Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Xây dựng hệ thống bài tập môn vật lý nhằm phát triển tư duy độc lập cho học sinh ở trường THPT đặng thúc hứa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (857.94 KB, 62 trang )

MỞ ĐẦU
I: LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong quá trình hội nhập thế giới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành công
nhất định nhưng cũng đang đứng trước những thử thách vơ cùng to lớn. Để
nhanh chóng đưa đất nước vượt qua những khó khăn, vươn lên tầm cao mới
chúng ta cần tập trung vào mũi nhọn có tính chất đột phá là giáo dục vì “phát
triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy
sự nghiệp cơng nghiệp hóa–hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực
con người”–chỉ thị 40–CT/TW ngày 14/06/2004 của Ban Bí Thư.
Để đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực–yếu tố quyết định sự phát triển của
đất nước, cần phải tạo sức chuyển biến cơ bản toàn diện về giáo dục và đào
tạo, trong đó có sự thay đổi mới về phương thức dạy học và kiểm tra đánh giá.
Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII Đảng Cộng Sản Việt Nam khẳng định: “
Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ
một chiều, rèn luyện thói quen, nề nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng
bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và hiện đại vào quá trình học,…”
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã nêu:“Đổi mới phương pháp dạy và
học, phát triển tư duy sáng tạo và năng lực tự đào tạo của người học coi
trọng thực hành, thí nghiệm, làm chủ kiến thức, tránh nhồi nhét, học vẹt, học
chay. Đổi mới và tổ chức thực hiện nghiêm minh chế độ thi cử”. Điều 28 Luật
Giáo Dục (2005) nước ta đã nêu “Phương pháp giáo dục phổ thơng phải phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động và sáng tạo của học sinh; phù hợp với
đặc điểm của từng môn học, lớp học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn
luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem
lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh”.
Như vậy vai trị của người thầy ngày nay khơng chỉ chú trọng vào cơng
việc truyền thụ kiến thức mà cịn dạy cho học sinh có những phương pháp học
tập. Để thực hiện điều này nhiệm cụ phát triển tư duy độc lập cho học sinh

1



được đặt lên hàng đầu trong quá trình dạy học ở các trường THPT nói chung
và trường THPT Đặng Thúc Hứa nói riêng.
Vật lý là một mơn khoa học tự nhiên, là cơ sở của tất cả các ngành khoa
học khác như tốn học, hóa học, sinh học. Thơng qua việc học mơn vật lý,
học sinh sẽ có những kiến thức cơ bản về vật chất và những chuyển động của
nó trong khơng gian và thời gian, biết giải thích được các hiện tượng vật lý
trong tự nhiên và mối liên hệ qua lại giữa khoa học vật lý, môi trường, con
người. Từ đó học sinh có cái nhìn khoa học về thế giới vật chất, điều này góp
phần phát huy được năng lực sáng tạo phát triển tư duy độc lập cho học sinh.
Trong dạy học vật lý, việc giảng dạy bài tập vật lý trong nhà trường không chỉ
giúp cho học sinh hiểu được một cách sâu sắc và đầy đủ những kiến thức quy
định trong chương trình mà còn phát triển tư duy, sáng tạo cho học sinh.Qua
đó giúp các em vận dụng những kiến thức đó để giải quyết tốt những nhiệm
vụ học tập và những vấn đề đã đặt ra.
Bài tập vật lý là một phương tiện để tích cực hoạt động phát triển tư duy
độc lập cho học sinh trong từng bài học.Vì vậy, việc xây dựng hệ thống bài
tập mơn vật lý có vai trị quan trọng trong q trình đó. Đã có nhiều tác giả
viết và nghiên cứu về hệ thống bài tập mơn vật lý và tác dụng của nó trong
việc phát triển tư duy độc lập cho học sinh như: Tác giả Nguyễn Đình Phước
với cuốn “các bài tập vật lý chọn lọc”; Tác giả Nguyễn Đình Phước với cuốn
“ Những bài tập sáng tạo môn vật lý THPT” hay tác giả Phạm Duy Lác với
bài viết “Xây dựng hệ thống bài tập sáng tạo trong dạy học môn vật lý cho
học sinh THPT”,….Tuy nhiên hệ thống bài tập môn vật lý ở trường THPT
chưa có ai nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy đủ.
Chất lượng hệ thống bài tập môn vật lý nhằm phát triển tư duy độc lâp cho
học sinh ở trường THPT Đặng Thúc Hứa chưa cao.
Trong giờ luyện tập mơn vật lý hình thức tổ chức chủ yếu là giáo viên nêu
đề bài, tổ chức cho cả lớp thảo luận, phân tích để giải bài toán . Song giờ bài


2


tập chủ yếu thiên về giải các bài tập định lượng trong SGK và SBT rất ít giáo
viên biên soạn các bài tập theo hệ thống và bài tập tổng hợp.
Từ những lí do trên tơi chọn nghiên cứu “Xây dựng hệ thống bài tập môn
vật lý nhằm phát triển tư duy độc lập cho học sinh ở trường THPT Đặng
Thúc Hứa”.
II: MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
– Nhằm phát triển tư duy độc lập cho học sinh ở trường THPT Đặng Thúc
Hứa qua dạy học môn vật lý.
III: NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
–Tìm hiểu cơ sở lí luận về xây dựng hệ thống bài tập môn vật lý ở trường
THPT.
– Nghiên cứu thực trạng xây dựng hệ thống bài tập môn vật lý nhằm phát
triển tư duy độc lập cho học sinh ở trường THPT Đặng Thúc Hứa
– Xây dựng hệ thống bài tập môn vật lý nhằm phát triển tư duy độc lập cho
học sinh ở trường THPT Đặng Thúc Hứa.
IV: ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
– Đối tượng nghiên cứu: Xây dựng hệ thống bài tập môn vật lý nhằm phát
triển tư duy độc lập cho học sinh ở trường THPT Đặng Thúc Hứa.
–Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy học môn vật lý ở trường THPT Đặng
Thúc Hứa.
V: GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nếu xây dựng được hệ thống bài tập vật lý đa dạng có nội dung phù hợp
với từng đối tượng học sinh và giáo viên thường xuyên quan tâm học sinh tự
lực giải bài tập vật lý thì sẽ phát triển được tư duy độc lập cho học sinh ở
trường THPT Đặng Thúc Hứa.
VI: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
– Quan sát

– Điều tra
– Phân tích tổng hợp tài liệu lí luận
3


– Hỏi ý kiến chuyên gia
VII: CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận, kiến nghị, tài liệu tham khảo thì đề
tài gồm có 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lí luận về xây dựng hệ thống bài tập môn vật lý nhằm phát
triển tư duy độc lập cho học sinh.
Chương 2: Thực trạng xây dựng hệ thống bài tập môn vật lý nhằm phát triển
tư duy độc lập cho học sinh ở trường THPT Đặng Thúc Hứa.
Chương 3: Xây dựng hệ thống bài tập nhằm phát triển tư duy độc lập cho học
sinh ở trường THPT Đặng Thúc Hứa.

4


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG HỆ THỐNG BÀI
TẬP MÔN VẬT LÝ NHẰM PHÁT TRIỂN TƯ DUY ĐỘC LẬP CHO
HỌC SINH
1.1 Tổng quan
Việc dạy học vật lý trong nhà trường không chỉ giúp học sinh hiểu được
một cách sâu sắc và đầy đủ những kiến thức quy định trong chương trình mà
cịn giúp các em vận dụng những kiến thức đó để giải quyết những nhiệm vụ
của học tập và những vấn đề mà thực tiễn đặt ra.
Muốn đạt được điều đó, phải thường xuyên rèn luyện cho học sinh các kĩ
năng, kĩ xảo vận dụng kiến thức vào cuộc sống hằng ngày. Kỹ năng vận dụng

kiến thức trong bài tập và trong thực tiễn đời sống chính là thước đo mức độ
sâu sắc và vững vàng của những kiến thức mà học sinh thu nhận được. Với
vai trò là một cách thức vận dụng, bài tập vật lý có một vị trí đặc biệt trong
dạy học vật lý THPT .
Trước hết, vật lý là một môn khoa học giúp học sinh nắm được quy luật
vận động của thế giới vật chất và bài tập vật lý giúp học sinh hiểu rõ những
quy luật ấy, biết phân tích và vận dụng những quy luật ấy vào thực tiễn. Trong
nhiều trường hợp đặc biệt mặc dù giáo viên có trình bày tài liệu một cách
mạch lạc, hợp lơgíc, phát biểu định luật chính xác, làm thí nghiệm đúng u
cầu, quy tắc và có kết quả chính xác thì đó chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ
để học sinh hiểu và nắm sâu sắc kiến thức. Chỉ thơng qua việc giải bài tập vật
lý dưới hình thức này hoặc hình thức khác nhằm tạo điều kiện cho học sinh
vận dụng những kiến thức đã học để giải quyết các tình huống cụ thể thì kiến
thức đó mới trở nên sâu sắc và hồn thiện.
Trong q trình giải quyết các tình huống cụ thể do bài tập vật lý đặt ra,
học sinh phải sử sụng các thao tác tư duy như tư duy phân tích, tổng hợp, so
sánh, khái quát hóa, trừu tượng hóa,...để giải quyết vấn đề, do đó tư duy của
học sinh có điều kiện để phát triển. Vì vậy, có thể nói bài tập vật lý là phương
5


tiện rất tốt để phát triển tư duy, năng lực sáng tạo, óc tưởng tượng, khả năng
độc lập trong suy ngĩ và hành động, tính kiên trì trong việc khắc phục những
khó khăn trong cuộc sống của học sinh.
Bài tâp vật lý là cơ hội để giáo viên đề cập những kiến thức mà trong giờ
học lí thuyết chưa có dịp để đề cập qua đó nhằm bổ sung kiến thức cho học
sinh. Đặc biệt để giải các bài tập vật lý dưới hình thức trắc nghiệm khách
quan học sinh ngoài việc nhớ lại các kiến thức một cách tổng hợp, chính xác ở
nhiều phần, nhiều chương, nhiều cấp học thì học sinh cần phải rèn luyện cho
mình tính phản ứng nhanh trong từng tình huống cụ thể, bên cạnh đó học sinh

phải giải thật nhiều các dạng bài tập khác nhau để có được kiến thức tổng
hợp, chính xác và khoa học.
1.1.1 Các nghiên cứu về phát triển tư duy cho học sinh
Trong thời đại ngày nay, thời đại mà khoa học kỹ thuật phát triển nhanh
chóng, đã đặt ra cho con người nhiều vấn đề mới không chỉ trong lĩnh vực
khoa học - công nghệ mà cả những vấn đề rất tổng quát như trong lĩnh vực
kinh tế - xã hội. Việc đào tạo người lao động cho xã hội hiện đại, không chỉ
học tập trong nhà trường mà cịn có khả năng tự học, tự hồn thiện mình,
nghĩa là “học một biết mười”. Muốn vậy học sinh phải phát triển tư duy độc
lập, có năng lực sáng tạo, có tri thức khoa học, sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu
của thời đại.
Việc phát triển tư duy độc lập có ý nghĩa thiết thực để học sinh chủ động,
chiếm lĩnh tri thức, biết vận dụng kiến thức vào thực hành, từ đó kiến thức
của học sinh trở nên vững chắc và sinh động. Đồng thời giúp cho việc phát
hiện và bồi dưỡng đội ngũ những người lao động có trình độ, những nhân tài
cho đất nước.
Kiến thức vật lý được hình thành, phát triển và ứng dụng vào thực tiễn luôn
luôn gắn liền với hoạt động tư duy và sáng tạo của con người trong hoàn cảnh

6


xác định. Do đó, phát triển tư duy độc lập của học sinh vừa là mục đích, vừa
là phương tiện trong nghiên cứu và dạy học ở trường THPT .
Trong nghiên cứu về phương pháp dạy học vật lý đã có nhiều cơng trình
nghiên cứu đề cập đến cụ thể như: Luận văn thạc sĩ ĐHSPHN của tác giả
Phạm Thanh Bình“phát triển tư duy bằng việc vận dụng phương pháp tìm tịi
từng phần trong giảng dạy một bài chương dịng điện xoay chiều”, luận văn
thạc sĩ ĐHSP Thái Nguyên 1999 của tác giả Ngô Văn Lý“phát triển tư duy
học sinh THPT miền núi trong dạy học thí nghiệm”, luận văn thạc sĩ ĐHSP

Thái Nguyên 2004 của tác giả Nguyễn Thị Hải Yến“phát triển năng lực phát
hiện và giải quyết có vấn đề cho HS khi dạy một số kiến thức chương mắt và
các dụng cụ quang học”, luận văn thạc sĩ ĐHSP Thái Nguyên 2007 của tác
giả Tô Đức Thắng“tiến hành thí nghiệm biểu diễn nhằm phát triển tư duy học
sinh THPT miền núi khi dạy một số bài chương chất khí”, luận văn thạc sĩ
ĐHSP Thái Nguyên (2008) của tác giả Lê Văn Huế“phát triển tư duy học
sinh THPT miền núi khi dạy các khái niệm vật lý của chương cảm ứng điện
từ”.……….
Các cơng trình này đã có những thành công nhất định trong việc phát triển
tư duy học sinh trong dạy học kiến thức mới. Song việc phát triển tư duy độc
lập cho học sinh ở trường THPT Đặng Thúc Hứa qua việc xây dựng hệ thống
bài tập mơn vật lý chưa có ai nghiên cứu một cách đầy đủ có hệ thống.
1.1.2 Các nghiên cứu về bài tập vật lý
Trong giai đoạn xây dựng kiến thức, học sinh đã nắm được cái chung, cái
khái quát của các khái niệm, định luật và cũng là cái trừu tượng. Trong các bài
tập học sinh phải vận dụng những kiến thức khái quát, trừu tượng đó vào
những trường hợp cụ thể rất đa dạng. Quá trình nhận thức các khái niệm, định
luật vật lý không kết thúc ở việc xây dựng nội hàm của các khái niệm, định
luật vật lý mà còn tiếp tục ở giai đoạn vận dụng vào thực tế. Ngoài những ứng
dụng quan trọng trong kỹ thuật, bài tập vật lý giúp học sinh thấy được những

7


ứng dụng mn hình mn vẻ trong thực tiễn của các kiến thức đã học. Vì lí
do trên trong chương trình và SGK vật lý hiện nay ở các cấp học quỹ thời
gian dành cho giải bài tập vật lý cũng tăng lên. Các nghiên cứu khoa học ở
vấn đề này chiếm một vị trí đáng kể.
Các nghiên cứu này khai thác khá nhiều mặt, nhiều góc cạnh khác nhau của
bài tập vật lý với những mục đích khác nhau như cuốn“Bài tập về phương

pháp dạy bài tập vật lý” của GS–TS Phạm Hữa Tòng (1994 ); Luận án tiến sĩ
của tác giả NguyễnThế Khôi (1995) về“Một phương án xây dựng bài tập
phần Động lực học lớp 10 THPT nhằm giúp học sinh nắm vững kiến thức cơ
bản, góp phần phát triển năng lực giải quyết vấn đề”; Tác giả Đồng Thị Vân
Thoa (2001) với“Một số biện pháp tích cực hóa hoạt động nhận thức của học
sinh THPT miền núi khi giảng dạy môn vật lý”; Tác giả Đỗ Thúy Hà (2009)
với“Phối hợp các phương pháp và phương tiện dạy học hiện đại để phát triển
hứng thú và năng lực tự lực học tập cho học sinh qua các hoạt động giải bài
tập vật lý phần cơ học”; Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Thanh Hải
với“Nghiên cứu xây dựng và sử dụng hệ thống bài học định tính trong dạy
học cơ học vật lý 10 THPT”.
Ngồi ra có rất nhiều nghiên cứu về phân loại các phương pháp giả bài tập
vật lý theo hình thức hệ thống các bài tập theo nội dung, theo phương pháp
giải. Đó là các tài liệu tham khảo rất hữu ích về bài tập vật lý 10 THPT như “
Bài tập chọn lọc vật lý lớp 10”của tác giả Đoàn Trọng Căn (chủ biên);“ Bài
tập vật lý sơ cấp” của tác giả Vũ Thanh Khiết và Phạm Qúy Tư;“Chuyên đề
bồi dưỡng học sinh giỏi THPT môn vật lý”của GS. Dương Trọng Bái,….Các
nghiên cứu về bài tập vật lý thực sự đã đem lại nguồn tài liệu vô cùng phong
phú và thực sự hữu ích cho giáo viên vật lý và học sinh. Tuy nhiên, nghiên
cứu về xây dựng hệ thống bài tập môn vật lý nhằm phát triển tư duy độc lập
cho học sinh ở trường THPT Đặng Thúc Hứa chưa được nghiên cứu một cách
đầy đủ.

8


1.2 Tư duy và các loại tư duy
1.2.1.1 Khái niệm tư duy
Theo cuốn“Lí luận dạy học vật lý ở trường trung học phổ thông”của tác
giả NguyễnVăn Khải (chủ biên), Nguyễn Duy Chiến, Phạm Thị Mai.

Tư duy là một quá trình nhận thức, khái quát và gián tiếp những sự vật,
hiện tượng của của hiện thực trong những dấu hiệu, những thuộc tính bản chất
của chúng , cũng đồng thời cũng là sự vận dụng sáng tạo những kết luận khái
quát đã thu được vào những dấu hiệu cụ thể dự đốn được những thuộc tính,
hiện tượng, quan hệ mới.
1.2.1.2 Các loại tư duy
Ta có nhiều cách để phân biệt tư duy dựạ vào nhiều dấu hiệu khác nhau,
dạy học vật lý người ta chỉ quan tâm đến các tư duy sau:
a) Tư duy kinh nghiệm
Tư duy kinh nghiệm là một tư duy dựa chủ yếu trên kinh nghiệm cảm tính
và sử dụng phương pháp “thử và sai”. Chủ thể phải thực hiện một nhiệm vụ
nào đó, thử mị mẫm thực hiện một số thao tác ,hành động nào đó, ngẫu nhiên
gặp trường hợp thành cơng, sau đó lặp lại như thế mà khơng rõ ngun nhân
vì sao. Kiểu tư duy này đơn giản, khơng cần rèn luyện nhiều, có ích trong
hoạt động hằng ngày để giải quyết một số vấn đề trong một phạm vi hẹp.
b) Tư duy lí luận
Tư duy lí luận là loại tư duy giải quyết nhiệm vụ đề ra dựa trên sử dụng
những khái niệm trừu tượng, những tri thức lí luận. Đặc trưng của loại này là
+ Không dừng lại ở kinh nghiệm rời rạc mà luôn hướng tới xây dựng quy tắc,
quy luật chung ngày một sâu rộng hơn.
+ Tự định hướng hành động, suy nghĩ cách thức hành động trước khi hành
động
+ Luôn sử dụng tri thức khái qt đã có để lí giải, dự đốn những sự vật, hiện
tượng có thể.

9


+ Luôn lật đi, lật lại vấn đề đạt đến sự thống nhất về mặt lí luận, xác định
được phạm vi ứng dụng của mỗi lí thuyết.

Tư duy lí luận rất cần thiết cho hoạt động nhận thức và phải rèn luyện lâu
dài mới có được. Nhờ có tư duy lí luận, con người mới có thể đi sâu được vào
bản chất của sự vật, hiện tượng, phát hiện được quy luật vận động của chúng
và sử dụng những tri thức khái quát đó để cải tạo bản thân và làm biến đổi thế
giới tự nhiên, phục vụ mục đích của mình.
c) Tư duy lơgíc
Tư duy lơgíc là tư duy tn theo quy tắc, quy luật của lơgíc học một cách
chặt chẽ, chính xác, khơng phạm phải sai lầm, biết phát hiện ra các mâu
thuẫn, nhờ đó mà nhận thức được đúng đắn chân lí khách quan .
Lơgíc học là môn khoa học nghiên cứu những tư tưởng của con người về
mặt hình thức lơgíc của chúng và xây dựng những quy tắc, quy luật mà việc
tuân theo chúng là điều kiện cần để đạt tới chân lí trong quá trình suy luận.
Con người bằng kinh ngiệm của mình đã suy ngĩ theo những quy luật nhất
định rất lâu trước khi những quy luật này được khoa học khám phá ra. Những
quy luật của lơgíc học mà mỗi người sử dụng trong hoạt động tư duy không
phải là con người tự ý tái tạo ra mà là sự phản ánh những mỗi liên hệ và quan
hệ khách quan của các sự vật, hiện tượng quanh ta. Bởi thế, dù chưa biết
lơgíc học, nhưng con người bằng kinh nghiệm sống của mình đã có thể trao
đổi tư tưởng với nhau,thơng hiểu nhau và thống nhất được với nhau trong
một số lập ln, phán dốn . Tuy nhiên, điều đó chỉ xảy ra trong một số
trường hợp đơn giản, còn khi gặp những trường hợp phức tạp thì khó có thể
thơng hiểu lẫn nhau hoặc khó phân biệt đúng, sai, nếu khơng nắm vững và
vận dụng những quy tắc, quy luật lơgíc học.
Tuy nhiên, đối với học sinh ở trường THPT, không thể dạy cho họ lơgíc
học sau đó mới vận dụng các quy tắc và quy luật lơgíc để suy ngĩ, lập luận.
Trái lại,ta có thể thơng qua việc giải quyết nhiệm vụ cụ thể mà tích lũy dần

10



kinh nghiệm và đến một lúc nào đó sẽ tự tổng hợp thành các quy tắc đơn giản
thường dùng.
Tư duy lơgíc được sử dụng trong mọi hoạt động nhận thức, cho nên phải
thường xuyên rèn luyện cho học sinh.
d) Tư duy vật lý
Tư duy vật lý là sự quan sát các hiện tượng vật lý, phân tích một hiện tượng
vật lý phức tạp thành những bộ phận đơn giản và xác lập giữa chúng những
mối quan hệ và những sự phụ thuộc xác định, tìm ta mối liên hệ giữa mặt định
tính và mặt định lượng của các hiện tượng và các đại lượng vật lý, dự đoán
các hệ quả mới từ lý thuyết và áp dụng những kiến thức khái quát thu được
vào thực tiễn.
Các hiện tượng vật lý trong tự nhiên rất phức tạp, nhưng những quy luật chi
phối chúng lại thường rất đơn giản, vì mỗi hiện tượng bị nhiều yếu tố tác
động chồng chéo lên nhau hoặc nối tiếp nhau mà ta chỉ quan sát được kết quả
tổng hợp cuối cùng. Bởi vậy, muốn nhận thức được những đặc tính, bản chất
và qui luật của tự nhiên thì việc đầu tiên là phải phân tích được hiện tượng
phức tạp thành những bộ phận, những giai đoạn bị chi phối bởi một số ít các
nguyên nhân, bị tác động bởi một ít yếu tố. Có như thế ta mới có dễ xác lập
được những mối quan hệ bản chất, trực tiếp, những sự phụ thuộc định lượng
giữa các đại lượng vật lý dùng để đo lường những thuộc tính của sự vật hiện
tượng. Muốn biết những kết luận khái quát thu được có phản ánh đúng thực tế
khách quan không, ta phải kiểm tra lại trong thực tiễn. Để làm việc đó ta phải
xuất phát từ những kết luận khái quát, suy ra những hệ quả, dự đốn những
hiện tượng mới có thể quan sát được trong thực tiễn. Nếu thí nghiệm xác nhận
hiện tượng mới đúng như dự đốn thì kết luận khái qt ban đầu mới được
xác nhận là chân lí. Mặt khác, việc vận dụng các kiến thức vật lý khái quát
vào thực tiễn tạo điều kiện cho con người cải tạo thực tiễn, làm cho các hiện
tượng vật lý xảy ra theo hướng có lợi cho con người, thỏa mãn nhu cầu ngày
càng tăng của con người.
11



Trong quá trình nhận thức vật lý như trên con người sử dụng tổng hợp, xen
kẽ nhiều hình thức lí luận, trong đó có hình thức chung như tư duy vật lý, tư
duy lơgíc và những hình thức đặc thù của vật lý học như thực nghiệm, mơ
hình hóa……
1.2.2 Các biện pháp phát triển tư duy cho học sinh
1.2.2.1. Tạo nhu cầu hứng thú, kích thích tị mị, ham hiểu biết của học
sinh
Tư duy là quá trình tâm lý diễn ra trong óc học sinh. Tư duy chỉ thực sự có
hiệu quả khi học sinh tự giác, mang hết sức mình để thực hiện.Tư duy chỉ
thực sự bắt đầu khi trong đầu học sinh một câu hỏi mà chưa có lời giải đáp
ngay, khi họ gặp mâu thuẫn giữa một bên là nhu cầu, nhiệm vụ nhận thức mới
phải giải quyết và một bên là trình độ kiến thức hiện có khơng đủ để giải
quyết nhiệm vụ đó, cần phải xây dựng kiến thức mới, tìm giải pháp mới. Lúc
đó, học sinh vừa ở trạng thái tâm lí hơi căng thẳng, vừa hưng phấn khao khát
vượt qua khó khăn, giải quyết được mâu thuẫn, đạt được trình độ cao hơn trên
con đường nhận thức. Ta nói rằng: Học sinh được đặt vào“ tình huống có vấn
đề”. Có thể tạo ra nhu cầu hứng thú bằng cách tạp ra kích thích bên ngoài,
chẳn hạn như: khen thưởng, sự ngưỡng mộ của bạn bè, gia đình, sự hứa hẹn
một tương lại tươi đẹp, thực tế xây dựng đất nước…Những sự kích thích này
không được thường xuyên, bền vững và phụ thuộc nhiều vào hồn cảnh của
mỗi học sinh.
Nhu cầu hứng thú có thể nảy sinh ngay trong học tập, nghiên cứu một môn
học, một bài học, nghĩa là từ nội bộ môn học, từ mâu thuẫn nội tại của q
trình nhận thức.
Thí dụ: Học sinh lớp 10 đã biết rằng một vật có khối lượng m,chịu tác
dụng cảu một lực F sẽ thu được một gia tốc a theo định luật thứ hai của
Newton: F = ma. Nếu F khơng đổi thì a cũng không đổi và chuyển động của
vật là chuyển động biến đổi đều. Đến lớp 12 đặt vấn đề áp dụng định luật hai

Newton cho trường hợp vật chịu tác dụng của một lực biến đổi, thí dụ như
12


lực đàn hồi F = −kx thì vật sẽ chuyển động như thế nào? Mặc dù vẫn tin tưởng
rằng định luật 2 Newton vẫn đúng cho câu hỏi đó. Cần thực hiện một chuỗi
suy luận tốn học để tìm nghiệm của phương trình : −kx = ma = mx hay
x " = kx / m = 0 ta thu được nghiệm x = A cos ( ω + ϕ ).

Sau khi kiểm tra lại thí nghiệm, ta rút ra được kiến thức mới: vật chịu tác
dụng của lực có F = −kAx sẽ chuyển động theo một dao động điều hịa hình sin.
1.2.2.2 Xây dựng một lơgíc nội dung phù hợp với đối tượng học sinh
Vật lý được đưa vào dạy học ở trường phổ thông không phải là vật lý học
được trình bày dưới dạng hiện đại nhất của khoa học, bởi nếu như vậy thì
nhiều khi học sinh không thể hiểu được. Hơn nữa, ta phải yêu cầu học sinh
phải tự lực hoạt động để xây dựng, chiếm lĩnh kiến thức. Bởi vậy, giáo viên
phải tìm một con đường thích hợp vừa với trình độ học sinh. Mặc dù nhiều
khi vật lý học trong nhà trường phổ thông đơn giản, dễ hiểu hơn vật lý trong
khoa học thực sự nhưng không được trái với tinh thần của khoa học hiện đại.
Sau khi chọn một yêu cầu thích hợp với nội dung khoa học, còn cần phải
lưa chọn một con đường hình thành thích hợp. Theo quan điểm hoạt động,
dạy học là liên tiếp tổ chức cho học sinh tự lực hoạt động để giải quyết vấn đề
qua đó mà chiếm lĩnh kiến thức. Bởi vậy, giáo viên cần phải phân chia một
vấn đề lớn thành một chuỗi vấn đề nhỏ hơn mà học sinh có thể tự lực giải
quyết được dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Trong chuỗi các vấn đề nhỏ ấy,
có những chuỗi học sinh có thể vận dụng kiến thức, phương pháp đã biết để
giải quyết và cũng có cả những vấn đề phải địi hỏi các kiến thức mới. Trong
chương trình và sách giáo khoa hiện nay, đã đưa ra một lơgíc trình bày kiến
thức phù hợp với trình độ chung của đa số học sinh trong cả nước. Tuy nhiên,
đối với mỗi đối tượng học sinh cụ thể ở từng vùng, từng trường, từng lớp,

giáo viên vẫn có thể và cần thiết hoạch định ra một con đường phù hợp, có
những nét riêng phù hợp với các học sinh .
1.2.2.3 Rèn luyện cho học sinh kỹ năng thực hiện các thao tác tư duy,
những hành động nhận thức phổ biến trong học tập vật lý.
13


Những hành động được dùng phổ biến trong quá trình nhận thức vật lý của
học sinh ở trường phổ thông.
+ Quan sát, nhận biết những dấu hiệu đặc trưng của sự vật, hiện tượng.
+ Phân tích một hiện tượng phức tạp ra thành những hiện tượng đơn giản.
+ Xác định những giai đoạn diễn biến của hiện tượng.
+ Tìm các dấu hiệu giống nhau của các sự vật, hiện tượng.
+ Bố trí một thí nghiệm để tạo ra một hiện tượng trong điều kiện xác định.
+ Tìm những tính chất chung của nhiều sự vật, hiện tượng.
+ Tìm mối quan hệ khách quan, phổ biến của mỗi sự vật hiện tượng.
+ Mơ hình hóa những sự kiện thực tế quan sát được dưới dạng những khái
niệm, những mơ hình lí tưởng đế sử dụng chúng làm công cụ của tư duy.
+ Đo một đại lượng vật lý.
+ Tìm mối quan hệ hàm số giữa các đại lượng vật lý, biểu diễn bằng cơng cụ
tốn học.
+ Giải thích một hiện tượng thực tế.
+ Từ giả thuyết suy ra một hệ quả.
– Các thao tác tư duy bao gồm:
+ Phân tích
+ Tổng hợp
+ So sánh
+ Trừu tượng hóa
+ Cụ thể hóa
+ Khái quát hóa

+ Suy luận quy nạp
+ Suy luận diễn dịch
+ Suy luận tương tự
Trong quá trình nhận thức vật lý học sinh phải luôn thực hiện các thao tác
chân tay (bố trí dụng cụ, sử dụng cá dụng cụ đo, thực hiện các phép đo), các
thao tác tư duy (phân tích, so sánh, khái qt hóa, trừu tượng hóa, cụ thể hóa).
14


Các hành động nhận thức (xác định đặc tính bản chất của sự vật hiện tượng,
tìm nguyên nhân, xác định mối quan hệ). Để cho học sinh có thể tự lực hoạt
động nhận thức có kết quả và hoạt động với tốc độ ngày càng nhanh thì giáo
viên phải ln ln có kế hoạch rèn luyện cho học sinh. Chính trong quá trình
tái tạo các khái niệm và phát hiện các định luật vật lý, học sinh phải thực hiện
các thao tác hành động phổ biến đó. Những tư duy diễn ra trong đầu học sinh,
giáo viên không thể quan sát được, bởi vậy giáo viên có thể sử dụng những cơ
sở định hướng sau đây:
a) Giáo viên tổ chức quá trình học tập sao cho ở những giai đoạn xuất hiện
những tình huống bắt buộc học sinh phải thực hiện các thao tác tư duy và
hành động nhận thức mới có thể giải quyết được vấn đề và hồn thành nhiệm
vụ học tập.
b) Giáo viên được đưa ra những câu hỏi để định hướng cho học sinh tìm
những thao tác tư duy hay phương pháp suy luận, hành động trí tuệ thích hợp.
c) Giáo viên phân tích câu trả lời của học sinh, chỉ ra lỗi sai của họ trong khi
thực hiện các thao tác tư duy và hướng dẫn sửa chữa.
d) Giáo viên giúp học sinh khái quát hóa kinh nghiệm thực hiện các suy luận
lơgíc dưới dạng những suy luận đơn giản.
1.2.2.4 Rèn luyện ngôn ngữ vật lý cho học sinh
Như ta đã biết, ngôn ngữ là hình thức biểu hiện của tư duy. Mỗi khái niệm
vật lý được biểu đạt bằng một từ, một định nghĩa, định luật vật lý, được phát

biểu bằng một mệnh đề. Tuy nhiện, kiến thức vật lý rất đa dạng nhưng những
cách phát biểu định nghĩa, quy tắc ddingj luật vật lý cũng có những hình thức
chung nhất định, giáo viên có thể chú ý rèn luyện cho học sinh quen dần.
Để mô tả một loại hiện tượng, cần những thuật ngữ diễn tả những dấu hiệu
đặc trưng của loại hiện tượng đó. Thí dụ như: để mơ tả chuyển động cơ học
cần đến những thuật ngữ để chỉ quỹ đạo( thẳng, cong, tròn…), chỉ sự nhanh
hay chậm của chuyển động(vận tốc), chỉ sự thay đổi vận tốc (gia tốc), chỉ vị
trí (tọa độ).
15


Định nghĩa một đại lượng vật lý thường gồm 2 phần: Một phần nêu lên đặc
điểm định tính một phần nêu lên đặc điểm định lượng.
Một định luật vật lý thường nêu lên mỗi quan hệ hàm số giữa 2 đại lượng
hoặc nêu lên mộ điều kiện để hiện tượng có thể xảy ra. Thí dụ như: Định luật
khúc xạ ánh sáng nêu lên mối quan hệ giữa sin của góc tới và sin của góc
khúc xạ, cịn định luật cảm ứng điện từ nêu lên điều kiện để xuất hiện dịng
điện cảm ứng trong cuộn dây dẫn kín.
Đặc biệt đáng chú ý là: Nhiều khi trong vật lý vẫn dùng những từ ngữ dùng
trong ngôn ngữ hằng ngày nhưng có một nội dung phong phú và chính xác
hơn. Mỗi khi gặp một thuật ngữ mới, cần giải thích rõ cho học sinh và yêu
cầu họ tập sử dụng nó một cách chính xác, thành thạo thay cho ngơn ngữ hằng
ngày.
1.3 Phát triển tư duy độc lập cho học sinh
1.3.1 Phát triển tư duy
Tư duy là khả năng quan sát hiện tượng vật lý, phân tích một hiện tượng
phức tạp thành những hiện tượng thành phần, thiết lập các mối quan hệ định
tính và định lượng của các hiện tượng và các đại lượng vật lý, đoán trước các
hệ quả từ lý thuyết và vận dụng được kiến thức. Hầu hết các hiện tượng nêu
lên trong bài tập vật lý là phức tạp, trừ một số trường hợp đơn giản chỉ đề cập

đến một hiện tượng vật lý. Muốn giải được chúng cần phải phân tích hiện
tượng phức tạp ấy thành các hiện tượng thành phần, nghĩa là phân tích một
bài tập vật lý phức tạp thành các bài tập vật lý đơn giản để có thể giải được.
Trong quá trình đó học sinh phải vận dụng các thao tác tư duy để giải bài tập,
nhờ đó mà tư duy được phát triển và năng lực làm việc độc lập của học sinh
được nâng cao.
1.3.2 Phát triển tư duy độc lập
Tư duy độc lập được hiểu là tự mình suy ngĩ,“Là loại tư duy dựa vào tính
độc lập nhận thức của học sinh trong quá trình học tập”. Tư duy độc lập gắn
liền với tính độc lập, khơng chịu tác động từ bên ngồi,“ tính độc lập là năng
16


lực của cá nhân học sinh tham gia hoạt động mà khơng có sự can thiệp từ bên
ngồi”. Phát triển năng lực tư duy của học sinh là cơ sở của tồn bộ q trình
học tập của học. Bởi vậy, trong quá trình dạy học cần phải tìm mọi cách để
phát triển tư duy độc lập cho học sinh, tập cho học sinh hiểu được bài toán,
đề tài, nhiệm vụ, biết phân tích nó một cách đúng đắn, vạch ra phương hướng
tốt và kế hoạch giải quyết, thực hiện phương thức đó và kiểm tra lời giải.
Như vậy, phát triển tư duy độc lập cho học sinhl là phát triển khả năng tự
nhận thức, tự tìm tịi, tự suy ngĩ, tự phát hiện vấn đề, tự xác định phương
hướng và phương tiện để tìm ra cách giải quyết rồi tự mình kiểm tra kết quả
hồn thiện kết quả.
1.4 Bài tập vật lý
1.4.1 Khái niệm bài tập vật lý
Trong từ điển tiếng việt các thuật ngữ “bài tập”,“bài toán” được giải nghĩa
khác nhau. Bài tập là bài ra cho hoc sinh làm để tập vận dụng những kiến thức
đã học, còn bài toán là những vấn đề cần giải quyết bằng các phương pháp
khoa học. Cũng như thế có một số ý kiến cho rằng cần phân biệt “bài tập vật
lý” và “bài toán vật lý”. Bởi lẽ, bài tập vật lý là tận dụng đơn giản kiến thức

vật lý đã học vào những trường hợp cụ thể, bài toán vật lý được sử dụng để
hình thành kiến thức mới chưa có cách giải quyết suy ra được từ kiến thức cũ,
hoặc trong khi giải quyết một vấn đề mới chưa có câu trả lời. Bên cạnh đó,
trong một số giáo trình lý luận dạy học vật lý các tác gải chỉ sử dụng thuật
ngữ “bài tập vật lý” hoặc “bài toán vật lý” với cùng một cách hiểu: Giải bài
tập vật lý hay bài toán vật lý là vận dụng các khái niệm, quy tắc, định luật,
thuyết vật lý,…đã học vào lao động và sản xuất.
Trong giáo trình lý luận dạy học vật lý và sách giáo khoa vật lý, chúng ta
hiểu những bài tập là những bài luyện tập được lựa chọn một cách phù hợp
với mục đích chủ yếu là nghiên cứu các hiện tượng vật lý, phát triển năng lực
tư duy vật lý cho học sinh và rèn luyện kỹ năng vận dụng các kiến thức của
học sinh vào thực tiễn.
17


Từ những điều đã đề cập ở trên, cả hai ý nghĩa khác nhau là vận dụng kiến
thức cũ và tìm kiếm kiến thức mới đều có mặt tong khái niệm về bài tập vật
lý. Bởi lẽ đó, chúng ta không nên phân biệt bài tập vật lý hay bài toán vật lý
mà gọi chung là bài tập vật lý.
1.4.2 Vai trò bài tập vật lý
Giải bài tập vật lý là một trong những hình thức luyện tập chủ yếu và tiến
hành nhiều nhất. Các bài tập vật lý có tác dụng rất lớn trong việc hình thành,
rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo, vận dụng và tìm tịi kiến thức cho học sinh. Bởi lẽ
đó, trong q trình dạy học vật lý các bài tập vật lý có tầm quan trọng đặc
biệt. Chúng được sử dụng theo nhũng mục đích khác nhau.
1.4.2.1 Ôn tập, đào sâu và mở rộng kiến thức
Bài tập vật lý là một phương tiện củng cố, ôn tập kiến thức vật lý sinh động
và có hiệu quả. Khi giả bài tập vật lý, học sinh phải nhớ lại các kiến thức đã
học, có khi phải sử dụng tổng hợp các kiến thức ở nhiều chương, nhiều phần
của chương trình. Học sinh phải vận dụng những kiến thức khái quát và trừu

tượng đã học vào từng trường hợp cụ thể rất đa dạng, nhờ đó mà họ nắm được
những biểu hiện cụ thể của chúng trong thực tế, phát hiện ngày càng nhiều
các hiện tượng thuộc ngoại diện của các khái niệm hoặc chịu sự chi phối của
các định luật hay thuộc phạm vi ứng dụng của chúng. Quá trình nhận thức các
khái niệm, định luật vật lý không kết thúc ở việc xây dựng nội hàm của các
khái niệm, định luật vật lý mà còn tiếp tục ở giai đoạn vận dụng vào thực tế.
1.4.2.2 Hình thành kiến thức mới
Nhiều khi các bài tập vật lý được sử dụng khéo léo có thể dẫn dắt học sinh
đến những suy ngĩ về một hiện tượng mới hoặc xây dựng một khái niệm mới
để giải thích hiện tượng mới do bài tập phát hiện ra.
1.4.2.3 Hình thành và rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo vận dụng kiến thức vào
thực tiễn
Bài tập vật lý là một trong những phương tiện rất quý báu giúp học sinh rèn
luyện kĩ năng, kĩ xảo, vận dụng kiến thức vào thực tiễn; rèn luyện thói quen
18


vận dụng kiến thức khái quát đã thu nhận được để giải quyết các vấn đề của
thực tiễn. Có thể xây dựng rất nhiều bài tập có nội dung thực tiễn, trong đó
yêu cầu học sinh phải vận dụng kiến thức lí thuyết đẻ giải thích các hiện
tượng hoặc có thể dự đốn các hiện tượng có thể xảy ra trong thực tiễn ở
những điều kiện cho trước.
1.4.2.4 Một trong những hình thức làm việc tự lực cao
Trong khi giải bài tập vật lý, học sinh phải tự mình phân tích các điều kiện
của bài tập đặt ra, xây dựng những lập luận, kiểm tra và phê phán những kết
luận rút ra được nên tư duy của họ được phát triển, năng lực làm việc độc lập
của học được nâng cao.
1.4.2.5 Kiểm tra mức độ nắm vững kiến thức
Tùy theo cách đặt câu hỏi kiểm tra, ta có thể phân loại các mức độ nắm
vững kiến thức của học sinh, làm cho việc đánh giá kiến thức chất lượng của

học sinh được chính xác. Bởi vậy, bài tập vật lý là phương tiện rất hữu hiệu để
kiểm tra mức độ nắm vững kiến tức của học sinh.
1.4.3 Phân loại bài tập vật lý
1.4.3.1 Dựa vào phương thức giải
Các tác giả chỉ ra rằng dựa vào phương thức giải, ta có thể chia bài tập vật lý
thành bài tập định tính, bài tập tính tốn, bài tập thí nghiệm, bài tập đồ thị.
a) Bài tập định tính
Bài tập định tính là bài tập mà khi giải khơng địi hỏi học sinh phải tính
tốn. Các bài tập này thường được giải bằng những suy luận lơgíc dựa trên
các định luật vật lý.
Việc giải bài tập vật lý có tác dụng kích thích sự hứng thú với mơn học và
phát triển óc quan sát của học sinh; là phương tiện rất hữu hiệu đểphát triển tư
duycho học sinh; rèn luyện cho học sinh hiểu rõ được bản chất của các hiện
tượng vật lý và quy luật của chúng, biết áp dụng kiến thức vào thực tiễn và
biết phân tích nội dung vật lý của các bài tập tính tốn. Bởi vậy, bài tập định

19


tính được sử dụng ưu tiên hàng đầu sau khi học xong lí thuyết, trong khi
luyện tập và ơn tập.
a) Bài tập tính tốn
Bài tập tính tốn là bài tập mà khi giải đòi hỏi học sinh phải thực hiện một
chuỗi các phép tính và kết quả thu được mọt đáp số định lượng. Bài tập tính
tốn có thể chia làm 2 loại: bài tập tính tốn tập dượt và bài tập tính tốn tổng
hợp.
1) Bài tập tính tốn tập dượt là những bài tập cơ bản, đơn giản, mà trong đó
chỉ đề cập đến một hiện tượng, một định luật và sử dụng một vài phép tính
đơn giản. Các bài tập này có tác dụng củng cố kiến thức cơ bản vừa học, làm
cho học sinh hiểu rõ ý nghĩa của các định luật và các công thức biểu hiện giữa

chúng.
2) Bài tập tính tốn tổng hợp là các bài tập mà khi giải đòi hỏi học sinh phải
vận dụng nhiều kinh nghiệm, định luật, sử dụng nhiều công thức. Các bài tập
này có tác dụng giúp học sinh đào sâu, mở rộng kiến thức, thấy rõ mối liên hệ
khác nhau giữa các phần của chương trình vật lý, biết phân tích những hiện
tượng vật lý phức tạp thành đơn giản tuân theo một định luật xác định.
a) Bài tập thí nghiệm
Bài tập thí nghiệm là những bài tập địi hỏi học sinh phải làm thí nghiệm để
kiểm chứng lời giải lý thuyết hoặc để tìm ra những số liệu cần thiết cho việc
giải bài tập. Các bài tập thí nghiệm này là các bài tập đơn giản, học sinh có
thể tự thực hành ở nhà hoặc phịng thí nghiệm.
Bài tập vật lý có tác dụng tốt cả về ba mặt giáo dục, giáo dưỡng và kĩ thuật
tổng hợp, đặc biệt là làm sáng tỏ mối quan hệ giữa lí thuyết và thực tiễn.
a) Bài tập đồ thị
Bài tập đồ thị là những bài tập trong đó các số liệu được dùng làm giữ kiện
để giải được tìm trong những dữ kiện cho trước hoặc ngược lại, đòi hỏi học
sinh phải biểu diễn quá trình diễn biến của hiện tượng nêu trong bài tập.

20


Bài tập đồ thị có tác dụng giúp biểu đạt mối quan hệ giữa hai đại lượng vật
lý,có thể tìm được định luật vật lý mới nhờ vẽ chính xác đồ thị biểu diễn các
số liệu thực nghiệm.
1.4.3.2 Dựa vào hoạy động tư duy của học sinh trong quá trình tìm kiếm
lời giải
Hoạt động tư duy của học sinh trong quá trình tìm kiếm lời giải bài tập vật
lý vận dụng kiến thức đã biết và tìm kiếm những kiến thức mới gồm ba giai
đoạn: Định hướng hoạt động giải, thực hiện các hành động, kiểm tra và đánh
giá quá trình thực hiện các hành động theo định hướng ban đầu.

Nội dung chính của giai đoạn định hướng là xác định rõ mục đích giải bài
tập, tiên lượng các mối quan hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm, vạch ra cách
thức và trình tự cách giải quyết để đi đến kết quả, tránh mị mẫm. Giả định
này có vai trị quyết định đến sự thành cơng trong q trình việc giải bài tập
vật lý. Căn cứ vào hoạt động tư duy của học sinh trong quá trình tìm kiếm lời
giải bài tập vật lý ta có thể phân thành hai loại bài tập: bài tập cơ bản và bài
tập phức hợp.
a) Bài tập cơ bản là bài tập mà khi giải nó, việc thiết lập mối quan hệ trực
tiếp, tường minh giữa cái đã cho và cái phải tìm chỉ dựa vào một kiến thức cơ
bản mới học mà học sinh tái hiện chứ không tự tạo ra. Kiến thức cơ bản mới
học là kiến thức chứa đựng mối quan hệ mới về mặt định tính hay định lượng
giữa các đại lượng vật lý. Do bài tập cơ bản gắn với kiến thức cơ bản về vật lý
mà học sinh mới học, nên khi nói đến bài tập cơ bản về một kiến thức nào đó
là nói đến yếu tố mới cần được vận dụng trong công việc giải một bài tập vật
lý mà trước khi học kiến thức ấy, học sinh khơng thể ngĩ ra.Ta có thể chia bài
tập cơ bản thành hai loại: Vận dụng kiến thức đã biết và tìm kiếm thơng tin ở
tự nhiên.
– Bài tập cơ bản vận dụng kiến thức đã biết bao gồm bài tập dự đốn và bài
tập giải thích hiện tượng.

21


– Bài tập cơ bản tìm kiếm thơng tin ở tự nhiên bao gồm bài tập quan sát; phân
tích một hiện tượng phức tạp hành hiện tượng đơn giản; tìm ra mối quan hệ
giữa những cái đo được, quan sát được để xác lập những tính chất, những
mốiquan hệ bên trong của sự vật, hiện tượng biểu thị bằng các đại lượng, qui
tắc, định luật vật lý; xác lập mối quan hệ nhân quả giữa các hiện tượng và đại
lượng vật lý.
b) Bài tập phức hợp là những bài tập mà khi giải nó phải thực hiện mợt chuỗi

lập luận lơgíc biến đổi tốn học qua nhiều mối quan hệ trung gian để đi đến
quan hệ giữa những cái đã cho và những cái cần tìm. Việc xác lập mỗi một
mối quan hệ trung gian là một bài tập cơ bản. Bởi vậy, muốn giải tốt một bài
tập phức hợp thì trước hết ta phải giải thành thạo các bài tập cơ bản và biết
cách phân tích bài tập phức hợp để quy nó về các bài tập cơ bản quen thuộc
đã biết.
Bất kì loại bài tập vật lý nào dù là cơ bản hay phức hợp khi giải chúng phải
phân tích hiện tượng nêu lên trong bài tập, tức là phải căn cứ các điều kiện cụ
thể của đầu bài mà vận dụng các kiến thức đã biết để quan sát hiện tượng ấy
thuộc loại hiện tượng nào và tuân theo quy luật nào đã biết.
Cách phân chia bài tập vật lý thành bài tập cơ bản và bài tập phức hợp là
cách phân chia dựa vào hoạt động tư duy của học sinh trong quá trình tìm
kiếm lời giải. Cách phân chia này có tác dụng: Định hướng giáo viên trong
việc lựa chọn và hướng dẫn học sinh tự lực giải các bài tập vật lý theo từng
phần, từng chương cụ thể của chương trình; giúp học sinh ngay từ đầu định
hướng cách suy ngĩ trong quá trình tìm kiếm lời giải cảu các bài tập vật lý.
1.4.4 Phương pháp giải bài tập vật lý
Việc rèn luyện cho học sinh biết cách giải bài tập một cách khoa học,đảm
bảo đi đến kết quả một cách chính xác là một việc rất cần thiết. Nó khơng
những giúp học sinh nứm vững kiến thức mà còn rèn luyện kỹ năng suy luận
lơgíc, làm việc một cách khoa học, có kế hoạch.

22


Cần biết cách thể hiện bài tập vật lý để học sinh dễ dàng trong việc tìm ra
lời giải cho bài toán. Các cách thể hiện bài tập vật lý có thể là :
+ Dùng lời nói
+ Dùng hình vẽ
+ Dùng tranh ảnh

+ Dùng phim video
Quá trình giải bài tập vật lý thực chất là quá trình tìm hiểu điều kiện của bài
tập, xem xét hiện tượng vật lý, xác lập những mối quan hệ cụ thể dựa trên sự
vận dụng kiến thức vật lý vào điều kiện cụ thể của bài tập đã cho. Từ đó tính
tốn các mối quan hệ đã xác lập được để dẫn đến lời giải và kết luận chính
xác. Sự nắm vững những mối liên hệ này sẽ giúp cho giáo viên định hướng
phương pháp dạy bài tập một cách hiệu quả.
Bài tập vật lý rất đa dạng cho nên phương pháp giải cũng rất phong phú. Vì
vậy khơng thể chỉ ra được một phương pháp nào cụ thể mà có thể áp dụng tất
cả để giải bài tập. Từ sự phân tích như đã nêu ở trên, có thể vạch ra một dàn
bài chung gồm các bước chính như sau :
a) Tìm hiểu đầu bài, tóm tắt các dữ kiện.
b) Phân tích hiện tượng.
c) Xây dựng lập luận.
Thực chất của bước này là tìm quan hệ giữa ẩn số phải tìm với các dữ kiện
đã cho. Đối chiếu với các dữ liệu đã cho để lập phương trình ẩn số.
+ Đối với bài tập phức tạp ta dùng hai phương pháp lập luận để giải: Phương
pháp phân tích và phương pháp tổng hợp
+ Đối với bài tập định tính: Ta khơng cần tính toán nhiều mà chủ yếu sử dụng
lập luận, suy luận lơgíc dựa vào kiến thức vật lý để giải thích hoặc dự đoán
hiện tượng xảy ra.
+ Đối với bài tập trắc nghiệm khách quan: Cần nắm vững kiến thức trong
sách giáo khoa, nếu không sẽ không nhận biết được trong các phương án để
lựa chọn đâu là phương án đúng. Để làm tốt bài thi trắc nghiệm ta nên chia
23


quỹ thời gian phù hợp với thời gian làm bài, đọc lướt qua toàn bộ câu trắc
nghiệm, câu nào chắc chắn thì chọn ln và theo ngun tắc dễ làm trước,
khó làm sau. Quay lại những câu chưa làm, đọc kĩ phần đề và gạch dưới

những từ ngữ quan trọng, không nên dừng lại suy ngĩ quá lâu cho một câu.
Cần lưu ý khơng nên bỏ sót bất kì câu nào vì ta sẽ được xác suất 1/4 số câu trả
lời đúng trong số đó.
d) Lựa chọn cách hỏi cho phù hợp.
e) Kiểm tra, xác nhận kết quả và biện luận .
1.4.5 Lựa chọn và sử dụng bài tập vật lý nhằm phát triển tư duy độc lập
Trong dạy học từng đề tài cụ thể giáo viên cần dự kiến chi tiết kế hoạch sử
dụng hệ thống bài tập đã lựa chọn.
a) Các bài tập lựa chọn có thể sử dụng ở nhiều chương khác nhau của quá
trình dạy học: nêu vấn đề, hình thành kiến thức mới, củng cố, hệ thống hóa,
kiểm tra và đánh giá kiến thức, kĩ năng của học sinh.
b) Trong tiến trình dạy học một đề tài cụ thể, việc giải hệ thống bài tập mà
giáo viên đã lựa chọn thường bắt đầu bằng những bài tập địn tính hay bài tập
tập dượt. Sau đó, học sinh sẽ giải những bài tập tính tốn, bài tập đồ thị, bài
tập thí nghiệm có nội dung phức tạp hơn.
c) Cần chú ý cá biệt hóa học sinh trong việc giải bài tập vật lý thông qua biện
pháp sau:
– Biến đổi mức độ yêu cầu của bài tập ra cho các loại đối tượng học sinh khác
nhau, thể hiện ở mức độ trừu tượng của đầu bài, loại vấn đề cần giải quyết,
phạm vi và tính phức hợp của các số liệu cần xử lí, loại và số lượng thao tác
tư duy lơgíc và các phép biến đổi toán học cần sử dụng, phạm vi và các mức
độ kiến thức, kĩ năng cần huy động.
– Biến đổi mức độ yêu cầu về số lượng bài tập cần giải về mức độ tư duy độc
lập của học sinh trong quá trình giải bài tập

24


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XÂY DỰNG HỆ THỐNG BÀI TẬP
MÔN VẬT LÝ NHẰM PHÁT TRIỂN TƯ DUY ĐỘC LẬP CHO HỌC

SINH Ở TRƯỜNG THPT ĐẶNG THÚC HỨA
2.1 Đặc điểm của nhà trường THPT Đặng Thúc Hứa
2.1.1 Lịch sử truyền thống
Có thể nói, trường THPT Đặng Thúc Hứa là một trong những ngôi trường
THPT đầu tiên trong cả nước, được thành lập năm 1975 ngay sau ngày độc
lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.Tiền thân của trường là trường cấp 3
vừa học vừa làm Thanh Chương. Lúc đầu, trường chỉ có hai lớp: 1 lớp văn
hóa cho cán bộ xã Cát Văn và lớp thanh niên tích cực có hơn 30 người. Năm
1974 tốt nghiệp mãn khóa rồi giải tán. Ngày14/9/1974 UBND huyện Thanh
Chương có quyết định thành lập trường cấp 3 văn hóa đi theo mơ hình Sơng
con Tân Kỳ tuyển sinh vào huyện. Tháng 9/1975 trường được thành lập lấy
tên là trường THPT Thanh Quả, địa điểm của trường là ở bãi Căng(gần đò Rộ
ngày xưa). Sau này chuyển về Võ Liệt giữa cánh đồng lúa rộng mênh mông
gần chợ Rộ. Tháng 10/ 1997 theo quyết định số 4152-QĐ/UB của UBND tỉnh
Nghệ An, trường được chính thức đổi tên thành trường THPT Đặng Thúc
Hứa.Trường vinh dự được mang tên danh nhân – liệt sĩ –nhà cách mạng. Điều
mà cách đây 70 năm từ những ngày đầu sau cách mạng tháng 8/1945 trên
mảnh đất Võ Liêt –Thanh chương một ngôi trường THPT Đặng Thúc Hứa
được ra đời. Từ khi có trường THPT Đặng Thúc Hứa được sự quan tâm của
cấp ủy Đảng, ngành giáo dục, các thế hệ giáo viên và học sinh trường THPT
Đặng Thúc Hứa thời kì 1945 –1953 đã có nhiều đóng góp để xây dựng trường
dành được nhiều thành tích xuất sắc trong sự nghiệp đổi mới căn bản và toàn
diện giáo dục Việt Nam.
Từ khi thàng lập cho đến nay đã tròn 40 năm xây dựng và trưởng thành,
trường THPT Đặng Thúc Hứa đã có nhiều đóng góp to lớn cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ đất nước; được xã hội khẳng định; được UBND tỉnh phong
tặng nhiều danh hiệu cao quý. Trường luôn là niềm tự hào của các thế hệ thầy
25



×