Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Luận văn thạc sĩ Bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra Từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (965.41 KB, 106 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LÊ NGỌC LAM ĐIỀN

BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA BỊ CAN
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LÊ NGỌC LAM ĐIỀN

BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA BỊ CAN
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành:


Luật Hiến pháp và Luật Hành chính

Mã số:

8 38 01 02

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN TUẤN KHANH

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, Luận văn về đề tài: “Bảo đảm quyền của bị can trong
giai đoạn điều tra” do tôi viết trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu tham khảo,
giáo trình hướng dẫn, thực tiễn thực hiện hoạt động nghề nghiệp và được sự
hướng dẫn khoa học của TS Nguyễn Tuấn Khanh. Tơi đã hồn thành Luận
văn và chịu trách nhiệm với những vấn đề tôi viết.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 05 năm 2020
Học viên thực hiện

Lê Ngọc Lam Điền


LỜI CẢM ƠN
Học viện Hành chính quốc gia là nơi đào tạo tin cậy, có uy tín đối với
sinh viên, đội ngũ cán bộ, công chức các cấp, các ngành trong lĩnh vực đào
tạo trình độ thạc sĩ và tiến sĩ,… Trong hai năm ở giảng đường Học viện là
khoảng thời gian mà mỗi học viên được tiếp nhận vốn tri thức cơ bản về Luật
Hiến pháp và Luật hành chính. Có được kết quả như ngày hơm nay cũng như

hồn thành tốt luận văn tốt nghiệp này, tơi xin gửi lời cảm ơn và lời chúc sức
khoẻ chân thành đến:
- Lãnh đạo Học viện cùng các thầy, cô tại Học viện đã tận tình giảng
dạy, dành nhiều thời gian để tôi trau dồi tri thức, đạo đức.
- Tiến sĩ Nguyễn Tuấn Khanh – Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và
Khoa học Thanh tra đã hướng dẫn nhiệt tình cho tơi trong suốt q trình
nghiên cứu và hồn thành đúng tiến độ luận văn này.
- Các luật sư đồng nghiệp, các đơn vị tiến hành tố tụng, các cơ quan
thực thi pháp luật đã nhiệt tình giúp đỡ tơi, có những góp ý thiết thực, tạo điều
kiện thuận lợi nhất cho tơi hồn thành tốt luận văn.
- Các anh chị học viên cùng khóa đã ln động viên, giúp đỡ tơi trong
suốt q trình học tập và thực hiện luận văn.
Tôi trân trọng tri ân!

Học viên thực hiện

Lê Ngọc Lam Điền


MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài : ....................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài .............................................................. 5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................... 6
3.1. Mục đích nghiên cứu .................................................................................. 6
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................. 6

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 7
4.1. Đối tượng nghiên cứu................................................................................. 7
4.2. Phạm vi nghiên cứu.................................................................................... 7
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn ........................ 7
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn ..................................................... 8
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ............................................................... 8
8. Bố cục của luận văn ................................................................................................ 9
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ BẢO ĐẢM
QUYỀN CỦA BỊ CAN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA................................. 10
1.1. Quan niệm, đặc điểm về bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra ..... 10
1.1.1 Quan niệm về bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra............ 10
1.1.2 Đặc điểm bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra................... 13
1.2. Nội dung, trình tự, thủ tục bảo vệ quyền của bị can trong giai đoạn điều tra....... 14
1.2.1 Nội dung về quyền của bị can trong giai đoạn điều tra ............................. 14
1.2.2 Trình tự, thủ tục bảo vệ quyền của bị can trong giai đoạn điều tra ........... 17
1.3. Những yếu tố tác động đến bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra....31


1.3.1 Quy định của pháp luật về bảo đảm quyền của bị can trong giại đoạn điều
tra ........................................................................................................................ 31
1.3.2 Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan điều tra và cơ quan tư pháp
khác ..................................................................................................................... 34
1.3.3 Mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức ...................................... 37
1.3.4 Năng lực, chuyên môn, ý thức trách nhiệm của điều tra viên ................... 39
1.3.5 Nhận thức, ý thức pháp luật của bị can ..................................................... 43
1.3.6 Sự giám sát của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và sự giám sát của
xã hội .................................................................................................................. 44
CHƢƠNG II : THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA BỊ CAN TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ........................... 46
2.1. Những yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội ảnh hưởng đến bảo đảm quyền của bị

can tại giai đoạn điều tra tại Thành phố HCM ..................................................... 46
2.2. Thực tiễn về bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra tại Tp.HCM48
2.2.1 Về việc tạm giam – tạm giữ : .................................................................... 53
2.2.2 Về đảm bảo quyền bào chữa của bị can, người bị tạm giữ tạm giam trong
giai đoạn điều tra : .............................................................................................. 60
2.3 Đánh giá chung về bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra tại
thành phố Hồ Chí Minh : ................................................................................... 64
2.3.1 Kết quả đạt được và nguyên nhân của kết quả đạt được ........................... 64
2.3.2 Bất cập, hạn chế và nguyên nhân của những bất cập, hạn chế .................. 67
CHƢƠNG III : QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA BỊ
CAN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA ............................................................... 75
3.1. Quan điểm về bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra ............... 75
3.1.1 Quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người .......................... 75
3.1.2 Cơ chế Hiến định bảo vệ, bảo đảm quyền con người. .............................. 76
3.1.3 Những bảo đảm về quyền con người trong tố tụng hình sự. .................... 77
3.2. Giải pháp bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra từ thực tiễn
thành phố Hồ Chí Minh : ................................................................................... 79


3.2.1. Hoàn thiện pháp luật ................................................................................. 79
3.2.2. Nâng cao năng lực, hoàn thiện tổ chức, bộ máy cơ quan điều tra............ 83
3.2.3. Tăng cường kiểm sát hoạt động điều tra .................................................. 84
3.2.4.Nâng cao trình độ, năng lực, ý thức trách nhiệm của điều tra viên ........... 88
3.2.5 Tăng cường sự giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước và giám sát của
xã hội đối với hoạt động điều tra ........................................................................ 92
3.2.6 Nâng cao nhận thức, ý thức pháp luật cho người dân ............................... 93
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 97



PHẦN MỞ ĐẦU
2. Tính cấp thiết của đề tài :
Quyền con người là một trong những vấn đề cơ bản nhất của nhận thức và
thực tiễn chính trị, vì vậy, nó gắn với các thời đại trong lịch sử cụ thể và chính bản
thân nó cũng bị hạn chế bởi lịch sử, bởi các điều kiện kinh tế - xã hội của từng quốc
gia. Quyền con người luôn được đề cập trong các đạo luật của mỗi quốc gia. Qua
lịch sử đấu tranh, tồn tại và phát triển của loài người, quyền đó vẫn ln ln được
ghi nhận và bảo đảm. Những nguyên tắc về quyền con người, trong đó có quyền
bào chữa ln được hồn thiện dần theo thời gian và đã được khẳng định trong các
văn bản pháp lí như Đạo luật của Anh năm 1689 về các quyền hoặc Tuyên ngôn độc
lập của Mỹ năm 1776 đã ghi nhận: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình
đẳng, tạo hố cho họ những quyền khơng ai có thể xâm phạm được, trong những
quyền ấy có quyền được sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc”. Bản tuyên
ngôn nhân quyền của Pháp năm 1791 cũng khẳng định: “Người ta sinh ra tự do và
bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Trong các giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử, nhà nước ln có những
quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ cơ bản của cơng dân. Những quyền cơ bản đó
được nhà nước đảm bảo thực hiện đồng thời công dân cũng có nghĩa vụ tơn trọng và
bảo đảm quyền lợi của người khác. Một trong các hình thức thực hiện quyền cơ bản
của công dân được nhà nước đảm bảo thực hiện là quyền được bảo vệ mình trước
cơ quan pháp luật trong đó có quyền bào chữa.
Để đảm bảo quyền con người trong xã hội nói chung, các bản Hiến pháp của
nước ta đều đã có nhiều điều khoản nhấn mạnh quyền cơng dân trong đó khơng thể
khơng kể đến quyền bào chữa và những bảo đảm cần thiết để quyền đó được thực
hiện. Việc Hiến pháp ghi nhận quyền bào chữa của bị can, bị cáo càng thấy rõ hơn
tầm quan trọng của chế định này.
Các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980 đều xếp quyền bào chữa trong chương về cơ
quan tư pháp. Hiến pháp năm 1992 quy định ghi nhận quyền bào chữa của bị can, bị
cáo như là yêu cầu và nguyên tắc hoạt động của Tòa án nhân dân khi thực hiện việc


1


xét xử. Điều 132 Hiến pháp 1992 Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo
có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Tổ chức luật sư được
thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình và góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Như vậy, quyền bào chữa của
người bị buộc tội chỉ được đảm bảo thực hiện trong phạm vi của giai đoạn tại Tòa
án (giai đoạn xét xử). Để khắc phục hạn chế này, Hiến pháp năm 2013 không chỉ
quy định quyền bào chữa của bị can, bị cáo là một nguyên tắc của hoạt động xét xử
mà quyền bào chữa còn được mở rộng đối với “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam,
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử”.
Quyền bào chữa trong Hiến pháp 2013 được sắp xếp trong nhóm quyền cơ
bản của cơng dân, quyền con người. Như vậy, Hiến pháp đã xác định rõ quyền bào
chữa là quyền con người, quyền công dân nên không chỉ cơ quan xét xử mà tất cả
các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong xã hội phải có trách nhiệm tơn trọng và được
Nhà nước đảm bảo thực hiện.
Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 đã
quy định luật sư được tham gia tố tụng từ trước khi có quyết định khởi tố bị can
hoặc quyết định tạm giữ, cụ thể tại Điều 74 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Như vậy, kể cả khi chưa có quyết định khởi tố bị can hoặc quyết định tạm giữ của
cơ quan điều tra thì người bào chữa là luật sư được quyền tham gia tố tụng từ khi
người phạm tội bị bắt, tạm giữ và được đưa về trụ sở cơ quan điều tra.
Giai đoạn điều tra trong một vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự, trong
đó cơ quan điều tra căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự và dưới
sự kiểm soát của Viện Kiểm sát tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm thu thập và
củng cố các chứng cứ, nghiên cứu các tình tiết của vụ án hình sự, phát hiện nhanh
chóng và đầy đủ tội phạm, cũng như người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm tội
để truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng thời bảo đảm cho việc bồi thường thiệt hại về
vật chất do tội phạm gây nên và trên cơ sở đó quyết định: Đình chỉ điều tra vụ án

hình sự hoặc là; chuyển tồn bộ các tài liệu của vụ án đó cho Viện Kiểm sát kèm
theo kết luận điều tra và đề nghị truy tố bị can.

2


Với tính chất là một giai đoạn độc lập của tố tụng hình sự, giai đoạn điều tra vụ án
hình sự có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể nhằm áp dụng các biện pháp
cần thiết do luật định để chứng minh việc thực hiện tội phạm và người phạm tội,
xác định rõ những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, đồng thời kiến nghị các cơ
quan và tổ chức hữu quan áp dụng đầy đủ các biện pháp khắc phục và phòng ngừa
tội phạm. Thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi cơ quan (người) tiến
hành tố tụng hình sự có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc
bằng bản kết luận điều tra và quyết định của cơ quan điều tra về việc đề nghị Viện
Kiểm sát truy tố bị can trước Tịa án hoặc đình chỉ vụ án hình sự tương ứng.
Điều tra vụ án hình sự là chức năng quan trọng trong hoạt động tư pháp hình
sự của cơ quan (người) tiến hành có thẩm quyền đối với mỗi hành vi phạm tội nhằm
trực tiếp chứng minh hành vi phạm tội và người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm
thông qua các chứng cứ đã thu thập được, đồng thời cũng là một trong những
phương tiện cơ bản để thực hiện tốt nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm trong
thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự, tránh bỏ lọt tội phạm.
Điều tra vụ án hình sự cũng góp phần loại trừ, ngăn chặn kịp thời việc thông
qua quyết định khởi tố bị can một cách khơng thận trọng, thiếu chính xác và do vậy,
có thể sẽ kéo một loạt hậu quả tiêu cực tiếp theo xảy ra trong việc truy cứu trách
nhiệm hình sự ở các giai đoạn tố tụng hình sự (như: Truy tố của Viện kiểm sát hoặc
xét xử của Tịa án khơng khách quan, vơ căn cứ và trái pháp luật, làm oan những
người vô tội).
Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự cơ bản và quan trọng
để tăng cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân trong các giai
đoạn trước khi khởi tố của Viện Kiểm sát và xét xử của Tòa án, cùng với các giai

đoạn tố tụng hình sự khác góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phịng, chống
tội phạm trong tồn xã hội.
Thực tiễn cho thấy, mặc dù Hiến Pháp và pháp luật Tố tụng hình sự đã quy
định tương đối đầy đủ và chặt chẽ nhưng trong các vụ án hình sự, quyền của bị can
vẫn chưa được các cơ quan tố tụng, cụ thể là Cơ quan cảnh sát điều tra và người tiến

3


hành tố tụng, cụ thể là điều tra viên thực sự tôn trọng và bảm đảm thực hiện. Cụ thể
là :
Thứ nhất: Vai trò của người bào chữa trong thực tế còn hạn chế và trong thực
tế nhiều khi chưa được một số cơ quan có thẩm quyền thực sự tôn trọng, chưa tạo
điều kiện cho người bào chữa thực hiện nhiệm vụ của mình như việc tham gia tố
tụng của người bào chữa sau khi có quyết định khởi tố bị can cịn gặp nhiều khó
khăn; nhiều trường hợp sau khi ra quyết định khởi tố bị can, cơ quan điều tra đã
không giao quyết định này và cũng khơng giải thích cho bị can biết rõ quyền và
nghĩa vụ của mình. Do vậy, bị can khơng biết là mình có quyền nhờ người bào chữa
ngay từ khi bị khởi tố mà họ cứ tưởng khi ra toà mới được mời luật sư.
Thứ hai: Đối với những trường hợp bào chữa chỉ định vì nhiều lí do khác nhau
mà việc bào chữa thường chỉ mang tính hình thức, qua loa, đại khái.
Thứ ba: Điểm b, Khoản 1, Điều 72 BLTTHS quy định về quyền và nghĩa vụ
của người bào chữa như sau: “Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ,
khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung
đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can...”. Theo quy định này thì
việc có cho phép được hỏi bị can hay khơng là hồn tồn phụ thuộc vào ý chí chủ
quan của điều tra viên, cho nên có trường hợp điều tra viên không cho người bào
chữa hỏi mà chỉ cho “ngồi nghe” hỏi cung. Điều tra viên dường như không để ý đến
sự có mặt của người bào chữa và ý kiến đề xuất của họ.
Đối với các hoạt động điều tra khác thì hầu như người bào chữa cũng khơng

được tham gia mặc dù có trường hợp họ rất muốn tham gia nhưng đều bị điều tra
viên từ chối. Sau khi kết thúc điều tra, hầu hết cơ quan điều tra không thông báo cho
người bào chữa biết về việc kết thúc điều tra. Việc này đã làm cho người bào chữa
gặp khó khăn trong việc đọc hồ sơ và ghi chép những điều cần thiết sau khi kết thúc
điều tra. Thực tế có nơi cán bộ điều tra khuyên bị can th luật sư là vơ ích vì tội
trạng đã rành rành và vụ án đã được quyết định.
Tình trạng vi phạm các quyền tố tụng của bị can vẫn còn diễn ra. Một số người
tiến hành tố tụng còn chưa nhận thức được việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

4


của công dân và minh oan cho người vô tội cũng như xử lý nghiêm minh đối với
người phạm tội. Ở giai đoạn điều tra, nhiều điều tra viên cho rằng người bị tạm giữ
không cần mời người bảo vệ/luật sư vì chưa cần thiết. Trong quá trình điều tra
thường chú ý đến việc không bỏ lọt tội phạm hơn là việc không làm oan cho người
vô tội và coi việc tham gia tố tụng của người bào chữa/bảo vệ chỉ là để cho đủ thủ
tục mà thơi. Điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc bảo vệ quyền của bị can,
dẫn đến tình trạng oan sai trong tố tụng.
Vì vậy, việc nghiên cứu về bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra
có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
giúp cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án đúng người đúng tội, đúng pháp
luật, hạn chế tối đa tình trạng oan sai.
Với nhận thức trên, học viên chọn đề tài : Bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn
điều tra từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh làm đề tài nghiên cứu cho luận văn
của mình.
3. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề bảo đảm quyền của bị can trong tố tụng hình sự đã được nhiều tác giả
nghiên cứu như :
-


Luận án tiến sĩ luật học “Bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp ở
Việt nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Huy Hoàng.

-

Luận án tiến sĩ luật học “Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự Việt nam
“ của tác giả Nguyễn Quang Hiền.

-

Luận án tiến sĩ luật học “Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo trong tố tụng hình sự Việt nam” của tác giả Lại Văn Trình.

-

Đề tài khoa học cấp Đại học Quốc gia Hà nội – khoa luật 2006 “Bảo vệ quyền
con người bằng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự trong giai đoạn
xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt nam” do GS.TSKH Lê Văn Cảm, TS.
Nguyễn Ngọc Chí, Ths. Trịnh Quốc Toàn đồng chủ biên.

-

Chuyên khảo “Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự, luật tố tụng hình sự
Việt nam” của TS. Trần Quang Tiệp.

5


Các cơng trình này, các tác giả đã nghiên cứu bảo vệ quyền con người từ góc

độ tư pháp hình sự, phạm vi nghiên cứu chủ yếu xuất phát từ phân tích quyền và
nghĩa vụ tố tụng của người tham gia tố tụng. Tuy nhiên, các tác giả chưa đi sâu
nghiên cứu về việc bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra, bao gồm cả
quyền được im lặng theo quy định của luật tố tụng hình sự Việt nam.
Trong thực tiễn điều tra, xử lý các vụ án hình sự vẫn cịn những vi phạm nhân
quyền. Vì vậy, việc nghiên cứu để bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều
tra theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự từ góc độ lập pháp và thực tiễn áp
dụng pháp luật có vai trị rất quan trọng trong quá rình thực hiện xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh hội nhập quốc tế cũng như công cuộc cải
cách tư pháp ở nước ta. Đây là lý do để học viên quyết định chọn đề tài : “Bảo đảm
quyền của bị can trong giai đoạn điều tra từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí
Minh” làm luật văn thạc sĩ cho mình.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Kế thừa một cách có chọn lọc kết quả nghiên cứu các cơng trình khoa học đã
được cơng bố, người viết hướng đến mục đích muốn làm rõ hơn những vấn đề lý
luận và thực tiễn về bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra theo Bộ luật
tố tụng hình sự hiện hành, chỉ ra những bất cập còn tồn tại khi thực hiện quyền và
nghĩa vụ của bị can ở nước ta hiện nay mà cụ thể là ở địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh. Qua đó, đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn
và hoàn thiện pháp luật, đảm bảo phát huy tối đa tính dân chủ, chính xác, khách
quan, tồn diện trong hoạt động tố tụng hình sự, đảm bảo xu hướng bảo đảm quyền
của bị can trong giai đoạn điều tra.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu như trên, người viết tập trung vào giải quyết những
nhiệm vụ chính như sau :
a. Làm rõ khái niệm bị can, khái niệm quyền và nghĩa vụ pháp lý của bị
can.

6



b. Tìm hiểu sơ lược các quyền và nghĩa vụ của bị can trong giai đoạn
điều tra theo luật pháp quốc tế
c. Tìm hiểu sơ lược quy định pháp luật Việt nam qua các thời kỳ về
quyền và nghĩa vụ của bị can trong giai đoạn điều tra.
d. Đi sâu vào phân tích các quy định của Bộ luật tố tụng hình sư Việt
nam hiện hành về quyền và nghĩa vụ của bị can trong giai đoạn điều
tra.
e. Nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật về bảo đảm quyền và nghĩa
vụ của bị can trong giai đoạn điều tra trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh.
f. Đưa ra các kiến nghị và giải pháp nhằm đảm bảo quyền của bị can
trong giai đoạn điều tra trong tố tụng hình sự, hồn thiện pháp luật tố
tụng hình sự, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tiến hành
tố tụng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Là quyền và nghĩa vụ pháp lý của bị can trong giai đoạn điều tra tại địa bàn Tp
Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi khơng gian: Thành phố Hồ Chí Minh
Phạm vi thời gian: giai đoạn 2018 đến quý 1/2020
Luận văn nghiên cứu là các quy định của pháp luật tố tụng hình sự trong thời
kỳ từ năm 1945-1988, thời kỳ pháp luật tố tụng hình sự năm 1988 – 2003, thời kỳ
pháp luật tố tụng năm 2003 – 2015 và pháp luật tố tụng hiện nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn sử dụng phương pháp luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan
điểm của Đảng ta về nhà nước và pháp luật, về xây dựng nhà nước pháp quyền, về

cải cách tư pháp và quyền con người.

7


Cơ sở thực tiễn của luận văn là người viết nghiên cứu đề tài dựa trên các số
liệu liên quan đến quá trình điều tra của cơ quan tiến hành tố tụng tại Thành phố Hồ
Chí Minh. Ngồi ra, người viết còn tự nghiên cứu các hồ sơ vụ án để làm cơ sở đề
xuất các giải pháp.
Các phiên pháp nghiên cứu được sử dụng là :
- Phương pháp thu thập và hồi cố thông tin dữ liệu từ các nguồn khác nhau.
- Phương pháp hệ thống.
- Phương pháp tổng hợp, phân tích, lịch sử
- Phương pháp so sánh và thống kê.
Ngoài ra người viết cũng khảo sát thực tiễn tố tụng và tham khảo ý kiến
chuyên gia để làm rõ các vấn đề nghiên cứu.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn khi hoàn thành dự kiến sẽ góp phần:
-

Làm rõ hơn các vấn đề lý luận về bị can, quyền và nghĩa vụ của bị can trong
giai đoạn điều tra trong pháp luật tố tụng hình sự Việt nam hiện hành và qua các
thời kỳ.

-

Đi vào phân tích việc bảo đảm quyền và nghĩa vụ pháp lý của bị can trong giai
đoạn điều tra theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt nam hiện hành.

-


Chỉ ra được các vấn đề, các khó khăn vướng mắc trong việc thực thi pháp luật
bảo vệ, bảo đảm quyền của bị can trong pháp luật tố tụng hình sự hiện hành.

-

Chỉ ra những điểm mới của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về quyền và nghĩa vụ
của bị can.

-

Đưa ra được các kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật, nâng cao
chất lượng áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự góp phần bảo đảm
quyền của bị can trong tố tụng hình sự Việt nam.

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học cấp độ thạc sĩ về bảo đảm quyền
của bị can trong giai đoạn điều tra trong tố tụng hình sự. Luận văn đi sâu nghiên
cứu các vấn đề lý luận về bảo đảm quyền của bị can, phân tích thực trạng, chỉ ra

8


khó khăn và đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả của việc bảo đảm quyền
của bị can trong giai đoạn điều tra.
Luận văn sẽ đóng góp một phần vào việc giải quyết về mặt khoa học các khái
niệm về bị can, quyền và nghĩa vụ của bị can trong giai đoạn điều tra. Đồng thời,
luận văn là một tài liệu có giá trị tham khảo cho những người làm công tác nghiên
cứu, cho những người hoạt động tư pháp cũng như thực tiễn điều tra các vụ án hình
sự.

8. Bố cục của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn
được kết cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp lý về bảo đảm quyền của bị can trong giai
đoạn điều tra.
Chương 2. Thực trạng bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra tại Thành
phố Hồ Chí Minh.
Chương 3. Quan điểm và giải pháp bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều
tra.

9


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ BẢO ĐẢM
QUYỀN CỦA BỊ CAN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
1.1. Quan niệm, đặc điểm về bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra
Trong các giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử, nhà nước ln có những
quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ cơ bản của cơng dân. Những quyền cơ bản đó
được nhà nước đảm bảo thực hiện đồng thời công dân cũng có nghĩa vụ tơn trọng và
bảo đảm quyền lợi của người khác. Một trong các hình thức thực hiện quyền cơ bản
của công dân được nhà nước đảm bảo thực hiện là quyền được bảo vệ mình trước
cơ quan pháp luật trong đó có quyền bào chữa. Điều 12 BLTTHS quy định: “Cơ
quan điều tra, viện kiểm sát, toà án có nhiệm vụ đảm bảo cho bị can, bị cáo thực
hiện quyền bào chữa của mình”. Trong những trường hợp luật định, nếu bị can, bị
cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ khơng mời người bào chữa thì các cơ quan
nói trên phải u cầu đồn luật sư cử ngươì bào chữa cho họ. Mặt khác, để đảm bảo
cho việc giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện và đầy đủ, không để lọt kẻ
phạm tội, không làm oan người vơ tội thì việc bào chữa là cần thiết, nó giúp cơ
quan tiến hành tố tụng xác định sự thật khách quan của vụ án. Hơn nữa, việc tranh

tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự khơng chỉ có buộc tội mà nó chỉ có thể
đạt hiệu quả cao khi tồn tại song song hai chức năng buộc tội và gỡ tội. Đó cũng là
một trong những cơ sở giúp toà án giải quyết vụ án được chính xác.
1.1.1

Quan niệm về bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra

Đến nay, xung quanh khái niệm về bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn
điều tra có nhiều quan điểm khác nhau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Quyền bào chữa là tổng hoà các hành vi tố tụng
hướng tới việc bác bỏ sự buộc tội và xác định bị can khơng có lỗi hoặc nhằm làm
giảm trách nhiệm của bị can”.
Quan điểm thứ hai cho rằng, quyền bào chữa được hiểu rộng hơn, nó khơng chỉ
dừng lại ở việc bác bỏ sự buộc tội và xác định bị can khơng có lỗi hay làm giảm

10


trách nhiệm của bị can mà nó cịn được thể hiện trong cả việc đảm bảo các quyền và
lợi ích được pháp luật bảo vệ của bị can kể cả khi chúng không trực tiếp liên quan
tới việc làm giảm trách nhiệm của bị can trong vụ án.
Quan điểm thứ ba cho rằng, quyền bào chữa không chỉ thuộc về bị can, bị cáo
mà cịn thuộc về người bị tình nghi phạm tội, người bị kết án, người bào chữa, bị
đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ.
Quan điểm thứ tư cho rằng: “Quyền bào chữa trong BLTTHS là tổng hoà các
hành vi tố tụng do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án thực hiện trên cơ
sở phù hợp với quy định của pháp luật nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ sự
buộc tội của cơ quan THTT, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự của
mình trong vụ án hình sự”.
Quan điểm thứ năm cho rằng: “Khơng chỉ bị cáo mà cả người bị hại cũng cần

đến việc bào chữa. Nhân chứng, giám định viên và cả những người khác cũng vậy,
nếu quyền lợi của họ bị xâm hại”.
Theo người viết, tất cả các quan điểm về quyền bào chữa nói trên đều chưa
hồn tồn chính xác. Nếu cho rằng quyền bào chữa chỉ thuộc về bị can như quan
điểm thứ nhất và thứ hai thì quá hẹp, còn nếu cho rằng quyền bào chữa còn thuộc về
người bị tình nghi phạm tội, người bị kết án, người bị hại, nguyên đơn dân sự… như
quan điểm thứ ba, thứ tư và thứ năm thì quá rộng.
Quan điểm của BLTTHS Việt Nam hiện nay là quyền bào chữa chỉ thuộc về
bị can, bị cáo chứ không thuộc về đối tượng nào khác và quyền này chỉ giới hạn
trong việc bác bỏ một phần hay toàn bộ lời buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho
bị can, bị cáo. Đối với việc bảo vệ các quyền và lợi ích khác của bị can, bị cáo
không trực tiếp liên quan tới việc bác bỏ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho
bị can, bị cáo trong vụ án thì khơng thuộc về giới hạn của quyền bào chữa. Tuy
nhiên, khi đã bào chữa cho bị can, bị cáo trong vụ án thì người bào chữa cũng đồng
thời giúp bị can, bị cáo trong việc bảo vệ các quyền đó của họ.
Khác với những người tham gia tố tụng khác, bị can, bị cáo tham gia tố tụng
chịu sự buộc tội của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc buộc tội này thường

11


gắn liền với việc áp dụng biện pháp ngăn chặn. Việc phải chịu trách nhiệm hình sự
mà thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy không phải mọi trường hợp buộc tội
đến với bị can, bị cáo đều chính xác mà vẫn cịn có những trường hợp buộc tội oan.
Do vậy, quyền bào chữa thuộc về bị can, bị cáo là yêu cầu khách quan trong hoạt
động tố tụng hình sự nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được đúng đắn.
Người bị tạm giữ không thể coi là đối tượng bị buộc tội mà họ chỉ có thể trở
thành đối tượng bị buộc tội nếu có đủ căn cứ để khởi tố họ với tư cách là bị can.
Một trong những mục đích của tạm giữ là giúp cơ quan có thẩm quyền bước đầu
xác định, làm rõ hành vi của người bị tạm giữ, nếu khơng đủ căn cứ để khởi tố bị

can thì phải ra quyết định trả tự do cho người bị tạm giữ. Theo quy định của pháp
luật thì cũng chưa có văn bản tố tụng nào trực tiếp buộc tội đối với người bị tạm
giữ.
Người bị kết án cũng không thể coi là đối tượng bị buộc tội được. Không nên
đồng nhất hai khái niệm buộc tội và kết án. Buộc tội chỉ có thể tồn tại trước khi bản
án của tồ án có hiệu lực pháp luật tức là trước khi kết tội. Theo Điều 10 BLTTHS,
sau khi bản án kết tội của tồ án có hiệu lực pháp luật thì người bị buộc tội rõ ràng
đã là người có tội, họ khơng cịn là đối tượng được xem xét là có tội hay khơng nữa.
Như vậy, theo chúng tơi, đối tượng bị buộc tội chỉ có thể là bị can, bị cáo. Bị
can bị buộc tội trước hết bởi quyết định khởi tố bị can. Điều 103 BLTTHS quy
định: “Khi có đủ căn cứ để xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội thì cơ
quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố bị can”. Khi bị can bị toà án quyết định
đưa ra xét xử thì họ trở thành bị cáo. Lúc này bị cáo bị buộc tội bởi quyết định truy
tố của viện kiểm sát. Từ sự phân tích trên, theo chúng tơi quyền bào chữa rõ ràng
chỉ thuộc về bị can, bị cáo – những người đang bị buộc tội bởi các quyết định pháp
lí của cơ quan có thẩm quyền. Những người có thể bị buộc tội hoặc đã bị buộc tội
khơng là chủ thể của quyền bào chữa. Vậy quyền bào chữa của bị can, bị cáo là tổng
thể các quyền mà pháp luật quy định bị can, bị cáo có thể sử dụng nhằm bác bỏ một
phần hay toàn bộ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho họ.

12


1.1.2 Đặc điểm bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn điều tra
Theo quy định tại khoản 2 Điều 60 BLTTHS năm 2015, bị can có những quyền sau
đây:
a) Được biết lý do mình bị khởi tố;
b) Được thơng báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;
c) Nhận quyết định khởi tố bị can; quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố
bị can, quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết

định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy
bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; bản kết luận điều tra; quyết định
đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo
trạng, quyết định truy tố và các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật
này;
d) Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, khơng buộc phải đưa ra lời khai chống lại
chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
đ) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
e) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
g) Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch
thuật;
h) Tự bào chữa, nhờ người bào chữa;
i) Đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc
tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc
điều tra khi có yêu cầu;
k) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng."

13


1.2. Nội dung, trình tự, thủ tục bảo vệ quyền của bị can trong giai đoạn điều tra
1.2.1 Nội dung về quyền của bị can trong giai đoạn điều tra
(a) Quyền của bị can trong việc bị tạm giữ, tạm giam :
Trong giai đoạn điều tra, nghi can có thể bị tạm giữ, tạm giam để đảm bảo cho
việc điều tra vụ án. Theo quy định cũ “Người bị tạm giữ là người bị bắt trong
trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang và đối với họ đã có Lệnh tạm giữ”,
trong khi thực tế người bị tạm giữ còn bị bắt trong các trường hợp khác như: Truy

nã, đầu thú, tự thú… Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam mới đã cụ thể hoá là “Người
bị tạm giữ là người đang bị quản lý tại cơ sở giam giữ trong thời hạn tạm giữ, gia
hạn tạm giữ theo quy định của BLTTHS”
Đối với người bị tạm giam, quy định cũ chưa bao quát hết, nay cụ thể đầy đủ là
“Người bị tạm giam là người đang bị quản lý tại cơ sở giam giữ trong thời hạn tạm
giam, gia hạn tạm giam theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, bao gồm bị can;
bị cáo; người bị kết án phạt tù, người bị kết án tử hình mà bản án chưa có hiệu lực
pháp luật hoặc đang chờ thi hành án; người bị tạm giam để thực hiện việc dẫn độ”.
Điều 9 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam đã quy định cụ thể về những quyền cơ
bản nhất của người bị tạm giữ, người bị tạm giam, trong đó đã bổ sung một số
quyền quan trọng cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam như:
– Được phổ biến các quyền và nghĩa vụ của mình (điểm a khoản 1)
– Được hướng dẫn, giải thích và bảo đảm thực hiện quyền tự bào chữa, nhờ
người bào chữa, trợ giúp pháp lý (điểm đ khoản 1);
– Được gặp người đại diện hợp pháp để thực hiện giao dịch dân sự” (điểm e
khoản 1);
– Được yêu cầu trả tự do khi hết thời hạn tạm giữ, thời hạn tạm giam (điểm g
khoản 1).
Quy định quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong
Luật thi hành tạm giữ, tạm giam đã có sự phân biệt với người chấp hành án phạt tù,
như: người chấp hành án phạt tù phải lao động, học tập…; còn người bị tạm giữ,

14


người bị tạm giam khơng có các nghĩa vụ này. Người bị tạm giữ, người bị tạm giam
có quyền bầu cử ; người chấp hành án phạt tù khơng có quyền này…
Đồng thời, Điều 19 quy định cụ thể về các quyền của người bị tạm giữ, người
bị tạm giam bị hạn chế khi bị tạm giữ, bị tạm giam, theo đó, người bị tạm giữ,
người bị tạm giam bị hạn chế đi lại, giao dịch, tiếp xúc, thông tin, liên lạc, tun

truyền tín ngưỡng, tơn giáo. Trường hợp cần thiết thực hiện giao dịch dân sự thì
phải thơng qua người đại diện hợp pháp và được sự đồng ý của cơ quan đang thụ lý
vụ án.
Điều 22 đã quy định người bị tạm giữ được gặp thân nhân một lần trong thời
gian tạm giữ, một lần trong mỗi lần gia hạn tạm giữ. Người bị tạm giam được gặp
thân nhân một lần trong một tháng; việc thăm gặp do Thủ trưởng cơ sở giam giữ
quyết định. Việc gặp người bào chữa được thực hiện theo quy định của pháp luật tố
tụng hình sự.
(b) Quyền của bị can trong giai đoạn hỏi cung :
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ sung một số quyền mới của bị can so
với BLTTHS năm 2003 như: Không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình
hoặc buộc phải nhận mình có tội; được đề nghị giám định, định giá; được đọc, ghi
chép tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội hoặc bản sao tài liệu khác liên
quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu...
Đây là một trong những quy định mới rất có lợi cho bị can, tạo điều kiện thuận
lợi nhất cho bị can khi tham gia tố tụng hình sự, vì bị can là người bị khởi tố về hình
sự và phải chịu nhiều chế tài ràng buộc nhất định của pháp luật. Trong quá trình tố
tụng, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải có biện pháp bảo
đảm quyền và nghĩa vụ của họ, tức là tối thiểu phải làm cho họ hiểu rõ các quyền,
nghĩa vụ của mình.
-

Về quyền đƣợc giải thích quyền và nghĩa vụ :

Khoản 2 Điều 183 BLTTHS năm 2015 quy định: “Trước khi tiến hành hỏi cung
lần đầu, Điều tra viên phải giải thích cho bị can biết rõ quyền và nghĩa vụ theo quy
định tại Điều 60 của Bộ luật này. Việc này phải được ghi vào biên bản”.

15



Điều 131 BLTTHS năm 2003 quy định: “Trước khi hỏi cung, Điều tra viên phải
đọc quyết định khởi tố bị can và giải thích cho bị can biết rõ quyền và nghĩa vụ theo
Điều 49 của Bộ luật này này. Việc này phải được ghi vào biên bản”.
Như vậy, cả 02 Bộ luật TTHS năm 2015 và 2003 đều quy định về giải thích
quyền và nghĩa vụ của bị can là việc làm bắt buộc của Điều tra viên trước khi tiến
hành hỏi cung bị can.
-

Về quyền yêu cầu của bị can khi hỏi cung

Một trong những điểm mới nữa của BLTTHS năm 2015 so với BLTTHS năm
2003 về hỏi cung bị can là việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Khoản 6 Điều
183 BLTTHS năm 2015 quy định: “Việc hỏi cung bị can tại cơ sở giam giữ hoặc tại
trụ sở Cơ quan điều tra, cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra phải
được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Việc hỏi cung bị can tại địa điểm khác
được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh theo u cầu của bị can hoặc của cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng”.
-

Về quyền đƣa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu

Điều 60 BLTTHS năm 2015 có nêu bị can có quyền “Đưa ra chứng cứ, tài liệu,
đồ vật, yêu cầu”
-

Về quyền yêu cầu có ngƣời bào chữa, ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp

Việc tham gia tố tụng của người bào chữa đã góp phần bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của bị can, bị cáo, giúp cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án giải quyết
vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ.
Khoản 1 Điều 36 BLTTHS quy định: “Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi
khởi tố bị can”. Quy định này có thể hiểu theo 2 hướng khác nhau là người bào
chữa phải tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can hoặc người bào chữa không bắt
buộc phải tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can.
Khoản 2 Điều 36 BLTTHS quy định: “Người bào chữa có quyền có mặt khi hỏi
cung bị can, nếu được điều tra viên đồng ý thì được hỏi bị can”

16


1.2.2 Trình tự, thủ tục bảo vệ quyền của bị can trong giai đoạn điều tra
(1). Quyền bào chữa, bảo vệ của bị can :
- Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của bị hại, đương sự (Điều 16 Bộ Luật tố tụng hình sự)
- Quyền bào chữa của Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt (Điều
58 Bộ Luật tố tụng hình sự), Người bị tạm giữ (Điều 59 Bộ Luật tố tụng hình sự),
Bị can(Điều 60 Bộ Luật tố tụng hình sự), Bị cáo (Điều 61 Bộ Luật tố tụng hình sự):
Tự bào chữa, nhờ người bào chữa
- Quyền bảo vệ của Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố(Điều 57 Bộ Luật tố
tụng hình sự), có thể Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
mình;
- Quyền của người bị tạm giữ, người bị tạm giam (Điều 9 Luật Thi hành tạm giữ,
tạm giam):Được gặp thân nhân, người bào chữa, tiếp xúc lãnh sự; Được hướng dẫn,
giải thích và bảo đảm thực hiện quyền tự bào chữa, nhờ người bào chữa, trợ giúp
pháp lý;
- Lựa chọn người bào chữa (Điều 75, Điều 422 Bộ Luật tố tụng hình sự):Người bào
chữa do người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ lựa chọn.
- Chỉ định người bào chữa (Điều 76 Bộ Luật tố tụng hình sự):Trong các trường hợp

sau đây nếu người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ khơng
mời người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chỉ định
người bào chữa cho họ:
+ Bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung
hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình;
Người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà khơng thể tự bào chữa;
người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi.
- Thay đổi hoặc từ chối người bào chữa (Điều 77 Bộ Luật tố tụng hình sự):
+ Những người có quyền từ chối hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa: (a)
Người bị buộc tội; (b) Người đại diện của người bị buộc tội; (c) Người thân thích
của người bị buộc tội.

17


+ Mọi trường hợp thay đổi hoặc từ chối người bào chữa đều phải có sự đồng ý
của người bị buộc tội và được lập biên bản đưa vào hồ sơ vụ án, trừ trường hợp
người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có
nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi (điểm b khoản 1 Điều 76 của
Bộ luật Tố tụng hình sự)
+ Trường hợp người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong giai
đoạn điều tra có đề nghị từ chối người bào chữa do người thân thích của họ nhờ thì
Điều tra viên phải cùng người bào chữa đó trực tiếp gặp người bị bắt, người bị tạm
giữ, người bị tạm giam để xác nhận việc từ chối.
- Gặp thân nhân, người bào chữa:
Người bị tạm giữ, người bị tạm giam được gặp thân nhân, người bào chữa.
Đặc biệt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người dưới 18 tuổi được gặp thân
nhân, người bào chữa, với số lần thăm gặp được tăng gấp đôi so với người bị tạm
giữ, người bị tạm giam là người đủ 18 tuổi trở lên. (Điều 34 Luật Thi hành tạm giữ,
tạm giam)

- Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội
quả tang hoặc theo quyết định truy nã, người bị tạm giữ, bị can; người bị tố giác,
kiến nghị khởi tố được giải thích, thơng báo quyền nhờ người bào chữa và được hỗ
trợ thủ tục nhờ người bào chữa (Điều 3, Điều 4, Điều 5, Điều 8 Thông tư
46/2019/TT-BCA của Bộ Công an ngày 10/10/2019)
+ Trường hợp người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam có đơn
yêu cầu người bào chữa thì Cơ quan điều tra, cơ sở giam giữ đang quản lý người bị
bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam thực hiện theo quy định tại khoản 2
Điều 75 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Cơ sở giam giữ có trách nhiệm thơng
báo cho cơ quan đang thụ lý vụ án biết.
+ Việc chuyển đơn yêu cầu người bào chữa của cơ quan đang quản lý người
bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam được gửi trực tiếp tại trụ sở cơ
quan này hoặc gửi qua đường bưu chính. Nếu gửi trực tiếp tại trụ sở cơ quan đang

18


×