việt Nam bên cạnh
đạo Nho, đạo Lão, đạo Thiên Chúa....
Từ khi du nhập vào Việt Nam đến nay, Phật giáo đã tồn tại và gắn liền với lịch sử
dân tộc, nó ngấm sâu vào tư duy và trở thành một bộ phận văn hóa, nếp sống của
người Việt. Với bề dày lịch sử hàng ngàn năm, Đạo Phật đã khẳng định giá trị của nó
trong lĩnh vực xã hội, văn hóa, chính trị... Đặc biệt, xét trên khía cạnh hệ thống tư
tưởng, thì Phật giáo đã trực tiếp hoặc gián tiếp góp phần hình thành một quan niệm
sống và sinh hoạt cho con người Việt Nam
Hiện nay, tư tưởng chủ đạo, vũ khí lý luận của chúng ta trong cơng cuộc xây dựng
đất nước quá độ lên CNXH là chủ nghĩa Mác-Lênin; nhưng bên cạnh đó, bộ phận kiến
trúc thượng tầng của xã hội cũ vẫn có sức sống day dẵn, trong đó có giáo lý nhà Phật
đã ít nhiều in sâu vào tư tưởng tình cảm của một bộ phận lớn dân cư Việt Nam. Việc
xóa bỏ hồn tồn ảnh hưởng của nó là khơng thể thực hiện được nên chúng ta cần vận
dụng một cách hợp lý để góp phần đạt được mục đích của thời kỳ q độ cũng như sau
này. Vì vậy, nghiên cứu lịch sử, giáo lý và sự tác động của Phật giáo đối với thế giới

quan, nhân sinh quan của con người là hết sức cần thiết.việc đi sâu nghiên cứu đánh
giá những mặt hạn chế cũng như tiến bộ của Phật giáo giúp ta tìm được phương cách
để hướng đạo cho người dân một cách đúng đắn cũng như định hướng cho sự phát
triển nhân cách, tư duy của con người Việt Nam trong tương lai.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, em chọn nghiên cứu đề tài “ Tư tưởng
triết học phật giáo và ảnh hưởng của Phật giáo đến xã hội Việt Nam ’’
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tư tưởng cơ bản của triết học phật giáo, ảnh hưởng
của Phật giáo đối với đời sống tinh thần ở người Việt Nam.

1


Phạm vi nghiên cứu chỉ nghiên cứu những tư tưởng cơ bản của Phật giáo và ảnh
hưởng của Phật giáo đối với đời sống tinh thần của người Việt Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tiểu luận là phương pháp tổng hợp các phương pháp chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt là các phân tích tổng
hợp gắn với lý luận thực tiễn để thực hiê ̣n đề tài.
4. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục hình ảnh và tài liệu tham khảo, tiểu luận
được chia làm 2 chương:
-

Chương 1: Khái quát triết học phật giáo.

-

Chương 2: Ảnh hưởng của triết học Phật giáo đến đời sống xã hội Việt Nam.


2


CHƯƠNG 1 : KHÁI QUÁT TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
1.1 Nguồn gốc ra đời của phật giáo.
Đạo Phật mang tên người sáng lập là Đà (hay buddha). Đạo phật chính là giáo lý mà
Phật Đà đã thuyết giảng. Sau khi ra đời ở Ấn Độ vào thế kỷ thứ VI trước Công
nguyên, đạo Phật được lưu hành rộng rãi ở các quốc gia trong khu vực Á - Phi, gần
đây được truyền tới các nước Âu - Mỹ. Trong quá trình truyền bá của mình, đạo Phật
đã kết hợp với tín ngưỡng, tập tục, dân gian, văn hoá bản địa để hình thành rất nhiều
tơng phái và học phái, có tác động vô cùng quan trọng với đời sống xã hội và văn hoá
của rất nhiều quốc gia.
   Buddha vốn là một thái tử tên là Tất Đạt Đa (Siddharta), con trai của Trịnh Phạn
(Sudhodana) vua nước Trịnh Phạn, một nước nhỏ thuộc Bắc Ấn Độ (nay thuộc đất Nê
Pan) ông sinh ra vào khoảng năm 623 trước cơng ngun.Nhìn rõ được cảnh khổ của
chúng sinh.Ngài đã quyết xuất gia tầm đạo để giải thoát khổ đau cho con người trong
xã hội. Ngài để lại vương triều và gia đình vì theo Ngài có cách khác để làm cuộc sống
nhân dân thốt khỏi lầm than chứ không phải cách cai trị cứng nhắc. Ròng rã sáu năm
tu hành khổ hạnh trong rừng sâu và 49 ngày nhập định dưới gốc cây Bồ Đề, Đức phật
đã giác ngộ được đạo quả vô – thượng, chính – đẳng, chính – giác. Bánh xe Phật giáo
bắt đầu lăn chuyển lần đầu tiên tại vườn lộc uyển để độ cho năm người bạn đồng tu
với Ngài lúc trước và họ đều chứng quả A La Hán.
Phật giáo từ Ấn Độ du nhập vào Việt Nam đã trên hai ngàn năm. Ngay từ rất sớm,
Phật giáo đã được tiếp nhận và trở thành một tư tưởng chủ đạo trong nền văn hóa dân
tộc, dĩ nhiên là sau khi đã bản địa hóa Phật giáo. Suốt hơn hai ngàn năm lịch sử, Phật
giáo đã luôn đồng cam cộng khổ với vận mệnh thăng trầm của xứ sở, trong công cuộc
chống ngoại xâm cũng như sự nghiệp dựng nước, mở mang bờ cõi, đánh bật âm mưu
xâm lăng và nơ dịch nền văn hóa của thế lực phương Bắc trong nhiều giai đoạn.
1.2 Nội dung chủ yếu của tư tưởng triết học phật giáo
Tư tưởng triết lý Phật giáo được tập trung trong một khối lượng kinh điển rất

lớn, được tổ chức thành ba bộ kinh lớn gọi là tam tạng gồm:

3


- Tạng Luận: Gồm toàn bộ những giới luật của Phật giáo qui định cho cả năm bộ
phái Phật giáo như: “Tứ phần luật” của thượng toạ bộ, Maha tăng kỷ luật của “Đại
chúng bộ”, căn bản nhất thiết hữu bộ luật”. Sau này còn thêm các Bộ luật của Đại
Thừa như An lạc, Phạm Võng.
- Tạng kinh: Chép lời Phật dạy, trong thời kỳ đầu tạng kinh gồm nhiều tập dưới
dạng các tiền đề, mỗi tập được gọi là một Ahàm.
- Tạng luận: Gồm những bài bình chú, giải thích về giáo pháp của Phật giáo. Tạng
luận gồm bảy bộ thể hiện một cách toàn diện các quan điểm về giáo pháp của Phật
giáo.
Tư tưởng triết học Phật giáo trên hai phương diện, về bản thể luận và nhân sinh
quan, chứa đựng những tư tưởng duy vật và biện chứng chất phác.
Phật giáo cho rằng các sự vật và hiện tượng trong vũ trụ (chử pháp) là vô thuỷ, vô
chung (vô cùng, vơ tận). Tất cả thế giới đều ở q trình biến đổi liên tục (vơ thường)
khơng có một vị thần nào sáng tạo ra vạn vật cả. Tất cả các Pháp đều thuộc về một giới
(vạn vật đều nằm trong vũ trụ) gọi là Pháp giới. Mỗi một pháp (mỗi một sự v iệc hiện
tượng, hay một lớp sự việc hiện tượng) đều ảnh hưởng đến toàn Pháp. Như vậy các sự
vật, hiện tượng hay các quá trình của thế giới là luôn luôn tồn tại trong mối liên hệ, tác
động qua lại và qui định lẫn nhau.
Ngay từ đầu Phật giáo đã đặt ra mục đích giải quyết vấn đề cơ bản của Triết học
một cách biện chứng và duy vật. Phật giáo đã gạt bỏ vai trò sáng tạo thế giới của các
“đấng tối cao” của “Thượng đế” và cho rằng bản thể của thế giới tồn tại khách quan và
không do vị thần nào sáng tạo ra cả. Cái bản thể ấy chính là sự thường hằng trong vận
động của vũ trụ, là mn ngàn hình thức của vạn vật trong vận động, nó có mặt trong
vạn vật nhưng nó khơng dừng lại ở bất kỳ hình thức nào. Nó mn hình vạn trạng
nhưng lại tn hành nghiêm ngặt theo luật nhân quả.

Do qui luật nhân quả mà vạn vật ở trong q trình biến đổi khơng ngừng, thành, trụ,
hoại, diệt (sinh thành, biến đổi, tồn tại, tan rã và diệt vong). Q trình đó phổ biến 
khắp vạn vật, trong vũ trụ, nó là phương thức thay đổi chất lượng của sự vật và hiện
tượng.

4


Phật giáo trong q trình giải thích sự biến hố vô thường của vạn vật, đã xây dựng
nền thuyết “nhân duyên”. trong thuyết “nhân duyên” có ba khái niệm chủ yếu là Nhân,
Quả và Duyên.
- Cái gì phát động ra ở vật gây ra một hay nhiều kết quả nào đó, được gọi là Nhân.
- Cái gì tập lại từ Nhân được gọi là Quả.
- Duyên: Là điều kiện, mối liên hệ, giúp Nhân tạo ra Quả. Duyên không phải là một
cái gì đó cụ thể, xác định mà nó là sự tương hợp, điều kiện để giúp cho sự biến chuyển
của vạn Pháp.
Trong thế giới sinh vật, khi đã giải thích về ngun nhân biến hố vơ thường của nó,
từ quá khứ đến hiện tại, từ hiện đại tới tương lại. Phật giáo đã trình bày thuyết “Thập
Nhị Nhân Duyên” (mười hai quan hệ nhân duyên) được coi là cơ sở của mọi biến đổi
trong thế giới hiền sinh, một cách tất yếu của sự liên kết nghiệp quả.
+ Vô minh: là cái không sáng suốt, mông muội, che lấp cái bản nhiên sáng tỏ.
+ Hành: là suy nghĩ mà hành động, do hành động mà tạo nên kết quả, tạo ra cái
nghiệp, cái nếp. Do hành động mà có thức ấy là hành làm quả cho vô minh và là nhân
cho Thức.
+ Thức: Là ý thức là biết. Do thức mà có Danh sắc, ấy là Thức làm quả cho hành và
làm nhân cho Danh sắc.
+ Danh sắc: Là tên và hành ta đã biết tên ta là gì thì phải có hình và tên của ta. Do
danh sắc mà có Lục xứ, ấy danh sắc làm quả cho thức và làm nhân cho Lục xứ.
+ Lục xứ hay lục nhập: Là sáu chỗ, sáu cảm giác: Mắt, mũi, lưỡi, tai, thân và tri thức.
Đã có hình hài có tên phải có Lục xứ để tiếp xúc với vạn vật. Do Lục nhập mà có xúc

– tiếp xúc. ấy là Lục xứ làm quả cho Danh sắc và làm nhân cho Xúc.
+ Xúc:  Là tiếp xúc với ngoại cảnh qua sáu cơ quan xúc giác gây nên cmở rộng xúc,
cảm giác. Do xúc mà có thụ ấy là xúc làm quả cho Lục xứ và làm nhân cho Thụ.
+ Thụ: (Là tiếp thu, lĩnh nạp, những tác động bên ngoài tác động vào mình. Do thụ mà
có ái. ấy là thụ làm quả cho Xúc và  làm nhân cho ái.
+ Ái: Là yêu, khát vọng, mong muốn, thích. Do ái mà có Thủ. Do ấy, ái làm quả cho
Thụ và làm nhân cho Thủ.
+ Thủ: Là lấy, chiếm đoạt cho minh. Do thủ mà có Hữu. Do vậy mà Thủ làm quả cho
ái và làm nhân cho Hữu.
5


+ Hữu: Là tồn tại, hiện hữu, ham, muốn, nên có dục gây thành cái nghiệp. Do Hữu mà
có sinh, do đó Hữu là quả của Thủ và làm nhân của Sinh.
+ Sinh:  Hiện hữu là ta sinh ra ở thế gian làm thần thánh, làm người, làm súc sinh. Do
sinh mà có Tử, ấy là sinh làm quả cho Hữu và làm nhân cho Tử.
+ Lão tử: Là già và chết, đã sinh ra là phải già yếu mà đã già là phải chết. Nhưng chết
– sống là hai mặt đối lập nhau không tách rời nhau. Thể xác tan đi là hết nhưng linh
hồn vẫn ở trong vịng vơ minh. Cho nên lại mang cái nghiệp rơi vào vòng luân hồi
( khổ não).
Thập nhị nhân duyên như nước chảy kế tiếp nhau không bao giờ cạn, không bao giờ
ngừng, nên đạo Phật là Duyên Hà. Các nhân duyên tự tập nhau lại mà sinh mãi mãi gọ
là Duyên hà mãn. Đoạn này do các duyên mà làm quả cho đoạn trước, rồi lại do các
duyên mà làm nhân cho đoạn sau. Bởi 12 nhân Duyên mà vạn vật cứ sinh hố vơ
thường.
- Mối quan hệ Nhân – Dun là mối quan hệ biện chứng trong không gian và thời gian
giữa vạn vật. Mối quan hệ đó bao trùm lên tồn bộ thế giới khơng tính đến cái lớn nhỏ,
khơng tính đến sự giản đơn hay phức tạp. Một hạt cát nhỏ được tạo thành trong mối
quan hệ nhân quả của toàn vũ trụ. Cả vũ trụ hoà hơp tạo nên nó. Cũng như nó hồ hợp
tạo nên cả vũ trụ bao la. Trong một có tất cả trong tất cả có một. Do nhân Duyên mà

vạn vật sinh hay diệt. Duyên hợp thì sinh, Duyên tan thì diệt.
Vạn vât sinh hố vơ cùng là do ở các dun tan hợp, hợp tan nối nhau mà ra. Nên vạn
vật chỉ tồn tại ở dạng tương đối, trong dịng biến hố vô tận vô thường vô thực thể, vô
bản ngã, chỉ là hư ảo. Chỉ có sự biến đổi vơ thường của vạn vật, vạn sự theo nhân
duyên là thường còn khơng thay đổi.
Do vậy tồn bộ thế giới đa dạng, phong phú, nhiều hình, nhiều vẻ cũng chỉ là dịng
biến hố hư ảo vơ cùng, khơng có gì là thường định, là thực, là khơng thực có sinh, có
diệt, có người, có mình, có cảnh, có vật, có khơng gian, có thời gian. Đó chính là cái
chân lý cho ta thấy được cái chân thế tuyệt đối của vũ trụ. Thấy được điều đó gọi là “
chân như” là đạt tới cõi hạnh phúc, cực lạc, không sinh, không diệt, niết bàn.
Thế giới của chúng sinh (loài người) cũng do nhân duyên kết hợp mà thành. Đó là sự
kết hợp của hai thành phần: Phần sinh lý và phần tâm lý.

6


- Cái tơi sinh lý tức là thể xác, hình chất với yếu tố “ sắc” ( địa, thuỷ, hoá, phong ) tức
là cái cảm giác được.
- Cái tôi tâm lý ( tinh thần ) linh hồn tức là “tâm” với 4 yếu tố chỉ có tên gọi mà khơng
có hình chất gọi là “ Danh”.
Trong “Sắc’ gồm những cái nhìn thấy được cũng như những thứ khơng nhìn thấy được
nếu nó nằm trong q trình biến đổi của “sắc” gọi là “vơ biến sắc” như vật chất chuyển
hố thành năng lượng chẳng hạn.
Bốn yếu tố do nhân duyên tạo thành phần tâm lý ( tinh thần ) của con người là:
+ Thụ: Những cảm giác, cảm thụ về khổ hay sướng, đưa đến sự xúc chạm lĩnh hội
thân hay tâm.
+ Tưởng: Suy nghĩ, tư tưởng.
+ Hành: ý muốn thúc đẩy hành động.
+ Thức: Nhận thức, phân biệt đối tượng tâm lý ta là ta.
Hai thành phần tạo nên từ ngũ uẩn do Nhân – Duyên tạo thành mỗi sinh vật cụ thể có

danh và có sắc. Duyên hợp ngũ uẩn thì là ta. Duyên tan ngũ uẩn thì là diệt. Quá trình
hợp tan ngũ uẩn do Nhân – Duyên là vô cùng tận.
- Các yếu tố của ngũ uẩn cũng ln ln biến hố theo qui luật nhân hố khơng ngừng
không nghỉ, nên mọi sinh vật cũng chỉ là vụt mất, vụt cịn. Khơng có sự vật riêng biệt,
cố định, khơng có cái tơi, cái tơi hơm qua khơng cịn là cái tơi hơm nay. Kinh Phật có
đoạn viết “ Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc là không, không là sắc.
Thụ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều như thế”.
Như vậy thế giới là biến ảo vô thường, vô định. Chỉ có những cái đó mới là chân thực,
vĩnh viễn, thường hằng. Nếu khơng nhận  thức được nó thì con người sẽ lầm tưởng ta
tồn tại mãi mãi, cái gì cũng thường định, cái gì cũng của ta. Do đó, mà con người cứ
khát ái, tham dục cứ mong muốn và hành động chiếm đoạt tạo ra kết quả mà kết quả
đó có thể tốt, có thể xấu gây nên nghiệp báo, rơi vào bể khổ triền miên không bao giờ
dứt.
Sở dĩ có nỗi khổ là do qui định của Luật nhân quả. Vì thế mà ta khơng thấy được cái
luật nhân bản của mình ( bản thể chân thực ). Khi đã mắc vào sự chi phối của Luật
Nhân – Duyên, thì phải chịu nghiệp báo và kiếp ln hồi, ln chuyển tuần hồn
khơng ngừng, khơng dứt.
7


Nghiệp và luân hồi không những chỉ là những khái niệm của Triết học Phật giáo mà có
từ trong Upanishad.
Nghiệp chữ phạn và Karma là cái do những hoạt động của ta, do hậu quả việc làm của
ta, do hành động của thân thể ta. Được gọi là “ thân nghiệp”, cịn hậu quả của những
lời nói của ta, phát ngơn của ta thì được gọi làg “ khẩu nghiệp”. Hay những cái do ý
nghĩ của ta, do tâm tue của ta gây nên được gọi là ‘ý nghiệp”. Tất cả những thân
nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp là do ta tham dục mà thành, do ta muốn thoả mãn tham
vọng của mình gây nên. Sở dĩ ta tham dục vì ta chưa hiểu đươc chân bản vốn có của ta
cũng như vạn vật là ln ln biến đổi khơng có gì là thường định và vĩnh viễn cả.
Cuộc đời con người là sự ghánh chịu hậu quả của nghiệp đương thời và các kiếp sống

trước rồi nó tiếp tục chi phối cả đời sau.
Nghiệp báo trong một đời là sự tổng hợp của các nghiệp gây ra trong hiện tại cộng với
các nghiệp gây ra trong quá khứ, nó quyết định đời sau xấu hay tốt, thiện hay ác.
Luân hồi: Chữ phạn là Samsara. Có nghĩa là bánh xe quay tròn. Đạo phật cho rằng, sau
khi một thể xác sinh vật nào đó chết thì linh hồn sẽ tách ra khỏi thể xác và đầu thai vào
một sinh vật khác nhập vào một thể xác khác (có thể là con người, lồi vật thậm chí cỏ
cây). Cứ thế mãi do kết quả, quả báo hành động của những kiếp trước gây ra. Đó cũng
là cách lý giải căn nguyên nỗi khổ ở đời con người.
Sau khi lý giải được nỗi khổ ở cuộc đời con người là do “ thập nhị nhân duyên” làm
cho con người rơi vào bể trầm luân. Đạo Phật đã chủ chương tìm con đường diệt khổ.
Con đường giải thốt đó khơng những địi hỏi ta nhận thức được nó mà cao hơn ta phải
hành động, phải thấm nhuần tứ diệu đế.
Tứ diệu đế: Là bốn sự thật chắc chắn, bốn chân lý lớn, đòi hỏi chúng sinh phải thấu
hiểu và thực hiện nó. Tứ diệu đế gồm:
Một là Khổ đế: Con người và vạn vật sinh ra là khổ, ốm đau là khổ, già yếu là khổ,
chết là khổ, ghét nhau mà phải sống gần nhau là khổ, yêu nhau mà phải chia lìa nhau
là khổ, mất là khổ mà được cũng là khổ. …. Những nỗi khổ ấy từ đâu? chúng ta tiếp
tục tìm hiểu Tập đế.
Hai là Tập đế: Tập là tập hợp, tụ tập lại mà thành. Vậy do những gì tụ tập lại mà tạo ra
nỗi khổ cho chúng sinh?

8


Đó là do con người có lịng tham, dâm (giận dữ ), si ( si mê, cuồng mê, mê muội) và
dục vọng. Lòng tham và dục vọng của con người xâu xé là do con người không nắm
được nhân duyên. Vốn như là một định luật chi phối toàn vũ trụ. Chúng sinh khômg
biết rằng mọi cái là ảo ảnh, sắc sắc, khơng khơng. Cái tơi tưởng là có nhưng thực là
khơng. Vì khơng hiểu được ra nỗi khổ triền miên, từ đời này qua đời khác.
Ba là Diệt đế: Là phải thấu hiểu được “ Thập nhị nhân duyên” để tìm ra được căn

nguyên của sự khổ – để dứt bỏ từ ngọn cho đến gốc rễ của cái khổ. Thực chất là thoát
khỏi nghiệp chướng, luân hồi, sinh tử.
Bốn là Đạo đế: Là con người ta phải theo đế diệt khổ, phải đào sâu suy nghĩ trong thế
giới nội tâm (thực nghiệm tâm linh). Tuy luyện tâm trí, đặc biệt là thực hành YOGA
để đạt tới cõi siêu phàm mà cao nhất là đạt tới cõi phận là đạt tới trình độ giác ngộ bát
nhã. Tới chừng đó sẽ thấy được chân như và thanh thản tuyệt đối, hết ham muốn, hết
tham vọng tầm thường, tức là đạt tới cói “niết bàn” không sinh, không diệt.
Thực hiện Đạo đế là một quá trình lâu dài, kiên trì, giữ nguyên giới luật tập trung thiên
định cao độ Phật giáo đã trình bày 8 con đường hay 8 nguyên tắc ( Bát chính Đạo –
buộc ta phải tuân thủ bát chính đạo gồm:
- Chính kiến: Phải nhận thức đúng, phân biệt được phải trái, không để cho những cái
sai che lấp sự sáng suốt.
- Chính tư duy: Suy nghĩ phải, phải chính, phải đúng đắn.
- Chính nghiệp: Hành động phải chân chính, phải đúng đắn.
- Chính ngữ: Nói phải đúng, khơng gian dối, khơng vu oan cho người khác.
- Chính mệnh: Sống trung thực, không tham lam, vụ lợi, gian tà, không được bỏ điều
nhân nghĩa.
- Chính tịnh tiến: Phải nỗ lực, siêng năng học tập, có ý thức vươn lên để đạt tới chân
lý.
- Chính niệm: Phải ln ln hướng về đạo lý chân chính, khơng nghĩ đến những điều
bạo ngược gian ác.
- Chính định: Kiên định tập trung tư tưởng vào con đường chính, khơng bị thối chí,
lay chuyển trước mọi cán dỗ.
Muốn thực hiện được “Bát chính đạo” thì phải có phương pháp để thực hiện nhằm
ngăn ngừa những điều gian ác gây thiệt hại cho mình và những người làm điều thiện
9


có lợi ích cho mình và cho người. Nội dung của các phương pháp đó là thực hiện “
Ngũ giới” (năm điều răn) và “Lục độ” (Sáu phép tu).


Tóm lại: Phật giáo cho rằng chỉ có bằng sự kiên định để thực hiện “Bát hành đạo”,
“Ngũ giới”, “Lục độ” thì chúng sinh mới có thể giải thốt mình ra khỏi nỗi khổ. Phật
giáo khơng chủ trương giải phóng bằng cách mạng xã hội. Mặc dù Phật giáo lên án rất
gay gắt chế độ người bóc lột người, chống lại chủ nghĩa duy tâm cua Bàlamơn giáo.
Đó là một trong những nhược điểm đồng thời cũng là ưu điểm nửa vời của Đạo phật.
Đứng trước bể khổ của chúng sinh Phật giáo chủ trương cải tạo tâm linh chứ không
phải cải tạo thế giới hiện thực. Như vậy Phật giáo nguyên thuỷ có tư tưởng vơ thần,
phủ nhận đấng sáng tạo ( vơ ngã, vơ tạo giả) và có tư tưởng biện chứng ( vô thường, lý
thuyết Duyên khởi ). Tuy nhiên, Triết học Phật giáo cũng thể hiện tính duy tâm chủ
quan khi coi thế giới hiện thực là ảo giả và do cái tâm vô minh của con người tạo ra.
1.3 Sự phát triển của Phật giáo
1.3.1 Sự phát triển của Phật giáo trên thế giới
Qua thế kỷ 21 này, sự tiến bộ về vật chất hình như đã quá đủ cho con người, nhưng
sự thiếu hụt về tâm linh lại lớn lao hơn bao giờ hết. Trong hoàn cảnh đó chúng ta có
thể hình dung sự phát triển của đạo Phật sẽ như thế nào.
Từ hơn 25 thế kỷ nay, Phật giáo không chỉ dừng lại là một nền tảng của văn hóa văn
minh nhân loại mà cịn phát triển song hành cùng lịch sử để phổ cập khắp thế giới.
Ngày nay, Phật giáo phát triển khắp các nước Âu Mỹ, sách Phật giáo chiếm số lượng
lớn, là một phần khơng thể thiếu của văn hóa tồn cầu. Đạo Phật đã và đang là một
động lực lớn thúc đẩy và hướng dẫn sự tiến hóa của nhân loại.
Năm 1949, trong cuốn Nguồn gốc và Mục đích của Lịch sử, Karl Jaspers (18831969), triết gia hiện sinh Thiên Chúa giáo, một trong vài triết gia quan trọng nhất của
thế kỷ XX, đã nêu lên khái niệm thời trục và sau đó được cơng nhận như là một cột
mốc khách quan của lịch sử nhân loại. Thời trục (axial age) là thời gian khoảng thế kỷ
thứ VIII đến thứ III trước tây lịch.
Trong thời gian này, ở Ba Tư, Ấn Độ, Trung Hoa và Hy Lạp, La Mã đồng thời xuất
hiện những triết gia mở đầu cho văn hóa và văn minh nhân loại. Ấn Độ có Đức Phật và
10



bộ kinh Upanisad, Trung Hoa có Khổng Tử và Lão Tử, ở Iran có Zarathustra, ở
Palestine là những vị lập ra Do Thái giáo, Hy Lạp thì có Socrates, Parmenides,
Heraclitus, Platon…Thời trục là bình minh của văn hóa văn minh nhân loại. Nói như
Jaspers, “…trong thời trục, những nền tảng đó đồng thời nhưng độc lập được thiết lập
ở Ấn Độ, Trung Hoa, Ba Tư, Judea và Hy Lạp. Trên chính những nền tảng này mà
nhân loại tồn tại và phát triển cho đến ngày nay”.
Như bất kỳ một cơng trình vật chất hay tinh thần nào được sáng tạo trên trái đất, nếu
không đáp ứng được nhu cầu của con người hiện thời thì sẽ dần dần mai một. Phật
giáo càng ngày càng có sức sống mạnh mẽ khắp thế giới, vậy Phật giáo đáp ứng cho
nhu cầu nào của con người hiện đại?
Thốt khỏi cái chết, sự vơ thường
Đây là nhu cầu, sự ước ao căn bản của con người. Chưa bao giờ con người được đáp
ứng hầu hết các nhu cầu vật chất như ngày nay, nhờ khoa học kỹ thuật. Nhưng vẫn
ln ln có đó nỗi bất an, sự buồn phiền, mau chán, sự mong manh và hữu hạn của
thân phận con người. Mỗi chúng ta đều có thể biết bản đồ gien của mình, có thể biết
những hạt và sóng tạo thành thân thể mình là hạt nào, sóng nào, nhưng gien nào hạt
nào sóng nào cũng vơ thường, khơng ai có thể thỏa mãn với những sự trả lời “khách
quan” như vậy.
Tơi là cái gì, tơi từ đâu sanh ra và chết tôi đi về đâu, đây vẫn là câu hỏi treo trên đầu
mỗi người.
Trong khi đó, Đức Phật là người đã chiến thắng số phận sanh già bệnh chết của thân
phận con người, khám phá con đường đưa đến “cánh cửa bất tử” . Thế nên Đức Phật
được xưng là bậc Chiến Thắng  (Jina).
“Rồi này các Tỳ-kheo, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị sanh, già, bệnh, chết, ta
tìm cầu cái khơng sanh, khơng già, không bệnh, không chết, cái vô thượng an ổn các
khổ ách tức Niết-bàn, và đã chứng được cái không sanh, không già, không bệnh,
không chết, cái vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, tức Niết-bàn.
Những cửa mở đến Bất Tử đang rộng mở
Cho những ai muốn nghe”. 
(Kinh Thánh Cầu, Trung bộ).

11


Những cánh cửa mở vào cái không sanh, không già, không bệnh, không chết đã được
mở ra, đang mở ra, và mãi mãi cịn mở ra. Đó là lý do sự hấp dẫn của đạo Phật trong
một thời đại mà mọi thứ đã được bão hịa như ngày nay.
Có trong hiện tại
Nhưng chúng ta không phải đi ngược về quá khứ mấy ngàn năm hay chờ đợi ở tương
lai bao lâu nữa. “Pháp được Thế Tôn khai thị là thiết thực hiện tại, khơng có thời gian,
đến để mà thấy, trực tiếp hướng thượng, mỗi người trí tự mình chứng nghiệm”.
Đạo Phật không phải là một tôn giáo theo nghĩa tin và chờ đợi một cách thụ động mà
là trực tiếp chứng nghiệm cái đang có trong hiện tại. “Thiết thực hiện tại” nghĩa là
ln ln có trong bất kỳ khơng gian thời gian nào. Nó hiện diện bình đẳng khắp
khơng gian và thời gian.
“Mỗi người” nghĩa là ai cũng có thể. Mọi người đều bình đẳng trước “cánh cửa bất
tử” ấy, khơng có điều kiện gì khác ngồi việc phải “tự mình chứng nghiệm”. Sự việc
có trong hiện tại và mỗi người tự mình chứng nghiệm là sự bình đẳng rốt ráo của đạo
Phật.
Có nhiều phương tiện, nhiều con đường
Trong cuốn kinh nào cũng nói đến nhiều phương tiện để thực hành. Những phương
tiện ấy không bị giới hạn trong hoàn cảnh sống nào. Những phương tiện để thực hành
ấy dựa vào những cơ sở mà mọi người đều có như hơi thở, cảm thọ, thân thể, tâm thức,
sắc thọ tưởng hành thức, đất nước lửa gió…
Những pháp mơn của đạo Phật khởi từ những yếu tố hàng ngày mà ai cũng có chứ
khơng bắt nguồn từ một yếu tố siêu nhiên. Chính vì những phương pháp thực hành đặt
cơ sở trên những yếu tố cụ thể của cuộc sống mà đạo Phật là hiện thực cụ thể: “thiết
thực hiện tại, đến để mà thấy”. Hơn nữa, mỗi một phương tiện, pháp mơn đều huy
động tồn bộ thân khẩu ý, lý trí và tình cảm, nói theo ngơn ngữ ngày nay là chỉ số
thông minh và chỉ số cảm xúc.
Tóm lại, vì lấy ngun liệu là tất cả những gì của trần gian này nên những phương

pháp, con đường của đạo Phật đáp ứng cho mọi loại khuynh hướng, mọi loại cấu trúc
thân tâm, bởi thế, đạo Phật trở nên phổ qt cho tồn nhân loại. Đó là con đường rộng
lớn đến bao la, chứa đựng tất cả những con đường nhỏ khác thích hợp với từng loại

12


người. Như kinh xưng tán Đức Phật là Đại Y vương, vua thầy thuốc, có thể chữa tất cả
mọi loại bệnh của con người.
Tương tục kế thừa
Sau khi có một số đệ tử đã đạt đạo quả A-la-hán, Đức Phật nói các đệ tử hãy truyền
bá chánh pháp khắp nơi:
“Này các Tỳ-kheo! Hãy ra đi khắp nơi, vì hạnh phúc cho đại chúng, vì an lạc cho đại
chúng, vì lịng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, lợi ích, an lạc cho lồi người lồi
trời. Chớ có đi hai người một chỗ. Này các Tỳ-kheo, hãy hoằng dương chánh pháp,
toàn hảo ở giai đoạn đầu, toàn hảo ở giai đoạn giữa, toàn hảo ở giai đoạn cuối cùng;
toàn hảo trong cả hai, ý nghĩa và văn tự . Hãy công bố đời sống thiêng liêng cao
thượng, vừa toàn thiện, vừa trong sạch…
Hãy đưa cao ngọn cờ của bậc thiện trí. Hãy truyền dạy giáo pháp cao siêu. Hãy mang
đến sự tốt đẹp cho người khác. Được như vậy, là các con đã hồn thành nhiệm vụ”.
Ngay khi cịn tại thế, Đức Phật đã cho các đệ tử truyền bá giáo pháp khắp nơi. Khi
sắp nhập diệt, Đức Phật khơng nói ai là người duy nhất có trách nhiệm với việc hoằng
pháp, như một “giáo chủ”; mà “Pháp và Luật, sau khi ta diệt độ, sẽ là đạo sư của các
ơng”.
Chính vì khơng có một giáo chủ mà đạo Phật đã mọc lên ở từng nước, riêng biệt
nhưng thống nhất trong Pháp và Luật. Như vậy, đạo Phật dù về sau được chia thành
những tông phái, nhưng tất cả đều y vào Pháp và Luật, Pháp ấy có thể là từ kinh, tức là
những lời dạy của Đức Phật.
Trong các kinh Đại thừa, Đức Phật dạy các Bồ tát tiếp tục ở trong sanh tử giáo hóa
cho chúng sanh. Như Kinh Viên Giác nói, “Thiện nam tử! Bồ tát chỉ sống bằng đại bi,

từ đó khởi phương tiện vào các thế gian khai phát cho những người chưa ngộ, cho đến
thị hiện đủ thứ hình tướng, cảnh giới khi thuận khi nghịch cùng họ đồng sự mà giáo
hóa cho. Tất cả đều y vào nguyện lực thanh tịnh từ vô thủy.”
Sự truyền thọ giữa các đệ tử về sau, trong cả bốn chúng, không đứt đoạn, đã tạo
thành những dòng truyền thừa tiếp nối chuyển giao Pháp của Phật. Những dịng truyền
thừa này chính là sức mạnh của đạo Phật để trụ vững và phát triển với thời gian. Sức
sống để tồn tại và phát triển của đạo Phật chính là dịng truyền thọ từ đời này sang đời
khác Phật Pháp bất biến mà Đức Phật đã giác ngộ.
13


1.3.2 Sự du nhập và phát triển Phật giáo ở Việt Nam

Theo đường biển, các nhà sư Ấn Độ đã đến Việt Nam ngay từ đầu Công nguyên.
Luy Lâu, trụ sở quận Giao Chỉ, đã sớm trở thành một trung tâm phật giáo quan trọng.
Từ đây, có những người như Khương Tăng Hội (gốc Trung Á) hoặc Ma-ha-kì-vực
(Mahajivaka, nhà sư Ấn Độ), đã đi sâu vào Trung Hoa truyền đạo. Sau này, khi trả lời
vua Tùy Văn Đế về tình hình Phật giáo Giao Châu, nhà sư Đàm Thiên đã nói rằng:
“Xứ Giao Châu có đường thơng sang Thiên Trúc. Phật giáo truyền vào Trung Hoa
chưa phổ cập đến Giang Đông, mà xứ ấy đã xây ở Luy Lâu hơn 20 bảo tháp, độ được
hơn 500 tăng và dịch được 15 bộ kinh rồi. Thế là xứ ấy theo đạo Phật trước ta”.
Cũng do Phật giáo đã được truyền trực tiếp từ Ấn Độ
vào Việt Nam ngay từ đầu công nguyên nên từ Buddha
tiếng Phạn đã được phiên âm trực tiếp sang tiếng Việt thành Bụt. Phật giáo lúc này
mang màu sắc Tiểu thừa Nam tông. Và trong con mắt của người Việt Nam nơng
nghiệp, Bụt như một vị thần ln có mặt ở khắp nơi, sẵn sàng xuất hiện cứu giúp
người tốt và trừng trị kẻ xấu. Sau này, sang thế kỷ IV – V, lại có thêm luồng Phật giáo
Đại thừa Bắc tông từ Trung Hoa tràn vào. Chẳng mấy chốc, nó đã lấn át và thay thế
luồng Nam tơng có từ trước đó. Từ Buddha  vào tiếng Hán phiên âm thành Phật; từ
đây từ Phật dần dần thay thế cho từ Bụt: Bụt chỉ còn trong các quán ngữ với nghĩa ban

đầu (ví dụ: Gần chùa gọi Bụt bằng anh), hoặc chuyển thành nghĩa ông tiên trong các
truyện dân gian (như Tấm Cám).
Từ Trung Hoa, có ba tơng phái Phật giáo được truyền vào Việt Nam: Thiền tông,
Tịnh Đồ tông, Mật tông. Thiền tông là tông phái phật giáo do nhà sư Ấn Độ Bồ-đềđạt-ma (Bodhidharma) sáng lập ra ở Trung Quốc vào đầu thế kỷ VI. “Thiền” (rút gọn
của Thiền-na, phiên âm Hán – Việt từ Dhiana tiếng Sanscrit nghĩa là “tĩnh tâm”) chủ
trương tập trung trí tuệ suy nghĩ (thiền) để tự mình tìm ra chân lý. Thiền tông Việt
Nam luôn đề cao cái Tâm. Phật tại tâm, tâm là niết bàn, là Phật. Quốc sư Yên Tử nói
với Trần Thái Tơng: “Núi vốn khơng có Phật, Phật ở tại tâm, tâm lặng lẽ sáng suốt ấy
là chân Phật”. Tu theo Thiền tơng địi hỏi nhiều cơng phu và khả năng trí tuệ, do vậy
chỉ phổ biến ở giới trí thức thượng lưu, cũng nhờ họ ghi chép lại mà nay ta được biết
về lịch sử Thiền tông Việt Nam khá rõ.
14


Khác với Thiền tông, Tịnh Độ tông chủ trương dựa vào sự giúp đỡ từ bên ngoài để cứu
chúng sinh thốt khổ. Đó là việc họ hướng đến một cõi niết-bàn cụ thể  gọi là cõi Tịnh
Độ (yên tĩnh, trong sáng), được hình dung như một nơi Cực Lạc do đức Phật A-di-đà
(Amitabha=vơ lượng quang) cai quản. Đó cịn là việc bản thân họ cần thường xuyên đi
chùa lễ Phật, thường xuyên tụng niệm danh hiệu Phật A-di-đà. Hình dung cụ thể về
niết bàn là để có đích mà hướng tới; còn tượng Phật và niệm danh Phật là để thường
xuyên nhớ đến những lời dạy của Người mà ráng làm theo. Nhờ cách tu đơn giản như
vậy, Tịnh Độ tơng trở thành Phật giáo của giới bình dân và phổ biến khắp cõi Việt
Nam: đâu đâu ta cũng gặp người dân trụng niệm Nam mô A-di-đà Phật! (= Nguyện
quy thep đức phật A-di-đà). Tượng A-di-đà cũng thuộc loại tượng Phật lâu đời và phổ
biến hơn cả (tới nay còn giữ được pho tượng A-di-đà bằng đá cao khoảng 2,5 mét, tạc
năm 1057 ở chùa Phật Tích (Bắc Ninh), phía ngồi tượng này xưa vốn dát vàng).
Mật tơng là phái chủ trương sử dụng những phép tu huyền bí (bí mật) như dùng linh
phù, mật chú, ấn quyết…để thu hút tín đồ và mau chóng đạt đến giác ngộ và giải thốt.
Vào Việt Nam, Mật tơng khơng tồn tại độc lập như một tơng phái riêng mà nhanh
chóng hịa vào dịng tín ngưỡng dân gian với những truyền thống cầu đồng, dùng pháp

thuật, yểm bùa trị tà ma và chữa bệnh…
Do thâm nhập một cách hịa bình, ngay từ thời Bắc thuộc, Phật giáo đã phổ biến
rộng khắp. Đến thời Lý – Trần, Phật giáo Việt Nam phát triển tới mức cực thịnh. Nhà
nho Lê Quát, học trò Chu Văn An, đã lấy làm khó chịu khi thấy tồn dân theo Phật:
“Phật chỉ lấy điều họa phúc mà động lòng người, sao mà sâu xa và bền chắc đến như
vậy? Trên từ vương công, dưới đến thứ dân, hễ làm cái gì thuộc về việc Phật, thì hết cả
gia tài cũng không tiếc. Nếu hôm nay đem tiền của để làm chùa, xây tháp thì hớn hở
vui vẻ, như trong tay đã cầm được cái biên lai để ngày sau đi nhận số tiền trả báo lại.
Cho nên, trong từ kinh thành ngoài đến châu phủ, đường cùng, ngõ hẻm, chẳng khiến
đã theo, chẳng thề mà tin; hễ chỗ nào có nhà thì ở đó có chùa Phật; bỏ đi tì làm lại, hư
đi thì sửa lại”.
Rất nhiều chùa tháp có quy mơ to lớn hoặc kiến trúc
độc đáo được xây dựng trong thời gian này như chùa
15


Phật Tích, chùa Dạm (chùa Đại Lãm), chùa Diên Hựu (Một Cột); chùa Phổ Minh,
chùa Quỳnh Lâm, chùa Hương Lãng, chùa Linh Xứng, chùa Bối Khê, chùa Thái Lạc,
hệ thống chùa Yên Tử, tháp Bình Sơn…
Khâm phục những thành tựu của văn hóa Phật giáo Việt Nam thời Lý – Trần, sách
vở Trung Hoa đời Minh truyền tụng nhiều về bốn cơng trình nghệ thuật lớn mà họ gọi
là An Nam tứ đại khí. Đó là:
Tượng Phật chùa Quỳnh Lâm: Chùa Quỳnh Lâm ở Đông Triều (Quảng Ninh) được
xây dựng vào khoảng thế kỷ XI, có pho tượng Di-lặc bằng đồng. Theo văn bia nay vẫn
cịn giữ được trong chùa thì tượng cao 6 trượng (xấp xỉ 24m), đặt trong một tịa Phật
điện cao 7 trượng. Đứng từ bến đị Đơng Triều, cách xa 10 dặm vẫn cịn trơng thấy nóc
điện.

Tượng Phật chùa Quỳnh Lâm
Tháp Báo Thiên: Gồm 12 tầng, cao 20 trượng, do vua Lý Thánh Tông cho xây dựng

vào năm 1057 trên khn viên chùa Sùng Khánh ở phía tây hồ Lục Thủy (tức hồ
Gươm, Hà Nội) bằng đá và gạch, riêng tầng thứ 12 đúc bằng đồng. Tháp là đệ nhất
danh thắng đế đô một thời. Đến năm 1414, tháp bị qn Vương Thơng tàn phá, nền
tháp cịn lại to như một quả đồi, có thời dùng làm nơi họp chợ. Thời Pháp, những gì
cịn sót lại đã bị phá hủy hoàn toàn để xây nhà thờ lớn trên đất ấy.

16


Tháp Báo Thiên
Chuông Quy Điền: Năm 1101, vua Lý Nhân Tông cho xuất kho hàng vạn cân đồng
để đúc quả chuông này và dự định treo tại chùa Diên Hựu (tiền thân chùa Một Cột sau
này), trong một tòa tháp bằng đá xanh cao 8 trượng. Nhưng chuông đúc xong to q
(tương truyền có đường kính 1,5 trượng (gần 6m), cao 3 trượng (gần 12m), nặng tới
vài vạn cân), không treo lên nổi đành để ở ngoài ruộng. Mùa nước ngập, rùa bò ra bò
vào nên dân gian gọi là chuông Quy Điền (= ruộng rùa).

Chuông Quy Điền
Vạc Phổ Minh: Đúc bằng đồng vào thời Trần Nhân Tông, đặt tại sân chùa Phổ Minh
(tức Mạc, ngoại thành Nam Định). Vạc sâu 4 thước (gần 1,6m), rộng 10 thước (gần
4m), nặng trên 7 tấn. Vạc to tới mức có thể nấu được cả một con bị mộng; trẻ con có

17


thể chạy nô đùa trên thành miệng vạc. Đến nay vẫn còn 3 trụ đá kê chân vạc trước sân
chùa.

Vạc Phổ Minh


Sang đời Lê, nhà nước tuyên bố lấy Nho giáo làm quốc giáo, Phât giáo dần dần suy
thoái. Đầu thế kỷ XVIII, vua Quang Trung có quan tâm chấn hưng đạo Phật, xuống
chiếu chỉnh đốn việc cất chùa, cho cất các chùa lớn đẹp, chọn các tăng nhân có học
thức và đạo đức cho coi chùa, song vì vua mất sớm nên việc này ít thu được kết quả.
Đến thế kỷ XX, đứng trước trào lưu Âu hóa và những biến động do sự giao lưu với
phương Tây mang lại, phong trào chấn hưng Phật giáo được dấy lên, khởi đầu từ các
đô thị miền Nam. Những năm 30, các hội Phật giáo ở Nam Kỳ, Trung Kỳ và Bắc Kỳ
lần lượt ra đời với những cơ quan ngôn luận riêng. Cho đến nay, Phật giáo là tơn giáo
có số lượng tín đồ đơng nhất ở Việt Nam. Pho tượng đồng lớn nhất được đúc trong
thời hiện đại cũng là tượng Phật – đó là pho tượng Phật A-di-đà cao 4m, trọng lượng
kể cả tòa sen 14 tấn, đúc trong 3 năm (1949 – 1952), hiện đặt tại chùa Thần Quang
làng Ngũ Xã (thường đọc chệch thành Ngũ Xá), bên hồ Trúc Bạch, Hà Nội.

18


CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG
XÃ HỘI VIỆT NAM
1.2 Ảnh hưởng của triết học Phật giáo đến đời sống xã hội xưa kia
Đạo phật truyền vào nước ta khoảng thế kỷ II sau công nguyên và đã trở thành một
trong những hệ tư tưởng. Tơn giáo có sức sống lâu dài, tồn tại cho đến mãi ngày nay, đã
ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội và tinh thần của người Việt Nam.
Vào lúc này, mặc dù đang phải chống lại các thế lực thực dân phương bắc, nhân dân
Việt Nam vẫn đủ thông minh, tỉnh táo để tiếp nhận Đạo Phật đến với dân tộc ta bằng
tinh thần hồ bình, hữu nghị. Sự tiếp nhận đạo phật trong hoàn cảnh như vậy, không thể
bỏ qua vấn đề nội dung của đạo phật. Điều đó có nghĩa là bản thân đạo phật phải có
những nội dung nào đó mà nhân dân Việt Nam có thể chấp nhận được. Ở đây chính là
nội dung của hai nền tín ngưỡng có nét giống nhau, có lẽ do những nét giống nhau mà
có sự hợp nhất tạo nên các chùa pháp vân, pháp vũ, pháp nôi, pháp điện. Tức là tín
ngưỡng phật và tín ngưỡng thần của Việt Nam khi đó có sự hợp nhất. Hình ảnh phật đã

trở thành hình ảnh bụt.
Một điều thể hiện đặc biệt mà nhiều người đã nhắc đến là phật giáo vốn dễ hồ hợp
với tín ngưỡng dân gian ở những nơi nó được truyền bá đến. Ở bắc Việt Nam đặc điểm
đó càng nổi bật. Nếu đặc điểm tơn giáo Việt Nam là sự thờ cúng tổ tiên (linh hồn người
thân đã khuất) thì phật hay quan âm cũng được coi là một thứ tổ tiên (trong tâm thức
19


dân gian việt cổ, phật hay quan âm không phải là người “ngoại quốc”, người khác tộc).
Nếu đặc điểm của tôn giáo Việt Nam là sự thờ thần (thế lực siêu nhiên) mà con người
cũng cầu để nhờ sự “phù hộ độ trì” thì phật hayquan âm cũng trở thành một loại thần, phật
điện cũng trở thành một thứ thần điện, tính tâm linh ấn độ nhường bước cho tính tính
Việt Nam (hơn đâu hết, tơn giáo Việt Nam nặng về tính tình cảm hơn là giáo lý, giỏi
luật, đồn thể, tôn giáo) .
Phật giáo lại biết bám lấy làng xã bằng nhiều hoạt động cụ thể có tổ chức, kết hợp
với tín ngưỡng bản địa, hội hè. Nhà sư và ngơi chùa có vai trị quan trọng trong đời sống
dân gian cổ truyền. Ở Bắc Bộ trước đây hầu như làng nào cũng có chùa. Ngồi thờ Phật,
chùa cịn thêm tín ngưỡng dân gian thờ thần tiên, thờ các vị tướng có cơng với nước.
Ngơi chùa trở thành một trung tâm văn hố ở nơng thơn. Có thể nói Phật giáo đã góp
phần làm phong phú thêm nền văn hố dân tộc. Nho giáo về mặt nào đó làm cho tư
tưởng văn hố khơ cứng thì Phật giáo có phần làm mền hơn, phong phú và sinh động
hơn. Hội chùa cũng như hội làng là tiêu biểu cho sự hồ hởi của công xã, là một dịp để con
người được giải phóng tình cảm, hịa cái ta của mình vào cái ta của làng xã, không bị
giáo lý khuôn phép gị bó và toả chiết tâm hồn. Dưới mái nhà chùa mà vẫn được phép
giao lưu tình cảm. Bao nhiêu câu chuyện tình duyên đằm thắm đã xảy ra bên cạnh cửa
thiền. Phật chứng nhận cho cuộc sống hồn nhiên của làng xã.
Đạo phật có thể mất đi, như mọi hiện tượng vô thường. Song cái tinh tuý của văn
hoá Phật giáo đã được dân tộc hoá và dân gian hố thì mãi mãi trường tồn.
Từ khi du nhập Việt Nam đến nay, Phật giáo đã tồn tại và gắn liền với lịch sử dân tộc,
nó ngấm sâu vào tư duy và trở thành một bộ phận văn hoá, nếp sống của người Việt.

Tư duy người Việt có thêm 1 loạt khái niệm lấy từ Phật giáo. Những khái niệm đó
góp phần làm tang những khái niệm mang tính triết lý của người Việt, khiến tư duy
người Việt mang tính khái quát hơn, trừu tượng hơn.
2.2 Ảnh hưởng của triết học Phật giáo đến đời sống xã hội hiện nay.
Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ II kết hợp với phong tục, tập quán, truyền
thống dân tộc Việt Nam hình thành nên triết học Phật giáo ở Việt Nam, trải qua một thời
gian dài, triết học Phật giáo ở Việt Nam không ngừng phát triển lớn mạnh và tạo nên dấu
ấn sâu đậm trong việc hình thành tư tưởng, đạo đức, nhân cách người Việt, nền văn hóa
Việt Nam. Những ảnh hưởng tích cực của triết học Phật giáo vẫn đang được người Việt
20


×