Tải bản đầy đủ (.docx) (140 trang)

Quản lý hoạt động tự đánh giá trong kiểm định chất lượng giáo dục ở các trường trung học cơ sở huyện hoài ân, tỉnh bình định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (660.01 KB, 140 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN

VÕ THỊ HOÀI MỸ

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ ĐÁNH GIÁ
TRONG KIỂM ĐỊNH CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC Ở CÁC
•••
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ HUYỆN HỒI ÂN,
••'

TỈNH BÌNH ĐỊNH

Chun ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 814. 01.14

Người hướng dẫn: PGS.TS. LÊ QUANG SƠN


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
ai cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác. Nếu khơng đúng như đã nêu trên,
tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về đề tài của mình.
Tác gia luận văn

Võ Thị Hoài Mỹ


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và thực hiện luận văn, tác giả đã nhận được sự


quan tâm sâu sắc, sự giúp đỡ nhiệt tình của q thầy cơ giáo, bạn bè đồng
nghiệp. Có được kết quả này tác giả xin chân thành cảm ơn đến Quý Thầy, Cô
trong Ban lãnh đạo trường Đại học Quy Nhơn; Quý Thầy, Cô Khoa Khoa học
Xã Hội và Nhân văn; Quý Thầy, Cơ trực tiếp giảng dạy đã tận tình, giúp đỡ tơi
trong q trình học tập, nghiên cứu và hồn thành luận văn.
Với những tình cảm chân thành nhất, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc đối với thầy giáo PGS.TS Lê Quang Sơn đã quan tâm và tận tình hướng
dẫn trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Xin bày tỏ lòng biết ơn đến Lãnh đạo, các phòng ban của Sở GD&ĐT
Bình Định, Phịng Giáo dục và Đào tạo huyện Hoài Ân, Ban giám hiệu và giáo
viên ở các trường THCS trên địa bàn huyện Hoài Ân đã trực tiếp và gián tiếp
giúp đỡ, đóng góp ý kiến quý báu cho luận văn.
Do điều kiện thời gian cũng như kinh nghiệm cịn hạn chế, luận văn này
khơng thể tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự chỉ bảo,
đóng góp ý kiến của quý thầy cơ và đồng nghiệp để tác giả có điều kiện bổ
sung, nâng cao nhận thức của mình, phục vụ tốt hơn trong thực tế công tác.
Xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC
••
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
DANH MỤC CÁC HÌNH

2.3.1.


Thực trạng về nội dung và thực hiện quy trình của hoạt động tự

đánh giá trong kiểm định chất lượng đến chất lượng giáo dục ở các
trường trung
học cơ sở
52
2.3.
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ ĐÁNH GIÁ
TRONG
KIỂM ĐỊNH CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC

DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................
PHỤ LỤC
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ (BẢN SAO)

107


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT
Chữ viết tắt
Nghĩa đầy đủ
1

CBQL

Cán bộ quản lý

2
3


CB

Cán bộ



Cao đẳng

4

CL

Chất lượng

5

CSGD

Cơ sở giáo dục

6
7

CSVC

Cơ sở vật chất

DTTS


Dân tộc thiểu số

8
9

ĐBCL

Đảm bảo chất lượng

ĐH

Đại học

10

GD

Giáo dục

11

GD&ĐT

12
13

GDĐH

Giáo dục đại học


GDTX

Giáo dục thường xuyên

14

GV

Giáo viên

15

HS

Học sinh

16
17

KĐCL
NV

Nhân viên

18
19

QL

Quản lý


QLGD

20

SL

21

TĐG

Tự đánh giá

22
23

THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông

24

TL

Tỷ lệ


25

Tr

Trang

Giáo dục và Đào tạo

Kiểm định chất lượng

Quản lý giáo dục
Số lượng


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Quy mô phát triển trường lớp bậc THCS huyện Hoài Ân trong ba

Bảng 2.14. Thực trạng cơ sở vật chất, thiết bị đảm bảo cho hoạt động TĐG
trong KĐCL giáo dục ở các trường THCS huyện Hồi Ân, tỉnh Bình Định . 64
Bảng 2.15. Thực trạng chỉ đạo thực hiện hoạt động TĐG trong KĐCL giáo dục
ở các trường THCS huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định ..................................... 65
Bảng 2.16. Thực trạng kiểm tra hoạt động TĐG trong KĐCLGD ở các trường
THCS của huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định................................................... 67
Bảng 3.17. Kết quả khảo nghiệm đánh giá về mức độ cấp thiết của các biện
pháp ............................................................................................................... 99
Bảng 3.18. Kết quả khảo nghiệm đánh giá mức độ khả thi của các biện pháp.
........................................................................................................................
100



DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1. Sơ đồ mối quan hệ giữa các chức năng quản lý

14


8

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự nghiệp giáo dục có nhiệm vụ đào tạo các thế hệ cơng dân mới, đầy đủ
tài năng, phẩm chất và bản lĩnh. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 của Ban chấp
hành trung ương khoá VIII đã nhấn mạnh: “Thực sự coi giáo dục - đào tạo là
quốc sách hàng đầu. Nhận thức sâu sắc giáo dục - đào tạo cùng với khoa học
và công nghệ là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội,
đầu tư cho giáo dục - đào tạo là đầu tư phát triển”.
Trong khi đó, chất lượng giáo dục nước ta vẫn cịn rất thấp so với các
nước trong khu vực và trên thế giới. Chiến lược phát triển giáo dục 2011 2020 đã chỉ rõ một trong những bất cập, yếu kém của giáo dục Việt Nam giai
đoạn 2001 - 2010 là: “Chất lượng giáo dục còn thấp so với yêu cầu phát triển
của đất nước trong thời kỳ mới và so với trình độ của các nước có nền giáo dục
tiên tiến trong khu vực, trên thế giới. Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa
phát triển số lượng với yêu cầu nâng cao chất lượng; năng lực nghề nghiệp của
học sinh, sinh viên tốt nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu của cơng việc; có
biểu hiện lệch lạc về hành vi, lối sống trong một bộ phận học sinh, sinh viên”
Với bối cảnh quốc tế và thực trạng giáo dục Việt Nam như nêu trên, chiến
lược phát triển kinh tế xã hội 2011 - 2020 được thông qua tại Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XI nêu rõ: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi
mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại
hóa, xã hội hố, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế
quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then

chốt. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo
đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp”
Để tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, ngành Giáo dục và Đào tạo
Việt Nam cần áp dụng một hệ thống những biện pháp quản lý chất lượng một


9

cách tích cực, đồng bộ; trong đó, kiểm định chất lượng giáo dục được xem là
địn bẩy, là cơng cụ cần thiết và quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục.
Để đạt mục tiêu chiến lược nêu trên thì yêu cầu cấp thiết là phải tìm ra
những giải pháp cơ bản nhằm vượt qua những thách thức. Thách thức nổi bật
của giáo dục nước ta từ khi đổi mới đến nay đó là xu thế tồn cầu hố của nền
kinh tế thế giới, đòi hỏi giáo dục phải hội nhập với nền giáo dục khu vực và
thế giới. Giáo dục Việt Nam phải đổi mới để hội nhập, mà điểm then chốt là
phải phấn đấu vươn tới một chuẩn chung về chương trình đào tạo, mơ hình
quản lý, với trọng tâm là chuẩn về chất lượng và các điều kiện đảm bảo chất
lượng. Một trong những giải pháp quan trọng đó là xây dựng và triển khai hệ
thống kiểm định chất lượng giáo dục từ bậc học mầm non đến bậc đại học, vấn
đề này đã được thể chế hóa trong Luật Giáo dục 2005, quy định tại điều 17:
“Kiểm định chất lượng giáo dục là biện pháp chủ yếu nhằm xác định mức
độ thực hiện mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục đối với nhà trường và
cơ sở giáo dục khác.
Việc kiểm định chất lượng giáo dục được thực hiện định kỳ trong phạm vi
cả nước và đối với từng cơ sở giáo dục. Kết quả kiểm định chất lượng giáo
dục được công bố công khai để xã hội biết và giám sát” [4].
Thực hiện theo Thông tư số: 18/2018/TT-BGDĐT ngày 22 tháng 08 năm
2018 của bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành về kiểm định chất lượng
giáo dục và công nhận trường chuẩn quốc gia đối với các trường trung học cơ
sở, trường trung học phổ thơng và trường phổ thơng có nhiều cấp học, tại Điều

3 quy định: Kiểm định chất lượng giáo dục nhằm xác định trường trung học
đạt mức đáp ứng mục tiêu giáo dục trong từng giai đoạn; lập kế hoạch cải tiến
chất lượng, duy trì và nâng cao chất lượng các hoạt động của nhà trường;
thông báo công khai với các cơ quan quản lý nhà nước và xã hội về thực trạng
chất lượng của trường trung học; để cơ quan quản lý nhà nước đánh giá, công


10

nhận hoặc không công nhận trường đạt kiểm định chất lượng giáo dục.
Tự đánh giá là quá trình trường trung học dựa trên các tiêu chuẩn đánh
giá do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, tự xem xét, đánh giá thực trạng chất
lượng các hoạt động giáo dục cơ sở vật chất, các vấn đề liên quan khác của nhà
trường để điều chỉnh các nguồn lực và quá trình thực hiện nhằm đạt tiêu chuẩn
đánh giá trường trung học.
Tự đánh giá chất lượng giáo dục là khâu đầu tiên và quan trọng nhất
trong tổng thể các hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục. Tự đánh giá là
nghĩa vụ và trách nhiệm của các cơ sở giáo dục phổ thơng trong q trình hình
thành và phát triển, được thực hiện trong quá trình tổ chức kiểm định cơ sở
giáo dục phổ thông. Trước hết, tự đánh giá là thể hiện cụ thể tính tự chủ và tự
chịu trách nhiệm của nhà trường trong toàn bộ các hoạt động của nhà trường;
phù hợp với tơn chỉ mục đích và sứ mệnh của nhà trường, tạo cơ sở cho bước
tiếp theo là đánh giá từ bên ngồi. Ngồi ra mục đích của tự đánh giá không
chỉ là đảm bảo cho nhà trường đào tạo có chất lượng cao mà cịn mang lại
động lực cải tiến và nâng cao chất lượng toàn trường. Nó cịn là cơ sở quan
trọng giúp nhà trường nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo tiền đề cho sự phát
triển bền vững của nhà trường trong tương lai. Vì vậy, tự đánh giá là một hoạt
động địi hỏi tính khách quan, trung thực và cơng khai. Các giải thích, nhận
định, kết luận đưa ra trong quá trnh tự đánh giá phải dựa trên các minh chứng
cụ thể, rõ ràng, tin cậy, bao quát hết các tiêu chí trong các tiêu chuẩn thì mới

đảm bảo sự chính xác trong công tác kiểm định chất lượng giáo dục.
Thời gian qua, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Bình Định đã tích cực, chủ
động chỉ đạo và quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục ở tất cả các
cấp học. Qua hoạt động kiểm định đã có tác dụng bước đầu đảm bảo chất
lượng giáo dục bền vững, ổn định ở các cơ sở giáo dục. Tuy nhiên, sự đầu tư
cho công tác quản lý hoạt động tự đánh giá chưa thực sự thỏa đáng, các biện


11

pháp quản lý còn thiếu đồng bộ và nhất quán, chưa có được sự ủng hộ và chia
sẻ của đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên toàn Huyện dẫn đến hiệu quả của
cơng tác tự đánh giá cịn thấp.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu thực tiễn triển khai hoạt động tự đánh giá ở
các trường trung học cơ sở trên địa bàn huyện Hồi Ân, tỉnh Bình Định trên
nền tảng lý luận về kiểm định chất lượng và hoạt động tự đánh giá trong kiểm
định chất lượng để từ đó đề xuất các biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu
quả công tác này là một yêu cầu hết sức cấp thiết.
Xuất phát từ những lý do trên, đề tài “Quản lý hoạt động tự đánh giá
trong kiểm định chất lượng giáo dục ở các trường trung học cơ sở huyện
Hồi Ân, tỉnh Bình Định” được lựa chọn để nghiên cứu với mục đích góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục cho huyện Hồi Ân nói riêng và tỉnh Bình
Định nói chung.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động tự đánh giá trong kiểm định chất
lượng giáo dục ở các trường THCS, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện bậc THCS ở huyện Hồi Ân, tỉnh Bình Định trong giai đoạn hiện
nay.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1.


Khách thể nghiên cứu

Hoạt động tự đánh giá trong kiểm định chất lượng giáo dục ở các trường
THCS.
3.2.

Đối tượng nghiên cứu

Quản lý hoạt động tự đánh giá trong kiểm định chất lượng giáo dục ở các
trường THCS huyện Hồi Ân, tỉnh Bình Định.
4. Giả thuyết khoa học
Công tác quản lý hoạt động tự đánh giá trong kiểm định chất lượng giáo


12

dục ở các trường THCS huyện Hồi Ân, tỉnh Bình Định trong những năm qua
đã có nhiều điểm tích cực. Tuy nhiên trong quản lý hoạt động này vẫn còn
thiếu tập trung, chưa thống nhất và đồng bộ, do vậy hiệu quả tự đánh giá chưa
cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục
trong tình hình mới. Nếu xây dựng được khung lý thuyết mang tính hệ thống,
khoa học và hợp lý, đánh giá khách quan thực trạng công tác tự đánh giá thì có
thể xác lập được những biện pháp quản lý có tính khả thi đối với hoạt động tự
đánh giá trong kiểm định chất lượng giáo dục ở các trường THCS trong giai
đoạn hiện nay.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1.

Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý hoạt động tự đánh giá trong


kiểm định chất lượng giáo dục ở các trường THCS.
5.2.

Khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động tự đánh giá

và quản lý hoạt động tự đánh giá trong kiểm định chất lượng giáo
dục ở các trường THCS huyện Hồi Ân, tỉnh Bình Định.
5.3.

Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động tự đánh giá trong kiểm

định chất lượng giáo dục ở các trường THCS huyện Hồi Ân, tỉnh
Bình Định.
6. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài đề xuất biện pháp quản lý của Hiệu trưởng đối với hoạt động tự
đánh giá trong kiểm định chất lượng giáo dục trường THCS.
Thời gian nghiên cứu: từ năm 2018 đến năm 2020.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận: Đề tài sử dụng các phương pháp
phân tích và tổng hợp lý thuyết trong nghiên cứu các tài liệu khoa học, văn bản
pháp quy liên quan đến kiểm định chất lượng giáo dục và hoạt động tự đánh
giá trong kiểm định chất lượng nhằm xây dựng cở sở lý luận và các công cụ


13

nghiên cứu cho luận văn.
7.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Đề tài sử dụng các phương
pháp: điều tra bằng bảng hỏi, phương pháp phỏng vấn, phương pháp nghiên

cứu hồ sơ, phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục, phương pháp chuyên
gia nhằm khảo sát thực trạng quản lý hoạt động tự đánh giá trong kiểm định
chất lượng giáo dục, đồng thời khảo sát tính cấp thiết và khả thi của các biện
pháp đề xuất.
7.3 Phương pháp thống kê toán học: Tổng hợp, phân tích các số liệu thu
thập để giải quyết vấn đề.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động tự đánh giá trong kiểm
định chất lượng giáo dục ở các trường THCS.
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động tự đánh giá trong kiểm định chất
lượng giáo dục ở các trường THCS huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định.

Chương
3: Định.
Biện pháp
lýcác
hoạt
động tự
đánh
giáHồi
trong
kiểm
định Bình
tỉnh
chất
lượng
giáoquản
dục ở

trường
THCS
huyện
Ân,


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ ĐÁNH
••••

GIÁ TRONG KIỂM ĐỊNH CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC Ở
•••

CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1.

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ

1.1.1.

Các nghiên cứu ở ngoài nước

Hiện nay, ở bất cứ các Quốc gia nào khi nói đến KĐCL giáo dục thì
khơng còn là một thuật ngữ xa lạ với hầu hết các nước kinh tế phát triển. Chính
vì vậy, KĐCL giáo dục đã và đang trở thành đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển của
các nền GD hiện đại. Các nghiên cứu hoạt động quản lý KĐCL giáo dục phần
lớn xuất phát từ KĐCL giáo dục Đại học tại một số nước trên thế giới.
Kiểm định chất lượng có thể được tiến hành ở phạm vi trường ĐH hoặc
chương trình đào tạo (ngành đào tạo): 6 Hiệp hội trường ĐH, cao đẳng vùng
cùng 5 Hiệp hội cấp quốc gia tiến hành KĐCL trường ĐH và 43 Hội KĐCL

chuyên ngành thực hiện KĐCL chuyên ngành đào tạo. Ví dụ các hiệp hội: Hiệp
hội trường Đại học và Cao đẳng miền Trung Hoa Kỳ (Middle States
Association of Schools and Colleges); Hiệp hội các trường đại học quản trị
kinh doanh Hoa Kỳ (American Assembly of Collegiate School of Business);
Hiệp hội kiểm định chuyên ngành đào tạo giáo viên quốc gia (National Council
for Accreditation of Teacher Education); Hiệp hội chuyên ngành đào tạo Y
khoa Hoa Kỳ (American Medical Association).
Kiểm định chất lượng là hoạt động hồn tồn tự nguyện. Bởi vì, sinh
viên học ở các trường chưa kiểm định sẽ gặp khó khăn trong việc học sau đại
học tại các trường đã kiểm định hoặc khó được thị trường lao động chấp nhận.
Tuy nhiên, có một số chuyên ngành đào tạo cần phải kiểm định như y khoa,


luật... Kiểm định chất lượng là không bắt buộc nhưng phần lớn các trường ĐH
đều tự nguyện đăng ký với các tổ chức hoặc hiệp hội để được kiểm định nhằm
nhận được sự hỗ trợ tài chính từ chính phủ hoặc các tổ chức xã hội, và cũng
muốn bằng cấp của mình được xã hội thừa nhận. Đây là tiêu chuẩn đánh giá
mềm dẻo nên các hiệp hội đã sử dụng bộ tiêu chuẩn đánh giá được xây dựng
có tính mềm dẻo và được thay đổi phù hợp với sứ mạng của từng trường. Quy
trình kiểm định ln gắn với đánh giá đồng cấp (peer review). Các chuyên gia
đánh giá đồng cấp được lựa chọn từ các trường, ngành học hoặc có chun
mơn tương tự như chương trình được đánh giá. Quay lại thời điểm những năm
2000, việc hướng tới một chuẩn chất lượng đã được ngành giáo dục đặt ra như
một vấn đề trọng tâm cần giải quyết. Chuẩn quốc gia được coi như mốc cơ bản
đối với những trường muốn khẳng định chất lượng đào tạo. Tuy nhiên, xu thế
hội nhập quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng khiến các trường ĐH bắt buộc
phải tìm cho mình những thước đo mới tầm cỡ quốc tế. Năm 1995 Mạng lưới
các trường đại học Đông Nam Á mới ra đời và đến năm 2000 các thành viên
ban đầu của AUN (ASEAN University Network - Quality Assurance) cùng nhau
xây dựng các tiêu chuẩn nhằm đẩy mạnh xây dựng một hệ thống đảm bảo chất

lượng để sử dụng như một công cụ duy trì, cải tiến và nâng cao chất lượng
giảng dạy, nghiên cứu trong các trường ĐH thành viên AUN; xây dựng những
chuẩn mực chất lượng chung cho các trường ĐH thành viên AUN; thúc đẩy
công nhận chuẩn chất lượng giữa các trường ĐH thành viên AUN. Kiểm định
chất lượng giáo dục quốc tế là sự công nhận, đánh giá của một tổ chức độc lập
về hoạt động của một trường Đại học, từ đó giúp các trường cải tiến, nâng cao
chất lượng giáo dục.
Hoa kỳ là nước đầu tiên trong việc tiến hành KĐCL giáo dục Đại học.
Còn ở Hà Lan, có hai hình thức đào tạo bậc ĐH là các trường Đại học Giáo
dục Chuyên nghiệp (UPE - The University of Professional Education) và các


trường Đại học Nghiên cứu (VSNU - Association of Universities in the
Netherlands).Hệ thống giáo dục đại học chuyên nghiệp: chương trình của các
trường đại học (gọi là hogescholen) hướng vào ngành nghề cụ thể. Sinh viên
thực hành kinh nghiệm làm việc theo thông qua việc thực tập trong quá trnh
đào tạo. Tất cả các trường ĐH và GD chuyên nghiệp liên kết thành Hiệp hội
giáo dục đại học chuyên nghiệp. Từ năm 1990, Hiệp hội thực hiện dự án
"Đánh giá chất lượng" cho tất cả các trường ĐH thành viên và đưa ra mơ hình
mới cho "kiểm định cơng nhận chất lượng" gồm các tiêu chuẩn đánh giá như:
Mục đích và mục tiêu đào tạo; Thiết kế chương trình; Chất lượng đội ngũ
giảng viên; Cơ sở vật chất; Hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong; Kết quả
đầu ra của sinh viên. Mục đích của việc đánh giá chất lượng là nhằm có được
cái nhìn tổng thể về chất lượng giáo dục và giúp cải tiến chất lượng, nâng cao
sự hiểu biết của xã hội về các chương trình và bằng cấp của hệ thống Giáo dục
ĐH Chuyên nghiệp. Việc đánh giá do Hội đồng giáo dục đại học chuyên
nghiệp (HBO) thuộc hệ thống giáo dục đại học chuyên nghiệp tiến hành và
đánh giá chất lượng cho từng chuyên ngành hoặc nhóm ngành đào tạo.
Hệ thống đánh giá chất lượng Hà Lan đã triển khai hoạt động rất tốt và
được các bên liên quan chấp nhận. Hệ thống đã có những tác động tích cực đối

với các trường ĐH Hà Lan trong việc tăng cường ý thức về chất lượng, giúp
phát triển cơ chế đảm bảo chất lượng bên trong và báo cáo cho công chúng về
chất lượng các trường ĐH. Hà Lan có 14 trường ĐH nghiên cứu, chủ yếu đào
tạo sinh viên trong lĩnh vực khoa học và ứng dụng khoa học. Các trường ĐH
tại Hà Lan được giao quyền tự chủ nhưng đồng thời được yêu cầu nâng cao
tính chịu trách nhiệm và đảm bảo chất lượng.
Tới nay, hầu hết các nước đều tiến hành tổ chức KĐCL và đưa ra bộ tiêu
chuẩn cụ thể để đánh giá chất lượng giáo dục các trường và đưa ra chương
trình đào tạo và tùy thuộc vào đặc trưng của các cơ sở kiểm định các nước trên


thế giới. Dù còn nhiều bất cập nhưng các nước đang dần dần hoàn thiện lại tiêu
chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục để khẳng định với xã hội về chất lượng và
hiệu quả của cơ sở giáo dục hoặc chương trình đào tạo.
1.1.2.

Các nghiên cứu ở trong nước

Trong những năm gần đây ở Việt Nam sự phát triển kinh tế một cách
mạnh mẽ nên chất lượng giáo dục cũng đã và đang phát triển theo, được các
cấp, các ngành và xã hội quan tâm. Trong xu thế quốc tế hóa và tồn cầu hóa,
trong thời gian qua ở nước ta các nhà khoa học, các nhà QLGD, các nhà
nghiên cứu giáo dục đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về vấn đề này. Ngồi
ra, cịn có các luận văn thạc sĩ chuyên ngành quản lý giáo dục cũng đề cập đến
vấn đề chất lượng, ĐBCL, KĐCL giáo dục ở trường ĐH, cao đẳng theo những
cách tiếp cận khác nhau và đã có những đóng góp nhất định đối với công tác
quản lý chất lượng, ĐBCL, KĐCL giáo dục.
Một số đề tài như “Đánh giá chất lượng giáo dục: nội dung- phương
pháp- kỹ thuật” [23] của Trần Thị Bích Liễu đã trình bày các nguyên tắc,
phương pháp và kỹ thuật đánh giá; các nội dung đánh giá trong giáo dục. Trần

Khánh Đức thông qua “Quản lý và KĐCL đào tạo nhân lực theo I SO & TQM”
[17] đã đề cập các phương pháp nghiên cứu đánh giá chất lượng đào tạo;
KĐCL đào tạo ĐH; kiểm định các điều kiện ĐBCL các trường trung học
chuyên nghiệp và dạy nghề.
Đề tài “Kiểm định chất lượng trong giáo dục Đại học” [11] do Nguyễn
Đức Chính làm chủ nhiệm đề tài đã cung cấp cơ sở lí luận khoa học về kiểm
định, ĐBCL và các mơ hình quản lý chất lượng giáo dục ĐH. Đặc biệt, đề tài
đã xây dựng Bộ tiêu chí đánh giá chất lượng và điều kiện ĐBCL đào tạo dùng
cho các trường ĐH Việt Nam và hướng dẫn tiến hành quy trình KĐCL. Ngồi
ra, đề tài cịn cung cấp những kinh nghiệm hay trong lĩnh vực KĐCL giáo dục
Đại học của nhiều nước tiên tiến trên thế giới và các nước đang phát triển trong


khu vực. Đây là đề tài đầu tiên của Việt Nam cung cấp thơng tin về một quy
trình KĐCL hồn chỉnh [11, tr. 111]. Trong bối cảnh hội nhập trước các yêu
cầu đổi mới giáo dục, vấn đề KĐCL giáo dục trở nên cấp thiết. Trước yêu cầu
đó, Nguyễn Quang Giao đã “Hệ thống đảm bảo chất lượng quá trình dạy học ở
trường đại học” [18], trong đó nêu lên các quan niệm về chất lượng giáo dục,
KĐCL; phân tích các thành tố tạo nên chất lượng; các mơ hình đảm bảo và
quản lý chất lượng; mục đích, mục tiêu, đặc trưng vai trò ý nghĩa của KĐCL và
hướng dẫn quy trình KĐCL giáo dục.
Trong chương trình đào tạo sau đại học chuyên ngành quản lý giáo dục,
đã có nhiều luận văn tốt nghiệp; luận án nghiên cứu về chất lượng dạy học;
chất lượng đào tạo, quản lý chất lượng dạy học ở các cấp học như: “ Biện pháp
quản lý hoạt động tự đánh giá trong kiểm định chất lượng giáo dục của trường
Đại học Quy Nhơn” của Nguyễn Thị Kiều Thu (2013); đã đề xuất các biện
pháp quản lý hoạt động nhằm đánh giá tổng thể các mặt hoạt động của nhà
trường góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện công tác kiểm định chất lượng
giáo dục đại học trong giai đoạn hiện nay. Trong thời gian gần đây, đã có một
số luận văn thạc sĩ chuyên ngành QLGD đề cập đến như tác giả Nguyễn Trọng

Ngoạn (2019) với đề tài: “Quản lý hoạt động tự đánh giá trong kiểm định chất
lượng giáo dục ở các trường tiểu học Huyện Chư PăH, tỉnh Gia Lai” đã đề xuất
các biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả công tác tự đánh giá nói riêng
và chất lượng giáo dục nói chung tại các trường tiểu học, hay tác giả Dương
Thị Kim Liên (2018) với đề tài:”Quản lý hoạt động tự đánh giá trong kiểm
định chất lượng giáo dục ở các trường mầm non Huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng
Ngãi” đã đề xuất các biện pháp quản lý đảm bảo chất lượng của báo cáo tự
đánh giá theo quy định và thực hiện hoạt động tự đánh giá theo đúng tiến độ
của các trường mầm non huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Tuy nhiên, chưa
có cơng trình nghiên cứu nào đi sâu nghiên cứu về quản lý hoạt động TĐG


trong KĐCL giáo dục ở các trường THCS, các đề tài chỉ đề cập đến những vấn
đề về cơ sở lý luận khoa học chung cho công tác KĐCL giáo dục và tập trung
vào việc nghiên cứu KĐCL trong giáo dục trường Đại học và cấp tiểu học, cấp
mầm non.
Tuy nhiên, đến nay trên địa bàn Huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định chưa có
đề tài nào nghiên cứu về quản lý hoạt động TĐG trong KĐCL giáo dục ở các
trường THCS. Do đó, chúng tơi thấy rằng việc lựa chọn vấn đề quản lý hoạt
động tự đánh giá trong kiểm định chất lượng giáo dục ở các trường trung học
cơ sở huyện Hồi Ân, tỉnh Bình Định là vấn đề cần thiết, cần được nghiên cứu
để góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục của nhà trường và đáp ứng yêu cầu
của xã hội.
1.2.

CÁC KHÁI NIỆM CHÍNH CỦA ĐỀ TÀI

1.2.1.

Quản lý giáo dục


1.2.1.1. Quản lý
Quản lý là một hoạt động quan trọng nhất trong các hoạt động của con
người. Quản lý đúng tức là con người đã nhận thức được quy luật, vận động
theo quy luật và sẽ đạt được những thành công to lớn. Nghiên cứu về quản lý
sẽ giúp cho con người có được những kiến thức cơ bản nhất, chung nhất đối
với hoạt động quản lý.
Theo C. Mác: "Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung
nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ
đạo. Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, cịn một dàn nhạc
thì cần phải có nhạc trưởng" [9]. Như vậy C. Mác đã lột tả được bản chất quản
lý là một hoạt động lao động, một hoạt động tất yếu vô cùng quan trọng trong
quá trình phát triển của lồi người.
Theo Đặng Quốc Bảo: “Quản lý một tổ chức là nhằm đạt đến sự ổn định
và phát triển bền vững các quá trình xã hội, q trình tồn tại của tổ chức đó”


[2].
Theo Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc cho rằng: “Hoạt động
quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người
quản lý) đến khách thể quản lý (người được quản lý) trong một tổ chức làm
cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức” [9].
Có thể hiểu, quản lý là một khái niệm bao gồm các thành tố: chủ thể QL,
khách thể quản lý và mục tiêu quản lý. Tuy nhiên bản chất của quá trình quản
lý là q trình tác động của chủ thể quản lý thơng qua các hoạt động chuyên
biệt. Vì thế quản lý vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Nó mang tính khoa học
vì các hoạt động quản lý có tổ chức, có định hướng đều dựa trên những qui
luật, những quy tắc và phương pháp hoạt động cụ thể, đồng thời cũng mang
tính nghệ thuật vì nó cần được vận dụng một cách sáng tạo vào những điều
kiện cụ thể, đối tượng cụ thể, trong sự kết hợp và tác động nhiều mặt của các

yếu tố khác nhau trong đời sống xã hội.
Khái niệm quản lý có thể được hiểu như sau: Quản lý là q trình tác
động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể QL (người QL) lên khách
thể QL (người bị QL) về các mặt chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội... bằng một
hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và các
biện pháp cụ thể nhằm làm cho tổ chức vận hành đạt tới mục tiêu quản lý.
Quản lý có 4 chức năng cơ bản như sau:
- Chức năng kế hoạch hoá: Đây là chức năng đầu tiên, có vai trị định
hướng cho tồn bộ hoạt động. Căn cứ vào thực trạng của tổ chức và căn cứ vào
nhiệm vụ được giao, vạch ra mục tiêu của tổ chức và xây dựng chương trình
hoạt động tìm biện pháp, cách thức tốt nhất để thực hiện mục tiêu.
- Chức năng tổ chức: Nội dung của chức năng tổ chức là việc thiết lập cấu
chúc của bộ máy quản lý (tổ chức công việc, sắp xếp con người). Đây là quá
trình phân phối và sắp xếp nguồn lực theo những cách thức nhất định nhằm


thực hiện tốt mục tiêu của kế hoạch.
- Chức năng chỉ đạo: Là phương thức tác động của chủ thể quản lý bằng
các quyết định nhằm điều hành bộ máy vận hành theo đúng kế hoạch đạt tới
mục tiêu quản lý, trong đó bao gồm cả việc khuyến khích, động viên.
- Chức năng kiểm tra, đánh giá: Đây là chức năng cuối cùng và rất quan
trọng của quá trình quản lý. Đây là quá trình xem xét, giám sát thực tiễn hoạt
động của bộ máy, nhằm kịp thời điều chỉnh sai sót, được bộ máy đạt được mục
tiêu đã xác định
Các chức năng tạo thành một chu trình quản lý của một hệ thống, chúng
có mối quan hệ mật thiết với nhau được thể hiện qua sơ đồ sau:

Hình 1.1. Sơ đồ mối quan hệ giữa các chức năng quản lý

Ngồi ra thơng tin rất cần cho quản lý, khơng có thơng tin, khơng có tiến

hành quản lý và điều khiển bất cứ hệ thống nào. Do vậy, có thể coi thông tin là
chức năng đặc biệt cùng với 4 chức năng đã nêu trên. Trong đó, thơng tin là
chức năng trung tâm. Các chức năng quản lý tạo thành một hệ thống thống
nhất một chu trình quản lý của một hệ thống. Trong đó, từng chức năng vừa có
tính độc lập tương đối, vừa có quan hệ biện chứng với nhau.
1.2.1.2. Quản lý giáo dục
Theo A.G.Afanaxep đã phân chia trong cuốn sách kinh điển nổi tiếng của
mình: "Con người trong quản lý xã hội" thì ở các nước xã hội chủ nghĩa, do


vận dụng quản lý xã hội vào quản lý giáo dục, nên quản lý giáo dục thường
được xếp trong lĩnh vực quản lý văn hoá tư tưởng. Như vậy, quản lý giáo dục
được coi là bộ phận nằm trong lĩnh vực quản lý văn hoá tinh thần.
Ở Việt Nam, quản lý giáo dục cũng là một lĩnh vực được đặc biệt quan
tâm. Nghị quyết Hội nghị lần thứ II Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá
VIII đã viết: Quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý tới
khách thể quản lý nhằm đưa ra hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt
tới kết quả mong muốn bằng cách hiệu quả nhất.
Quản lý giáo dục là sự vận dụng một cách cụ thể các nguyên lý của quản
lý nói chung vào lĩnh vực giáo dục. Quản lý giáo dục là những tác động có kế
hoạch, có mục đích của chủ thể quản lý đến các mắt xích của hệ thống giáo
dục, làm cho hệ thống vận hành hợp quy luật, sử dụng tối ưu nguồn lực xã hội
giành cho giáo dục để nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quát là hệ
thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản
lý trong hệ thống giáo dục, là sự điều hành hệ thống giáo dục quốc dân, điều
hành các cơ sở giáo dục nhằm thực hiện mục tiêu đẩy mạnh công tác giáo dục
theo yêu cầu phát triển của xã hội (nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài).[3]
Quản lý giáo dục là phức tạp. Tác giả Trần Kiểm đề cập 2 cấp độ quản lý

giáo dục:
Một là ở cấp vĩ mô (hệ thống giáo dục): “Quản lý giáo dục là hoạt động
tự giác của chủ thể nhằm huy động, tổ chức điều phối, điều chỉnh, quan sát ...
một cách có hiệu quả các nguồn lực giáo dục (nhân lực, vật lực, tài lực) phục
vụ cho mục tiêu phát triển giáo dục, đáp ứng yêu cầu kinh tế - xã hội”[21].
Hai là ở cấp vi mô (nhà trường): “Quản lý giáo dục thực chất là những
tác động của chủ thể quản lý vào quá trình giáo dục (được tiến hành bởi tập


thể giáo viên và học sinh, với sự hỗ trợ đắc lực của các lực lượng xã hội )
nhằm hình thành phát triển toàn diện nhân cách học sinh theo mục tiêu đào
tạo của nhà trường” [21].
Như vậy, ta có thể hiểu QLGD là sự tác động có chủ đích, có căn cứ khoa
học, hợp quy luật và phù hợp với các điều kiện khách quan của chủ thể quản lý
tới đối tượng quản lý nhằm phát huy sức mạnh các nguồn lực giáo dục, từ đó
đảm bảo các hoạt động của tổ chức, hệ thống giáo dục đạt được các mục tiêu
đã đề ra với chất lượng, hiệu quả cao nhất.
1.2.2.

Chất lượng giáo dục

1.2.2.1. Chất lượng
Chất lượng là sự đáp ứng với mục tiêu đã đặt ra và mục tiêu đó phải phù
hợp với yêu cầu phát triển của xã hội.
Tùy theo đối tượng sử dụng, từ "chất lượng" có ý nghĩa khác nhau. Người
sản xuất coi chất lượng là điều họ phải làm để đáp ứng các qui định và yêu cầu
do khách hàng đặt ra, để được khách hàng chấp nhận. Chất lượng được so sánh
với chất lượng của đối thủ cạnh tranh và đi kèm theo các chi phí, giá cả. Do
con người và nền văn hóa trên thế giới khác nhau, nên cách hiểu của họ về chất
lượng và đảm bảo chất lượng cũng khác nhau.

Theo tác giả Nguyễn Đức Chính, hiện nay trên thế giới có sáu quan điểm
về chất lượng GD ĐH như sau [11].
- Chất lượng được đánh giá “đầu vào”: theo quan điểm này, một trường
ĐH có chất lượng cao nếu tuyển được nhiều SV giỏi, có đội ngũ cán bộ giảng
dạy có uy tín, có cơ sở vật chất tốt và trang thiết bị hiện đại,... Tuy nhiên, theo
quan điểm này, sẽ khó giải thích một trường hợp một trường ĐH có nguồn lực
dồi dào nhưng chỉ có những hoạt động đào tạo hạn chế; hoặc ngược lại, một
trường có những nguồn lực khiêm tốn nhưng đã cung cấp cho sinh viên một
chương trình đào tạo hiệu quả.


- Chất lượng được đánh giá “đầu ra”: trường ĐH có chất lượng cao nếu
đào tạo được nhiều sinh viên tốt nghiệp giỏi, thực hiện được nhiều cơng trình
khoa học có giá trị, nhiều khóa học thu hút người học,... Trên thực tế, quan
điểm này chưa hoàn toàn phù hợp vì một trường có khả năng tiếp nhận các SV
xuất sắc khơng có nghĩa là sinh viên của họ tốt nghiệp loại xuất sắc. Hơn thế
nữa cách đánh giá đầu ra của các trường rất khác nhau.
- Chất lượng được đánh giá bằng “giá trị gia tăng”: trường ĐH có chất
lượng cao nếu tạo được sự khác biệt lớn trong sự phát triển về trí tuệ và cá
nhân sinh viên sau quá trình đào tạo tại trường. Điểm hạn chế của quan điểm
này là khó có thể thiết kế một thước đo thống nhất để đánh giá chất lượng “đầu
vào” và “đầu ra” để tìm hiệu số của chúng và đánh giá chất lượng của trường
đó.
- Chất lượng được đánh giá bằng “giá trị học thuật”: trường ĐH có chất
lượng cao nếu có được đội ngũ cán bộ giảng dạy, các nhà khoa học có uy tín
lớn. Tuy nhiên, điểm yếu của quan điểm này là ở chỗ, liệu có thể đánh giá
được năng lực chất xám của đội ngũ cán bộ giảng dạy và nghiên cứu khi có xu
hướng chuyên ngành hóa ngày càng sâu, phương pháp luận ngày càng đa dạng.
- Chất lượng được đánh giá bằng “văn hóa tổ chức riêng”: trường ĐH có
chất lượng cao nếu có được một truyền thống tốt đẹp về hoạt động không

ngừng nâng cao chất lượng đào tạo. Quan điểm này được mượn từ lĩnh vực
công nghiệp và thương mại nên khó có thể áp dụng trong lĩnh vực giáo dục
ĐH.
- Chất lượng được đánh giá bằng “kiểm toán”: trường ĐH có chất lượng
cao nếu kết quả kiểm tốn chất lượng cho thấy nhà trường có thu thập đủ thơng
tin cần thiết và những người ra các quyết định có đủ thông tin cần thiết, sự hợp
lý và hiệu quả của quá trình thực hiện các quyết định về chất lượng. Điểm yếu
của quan điểm này là sẽ khó lý giải những trường hợp khi một cơ sở ĐH có


đầy đủ phương tiện thu thập thông tin, song vẫn có thể có những quyết định
chưa phải là tối ưu.
Trên cơ sở phân tích sáu quan điểm nêu trên, tác giả Nguyễn Đức Chính
nêu rõ “chất lượng là một khái niệm tương đối, rộng, đa chiều” và “chất lượng
là sự phù hợp với mục đích hay đạt được các mục đích đề ra trước đó”
1.2.2.2. Chất lượng giáo dục trung học cơ sở
Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng giáo dục toàn diện nhằm đáp ứng yêu
cầu của đất nước về con người, nguồn nhân lực trong quá trình thực hiện cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Giáo dục là hoạt động xã hội đặc
biệt, sản phẩm giáo dục là con người có trí tuệ và nhân cách. Giáo dục là quá
trnh có nhiều lực lượng tham gia: nhà trường, gia đình, xã hội, bản thân người
học, môi trường. Giáo dục phát triển theo nhiều giai đoạn với từng cấp học,
ngành học, với mỗi cấp học, ngành học lại có mục tiêu riêng.
Chất lượng giáo dục được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, tùy thuộc vào
chủ thể đánh giá: người học, người dạy, cha mẹ học sinh, các cơ quan quản lý,
vào từng cấp học, bậc học, ngành học, thời điểm đánh giá và tình trạng phát
triển kinh tế xã hội ở mỗi giai đoạn cụ thể của đất nước.
Nhiều quốc gia sử dụng khái niệm “chất lượng giáo dục là sự đáp ứng với
mục tiêu giáo dục”. Đối với Việt Nam, khái niệm này được xem là phù hợp
nhất, có tính khuyến khích và tạo cơ hội cho các nhà trường phấn đấu đạt được

chuẩn chất lượng trong từng giai đoạn nhất định để thực hiện mục tiêu giáo
dục theo từng giai đoạn trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ đã được quy định
bởi Luật Giáo dục.
Chất lượng giáo dục là sự phù hợp với mục tiêu giáo dục. Đối với bậc
THCS, mục tiêu giáo dục ở bậc THCS được quy định rõ trong Luật Giáo dục
“Giáo dục trung học cơ sở nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết
quả của giáo dục tiểu học, có học vấn phổ thơng ở trình độ cơ sở và những


×