Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Nội dung và kết quả thực hiện đường lối đối ngoại hội nhập quốc tế của Đảng (1996 2020). Bản thân sinh viên cần làm gì để tận dụng được những cơ hội từ quá trình hội nhập quốc tế.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.41 KB, 28 trang )

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
_______oOo_______

BÀI THU HOẠCH KẾT THÚC HỌC PHẦN
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

ĐỀ TÀI: Nội dung và kết quả thực hiện đường lối đối ngoại hội nhập
quốc tế của Đảng (1996 - 2020). Bản thân sinh viên cần làm gì để tận
dụng được những cơ hội từ quá trình hội nhập quốc tế.

MỤC LỤC


A. PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Hoàn cảnh lịch sử và yêu cầu đối ngoại

2

1.1. Tình hình quốc tế

2

1.2. Tình hình nước ta

4

1.3. Yêu cầu nhiệm vụ cách mạng Việt Nam

4

B. PHẦN NỘI DUNG:


I.

PHẦN LÝ LUẬN
1. Quá trình bổ sung và phát triển đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế của
Đảng giai đoạn 1996 - 2020

5

2. Nội dung đường lối đối ngoại

7

3.1. Mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại
3.2. Quan điểm

8
10

3.3. Một số chủ trương, chính sách lớn về mở rộng quan hệ đối ngoại, hội
nhập quốc tế trong thời gian tới

11

3. Kết quả thực hiện

II.

13

4.1. Thành tựu và ý nghĩa


13

4.2. Hạn chế và nguyên nhân

18

4.3. Bài học kinh nghiệm

19

PHẦN VẬN DỤNG
Sinh viên và nhận thức về tầm quan trọng của nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ Tổ
quốc; nhận thức những cơ hội của bản thân từ quá trình hội nhập quốc tế và hành
động.
C. PHẦN KẾT LUẬN:
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO:

BÀI LÀM


A. PHẦN MỞ ĐẦU:
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta cho thấy, hoạt động đối
ngoại luôn đóng một vai trị quan trọng trong bảo đảm giữ yên bờ cõi, gìn giữ
nền độc lập, chủ quyền của đất nước. Nếu như nghệ thuật quân sự giúp ông cha
ta đánh đuổi kẻ thù xâm lược, thì hoạt động bang giao với tư tưởng “hòa hiếu” đã
tiên phong trong việc ngăn chặn chiến tranh, giữ gìn bình yên cho xã tắc và bảo
vệ vững chắc bờ cõi nước nhà. Nhờ vào hoạt động đối ngoại mà nước ta giai
đoạn những năm 1975 - 1986 đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hàng chục
nước, nhất là các nước tư bản chủ nghĩa, tranh thủ được sự giúp đỡ về vật chất

của nhiều quốc gia, các tổ chức quốc tế nhằm khôi phục và phát triển kinh tế sau
chiến tranh. Bước vào thời kỳ đổi mới (giai đoạn 1986 - 1996), nhờ vào đối ngoại
mà nước ta đã phá được thế bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch, tạo dựng
môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những
kế quả đạt được từ hoạt động đối ngoại trong những năm cuối thế kỷ XX tuy mới
là bước đầu, nhưng có ý nghĩa quan trọng trong việc mở cửa giao lưu hợp tác với
bên ngoài, tạo được vị thế mới cho đất nước ta trong quan hệ quốc tế.
Thấy được tầm quan trọng của đối ngoại, Đảng ta không ngừng cải thiện,
đổi mới đường lối ngày càng hoàn chỉnh, chuyên sâu và mở rộng hơn qua các kỳ
đại hội. Để kế thừa truyền thống lịch sử trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước trong thế kỷ XX cũng như giai đoạn hội nhập quốc tế sâu
rộng hiện nay, cơng tác đối ngoại càng đóng vai trị quan trọng hơn nữa trong
thực hiện nhiệm vụ bảo vệ nền độc lập dân tộc, củng cố mơi trường hịa bình cho
đất nước, tìm kiếm, tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài để phục vụ cho sự phát
triển và nâng cao vị thế đất nước cũng như phát huy vai trị thành viên có trách
nhiệm của cộng đồng quốc tế của nước ta.
Thực tiễn công cuộc đổi mới của đất nước ta qua bao nhiêu năm qua đã
chứng minh nhờ có đường lối đối ngoại đúng đắn và sáng suốt của Đảng đã góp
phần quan trọng đưa đất nước ta vượt qua khó khăn, thử thách, ổn định và phát
triển kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định chính trị,...Do đó, cần phải làm rõ “Nội
dung và kết quả thực hiện đường lối đối ngoại hội nhập quốc tế của Đảng
(1996 - 2020)” để hiểu hơn về những chủ trương, chính sách mà Đảng ta đã thực
hiện. Để từ đó, bản thân là sinh viên cần có nhận thức đúng đắn về tầm quan


trọng của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhận thức những cơ hội của bản
thân từ quá trình hội nhập quốc tế để khơng ngừng phấn đấu hơn nữa trong công
cuộc xây dựng đất nước.
B. PHẦN NỘI DUNG:
I.


PHẦN LÝ LUẬN:

1.

Hoàn cảnh lịch sử và yêu cầu đối ngoại:
1.1. Tình hình quốc tế:
Từ giữa những năm 1980, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục
phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống của các quốc gia, dân
tộc. Các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng sâu sắc. Đến đầu những
năm 1990, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ, dẫn đến những biến đổi to
lớn về quan hệ quốc tế. Trật tự thế giới được hình thành từ sau chiến tranh thế
giới thứ hai trên cơ sở hai khối đối lập do Liên Xô và Hoa Kỳ đứng đầu (trật tự
thế giới hai cực) tan rã, mở ra thời kỳ hình thành một trật tự thế giới mới. Xu thế
chạy đua phát triển kinh tế khiến các nước, nhất là những nước đang phát triển đã
đổi mới tư duy đối ngoại, thực hiện chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá quan
hệ quốc tế; mở rộng và tăng cường liên kết, hợp tác với các nước phát triển để
tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ, mở rộng thị trường, học tập kinh nghiệm tổ
chức, quản lý sản xuất kinh doanh. Các nước đổi mới tư duy về quan niệm sức
mạnh, vị thế quốc gia. Thay thế cách đánh giá cũ, chủ yếu dựa vào thế mạnh
quân sự bằng các tiêu chí tổng hợp, trong đó sức mạnh kinh tế được đặt ở vị trí
quan trọng hàng đầu.
Trên phạm vi thế giới, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột, tranh
chấp vẫn còn, nhưng xu thế chung của thế giới là hồ bình và hợp tác phát triển.
Các quốc gia, các tổ chức và lực lượng chính trị quốc tế thực hiện điều chỉnh
chiến lược đối nội, đối ngoại và phương thức hành động cho phù hợp với yêu cầu
nhiệm vụ bên trong và đặc điểm của thế giới.
Bên cạnh đó, xu thế tồn cầu hóa và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
4 mang đến cả cơ hội và thách thức lớn cho quá trình hội nhập và phát triển của
Việt Nam - Đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội nhưng nhiều mặt

còn chưa vững chắc. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng


(T1/2016) nội dung Nghị quyết đã nhận định: “ Quá trình tồn cầu hóa và hội
nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Hợp tác, cạnh tranh, đấu tranh và sự tùy
thuộc lẫn nhau giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn ngày càng tăng”. Tồn
cầu hóa đã mở ra những cơ hội trao đổi hàng hóa nhằm thúc đẩy quá trình phát
triển sản xuất của các nước; nguồn vốn, khoa học cơng nghệ, kinh nghiệm quản lí
cùng các hình thức đầu tư, hợp tác khác mang lại lợi ích cho các bên tham gia
hợp tác. Mặt khác, xu thế này cịn làm tăng tính phụ thuộc lẫn nhau, nâng cao sự
hiểu biết giữa các quốc gia, thuận lợi cho việc xây dựng mơi trường hịa bình,
hữu nghị và hợp tác giữa các nước. Tuy nhiên, vấn đề toàn cầu hóa cịn đặt ra
những thách thức về sự bất bì Đại hội lần thứ IX của Đảng (4/2001) chỉ rõ: “Tồn
cầu hố kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham
gia; xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn tư bản xuyên quốc
gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu
cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh”. Thực tế cho rằng, các nước muốn tránh
khỏi nguy cơ tụt hậu, kém phát triển thì phải tích cực chủ động tham gia vào q
trình tồn cầu hóa, đồng thời cần có bản lĩnh cân nhắc một cách cẩn trọng các
yếu tố bất lợi để vượt qua.
Cuối thế kỉ XX đầu thế kỷ XXI, tình hình khu vực châu Á - Thái Bình
Dương, có nhiều chuyển biến mới. Đây là khu vực năng động và phát triển nhất
thế giới, chịu sự chi phối của tam giác quyền lực Mỹ - Trung - Nhật. Trước hết
trong khu vực tuy vẫn tồn tại những bất ổn, như vấn đề hạt nhân, vấn đề tranh
chấp lãnh hải thuộc vùng biển Đông và việc một số nước trong khu vực tăng
cường vũ trang, nhưng châu Á - Thái Bình Dương vẫn được đánh giá là khu vực
ổn định. Bởi lẽ, đây là khu vực có tiềm lực lớn và năng động về phát triển kinh
tế, xu thế hồ bình và hợp tác trong khu vực phát triển mạnh.
1.2. Tình hình nước ta:
Mười năm trước, Việt Nam ở trong tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội

trầm trọng. Sau 5 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra, nhân dân
ta đã giành được những thắng lợi bước đầu rất quan trọng về cả kinh tế, xã hội,
chính trị, đối nội, đối ngoại. Kiên trì đường lối đổi mới, quyết tâm thực hiện Nghị
quyết Đại hội VII và các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, toàn Đảng,
toàn dân đã vượt qua mọi thử thách, tiếp tục vươn lên giành nhiều thắng lợi to


lớn trên nhiều mặt. Nhiệm vụ do Đại hội VII đề ra cho 5 năm 1991-1995 đã hoàn
thành về cơ bản. Đời sống vật chất của đại bộ phận nhân dân được cải thiện. Dân
chủ được phát huy. Lòng tin của nhân dân đối với chế độ và tiền đồ của đất nước,
với Đảng và Nhà nước được khẳng định. Ổn định chính trị - xã hội được giữ
vững. Quốc phòng, an ninh được củng cố. Quan hệ đối ngoại phát triển mạnh mẽ.
Việt Nam đã xóa bỏ được tình trạng bao vây kinh tế, cấm vận chính trị, chuyển từ
đối đầu sang đối thoại và hợp tác. Đất nước bước vào hội nhập quốc tế, trọng tâm
là hội nhập kinh tế quốc tế.
1.3. Yêu cầu nhiệm vụ cách mạng Việt Nam:
Sự bao vây, chống phá của các thế lực thù địch đối với Việt Nam từ nửa
cuối thập kỷ 1970 của thế kỷ XX tạo nên tình trạng căng thẳng, mất ổn định
trong khu vực và gây khó khăn, cản trở cho sự phát triển của cách mạng Việt
Nam, là một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế – xã
hội nghiêm trọng ở nước ta. Mặt khác, do hậu quả nặng nề của chiến tranh và các
khuyết điểm chủ quan, nền kinh tế Việt Nam lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng.
Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế
giới là một trong những thách thức lớn đối với cách mạng Việt Nam. Vì vậy, nhu
cầu chống tụt hậu về kinh tế đặt ra gay gắt. Để thu hẹp khoảng cách phát triển
giữa nước ta với các quốc gia khác, ngoài việc phát huy tối đa các nguồn lực
trong nước, cần phải tranh thủ các nguồn lực bên ngồi, trong đó việc mở rộng và
tăng cường hợp tác kinh tế với các nước và tham gia vào cơ chế hợp tác đa
phương có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Những đặc điểm, xu thế quốc tế và yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt

Nam nêu trên là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam xác định quan điểm và hoạch
định chủ trương, chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới.
2.

Quá trình bổ sung và phát triển đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế của
Đảng giai đoạn 1996 - 2020:
Giai đoạn 1996 - 2011: Quá trình bổ sung, phát triển đường lối đối ngoại
theo phương châm chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.
Tại Đại hội lần thứ VIII của Đảng (6/1996) khẳng định tiếp tục mở rộng
quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt với các nước, các trung tâm kinh tế, chính trị


khu vực và quốc tế. Đồng thời chủ trương “xây dựng nền kinh tế mở và “đẩy
nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”. Đại hội VIII xác định rõ
hơn quan điểm đối ngoại với các nhóm đối tác như: ra sức tăng cường quan hệ
với các nước láng giềng và các nước trong tổ chức ASEAN; không ngừng củng
cố quan hệ với các nước bạn bè truyền thống; coi trọng quan hệ với các nước
phát triển và các trung tâm kinh tế - chính trị thế giới; đoàn kết với các nước
đang phát triển, với phong trào khơng liên kết; tham gia tích cực và đóng góp cho
hoạt động của các tổ chức quốc tế, các diễn đàn quốc tế. So với Đại hội VII, chủ
trương đối ngoại của Đại hội VIII có các điểm mới: một là, chủ trương mở rộng
quan hệ với các đảng cầm quyền và các đảng khác. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
hành Trung ương, khoá VIII (T12/1997), chỉ rõ: trên cơ sở phát huy nội lực, thực
hiện nhất quán, lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài. Nghị quyết
đề ra chủ trương tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định
Thương mại với Mỹ, gia nhập APEC và WTO.
Đến T4/2001, tại Đại hội lần thứ IX, Đảng đã nhấn mạnh chủ trương chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực.
Lần đầu tiên, Đảng nêu rõ quan điểm về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ”
“Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối,

chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh. Xây dựng nền kinh tế độc lập
tự chủ phải đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng và nâng cao
hiệu quả kinh tế đối ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng
hợp phát triển đất nước”. Cảm nhận đầy đủ “lực” và “thế” của đất nước sau 15
năm đổi mới, Đại hội IX đã phát triển phương châm của Đại Hội VII là: “Việt
Nam muốn làm bạn với các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hịa bình,
độc lập và phát triển” thành “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các
nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển”. Chủ
trương xây dựng quan hệ đối tác được đề ra ở Đại hội IX đánh dấu bước phát
triển về chất tiến trình quan hệ quốc tế của Việt Nam thời kỳ đổi mới. T11/2001,
Bộ Chính trị ra Nghị quyết 07 về hội nhập kinh tế quốc tế. Nghị quyết đề ra 9
nhiệm vụ cụ thể và 6 biện pháp tổ chức thực hiện quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế. Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khoá IX (ngày 5/1/2004)
nhấn mạnh yêu cầu chuẩn bị tốt các điều kiện trong nước để sớm ra nhập Tổ


chức Thương mại Thế giới (WTO); kiên quyết đấu tranh với mọi biểu hiện của
các lợi ích cục bộ làm kìm hãm tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (T4/2006) nêu quan điểm: thực hiện
nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hồ bình hợp tác và phát triển;
chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế.
Đồng thời đề ra chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”. Chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế là hồn tồn chủ động quyết định đường lối, chính
sách hội nhập kinh tế quốc tế, không thể rơi vào thế bị động; phân tích lựa chọn
phương thức hội nhập đúng, dự báo được những tình huống thuận lợi và khó
khăn khi hội nhập kinh tế quốc tế.Tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là khẩn
trương chuẩn bị, điều chỉnh, đổi mới bên trong, từ phương thức lãnh đạo, quản lý
đến hoạt động thực tiễn; từ Trung ương đến địa phương, doanh nghiệp; khẩn
trương xây dựng lộ trình, kế hoạch, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật; nâng cao
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế; tích cực, nhưng phải thận

trọng, vững chắc.Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế phải là ý chí,
quyết tâm của Đảng, Nhà nước, toàn dân, của mọi doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế và toàn xã hội. Như vậy, đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng
mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế được xác lập trong mười năm
đầu của thời kỳ đổi mới (1986-1996), đến Đại hội X (2006) được bổ sung, phát
triển theo phương châm chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, hình thành
đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hồ bình, hợp tác và phát triển; chính sách
đối ngoại rộng mở, đa phương hố, đa dạng hố các quan hệ quốc tế.
Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI của Đảng (T1/2011): Chủ trương
triển khai đồng bộ và toàn diện, hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tích cực và
chủ động hội nhập quốc tế.
Đảng ta đã nhận định tình hình trong nước: "Những thành tựu, kinh
nghiệm của 25 năm đổi mới (1986 - 2011) đã tạo ra cho đất nước lực và thế, sức
mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước... Tuy nhiên, nước ta đứng trước nhiều
thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể
coi thường thách thức nào. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước
trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại". Trên cơ sở nhận định đó, Nghị quyết
Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI của Đảng đề ra chủ trương "triển khai đồng


bộ, toàn diện, hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tích cực và chủ động hội nhập
quốc tế". So với chủ trương đối ngoại của Đại hội Đảng lần thứ X: "Chủ động và
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế", thì Đại hội XI đã thể hiện bước phát triển mới
về tư duy đối ngoại - chuyên từ "hội nhập kinh tế quốc tế" lên "hội nhập quốc tế"
- hội nhập toàn diện, đồng bộ từ kinh tế đến chính trị, văn hóa, giáo dục, an ninh,
quốc phịng… Với phương châm: Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành
viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016): “Thực hiện có hiệu quả
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối
cảnh nước ta tham gia các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới”.

3.

Nội dung đường lối đối ngoại:
Trong các văn kiện liên quan đến lĩnh vực đối ngoại, Đảng ta đều chỉ rõ
cơ hội và thách thức của việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế. Về cơ hội: Xu thế
hồ bình, hợp tác phát triển và xu thế tồn cầu hố kinh tế tạo thuận lợi cho nước
ta mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác phát triển kinh tế. Mặt khác, thắng lợi của
sự nghiệp đổi mới đã nâng cao thể lực của nước ta trên trường quốc tế, tạo tiền
đề mới cho quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế. Về thách thức: Những
vấn đề toàn cầu như phân hoá giàu nghèo, dịch bệnh, tội phạm xuyên quốc
gia...gây tác động bất lợi đối với nước ta. Nền kinh tế Việt Nam phải chịu sức ép
cạnh tranh gay gắt trên cả ba cấp độ: Sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia;
những biến động trên thị trường quốc tế sẽ tác động nhanh và mạnh hơn đến thị
trường trong nước, tiềm ẩn nguy cơ gây rối loạn, thậm chí khủng hoảng kinh tế –
tài chính. Ngồi ra, lợi dụng tồn cầu hoá, các thế lực thù địch sử dụng chiêu bài
“dân chủ”, “nhân quyền” chống phá chế độ chính trị và sự ổn định, phát triển của
nước ta.Những cơ hội và thách thức nêu trên có mối quan hệ, tác động qua lại, có
thể chuyển hố lẫn nhau. Cơ hội khơng tự phát huy tác dụng mà tuỳ thuộc vào
khả năng tận dụng cơ hội. Tận dụng tốt cơ hội sẽ tạo thế và lực mới để vượt qua
thách thức, tạo ra cơ hội lớn hơn. Ngược lại nếu không nắm bắt, tận dụng thì cơ
hội có thể bị bỏ lỡ, thách thức sẽ tăng lên, lấn át cơ hội, cản trở sự phát triển.
Thách thức tuy là sức ép trực tiếp nhưng tác động đến đâu còn phụ thuộc vào khả
năng và nỗ lực của chúng ta. Nếu tích cực chuẩn bị, có biện pháp đối phó hiệu


quả, vươn lên nhanh trước sức ép của các thách thức thì khơng những sẽ vượt
qua được thách thức, mà cịn có thể biến thách thức thành động lực phát triển.
Dựa trên cơ sở đó Đảng xác định mục tiêu, nhiệm vụ và tư tưởng chỉ đạo và công
tác đối ngoại phù hợp với tình hình của đất nước.
3.1. Mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại:

Trong thời kỳ đất nước đang quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã xác
định mục tiêu và nhiệm vụ đối ngoại: Lấy việc giữ vững mơi trường hịa bình, ổn
định, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, để phát triển
kinh tế – xã hội là lợi ích cao nhất của Tổ quốc. Mở rộng đối ngoại và hội nhập
kinh tế quốc tế là để tạo thêm nguồn lực đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước,
kết hợp nội lực với các nguồn lực từ bên ngoài tạo thành nguồn lực tổng hợp để
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh, phát huy vai trò và nâng cao vị thế của Việt Nam
trong quan hệ quốc tế. Việt Nam là bạn là đối tác tin cậy và thành viên có trách
nhiệm của cộng đồng quốc tế nhằm “phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hịa
bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước,
nâng cao đời sống nhân dân; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần
vào sự nghiệp hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.
Đảng ta nhận thức và xác định ngày càng cụ thể những nội dung của
nhiệm vụ đối ngoại, văn kiện Đại hội XI của Đảng nêu rõ: “Nhiệm vụ của công
tác đối ngoại là giữ vững môi trường hịa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu
tranh vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới”. Văn kiện Đại
hội XII của Đảng xác định: “Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, hoạt động
đối ngoại nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định, tranh
thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống
nhân dân; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân
và chế độ xã hội chủ nghĩa; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào
sự nghiệp hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”. Đại
hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định phương châm và định hướng lớn của hoạt


động đối ngoại là “Đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ

động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách
nhiệm của cộng đồng quốc tế”. Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các
đối tác, nhất là các đối tác chiến lược và các nước lớn có vai trị quan trọng đối
với phát triển và an sinh của đất nước, đưa khuôn khổ quan hệ đã xác lập vào
thực chất. Chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc
biệt là ASEAN và Liên hợp quốc. Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa
phương về quốc phòng, an ninh.... Triển khai đồng bộ hoạt động đối ngoại, cả về
chính trị, an ninh, quốc phịng, kinh tế, văn hóa, xã hội. Nâng cao chất lượng
cơng tác tham mưu về đối ngoại và hội nhập quốc tế. Tăng cường công tác thông
tin đối ngoại, hội nhập quốc tế, tạo đồng thuận trong nước và tranh thủ sự ủng hộ
của bạn bè quốc tế đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ đất nước.
Lần đầu tiên, nhiệm vụ đối ngoại nằm trong các thành tố của chủ đề Đại
hội. So với Đại hội XI, Đại hội XII đã bổ sung vào chủ đề nội dung “bảo vệ vững
chắc Tổ quốc, giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định” để nhấn mạnh tầm quan
trọng của công tác đối ngoại trong tổng thể đường lối phát triển đất nước và đồng
thời nêu rõ hai nhiệm vụ quan trọng nhất của đối ngoại là bảo vệ Tổ quốc và giữ
vững mơi trường hịa bình, ổn định để triển khai các nhiệm vụ xây dựng đất nước
trong 5 năm tới và các năm tiếp theo. Qua đó cho thấy rằng, văn kiện Đại hội XII
đã đề cập rõ hơn và ở mức cao nhất mục tiêu đối ngoại.
3.2. Quan điểm:
Trong quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế phải quán triệt đầy đủ,
sâu sắc các quan điểm. Một là, bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính là xây dựng
thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đồng thời thực hiện
nghĩa vụ quốc tế theo khả năng của Việt Nam. Hai là, giữ vững độc lập tự chủ, tự
cường đi đôi với đẩy mạnh đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Ba là,
nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế; cố gắng thúc đẩy
mặt hợp tác, nhưng vẫn phải đấu tranh dưới hình thức và mức độ thích hợp với
từng đối tác; đấu tranh để hợp tác; tránh trực diện đối đầu, tránh để bị đẩy vào thế
cô lập. Bốn là, mở rộng quan hệ với mọi quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới,
khơng phân biệt chế độ chính trị xã hội. Coi trọng quan hệ hồ bình, hợp tác với

khu vực; chủ động tham gia các tổ chức đa phương, khu vực toàn cầu. Năm là,


kết hợp đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân. Xác
định hội nhập kinh tế quốc tế là cơng việc của tồn dân. Sáu là, giữ vững ổn định
chính trị, kinh tế – xã hội, giữ gìn bản sắc văn hố dân tộc; bảo vệ mơi trường
sinh thái trong q trình hội nhập kinh tế quốc tế. Bảy là, phát huy tối đa nội lực
đi đơi với thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài; xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ; tạo ra và sử dụng có hiệu quả các lợi thế so sánh của đất
nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Cuối cùng là bảo đảm sự lãnh đạo
của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại, phối hợp
chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân
dân, giữa ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa; giữa
đối ngoại với quốc phịng, an ninh.
Bên cạnh đó, quan điểm chỉ đạo việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
được nêu cụ thể hơn ở Đại hội lần thứ XII của Đảng. Hai nhiệm vụ đối ngoại
“giữ vững mơi trường hịa bình” và “bảo vệ vững chắc Tổ quốc” có mối liên hệ
chặt chẽ với nhau. Nếu giữ vững được mơi trường hịa bình, các hoạt động đối
ngoại sẽ thực hiện được phương châm thêm bạn bớt thù, tức là đã đóng góp trực
tiếp vào việc bảo vệ Tổ quốc từ xa và giữ nước từ khi nước chưa nguy. Điều này
giúp khẳng định vị thế và vai trị chủ cơng, là tuyến đầu của cơng tác đối ngoại
trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
3.3. Một số chủ trương, chính sách lớn về mở rộng quan hệ đối ngoại,
hội nhập quốc tế trong thời gian tới:
Tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và
giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để
phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước. Vai trị tiên phong của
đối ngoại khơng chỉ có ngoại giao mà cả quốc phịng, an ninh và các binh chủng
khác, trong sự phối hợp liên ngành dưới sự chỉ đạo và quản lý thống nhất của
Đảng và Nhà nước.

Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ
bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác,
cùng có lợi. Lợi ích quốc gia - dân tộc đã, đang và sẽ tiếp tục là kim chỉ nam, tiêu
chí cao nhất trong triển khai hoạt động đối ngoại.


Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa
độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; thúc đẩy hội nhập quốc tế tồn diện, sâu
rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ,
chủ quyền quốc gia”. Độc lập, tự chủ là cơ sở, tạo ra sức mạnh nội sinh để nâng
cao hiệu quả hợp tác quốc tế và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. “Hội nhập
quốc tế toàn diện, sâu rộng” nghĩa là hội nhập đầy đủ trên các lĩnh vực, các tầng
nấc khác nhau với mức độ tham gia, đóng góp thực chất hơn, cam kết và đan xen
lợi ích cao hơn. Hội nhập quốc tế cũng phải bám sát, gắn chặt và phục vụ trực
tiếp nhiệm vụ phục vụ phát triển với việc “Tích cực triển khai các cam kết khu
vực và quốc tế, lồng ghép với các chiến lược, chính sách, kế hoạch và chương
trình phát triển kinh tế - xã hội”.
Tư duy về đối ngoại song phương và đa phương có những bước phát triển
mới. Về song phương, nước ta cần tiếp tục đưa các mối quan hệ đối ngoại song
phương đi vào chiều sâu, đồng thời cần “tạo thế đan xen lợi ích” và “tăng độ tin
cậy”. Đối ngoại đa phương cần “Chủ động tham gia, tích cực đóng góp, nâng cao
vai trị của Việt Nam trong xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự
chính trị - kinh tế quốc tế” và “trong những vấn đề, các cơ chế quan trọng, có tầm
chiến lược đối với lợi ích Việt Nam, phù hợp với khả năng và điều kiện cụ thể”.
Đây là bước phát triển quan trọng về lý luận và thực tiễn từ Đại hội XII và Chỉ
thị 25 của Ban Bí thư (8/8/2018). Điều này phù hợp thế và lực mới của đất nước
cũng như những đòi hỏi thực tiễn mới đối với công tác đối ngoại. Tư duy về
không gian và các trọng điểm chiến lược của đất nước cũng được thể hiện rất rõ,
đó là các nước láng giềng, khu vực tiểu vùng Mê Công, ASEAN, châu Á - Thái
Bình Dương, các nước lớn và các đối tác quan trọng…

Đối ngoại được giao trọng trách tham gia cùng quốc phịng, an ninh và cả
hệ thống chính trị vào việc bảo đảm mơi trường hịa bình, ổn định của đất nước,
giữ nước từ sớm, từ xa. Về an ninh quốc gia, văn kiện nêu rõ “Kiên quyết, kiên
trì đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp của các thế lực thù
địch vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị đất nước”. Về bảo vệ chủ quyền,
biển đảo: “Tiếp tục thúc đẩy giải quyết các vấn đề trên biển, an ninh, an tồn
hàng hải, hàng khơng trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên


hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Củng cố đường biên giới hịa bình, an ninh,
hợp tác và phát triển; giải quyết các vấn đề còn tồn tại liên quan đến đường biên
giới trên bộ với các nước láng giềng”. Đối ngoại cũng phải “Tăng cường công tác
nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược về đối ngoại, không để bị động, bất
ngờ”.
Nâng cao hiệu quả của hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam
kết quốc tế. Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, tham mưu về
đối ngoại; đổi mới nội dung, phương pháp và nâng cao hiệu quả của công tác
tuyên truyền đối ngoại. Nâng cao bản lĩnh, phẩm chất, năng lực, phong cách
chuyên nghiệp, đổi mới sáng tạo của đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại bằng
cách chăm lo đào tạo, rèn luyện, bồi dưỡng kiến thức cho đội ngũ cán bộ làm
cơng tác đối ngoại; chủ động thích ứng trước chuyển biến của tình hình. Qua đó
nhấn mạnh phẩm chất, năng lực của cán bộ đối ngoại là yếu tố quyết định, mang
tính đột phá nhằm bảo đảm đáp ứng được các yêu cầu nhiệm vụ ngày một cao
hơn trong tình hình mới.
Để thực hiện được những chủ trương, chính sách trên thì cần bảo đảm sự
lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước, sự
phối hợp chặt chẽ, đồng lòng nhất trí của tồn hệ thống chính trị và tồn dân.
Đây cũng chính là điều kiện cơ bản để đạt được thắng lợi đường lối đối ngoại và
hội nhập quốc tế.

4.

Kết quả thực hiện:
4.1. Thành tựu và ý nghĩa:
Trên tinh thần chủ động, tích cực nắm bắt và tạo dựng được thời cơ, kiên
trì và linh hoạt vượt qua những thách thức cả bên trong lẫn bên ngồi, tình hình
đối ngoại của nước ta trong giai đoạn này đã đạt được những thành tựu nổi bật,
góp phần tích cực vào củng cố mơi trường hịa bình, ổn định, giữ vững chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ, thu hút các nguồn lực phát triển, nâng cao vị thế và uy tín
của đất nước.
Hội nhập quốc tế trở thành một động lực quan trọng góp phần thúc đẩy đổi
mới tồn diện trong nước, phát triển kinh tế, chuyển đổi mơ hình tăng trưởng và
nâng cao năng lực cạnh tranh của nước ta trong thời gian qua.


Đến nay, hội nhập kinh tế quốc tế đã phát triển cả về chiều rộng và chiều
sâu và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Độ mở của nền kinh tế nước ta hiện
nay vào loại cao nhất thế giới với tỷ trọng xuất khẩu trên GDP là hơn 200%. Việt
Nam đã tham gia vào hầu hết các hiệp định đa phương thế hệ mới. Với các kết
quả hội nhập kinh tế sâu, rộng như vậy đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh
nghiệp của Việt Nam mở rộng thị trường, kết nối và tham gia sâu hơn vào chuỗi
giá trị và mạng lưới sản xuất toàn cầu. Rõ ràng, hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam đang chuyển sang giai đoạn phát triển mới cả về chiều rộng, chiều sâu và
toàn diện. Với những Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới vừa được ký kết có
tính tồn diện, quy mơ rộng, mức độ cam kết cao, điều chỉnh tồn bộ các lĩnh
vực, trong đó bao hàm nhiều nội dung mới như thương mại điện tử, phát triển
bền vững, các biện pháp sau biên giới, đồng bộ chính sách, giải quyết chính sách
giữa nhà đầu tư và nhà nước đem lại rất nhiều cơ hội cho phát triển, đồng thời
đòi hỏi những nỗ lực trong nước rất cao để có thể đem lại kết quả như mong
muốn. Hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần phát huy nội lực, tranh thủ được

nguồn lực nước ngoài, đặc biệt là công nghệ và quản trị hiện đại. Thông qua hội
nhập quốc tế, Việt Nam đã thu hút được lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi
lớn, góp phần bổ sung nguồn lực trong nước. Việt Nam nằm trong 12 quốc gia
thành công nhất về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Nguồn vốn
FDI thu hút vào nước ta tăng rất nhanh, từ 4 tỷ USD năm 2006 lên 20 tỷ USD
năm 2020. Năm 2020, đã có 112 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam,
trong đó, dẫn đầu là Singapore, Hàn Quốc, Trung Quốc và Nhật Bản. Đồng thời,
hội nhập quốc tế cũng là áp lực giúp đẩy mạnh cải cách mạnh mẽ trong nước để
bảo đảm điều kiện hội nhập thành công và hiệu quả. Hội nhập kinh tế quốc tế đã
góp phần tạo ra tốc độ tăng trưởng cao của Việt Nam, góp phần đưa kim ngạch
xuất nhập khẩu tăng liên tục trong nhiều năm qua, từ 10 tỷ USD năm 1996 lên
45 tỷ USD năm 2006 và 287,8 tỷ USD năm 2020, góp phần chuyển dịch cơ cấu
xuất nhập khẩu theo hướng chất lượng hơn. Từ chỗ thường xuyên nhập siêu, Việt
Nam đã chuyển sang cân bằng xuất nhập khẩu, thậm chí là xuất siêu. Hội nhập
kinh tế quốc tế đã góp phần gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia. Nền kinh tế
Việt Nam từng bước được cơ cấu lại gắn với đổi mới mơ hình tăng trưởng, hệ
thống kết cấu hạ tầng kinh tế được tăng cường, nguồn nhân lực để cung ứng cho


phát triển kinh tế - xã hội ngày càng phát triển. Việt Nam từng bước trở thành
một trong những công xưởng của thế giới về cung ứng hàng điện tử, dệt may, da
giầy, điện thoại di động… Những hoạt động kinh tế đối ngoại này đã đóng góp
tích cực vào việc mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tăng cường thu
hút đầu tư, ODA, thu hút khách du lịch, đấu tranh chống những hành động gian
lận thương mại, áp đặt các rào cản thương mại làm tổn hại tới lợi ích chính đáng
của doanh nghiệp và nhà nước ta.
Hội nhập quốc tế đã góp phần quan trọng vào việc tạo dựng mơi trường
hịa bình, ổn định, thuận lợi cho phát triển đất nước; mở rộng và tăng cường
quan hệ với các quốc gia, nhất là với các nước lớn và các trung tâm hàng đầu
thế giới.

Công tác đối ngoại còn giúp chúng ta đã giữ vững được mơi trường hịa
bình, ổn định, thuận lợi cho phát triển, đưa các mối quan hệ đối ngoại quan trọng
đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả. Bên cạnh việc tiếp tục củng cố, phát triển
quan hệ đoàn kết đặc biệt với Lào, quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn
diện với Campuchia, các mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị và hợp tác với các nước
XHCN và bạn bè truyền thống, hồn thành việc xây dựng khn khổ quan hệ đối
tác với hầu hết các nước có ảnh hưởng lớn ở khu vực và trên thế giới. Trong
nhiệm kỳ Đại hội XI, chúng ta đã thiết lập thêm quan hệ đối tác chiến lược với
tám nước trong tổng số 15 nước đối tác chiến lược đã được xây dựng trong 15
năm qua, nâng cấp lên đối tác chiến lược toàn diện hoặc sâu rộng với hai nước,
lập quan hệ đối tác toàn diện với ba nước trong tổng số 10 nước đối tác tồn diện,
trong đó có cả năm nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
Được xây dựng trên nền tảng quan hệ bình đẳng, tơn trọng luật pháp quốc tế, thể
chế chính trị, độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, thúc đẩy hợp tác
cùng có lợi, các khn khổ đó đã đưa quan hệ của ta với các đối tác, nhất là các
đối tác hàng đầu như Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nga, Nhật Bản, EU, các nước cùng
trong Cộng đồng ASEAN… đi vào khuôn khổ ổn định, đồng thời mang lại ngày
càng nhiều lợi ích về kinh tế, thương mại, đầu tư, chính trị, quốc phịng, an ninh,
văn hóa… Quan hệ với các đối tác hàng đầu không chỉ phát triển mạnh trên kênh
Nhà nước, Chính phủ, mà cịn được đẩy mạnh trên cả kênh Đảng, Quốc hội.


Hội nhập quốc tế đã góp phần hết sức quan trọng vào việc giữ vững chủ
quyền lãnh thổ, biển, đảo, bảo vệ an ninh tổ quốc, góp phần “giữ nước sớm, từ
xa, từ khi nước còn chưa nguy”.
Trong những năm qua, công tác biên giới với Trung Quốc, Lào,
Campuchia đều có tiến triển. Với Trung Quốc, hai bên đã ký Hiệp định quy chế
tàu thuyền đi lại tại khu vực tự do đi lại ở cửa sông Bắc Luân và Hiệp định khai
thác và bảo vệ tài nguyên du lịch khu vực thác Bản Giốc. Chúng ta đã chủ động
và tích cực duy trì đàm phán về vùng biển ngồi cửa vịnh Bắc Bộ, hợp tác trong

lĩnh vực ít nhạy cảm và bàn bạc về hợp tác cùng phát triển. Hai bên đã đạt được
“Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển”.
Với Lào, hai bên hồn thành dự án tăng dày tơn tạo hệ thống mốc giới, đạt được
nhiều thỏa thuận trong việc phát triển đường biên giới hịa bình, hữu nghị. Với
Campuchia hai bên đã hợp tác tốt giữ gìn an ninh, trật tự và giải quyết ổn thỏa
các vấn đề phát sinh ở khu vực biên giới; tiếp tục công tác phân giới cắm mốc
trên đất liền (hiện đã đạt hơn 80%). Trước những diễn biến phức tạp ở Biển
Đông, công tác đối ngoại đã thực hiện nghiêm túc những chủ trương, chỉ đạo của
Đảng và Nhà nước, sử dụng linh hoạt, triệt để các biện pháp chính trị - ngoại
giao, mọi kênh đối thoại, tiếp xúc ở các cấp độ song phương và đa phương, khu
vực và quốc tế, kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đồng
thời chủ động tranh thủ mọi cơ hội để giảm căng thẳng, khơi phục lịng tin, thúc
đẩy hợp tác hữu nghị, nỗ lực đối thoại nhằm tìm kiếm một giải pháp cơ bản, lâu
dài cho vấn đề Biển Đông. Chúng ta đã tranh thủ được công luận quốc tế lên
tiếng ủng hộ lập trường chính nghĩa của Việt Nam, bác bỏ các yêu sách vô lý,
phản đối các hành động đơn phương thay đổi nguyên trạng, vi phạm luật pháp
quốc tế, nhằm duy trì hịa bình, ổn định, an ninh, an tồn, tự do hàng hải và hàng
khơng ở Biển Đông và khu vực. Trong những năm qua, vấn đề Biển Đông là chủ
đề được quan tâm và nêu trong nhiều Tuyên bố, văn kiện của nhiều tổ chức, diễn
đàn đa phương như ASEAN, Hội nghị cấp cao Đơng Á (EAS), Nhóm nước G7,
EU…
Các hoạt động hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng, nhất là đối ngoại
đa phương, đã góp phần khơng ngừng nâng cao vị thế và vai trò của đất nước
trên trường quốc tế.


Việt Nam ngày càng nâng tầm hiệu quả và vai trị của đối ngoại đa
phương, tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương; từng
bước phát huy vai trị hịa giải, góp phần vào hịa bình, ổn định ở khu vực và trên
thế giới. Ta đã khẳng định vai trò ngày càng quan trọng của Việt Nam tại các diễn

đàn quốc tế và khu vực như ASEAN, ASEM, APEC, Liên Hợp Quốc, G20, WEF
và các cơ chế tiểu vùng Mekong; để lại nhiều dấu ấn quan trọng với việc tổ chức
thành công năm APEC Việt Nam 2017, Hội nghị Diễn đàn Kinh tế Thế giới về
ASEAN (WEF ASEAN) năm 2018. Ngay cả trong bối cảnh đại dịch COVID-19,
ta đã chủ động, linh hoạt phát huy tốt vai trò Chủ tịch ASEAN 2020, Chủ tịch
Đại hội đồng Liên nghị viện ASEAN (AIPA) 2020 và Ủy viên không thường trực
Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc 2020-2021, vừa tổ chức thành công nhiều hoạt
động dấu ấn, vừa đề xuất nhiều sáng kiến có ý nghĩa, kịp thời, đáp ứng quan tâm
chung và được bạn bè quốc tế đánh giá cao. Với việc chủ động thúc đẩy và đứng
ra tổ chức cuộc gặp Thượng đỉnh Mỹ-Triều Tiên lần thứ 2 (T2/2019) tại Hà Nội,
ta đã quảng bá mạnh mẽ hình ảnh một đất nước Việt Nam khát vọng hịa bình,
đổi mới, phát triển, chứng minh được năng lực đóng góp vào các vấn đề an ninh
và hịa bình tồn cầu. Các hoạt động đối ngoại đa phương cũng góp phần thắt
chặt thêm quan hệ của ta với các đối tác, đồng thời tranh thủ được các nguồn lực
bên ngoài, mở rộng không gian phát triển và nâng cao vị thế của đất nước. Hơn
hết, Việt Nam đang trở thành nhân tố ngày càng quan trọng trong chiến lược khu
vực và toàn cầu của các nước lớn. Đối ngoại song phương đã góp phần thiết thực
vào phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Ta cũng xử lý tốt
các vấn đề tồn tại và phát sinh trong quan hệ với các đối tác chủ chốt, khơng để
ảnh hưởng đến các lợi ích an ninh, phát triển cũng như cục diện quan hệ đối
ngoại của ta. Ngay cả trong khó khăn của đại dịch COVID-19, đối ngoại vẫn điều
chỉnh linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả với các hình thức ngoại giao trực tuyến, đồng
thời ta đã đẩy mạnh ngoại giao y tế và hợp tác quốc tế phịng chống dịch, qua đó
nâng cao hình ảnh một Việt Nam có khả năng thích ứng, chống chịu cao với các
thách thức bên ngồi và là thành viên tích cực, chủ động, có trách nhiệm của
cộng đồng quốc tế.
Hội nhập văn hoá cũng là cơ hội để Việt Nam quảng bá đất nước, con
người, văn hoá Việt Nam và tiếp thu giá trị văn hoá các nước.



Cùng với sự hội nhập nhanh, sâu rộng và toàn diện trong lĩnh vực kinh tế,
hội nhập quốc tế trong lĩnh vực văn hố - xã hội cũng có những bước phát triển
quan trọng. Hội nhập với tốc độ cao hơn, tồn diện hơn, đa dạng về hình thức,
phương thức, đối tác và chất lượng hội nhập ngày càng nâng cao. Việt Nam đã ký
hơn 100 thoả thuận, điều ước quốc tế song phương có nội dung văn hố, đã thu
hút bạn bè quốc tế đến với Việt Nam ngày càng nhiều. Các hình thức giao lưu
văn hố, phim ảnh, thời trang… của Việt Nam với quốc tế ngày càng nhiều. Nhờ
có hội nhập mạnh mẽ về văn hố mà bạn bè quốc tế đến Việt Nam ngày càng
nhiều. Trong suốt nhiều năm vừa qua, khách du lịch đến Việt Nam đều tăng với
tốc độ cao, góp phần cả về phát triển kinh tế và văn hoá, xã hội. Cũng từ thành
công của hội nhập trong lĩnh vực này đưa tới việc hình thành nhiều dự án, nhiều
cơng trình văn hố tại Việt Nam với quy mơ ngày càng được mở rộng, tạo điều
kiện để nhân dân ta có cơ hội tiếp cận và thưởng thức những giá trị văn hoá tiêu
biểu của nhiều quốc gia trên thế giới. Từ đó, thúc đẩy tiềm năng sáng tạo của
nhân dân và khuyến khích giao lưu với cộng đồng quốc tế. Nguồn lực và động
lực về văn hoá- xã hội được tăng cường sẽ là yếu tố quan trọng để chúng ta giữ
gìn bản sắc văn hố dân tộc Việt Nam.
Quả thật, cơng tác đối ngoại đã đóng góp quan trọng, trở thành một điểm
sáng trong những thành tựu chung của cả dân tộc. Khơng chỉ giữ vững được mơi
trường hịa bình, ổn định trong bối cảnh thế giới rất phức tạp ,Việt Nam đã thể
hiện được bản lĩnh, tinh thần chủ động thích ứng, khả năng kiến tạo và tận dụng
cơ hội để không ngừng nâng cao thế và lực, uy tín quốc tế của đất nước.
4.2. Hạn chế và nguyên nhân:
Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình thực hiện đường lối đối ngoại,
hội nhập kinh tế quốc tế cũng bộc lộ nhiều hạn chế. Trong quan hệ với các nước,
nhất là các nước lớn, chúng ta còn lúng túng, bị động. Chưa khai thác và phát
huy hiệu quả quan hệ lợi ích đan xen, ổn định, bền vững với các nước lớn và các
đối tác quan trọng. Một số chủ trương, cơ chế, chính sách chậm được đổi mới so
với yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế; hệ thống luật
pháp chưa hồn chỉnh, chưa có giải pháp đồng bộ, hiệu quả để hạn chế tác động

tiêu cực trong quá trình mở rộng mở cửa hội nhập, giao lưu, hợp tác quốc tế
trong các lĩnh vực thông tin, kinh tế, tư tưởng, văn hóa, chính trị. Chưa hình


thành được một kế hoạch tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế và một lộ trình hợp
lý cho việc thực hiện các cam kết. Công tác thông tin đối ngoại, dự báo tình hình
của nước ta cịn chậm, thiếu chủ động, thiếu thống nhất, còn lúng túng, bị động
trước những ý đồ và hành động của một số nước lớn; nắm bắt, xử lý chưa kịp
thời và hiệu quả một số vấn đề trong quan hệ với các nước láng giềng. Bên cạnh
đó, việc thực hiện các chủ trương, nghị quyết và các thỏa thuận quốc tế chưa đầy
đủ, hiệu quả chưa cao, chưa phát huy hết sức mạnh tổng hợp trong hoạt động đối
ngoại. Bởi lẽ nhận thức và tư duy đối ngoại của nước ta còn chậm, chưa theo kịp
những chuyển biến mau lẹ, phức tạp của tình hình thế giới, nhất là ý đồ và hành
động của một số nước lớn. Đồng thời do công tác nghiên cứu chiến lược, dự báo
tình hình, sự phối hợp của các bộ, ban, ngành còn chậm dẫn tới việc hoạch định
chính sách, triển khai giải pháp chưa đồng bộ và hiệu quả. Do đó, Đảng và Nhà
nước cần có những thay đổi về chủ trương chính sách, rút kinh nghiệm để có
đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế tốt hơn trong công cuộc xây dựng, phát
triển và bảo vệ Tổ quốc.
4.3. Bài học kinh nghiệm:
Từ tất cả những kết quả và hạn chế nêu trên và nói chung là từ tồn bộ
hoạt động phong phú, sơi động trên mặt trận đối ngoại thời gian qua, từ đó có thể
rút ra những bài học kinh nghiệm. Đó là:
a. Bài học về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, hài hồ lợi ích
quốc gia dân tộc với trách nhiệm quốc tế:
Tình hình thế giới biến chuyển phức tạp, song xu thế lớn và nguyện vọng
thiết tha của các dân tộc vẫn là giữ vững hòa bình, mở rộng hợp tác vì sự phát
triển. Việt Nam xác định rõ hơn vị trí của mình trong phân cơng lao động quốc tế,
cải thiện vị trí trong chuỗi giá trị, chuỗi sản xuất và cung ứng khu vực và tồn
cầu. Đường lối, chính sách và mục tiêu trước sau như một của nước ta luôn luôn

phù hợp với xu thế lớn đó của tình hình thế giới. Lợi ích quốc gia dân tộc lúc này
là bảo đảm môi trường quốc tế thuận lợi để phát triển. Điều đó hồn tồn phù
hợp với lợi ích của nhân dân thế giới vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội. Phải ln đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu trong tất cả các mối quan hệ,
phấn đấu cho lợi ích cao nhất của dân tộc. Kết hợp hài hoà sức mạnh dân tộc với


sức mạnh thời đại, dân tộc với quốc tế, trong đó yếu tố trong nước giữ vai trị
quyết định.
b. Bài học kiên trì về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược.
Nguyên tắc của ta là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sách lược là cơ
động, linh hoạt điều chỉnh tuỳ theo vấn đề, tùy từng thời điểm và tùy theo đối
tượng hay đối tác, tuân thủ những tư tưởng lớn của Bác Hồ: " Dĩ bất biến ứng
vạn biến", "thêm bạn bớt thù", "làm bạn với tất cả các nước dân chủ và khơng
gây thù ốn với ai". Phát huy truyền thống hịa hiếu, u chuộng hồ bình của
dân tộc ta, kiên trì chính sách đối ngoại hồ bình hữu nghị, sẵn sàng là bạn, là đối
tác tin cậy của tất cả các nước trên thế giới, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát
triển.
c. Bài học về xây dựng sự đồng thuận trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân
như căn dặn của Bác Hồ: "sự nghiệp thành công bởi chữ đồng"
Đường lối đối ngoại đúng đắn và sự triển khai hiệu quả các chính sách cụ
thể đã góp phần tạo ra sự đồng thuận lớn của tồn bộ hệ thống chính trị. Cơ chế
thống nhất quản lý đối ngoại ngày càng hoàn thiện; cơ chế phối hợp ngoại giao
chính trị, ngoại giao kinh tế với ngoại giao an ninh - quốc phòng, ngoại giao văn
hố - xã hội, ngoại giao nhân dân, thậm chí cả ngoại giao môi trường; giữa trung
ương và địa phương,... đã có nhiều cải tiến, góp phần làm nên sức năng động,
hiệu quả cao của hoạt động đối ngoại.
d. Bài học về công tác xây dựng ngành và công tác cán bộ mà Bác Hồ coi là "cái
gốc của mọi cơng việc".
Các thế hệ cán bộ đối ngoại đã hồn thành vẻ vang nhiệm vụ của mình

trong những giai đoạn lịch sử khác nhau của đất nước, trong đó có đội ngũ cán bộ
của Bộ Ngoại giao với chức năng tham mưu và trực tiếp triển khai công tác đối
ngoại. "Mang chuông đi đánh xứ người" là một công việc rất khó khăn và vất vả,
địi hỏi những phẩm chất đặc biệt của người làm công tác đối ngoại. Những nỗ
lực trên mặt trận đối ngoại thời gian qua đã tạo ra lớp lớp thế hệ cán bộ đối ngoại
ngày càng hội đủ tố chất vừa hồng vừa chuyên, bước đầu thể hiện được bản lĩnh,
đạo đức, cốt cách của con cháu Hồ Chí Minh. Khơng ngừng hồn thiện cơ chế
quản lý hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà
nước và đối ngoại nhân dân để tạo ra sức mạnh tổng hợp trên mặt trận đối ngoại.


Công tác đối ngoại phải đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, sự quản lý tập
trung thống nhất của Nhà nước.
e. Bài học về sự lãnh đạo thống nhất, tuyệt đối của Đảng, sự quản lý tập trung
của Nhà nước
Các cơ quan lãnh đạo của Đảng đã chứng tỏ sự nhạy bén trong nhận định
và nắm bắt tình hình, quyết đốn trong việc đưa ra các biện pháp, chính sách cụ
thể. Ln nắm vững và kiên định phương châm vừa hợp tác vừa đấu tranh trong
quan hệ quốc tế, quán triệt sâu sắc nhận thức về đối tác và đối tượng trong tình
hình mới. Giữ vững nguyên tắc chiến lược, mềm dẻo trong sách lược. Nhiều chủ
trương, giải pháp xử lý những vấn đề phức tạp, trong đó có vấn đề Biển Đơng,
những tính tốn lựa chọn đúng thời điểm tiến hành những hoạt động đối ngoại
lớn, trong đó có các sự kiện đón và thực hiện các chuyến thăm cấp cao, đã thực
sự đưa đến tác động mạnh mẽ có sức thuyết phục, tạo được sự đồng thuận cao
trong toàn Đảng, toàn dân và được dư luận quốc tế đồng tình, ủng hộ.
II.

PHẦN VẬN DỤNG:
Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và toàn diện đã tạo ra những cơ hội
để cho mọi cơng dân có thể mở rộng sự giao lưu và tìm kiếm cơ hội phát triển.

Sinh viên nói riêng hay thanh niên nói chung thì điều này càng trở nên quan
trọng hơn bởi tuổi trẻ luôn năng động, sáng tạo, nhiệt huyết, nhanh nhạy nên có
nhiều hơn các cơ hội để giao lưu, học tập. Thanh niên chính là lực lượng lao
động lớn của xã hội và là nguồn lực quan trọng cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. “Thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương
lai của đất nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một
trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Q trình hội nhập
quốc tế đã có những tác động nhất định, làm thay đổi phương thức tư duy, lối
sống của sinh viên theo hướng hiện đại và tích cực, chủ động hơn. Sinh viên
nước ta biết thêm nhiều hơn về phong tục, tập quán, văn hóa và con người của
các quốc gia trên thế giới. Có điều kiện khám phá thế giới, tiếp thu và làm chủ
các tiến bộ khoa học - kỹ thuật hiện đại, tri thức mới...Tạo ra nhiều cơ hội, song
hội nhập quốc tế cũng đã và đang đặt ra nhiều thách thức lớn bởi lẽ nó đã làm


thay đổi ít nhiều về đời sống, văn hóa, xã hội. Đó là sự thay đổi nhận thức của
sinh viên về đời sống xã hội, về giá trị của văn hóa, đạo đức, lối sống, về việc
làm… Chính vì thế, trong quá trình xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc, bản
thân mỗi sinh viên cần có nhận thức đúng đắn về sự cần thiết, mục đích và nội
dung hội nhập quốc tế, về tình hình, vị trí cũng như hiểu rõ vai trị của bản thân
mình.
Để làm được điều đó bản thân mỗi sinh viên chúng ta cần trang bị đầy đủ
kiến thức văn hóa, chun mơn lẫn chính trị, khoa học, kỹ thuật và tay nghề. Tùy
vào mỗi ngành nghề và năng lực của bản thân, chúng ta khơng chỉ dừng lại ở sự
nhận biết mà cịn phải đào sâu nghiên cứu. Đây là yếu tố để sinh viên thực hiện
được lý tưởng nghề nghiệp của mình. Bản thân là sinh viên trong thời đại mới,
được tiếp cận với nền tri thức hiện đại, có thêm nhiều sự hỗ trợ trong việc nghiên
cứu, học tập, chúng ta cần có những phát minh, những sáng chế góp phần thay
đổi tích cực vào sự phát triển của xã hội. Khơng chỉ dừng lại việc tìm hiểu,

nghiên cứu phát triển trong nước, mà bản thân mỗi sinh viên cần tận dụng những
thời cơ từ hội nhập quốc tế thông qua các buổi trao đổi du học sinh giữa các
nước, tiếp thu, học tập kiến thức từ các nước bạn. Song song đó, sinh viên cịn
phải tích cực tham gia học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị, bồi đắp lý
tưởng cách mạng trong sáng. Bối cảnh trong nước và quốc tế đang tác động lên
tất cả các đối tượng thanh niên, tác động một cách toàn diện lên tư tưởng, tình
cảm, lối sống, nhu cầu của từng thanh niên. Do đó, chúng ta cần phải rèn luyện
để có lập trường tư tưởng vững vàng, có lịng u nước, có niềm tin vào sự lãnh
đạo của Đảng và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng và
lối sống lành mạnh; tích cực tham gia vào các cuộc đấu tranh bảo vệ Đảng, Nhà
nước và bảo vệ cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước; đấu tranh chống lại âm mưu “Diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch
và các tiêu cực, tệ nạn xã hội, tham nhũng…
Để hội nhập tốt, bản thân chúng ta cần có ngoại ngữ. Vì đây chính là “chìa
khóa” để sinh viên có thể dễ dàng tiếp cận, giao lưu với nước bạn. Hiện nay,
tiếng Anh là ngôn ngữ phổ thông nhất trên thế giới và nó cũng là ngoại ngữ phổ
biến ở Việt Nam. Phần lớn các công ty khi tuyển dụng đều u cầu trình độ Anh
ngữ từ phía ứng viên. Chính vì vậy, thơng thạo tiếng Anh sẽ là một lợi thế rất lớn


cho việc xin việc làm cũng như nắm bắt được nhiều cơ hội khởi nghiệp từ sự hội
nhập toàn cầu. Mỗi sinh viên hãy dành một thời gian nhất định trong ngày cho
việc rèn luyện ngoại ngữ. Chúng ta có thể học ngoại ngữ bằng nhiều cách, như:
qua youtube, phim ảnh, sách tham khảo… và hơn hết hãy tạo cho mình sự hứng
thú, niềm u thích và tinh thần sảng khoái khi học ngoại ngữ.
Để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong quá trình hội nhập quốc tế, thì vấn
đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là vơ cùng quan trọng. Để làm được điều đó,
mỗi sinh viên chúng ta cần phải am hiểu văn hóa dân tộc. Bởi lẽ, văn hóa khơng
phải giá trị cố định, bất biến mà văn hóa ln phát triển, văn hóa là mục tiêu,
động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội và tồn tại dưới các hình thức như: các

cơng trình kiến trúc, vật dụng, ẩm thực, ngơn ngữ, tập qn, âm nhạc, tơn giáo….
Bản sắc văn hóa dân tộc là sắc thái gốc, là những đường nét, màu sắc riêng biệt
không thể trộn lẫn của một nền văn hóa. Bản sắc văn hóa dân tộc làm nên cốt lõi
vững chắc giúp cho nền văn hóa ln giữ được tính duy nhất, tính nhất qn
trong q trình phát triển. Mỗi cá nhân với tư cách là một chủ thể sáng tạo văn
hóa ln thống nhất cái riêng của bản thân mình và cái chung của dân tộc. Vì
vậy, bản sắc văn hóa dân tộc ln chứa đựng cả tính nhân loại, cả tính khu vực và
tính dân tộc. Trong thời đại ngày nay, xu thế tồn cầu hố và hội nhập quốc tế
diễn ra mạnh mẽ, trên quy mơ lớn. Nhiều nét mới trong giá trị vǎn hóa và chuẩn
mực đạo đức từng bước hình thành. Tính nǎng động và tính tích cực cơng dân
được phát huy, sở trường và nǎng lực cá nhân được khuyến khích. Khơng khí dân
chủ trong xã hội tǎng lên. Thế hệ trẻ tiếp thu nhanh những kiến thức mới và có ý
chí vươn lên lập thân, lập nghiệp, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và luôn luôn
hướng về cội nguồn; Bên cạnh những mặt tích cực, thì hội nhập Quốc tế cũng có
những tác động tiêu cực đến sự gìn giữ bản sắc dân tộc ở nước ta hiện nay: Tệ
nạn sùng bái những tín ngưỡng chưa được cơng nhận du nhập từ nước ngồi, coi
thường những giá trị vǎn hóa dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân vị
kỷ... đang gây hại đến thuần phong mỹ tục của dân tộc. Trước những tác động hai
mặt đó, trong quá trình hội nhập sinh viên phải chủ động lựa chọn, tiếp thu và
phát huy những mặt tích cực, nhận biết và ngăn chặn, đẩy lùi những mặt tiêu cực
của nền văn hóa bên ngồi. Những giá trị, nét đẹp của văn hóa dân tộc được lưu


truyền, được thế giới biết đến khi thanh niên tự giác tìm hiểu, học tập và giới
thiệu với bạn bè quốc tế.
Đặc điểm nổi bật của giai đoạn hiện nay là các nước với chế độ chính trị xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác, vừa đấu tranh,
cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Q trình hội nhập quốc tế, cơ hội
có thể dễ dàng nhận biết nhưng có những thách thức đang đặt ra đối với sinh
viên, trước hết là sự cạnh tranh gay gắt và ngày càng quyết liệt. Cùng với tiến
trình hội nhập quốc tế, sự cạnh tranh đó khơng chỉ giữa các quốc gia với nhau mà

còn cạnh tranh ngay tại trong nước. Lợi thế cạnh tranh giữa các quốc gia là trí
tuệ, nhân lực. Giải pháp duy nhất là phải tự nâng cao năng lực cạnh tranh mà
trước hết là về chất lượng nguồn nhân lực. Muốn vậy, phải học tập, học nghiêm
túc, học có chất lượng, học thường xuyên; đồng thời phải rèn luyện, phát triển
các kỹ năng để làm việc và xử lý các vấn đề đặt ra với hiệu quả cao nhất. Cùng
với trình độ ngoại ngữ, tin học, hiểu biết văn hóa dân tộc, đất nước mình,…để
hội nhập quốc tế địi hỏi sinh viên phải trang bị cho mình một bản lĩnh vững
vàng, phải không ngừng nâng cao được bản lĩnh chính trị. Thế giới mà chúng ta
hội nhập đã, đang và sẽ hết sức phức tạp. Do đó cần phải hết sức tỉnh táo để phân
biệt được cái đúng, cái sai, cái thật, cái ảo... Vì vậy, cần có được một thế giới
quan, nhân sinh quan đúng đắn và tiến bộ. Điều này đặc biệt cần thiết trong thời
đại bùng nổ thơng tin hiện nay.
Xu thế tồn cầu hố sẽ tạo ra thị trường lao động tồn cầu, cơng dân tồn
cầu, thanh niên tồn cầu… Mọi người sẽ cùng làm việc chung với nhau, thế
nhưng một số sinh viên nước ta còn thua kém các nước tiên tiến về kỷ luật lao
động, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng tham gia các hoạt động quốc tế… Để tăng
cường kỹ năng làm việc theo nhóm, bản thân sinh viên chúng ta phải không
ngừng học hỏi, đọc sách báo về các nền văn hóa, tìm hiểu về lịch sử, tơn giáo, giá
trị, phong tục của các địa phương, các quốc gia để có thể hiểu được nhiều nhất
các thành viên khác nghĩ gì và hành động như thế nào qua giao tiếp cá nhân – cá
nhân. Cải thiện kỹ năng nói, tiếng nói rõ ràng, dễ hiểu với người nghe. Ngồi ra
khi nói, kết hợp với ngơn ngữ thhifnht hể phù hợp với ngữ cảnh nhằm gây ấn
tượng với người nghe. Hơn hết, để làm việc nhóm tốt thì cần phải biết lắng nghe,
trình bày những quan điểm cá nhân và giải đáp xác đáng. Lắng nghe người khác


×