TIỂU LUẬN
Mơn: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề tài: Những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trị của Đảng
Cộng sản Việt Nam
Mục lục
Mở đầu........................................................................................................................................................2
1.Mục đích, yêu cầu....................................................................................................................................3
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu..............................................................................................................3
3. Những đóng góp của đề tài.....................................................................................................................3
4. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................................................3
Chương I: Cơ sở lý luận về vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí
Minh.............................................................................................................................................................3
1. Tính tất yếu về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.........................................................................3
2. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cách mạng giải phóng dân tộc..........................................5
Chương II: Tư tưởng chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng..................................................................6
1.Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của Đảng lãnh đạo..............................................................................6
2.Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của Đảng cầm quyền...........................................................................7
3.Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị Xây dựng và chỉnh đốn Đảng..............................................................9
Chương III: Ý nghĩa....................................................................................................................................10
1.Bối cảnh thực tiễn hiện nay...................................................................................................................10
1.1.Bối cảnh Thế giới.................................................................................................................................10
1.2.Bối cảnh tại Việt Nam..........................................................................................................................11
BÁO CÁO TỔNG KẾT THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 10 NĂM 2011 - 2020, XÂY
DỰNG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 10 NĂM 2021 – 2030, BCH TW ĐẢNG, 20/10/2020,
Báo Nhân dân............................................................................................................................................11
2.Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của Đảng Cộng sản Việt Nam trong tình hình thực tiễn
hiện nay.....................................................................................................................................................11
Kết luận......................................................................................................................................................15
Tài liệu tham khảo.....................................................................................................................................15
1
Mở đầu
Từ rất sớm chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra, sự lãnh đạo của Đảng không
phải là quyền lực mà Đảng tự đặt ra cho mình, cũng khơng phải do sự áp đặt đối
với quần chúng, mà phải do quần chúng thừa nhận một cách tự nhiên. Có như vậy,
Đảng mới đoàn kết được dân tộc, mới trở thành lãnh tụ của dân tộc trong cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
tuân theo những quy luật khách quan, đó chính là sự vận dụng, phát triển của phong
trào công nhân kết hợp với chủ nghĩa Mác – Lênin và phong trào yêu nước của dân
tộc. Bởi vậy, từ khi Đảng xuất hiện theo quy luật vừa phổ biến vừa đặc thù, đã đưa
cách mạng Việt Nam vào một bước ngơặt, mở ra một chân trời mới, đầy triển vọng
cho dân tộc và nhân dân Việt Nam cùng đi lên phát triển.
Có thể nói trải qua lịch sử hàng nghìn năm của đất nước, qua biết bao thăng
trầm trong sự nghiệp đấu tranh, gìn giữ và bảo vệ đất nước, lịch sử đã ghi nhận sự
ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là dấu son lịch sử, và từ dấu son ấy đã làm nên
một đất nước Việt Nam có được cơ đồ như ngày hơm nay. Từ khi thành lập đến nay,
nhờ có lý luận tiên phong dẫn đường, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta dành hết thắng
lợi này đến thắng lợi khác. Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới (năm 1986)
đến nay, Đảng đã có nhiều đóng góp cho sự nghiệp lý luận, đặc biệt là những luận
điểm mới về chủ nghĩa xã hội và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Tuy nhiên, trong suốt quá trình đổi mới, nhìn chung cơng tác lý luận vẫn
khơng theo kịp sự phát triển của thực tiễn, vẫn khơng ít tổ chức Đảng và đội ngũ
đảng viên chưa nắm chắc những vấn đề lý luận về công tác tư tưởng. Thậm chí, tình
trạng này vẫn cịn vơ hiệu hóa các giải pháp có giá trị về nâng cao chất lương, hiệu
quả cơng tác tư tưởng. Do đó nâng cao tầm tư tưởng và trí tuệ của Đảng trong giai
đoạn mới hiện nay có ý nghĩa quyết định việc thực hiện mục tiêu phấn đấu xây
dựng đất nước ta dân giàu nước mạnh. Đặc biệt là trong giai đoạn sắp tới khi Nghị
quyết của Đại hội 13 đi vào thực tiễn, địi hỏi cần phải có một sự lãnh đạo tồn diện
của Đảng và sự hưởng ứng nhiệt tình đơng đảo của quần chúng nhân dân thì đất
nước mới hồn thành sứ mệnh lịch sử.
Xuất phát từ những quan điểm trên, tất cả đều mang tính thiết thực và cấp
bách, tơi xin chọn đề tài “Những quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của Đảng
Cộng sản Việt Nam” để làm rõ những quan điểm mang tính cốt lõi về việc xây
dựng Đảng cũng như các quan điểm mang tính thời đại của chủ tịch Hồ Chí Minh.
1. Mục đích, yêu cầu
1.1. Mục đích: Mỗi cơng dân Việt Nam cần phải xác định đúng đắn, nhìn nhận
được tầm quan trọng và vai trị lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng
Việt Nam, cụ thể là sinh viên cần có nhận thức đúng đắn về Đảng trong công cuộc
xây dựng đất nước Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội.
1.2. Yêu cầu:
a. Phân tích và làm sáng tỏ vai trị lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp
cách mạng Việt Nam (cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng xã hội chủ
nghĩa).
b. Đánh giá một cách khách quan vai trò lãnh đạo của Đảng.
c. Các yêu cầu thực tiễn đối với vai trò lãnh đạo của Đảng trong xu thể
mới hiện nay.
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
2.2. Đối tượng: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
2.3. Phạm vi nghiên cứu: Tất cả các quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh trong
cơng tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng từ lúc trước khi thành lập cho tới khi thành
lập và về sau.
3. Những đóng góp của đề tài
Nắm rõ hơn những quan điểm về vai trò lãnh đạo của Đảng trong quá khứ
và liên hệ với sự nghiệp xây dựng Đảng hiện tại và tương lai. Góp phần làm tăng
thêm sự hiểu biết cũng như việc đánh gia đúng vị trí và vai trò lãnh đạo của Đảng
trong giai đoạn mới hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài áp dụng phương pháp lý luận kết hợp giữa phân tích và tổng hợp.
Bên cạnh đó học tập phương pháp của chủ tịch Hồ Chí Minh gắn lý luận với thực
tiễn trong quá trình cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
Chương I: Cơ sở lý luận về vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong tư tưởng
của chủ tịch Hồ Chí Minh
1. Tính tất yếu về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trong tác phẩm Đường cách mệnh (năm 1927), Hồ Chí Minh khẳng định:
Cách mạng trước hết phải có “Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức
dân chúng. ngồi thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vơ sản giai cấp ở mọi nơi.
Đảng có vùng cách mệnh mới hành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền
mới chạy”. 1
Khẳng định đảng cộng sản “như người cầm lái" cho con thuyền là quan
điểm nhất quán của Hồ Chí Minh về vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong suốt cả quá trình cách mạng, cả trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân và cả trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam là một tất yếu, vai trò lãnh đạo của Đảng cũng là một tất yếu – điều
đó xuất phát từ yêu cầu phát triển của dân tộc Việt Nam. Thực tế qua trinh cách
mạng Việt Nam vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh đã nói lên rằng, sự
bảo đảm, phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt tiến
trình phát triển của đất nước theo mục tiêu chủ nghĩa xã hội là một nguyên tắc vận
hành của xã hội Việt Nam từ khi có Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện là một
đảng chính trị tồn tại và phát triển theo những quan điểm của VILênin về đảng
kiểu mới của giai cấp vơ sản.
Hồ Chí Minh là người trung thành với học thuyết Mác - Lênin, trong đó có
lý luận của V.I. Lênin về đăng kiểu mới của giai cấp vô sản, đồng thời vận dụng
sáng tạo và phát triển lý luận đó vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Trên thế giới,
nói chung. sự ra đời của một đảng cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa
xã hội khoa học với phong trào cơng nhân. Cịn đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh
cho rằng: Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của sự kết hợp chủ
nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Như vậy, so
với học thuyết Mác - Lênin thì Hồ Chí Minh đưa thêm vào yếu tố thứ ba nữa, đó
là phong trào yêu nước.
Tư tưởng Quan điểm của Hồ Chí Minh trên đây là hồn tồn phù hợp với xã hội
thuộc địa và phong kiến như Việt Nam, khi mọi giai cấp, tầng lớp, trừ tư sản mại bản
và đại địa chủ, cịn đều có mâu thuẫn dân tộc. Đó là mâu thuẫn cơ bản giữa toàn thể
nhân dân Việt Nam với các thế lực đế quốc và tay sai. Trong thực tế, những phong trào
đấu tranh của công nhân đã kết hợp được rất nhuần nhuyễn với phong trào yêu nước.
Một số người Việt Nam yêu nước lúc đầu đi theo xu hưởng dân chủ tư sản, nhưng qua
thực tế được sự tác động của chủ nghĩa Mác - Lênin, đã dần dần tiến theo xu hướng
cộng sản, rõ nhất là từ năm 1925 trở đi. Hàng loạt tổ chức yêu nước ra đời, trong đó
1
Hồ Chí Minh: tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, t.2, tr.289.
nổi rõ nhất là tổ chức Hội Việt Nam Cách mệnh Thanh niên do Hồ Chí Minh lập ra.
Đấu tranh giai cấp quyền chặt với đấu tranh dân tộc. Thật khó mà tách bạch mục tiêu
cơ bản giữa các phong trào đó, tuy lực lượng, phương thức, khẩu hiệu đầu tranh có
khác nhau, nhưng mục tiêu chung là: Giành độc lập, tự do cho dân tộc. Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời, tồn tại và phát triển chính là do nhu cầu tất yếu của xã hội Việt Nam
từ đầu năm 1930 trở đi. Đảng đã được toàn dân tộc trao cho sứ mệnh lãnh đạo đất
nước trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và đi lên chủ nghĩa xã hội.
2. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cách mạng giải phóng dân tộc
Trải qua gần 90 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng
bước thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình. 15 năm sau khi thành lập, Đảng ta
đã lãnh đạo Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, đánh đuổi đế quốc, thực dân,
lật đổ chế độ phong kiến, lập ra nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á; mở
ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập, tự do và
chủ nghĩa xã hội. Khi thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam, cả dân tộc Việt Nam
đã nghe theo lời kêu gọi của Đảng, của Bác Hồ, lên đường kháng chiến và cuối cùng
đã giành được thắng lợi to lớn, đánh thắng đế quốc xâm lược và lập lại hồ bình ở
miền Bắc Việt Nam. Trong hoàn cảnh đất nước tạm bị chia làm hai miền, Đảng đã lãnh
đạo nhân dân cả nước tiến hành đồng thời hai cuộc cách mạng: Cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Khi Mỹ đưa
quân vào xâm lược ở miền Nam, tiến hành chiến tranh cục bộ đánh phá các căn cứ
cách mạng ở miền Nam và mở rộng chiến tranh xâm lược ra miền Bắc (1964), Đảng
Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân hai miền "đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy
nhào", giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc (1975), đưa cả nước đi lên
chủ nghĩa xã hội.
Với thắng lợi vĩ đại của các cuộc cách mạng: Tháng Tám năm 1945, cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946 - 1954) và cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước (1954 - 1975) do Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí
Minh vĩ đại lãnh đạo, dân tộc Việt Nam trở thành một trong những dân tộc đầu tiên
làm cách mạng giải phóng dân tộc thành cơng ở một nước thuộc địa và lệ thuộc; một
trong những dân tộc đầu tiên đánh bại chủ nghĩa thực dân cũ và chủ nghĩa thực dân
mới, mở đầu phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ-La tinh.
Sau thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh mùa Xuân năm 1975, đất nước Việt
Nam thống nhất, Đảng lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trước tình hình đất nước gặp nhiều khó khăn về kinh tế,
đời sống nhân dân còn thiếu thốn, Đảng ta đã chủ động khởi xướng và lãnh đạo thành
công công cuộc đổi mới đất nước (1986). Những thành tựu to lớn trong 30 năm đổi
mới trên các lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội, quốc phịng - an ninh, quan
hệ quốc tế... đã khẳng định tính đúng đắn và sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Từ một đất nước bị tàn phá nặng nề bởi nhiều cuộc chiến tranh xâm lược của chủ
nghĩa đế quốc, bị các thế lực thù địch điên cuồng chống phá, bị bao vây, cấm vận kinh
tế, lại phải chịu nhiều tổn thất do thiên tai khắc nghiệt gây ra, Việt Nam đã nhanh
chóng khơi phục và phát triển kinh tế - xã hội; đời sống của các tầng lớp nhân dân lao
động không ngừng được cải thiện; chính trị ổn định; lịng tin của quần chúng nhân dân
đối với Đảng được củng cố; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. 2
Chương II: Tư tưởng chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng
1.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của Đảng lãnh đạo
“Đảng lãnh đạo” là một khái niệm được các nhà kinh điển Mác – xít nêu ra vào
thập niên cuối thế kỷ XIX, đánh dấu sự trưởng thành về mặt tổ chức với sự ra đời các
đảng của giai cấp công nhân, lực lượng tiên phong thực hiện sứ mệnh lịch sử thủ tiêu
chế độ bóc lột, xây dựng một xã hội mới, khơng có áp bức, bất cơng. “Đảng lãnh đạo”
được hiểu là một hình thức của cuộc đấu tranh giai cấp, là giai cấp công nhân thực
hiện vai trò tiền phong, gương mẫu, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân để có được
sự đồng tình, ủng hộ một cách tự nguyện của đại đa số nhân dân lao động đối với
Đảng, kể cả khi Đảng chưa giành được chính quyền, nhằm xây dựng một xã hội tiến
bộ theo mục tiêu của Đảng. V.I. Lênin viết: “Khơng có sự đồng tình và ủng hộ của đại
đa số nhân dân lao động đối với đội tiền phong của mình, nghĩa là đối với giai cấp vơ
sản, thì cách mạng vơ sản khơng thể thực hiện được. Nhưng sự đồng tình, ủng hộ đó
khơng thể có ngay được và không phải do những cuộc bỏ phiếu quyết định, mà phải
trải qua một cuộc đấu tranh lâu dài, khó khăn, gian khổ mới giành được”3.
Trên cơ sở quan điểm của V.I. Lênin về Đảng lãnh đạo, Hồ Chí Minh sáng lập
ra một đảng của giai cấp công nhân để lãnh đạo tồn dân trong cơng cuộc giải phóng
dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiền phong lãnh đạo của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng lãnh đạo cách mạng bằng chủ trương,
đường lối, bằng công tác tư tưởng, lý luận, đồng thời qua hành động tiền phong,
gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Người cho rằng: phải giáo dục mọi người
bằng chính tấm gương sống của mình trước, sau đó mới giáo dục bằng lời nói. Nói đến
sự gương mẫu là nói đến trách nhiệm, nói đến sự hy sinh. Bác nhấn mạnh: “Đảng
khơng bắt buộc ai vào Đảng. Vào thì có nhiệm vụ, có trách nhiệm của đảng viên, nếu
sợ không phục vụ được nhân dân, phục vụ được cách mạng thì đừng vào hay là khoan
2
Vai trị lãnh đạo của Đảng – Nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Đình Thắng, Báo Nhân
dân, ngày 06/9/2019.
3
Hồ Chí Minh: tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, t.2, tr.154.
hãy vào”4. Để xứng đáng với vai trò tiền phong lãnh đạo, Đảng và đội ngũ cán bộ đảng
viên phải khơng ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ trí tuệ, phẩm chất chính
trị, đạo đức. Theo Người: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ.
Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa là cán bộ, từ trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện,
đến xã, bất kỳ ở cấp nào và ngành nào – đều phải là người đầy tớ trung thành của nhân
dân”.5
Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam cả trong cách mạng
giải phóng dân tộc và thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong cuộc đấu tranh đó,
Đảng đã tỏ rõ là lực lượng “có sức hấp dẫn lớn” được quần chúng nhân dân tin yêu, ca
ngợi, thuyết phục là lực lượng giữ địa vị lãnh đạo. Sau khi Đảng lãnh đạo nhân dân
giành được chính quyền, sự cơng nhận đó được kiểm chứng chủ yếu qua các cuộc bầu
cử dân chủ và khi có đa số đảng viên của Đảng được bầu vào các cơ quan quyền lực
nhà nước các cấp.
Tuy nhiên, nhân dân cơng nhận địa vị lãnh đạo của Đảng khơng có nghĩa là
Đảng có thể giữ mãi địa vị lãnh đạo đó nếu đánh mất niềm tin của nhân dân, đặc biệt
trong giai đoạn hiện nay, nếu Đảng không chiến thắng được trong cuộc đấu tranh gian
khổ chống chủ nghĩa cá nhân. Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ: “Đảng khơng thể đòi hỏi
Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành
nhất, hoạt động chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần
chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì
Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”6. Người còn viết: “Một dân tộc, một đảng và
mỗi con người, ngày hơm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không phải nhất định hôm
nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lịng dạ khơng trong
sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”7.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của Đảng cầm quyền
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trong bối cảnh đất nước bị thực dân Pháp xâm lược.
Trong bối cảnh đó, nước ta đã có nhiều phong trào, nhiều tổ chức yêu nước phất cờ
khởi nghĩa chống thực dân Pháp và lũ tay sai nhưng đều thất bại. Đảng Cộng sản Việt
Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, được lịch sử giao phó quyền
lãnh đạo cách mạng Việt Nam cả trước và sau khi Đảng giành được chính quyền về tay
nhân dân. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng
4
Hồ Chí Minh: tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.103.
Hồ Chí Minh: tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5, tr.395.
6
Hồ Chí Minh: tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.293.
7
Hồ Chí Minh: tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, t.8, tr.255.
5
cầm quyền, đã lãnh đạo nhân dân, dân tộc Việt Nam “chiến thắng hai đế quốc xâm
lược” là Pháp và Mỹ, mang lại hịa bình, thống nhất đất nước, cả nước đi lên chủ nghĩa
xã hội. Sau gần 35 năm đổi mới, Đảng là người khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi
mới xây dựng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thu được những thành tựu to
lớn có ý nghĩa lịch sử.
Đảng cầm quyền là một khái niệm được sử dụng rộng rãi ở các nước phương
Tây ngay khi xã hội bắt đầu hình thành các đảng chính trị. Theo V.I. Lênin, Đảng cầm
quyền được hiểu là “Đảng nắm chính quyền” bằng những người đại diện của Đảng
trực tiếp thực hiện công việc quản lý trong bộ máy nhà nước. Những cán bộ đảng viên
trong bộ máy nhà nước phải bảo đảm vừa là tư cách người đại diện cho Đảng thực
hiện việc tuyên truyền, vận động nhân dân đi theo Đảng, tức là hoạt động “lãnh đạo”;
đồng thời là đại biểu của nhân dân thực hiện công việc quản lý nhà nước, tức là hoạt
động “cầm quyền”. Đảng cầm quyền là khái niệm gắn với quyền lực. Nghĩa là, Đảng
có quyền lực chính trị mà cụ thể là việc “nắm chính quyền”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nhận thức rất sớm về Đảng cầm quyền. Tuy nhiên, Người không nêu rõ khái niệm
Đảng cầm quyền8.
Theo khảo cứu của tác giả bài viết, chỉ duy nhất một lần trong Di chúc, Người
mới nói rõ “Đảng ta là một Đảng cầm quyền” 9; nhưng qua những bài viết, bài nói của
mình, Người cho rằng “Đảng cầm quyền” là một khái niệm khác với “Đảng lãnh đạo”.
Theo Người, Đảng cầm quyền cũng là Đảng nắm chính quyền; nghĩa là Đảng có
quyền lực trong thực tế. Tuy nhiên, Đảng ta là đội tiền phong không chỉ của giai cấp
công nhân mà là của cả dân tộc. Đảng là đảng của cả giai cấp lao động, mà cũng là
đảng của toàn dân; đồng thời, những cán bộ đảng viên của Đảng trực tiếp thi hành
những nhiệm vụ quản lý trong bộ máy nhà nước và là những người được nhân dân “ủy
thác”, bầu ra để phục vụ nhân dân. Người viết: “Nhân dân là ơng chủ nắm chính
quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy”. Có thể thấy,
đây là một nét đặc thù của Đảng cầm quyền ở Việt Nam hiện nay.
Hiện nay, “một bộ phận khơng nhỏ” cán bộ đảng viên có chức, có quyền suy
thối về chính trị và đạo đức, lối sống, đặt cái “tôi” lên trên, bị chủ nghĩa cá nhân chi
phối nặng nề. “Bộ phận không nhỏ” đảng viên này sử dụng quyền lực mà Đảng và
nhân dân giao để phục vụ cho lợi ích, tham vọng của mình và phe nhóm mình. Để cho
xuất hiện “một bộ phận khơng nhỏ” ấy trong thời gian dài, qua nhiều kỳ Đại hội Đảng,
gây hậu quả nghiêm trọng cho Đảng, cho đất nước, đấy là khuyết điểm trong công tác
xây dựng Đảng ở nước ta.
8
Nhận thức khái niệm Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền theo tư tưởng Hồ Chí Minh, PGS, TS. Nguyễn Hữu
Đổng và TS. Ngơ Huy ĐứcViện Chính trị học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
9
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, 1969.
Những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “Đảng lãnh đạo”, “Đảng cầm
quyền” có ý nghĩa rất lớn, mang tính thời sự nóng trong cơng tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng của ta hiện nay. Cần nhận thức đúng đắn nội hàm của các khái niệm đó làm cơ
sở để đổi mới phương thức lãnh đạo và phương thức cầm quyền của Đảng một cách
đúng hướng.
3.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò Xây dựng và chỉnh đốn Đảng
Là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch
Hồ Chí Minh ln chăm lo đến việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng để Đảng ngày càng
trong sạch, vững mạnh, làm tốt vai trò là Đảng lãnh đạo và Đảng cầm quyền, giữ trọn
niềm tin yêu của nhân dân.Trước hết nói về Đảng, với những lời ngắn gọn, súc tích,
cần thiết nhất về Đảng, về mục tiêu, phương hướng xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Người
nhấn mạnh: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự
thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư. Phải
giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật
trung thành của nhân dân”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên đưa ra quan điểm gắn kết xây dựng,
chỉnh đốn Đảng và luôn kiên định quan điểm này. Với Người: gắn kết xây dựng, chỉnh
đốn Đảng không chỉ là quy luật tất yếu, mà còn là sự vận động và phát triển của Đảng
trong suốt tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo; xây dựng,
chỉnh đốn Đảng là hai mặt của một quá trình thống nhất, có quan hệ chặt chẽ với nhau,
gắn kết với nhau vì mục tiêu đem lại cho Đảng một chất lượng mới, một tầm cao mới
để Đảng luôn tồn tại với tư cách người lãnh đạo cách mạng, luôn phát triển với tư cách
Đảng cầm quyền. Do vậy, xây dựng, chỉnh đốn Đảng không chỉ là nhiệm vụ then chốt
mang tầm chiến lược, mà cịn là cơng việc thường xuyên của Đảng trong vai trò lãnh
đạo cách mạng, bởi “Đảng có vững cách mạng mới thành cơng, cũng như người cầm
lái có vững thuyền mới chạy”10.
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, với tư cách
người khởi xướng và trực tiếp lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã xác định một cách rõ ràng và dứt khốt rằng,
trong suốt tiến trình cơng cuộc đổi mới này, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ
then chốt. Vị trí then chốt này khơng chỉ là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, mà còn là
nhiệm vụ đóng vai trị chi phối, quyết định thắng lợi công cuộc đổi mới. Trong
“Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, Đảng ta
khẳng định, Đảng “phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn”. Đó là quan điểm nhất
quán, gắn kết xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
10
Hồ Chí Minh: tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, t.12, tr.339.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng là một di sản vô cùng quý
giá, khá đầy đủ, tồn diện, sâu sắc. Đảng ta khơng hề coi nhẹ, ln kế thừa, tiếp thu,
phát triển khơng ngừng. Chính vì vậy mới có những “thành tựu to lớn, mang ý nghĩa
lịch sử” trong công cuộc đổi mới gần 35 năm qua.
Song thực tế cho thấy, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng của Đảng ta còn
nhiều hạn chế, yếu kém; hiệu quả, chất lượng thấp. Ở một số cơ sở đảng, khoảng cách
giữa lời nói và việc làm, giữa nghị quyết và thực hiện nghị quyết còn xa, chưa đồng bộ
và hiệu quả thấp; kỷ luật Đảng chưa nghiêm, đồn kết một chiều, “dĩ hịa vi q”,
“bằng mặt mà khơng bằng lịng”, “người khơng đụng đến ta thì ta khơng đụng đến
người”, đấu tranh tự phê bình và phê bình rất kém. Những cán bộ đảng viên thối hóa
biến chất, phạm tội hầu hết đều do dư luận quần chúng, báo chí phát hiện.
Chương III: Ý nghĩa
1. Bối cảnh thực tiễn hiện nay
1.1. Bối cảnh Thế giới
Hiện nay xu hướng tồn cầu hóa vẫn đang là xu thế chung của toàn cầu, các
nước đều đang nỗ lực tập trung vào quá trình thúc đẩy thương mại thế giới. Đây cũng
là yếu tố tác động rất lớn và có ảnh hưởng sâu sắc tới chính trị của các nước nói chung
và Việt Nam nói riêng.
Đặc biệt, xu hướng đa dạng hóa, đa phương hóa vừa có tác động tích cực nhưng
đồng thời cũng ảnh hưởng tới các chính sách của mỗi quốc gia hay các nền kinh tế.
Bên cạnh đó, sự thiếu ổn định và bất ổn về chính trị, kinh tế cũng là mối lo ngại lớn
đối với thế giới hiện nay đòi hỏi mỗi quốc gia cần phải có cái nhìn sâu sắc và nhạy
bén, đưa ra được những chính sách phù hợp để giúp đất nước có thể đứng vững và ổn
định chính trị trong thời kỳ hiện nay.
Thế giới đương đại đang trải qua những biến động phức tạp, khó lường. Cuộc
Cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư cùng với q trình tồn cầu hóa đang chi phối mạnh
mẽ đời sống kinh tế - chính trị của nhân loại, đem đến nhiều thay đổi vượt bậc về chất
lượng lao động và sản xuất, chất lượng cuộc sống, tạo ra thời cơ phát triển cho các
nước, đi kèm nguy cơ tụt hậu nếu không kịp thời nắm bắt. Những cuộc xung đột dân
tộc, tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ, khủng bố, chiến tranh cục bộ, chiến tranh kinh tế,
chiến tranh mạng diễn ra theo hình thức mới, tinh vi và gay gắt. Chủ nghĩa cường
quyền, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch,
chủ nghĩa dân túy tác động mạnh đến quan hệ quốc tế. Vấn đề toàn cầu (biến đổi khí
hậu, thiên tai, dịch bệnh) và an ninh phi truyền thống (an ninh lương thực, an ninh
năng lượng, an ninh nguồn nước, an ninh tài chính, an ninh mạng) đặt ra nhiều thách
thức trong việc ứng phó. Những vấn đề này đang gây nhiều bức xúc, trở ngại cho việc
tìm kiếm, duy trì hịa bình, ổn định trong hợp tác và phát triển bền vững giữa các quốc
gia, dân tộc trên phạm vi toàn thế giới11.
1.2. Bối cảnh tại Việt Nam
Ở Việt Nam, sau gần 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ một đất nước
nghèo nàn, cơ sở vật chất - kỹ thuật, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội lạc hậu, trình độ
thấp, đến nay, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung
bình; văn hóa, xã hội tiếp tục phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
được cải thiện; công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị có bước đột phá; khối
đại đồn kết tồn dân tộc khơng ngừng được củng cố; chính trị, xã hội ổn định, quốc
phịng - an ninh, độc lập, chủ quyền được giữ vững; vị thế và uy tín của đất nước ngày
càng được nâng cao trên trường quốc tế. Đến nay, Việt Nam đã trở thành quốc gia có
quy mơ dân số gần 100 triệu người với mức thu nhập bình quân 2.800 USD/người; đã
tham gia hầu hết các tổ chức quốc tế, trở thành một thành viên tích cực, có trách nhiệm
trong các hoạt động của cộng đồng quốc tế. Việt Nam đang thực hiện có hiệu quả cuộc
đấu tranh phịng, chống tham nhũng, từng bước ngăn chặn sự suy thối về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Niềm tin của
nhân dân đối với Đảng và chế độ tăng lên12.
Việt Nam chịu ảnh hưởng rất lớn bởi sự đa dạng và linh hoạt của nền kinh tế từ
khi chúng ta mở cửa. Đất nước đã ngày càng hiện đại hóa, sức cơng nghiệp ngày càng
tăng và đời sống nhân dân cũng ngày càng được nâng cao.
Trong đó phải kể đến sự ổn định chính trị của Việt Nam đã góp phần tạo nên địa vị lẫn
uy tín trên trường quốc tế. Nguyên nhân cốt lõi phải kể đến đó chính là sự lãnh đạo
tồn diện và đúng đắn của Đảng trong suốt quá trình lịch sử và tích lũy đến hơm nay.
Tuy nhiên, hiện nay Việt Nam vẫn đang tích cực tham gia sâu vào thị trường
quốc tế, hội nhập đa phương với nhiều quốc gia, nền kinh tế. Do vậy, mặc dù vẫn đang
có được sự ổn định về chính trị lẫn kinh tế nhưng chắc chắn sự bất ổn của thế giới sẽ
khiến Việt Nam bị ảnh hưởng rất nhiều nếu không có những lý luận thiết thực và cần
thiết về lãnh đạo toàn diện của Đảng trong xu thế mới.
2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của Đảng Cộng sản Việt Nam trong tình
hình thực tiễn hiện nay
2.1.
Thứ nhất, luôn đặt công tác tư tưởng ở vị trí quan trọng hàng đầu. Thực hiện
lời chỉ dẫn của Bác: Tư tưởng dẫn đầu, giáo dục tư tưởng và lãnh đạo tư tưởng là việc
11
Tình hình thế giới, khu vực: Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam, 01/3/2020, GS.TS Nguyễn Xuân Thắng Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh.
12
BÁO CÁO TỔNG KẾT THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 10 NĂM 2011 2020, XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 10 NĂM 2021 – 2030, BCH TW
ĐẢNG, 20/10/2020, Báo Nhân dân.
quan trọng nhất của Đảng, do vậy, Đảng cần quan tâm đến giáo dục tư tưởng và lãnh
đạo quá trình tư tưởng trong Đảng và trong xã hội, kiên quyết chống việc xem nhẹ tư
tưởng nhằm nâng cao tư tưởng và trình độ chính trị cho cán bộ, đảng viên theo đúng
quan điểm và lập trường vô sản. Trong tổ chức thực hiện, công tác tư tưởng phải đi
trước một bước, không ngừng đổi mới để phù hợp với những điều kiện cụ thể của hoàn
cảnh, đối tượng, nâng cao hiệu quả, phục vụ cho sự nghiệp chung của cách mạng.
2.2.
Thứ hai, công tác tư tưởng chú trọng mục tiêu tăng cường sự thống nhất trong
Đảng, sự đồng thuận trong xã hội. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dù làm cơng việc gì,
bất kể lớn hay bé, khó hay dễ, nếu khơng ra sức thì chắc khơng thành cơng, nhưng nếu
đồng tâm hiệp lực thì có thể làm được. Muốn như vậy, mọi người phải hiểu được vì
sao làm và làm như thế nào. Ý thức tư tưởng là yếu tố đầu tiên tạo nên quyết tâm của
người cách mạng, là cơ sở để có hành động cách mạng đúng đắn. Người coi sự thống
nhất về tư tưởng và hành động là nguồn sức mạnh to lớn của Đảng. Ngược lại, nếu tư
tưởng và hành động không thống nhất, “trống đánh xi, kèn thổi ngược”, thì khơng
thể lãnh đạo được nhân dân, không làm được cách mạng.
2.3.
Thứ ba, công tác tư tưởng chú trọng mục tiêu góp phần quan trọng trong việc
thực hiện xây dựng Đảng. Xây dựng Đảng về tư tưởng là một nội dung nổi bật trong tư
tưởng Hồ Chí Minh. Cách mạng muốn thành cơng trước hết phải có Đảng cách mạng
chân chính lãnh đạo, một lịng một dạ phục vụ nhân dân, một đảng kiểu mới theo
nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Để tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đẩy
lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa”, làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh”, thực sự
là đội tiên phong lãnh đạo toàn xã hội, cần đổi mới mạnh mẽ cơng tác giáo dục lý luận
chính trị. Tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho cán
bộ, đảng viên nói chung và những cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành nói riêng; bồi
dưỡng nhận thức, lập trường, quan điểm và năng lực vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong
xã hội đối với Cương lĩnh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước,... Gắn thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị
khóa XII, về “Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh” với Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, XII về xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, Nghị quyết số 26-NQ/TW khóa XII, về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán
bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm
vụ”, coi đây là công việc thường xuyên, nền nếp, thành nhu cầu tự thân của mỗi tổ
chức đảng, các cấp chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, địa phương, cơ quan,
đơn vị. Thực hiện nghiêm Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 7-6-2012, về “Trách nhiệm
nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”; Quy định
số 08-QĐi/TW, ngày 25-10-2018, của Ban Chấp hành Trung ương, về “Trách nhiệm
nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí
thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”13.
2.4.
Thứ tư, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận. Công tác nghiên cứu
lý luận phải được thực hiện song hành với công tác tổng kết thực tiễn; kết quả nghiên
cứu lý luận phải gắn với thực tiễn, cung cấp các luận cứ khoa học cho thực tiễn xây
dựng đất nước, bổ sung và phát triển đường lối đổi mới của Đảng. “Lý luận sở dĩ quan
trọng là vì nó dạy ta hành động... Hiểu biết do thực hành mà ra. Hiểu biết lại trải qua
thực hành mà thành lý luận. Lý luận ấy lại phải dùng vào thực hành” 14. “Do thực hành
mà tìm ra sự thật. Lại do thực hành mà chứng thực sự thật và phát triển sự thật. Từ
hiểu biết bằng cảm giác tiến lên hiểu biết bằng lý trí. Lại từ hiểu biết bằng lý trí tiến
lên thực hành lãnh đạo cách mạng, cải tạo thế giới. Thực hành, hiểu biết. Lại thực
hành, lại hiểu biết nữa. Cứ đi vịng như thế mãi, khơng bao giờ ngừng”(14).
2.5.
Thứ năm, tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác
các quan điểm sai trái, thù địch. Công tác tư tưởng phải coi trọng cả “xây” và “chống”,
việc tuyên truyền, giáo dục ý thức, nâng cao cảnh giác cách mạng phải gắn với nhận
diện và vạch trần các thủ đoạn phá hoại về tư tưởng, góp phần làm thất bại mọi âm
mưu, hành động “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch. Bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng phải thực hiện trên cơ sở quán triệt sâu sắc, vận dụng đúng đắn, sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn Việt Nam trong thời
đại ngày nay, trước hết là trong xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước và thể chế, nguyên tắc tổ chức hoạt động của tồn hệ thống
chính trị. Gắn kết chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, “xây” là cơ bản, “chống” phải
quyết liệt, hiệu quả. Kết hợp giữa nhiệm vụ trước mắt và nhiệm vụ lâu dài; nâng cao
khả năng tự phòng, chống của cán bộ, đảng viên và nhân dân trước âm mưu, thủ đoạn
và hoạt động của các thế lực thù địch, đối tượng phản động, cơ hội chính trị và phịng,
chống suy thối tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ. Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong
Đảng và xã hội. Kết hợp chặt chẽ giữa vận động, giáo dục, thuyết phục với kiên quyết
xử lý nghiêm minh theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước đối với các đối
tượng vi phạm. Thông qua việc đẩy mạnh học tập, quán triệt các nghị quyết, chỉ thị
của Đảng, công tác tư tưởng sẽ giúp việc nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân
13
Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh.
14
Báo Nhân dân, số 17, ngày 19-7-1951.
trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa nâng lên, nhận biết tích cực các dấu hiệu, âm mưu của
các lực lượng chống đối, phá hoại, cơ hội chính trị.
2.6.
Thứ sáu, công tác tư tưởng chú trọng mục tiêu trực tiếp góp phần xây dựng
con người trong thời đại mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần nói, muốn xây dựng
chủ nghĩa xã hội trước hết cần phải có con người xã hội chủ nghĩa. Công tác tư tưởng
là giải pháp hàng đầu và trực tiếp trong giáo dục, xây dựng con người xã hội chủ
nghĩa. “Để cải tạo xã hội, một mặt phải cải tạo vật chất, như tăng gia sản xuất, một mặt
phải cải tạo tư tưởng. Nếu khơng có tư tưởng xã hội chủ nghĩa thì khơng làm việc xã
hội chủ nghĩa được... Mỗi người phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa đúng đắn, thì mới
có thể góp phần xứng đáng vào việc xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Trong quá trình cách
mạng, Người đã khái quát những tiêu chuẩn cơ bản của con người mới để cơng tác
tun truyền, giáo dục hướng vào. Ví dụ, trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, con người
mới là con người “vừa hồng, vừa chuyên”, có lập trường, quan điểm chính trị vững
vàng, đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, hăng say lao động, lao động có
năng suất cao...
2.7.
Thứ bảy, chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên giáo vừa
“hồng”, vừa “chuyên”. Công tác tư tưởng là công tác của cấp ủy nhưng trước hết là
của đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tuyên giáo. Cán bộ tuyên giáo là “chiến
sĩ tiên phong”, “gác cửa” cho Đảng trên mặt trận tư tưởng. Thông qua công việc của
cán bộ tuyên giáo, Đảng bồi dưỡng nâng cao nhận thức, lý tưởng, lẽ sống; khẳng định
niềm tin, định hướng giá trị và cổ vũ hành động cách mạng cho cán bộ, đảng viên,
nhân dân. Chính vì vậy, “phải xây dựng cho được đội ngũ những người làm công tác
tuyên giáo, rất bản lĩnh, kiên cường, trí tuệ, làm một cách có nghệ thuật, có phương
thức hoạt động khoa học, phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan... Cần quan
tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tuyên giáo để đáp ứng yêu cầu trong tình hình
mới hiện nay; tuyệt đối trung thành, kiên định, vững vàng, biết cách tổ chức cơng việc,
có dũng khí đấu tranh, có đủ trình độ, chun mơn, nghiệp vụ, phải nói được, làm
được, thuyết phục được, không để bị mua chuộc bởi các thế lực xấu, thù địch. Phương
pháp phải dân chủ, chân thành, không thể gò ép, áp đặt, mệnh lệnh; phải rất tinh tế, đi
vào lịng người”.
2.8.
Thứ tám, cơng tác tư tưởng chú trọng đổi mới phương thức hoạt
động. Phương thức hoạt động về cơng tác tư tưởng có vị trí rất lớn trong quá trình tổ
chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Chủ tịch Hồ
Chí Minh chỉ rõ, đường lối, chủ trương của Đảng sau khi được xác lập phải có biện
pháp triển khai thực hiện hiệu quả. Việc kết hợp chặt chẽ giữa công tác tư tưởng với
cơng tác tổ chức chính là biện pháp tối ưu đó.
Kết luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của Đảng Cộng sản Việt Nam nói chung, về
Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền nói riêng, cùng với thực tiễn hành động trong xây
dựng Đảng và tấm gương đạo đức của Người là tài sản vô giá mà Đảng ta, nhân dân ta
mãi mãi giữ gìn, phát huy. Xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là
“Đảng lãnh đạo và đày tớ thật trung thành của nhân dân” phải là sự nghiệp của tồn
Đảng, tồn dân, vì đây là vấn đề then chốt, là bảo đảm chắc chắn nhất cho mọi thắng
lợi của cách mạng, của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tiến tới “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Tài liệu tham khảo
1. Hồ Chí Minh: tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, t.2, tr.289.
2. Vai trò lãnh đạo của Đảng – Nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt
Nam, Đình Thắng, Báo Nhân dân, ngày 06/9/2019.
3. Hồ Chí Minh: tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, t.2, tr.154.
4. Hồ Chí Minh: tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.103.
5. Hồ Chí Minh: tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5, tr.395.
6. Hồ Chí Minh: tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.293.
7. Hồ Chí Minh: tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, t.8, tr.255.
8. Nhận thức khái niệm Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, PGS, TS. Nguyễn Hữu Đổng và TS. Ngơ Huy ĐứcViện Chính trị học,
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
9. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, 1969.
10. Hồ Chí Minh: tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, t.12, tr.339.
11. Tình hình thế giới, khu vực: Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam, 01/3/2020,
GS.TS Nguyễn Xuân Thắng - Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội đồng Lý
luận Trung ương, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
12. Báo cáo tổng kết thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 –
2020, xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 – 2030, BCH
TW Đảng, 20/10/2020, Báo Nhân dân.
13. Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
14. Báo Nhân dân, số 17, ngày 19-7-1951.