Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Phân tích thực trạng quản lý nhà nước về dạy nghề ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.22 KB, 24 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................2
NỘI DUNG...........................................................................................................4
Chương 1. Những vấn đề cơ bản của quản lý nhà nước về đào tạo nghề tại
Việt Nam...............................................................................................................4
1.1. Những khái niệm cơ bản...........................................................................4
1.2. Hệ thống tổ chức, nội dung quản lý nhà nước về đào tạo nghề.............6
Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước về đào tạo nghề tại Việt Nam hiện
nay.......................................................................................................................11
2.1. Thực trạng hoạt động đào tạo nghề tại Việt Nam hiện nay....................11
2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về đào tạo nghề tại Việt Nam hiện nay. .14
Chương 3. Giải pháp quản lý nhà nước về đào tạo nghề tại Việt Nam trong
thời gian tới........................................................................................................18
KẾT LUẬN........................................................................................................22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................24


LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay cùng
với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam đã, đang và sẽ tác động tới giáo
dục nghề nghiệp. Nhờ việc triển khai tích cực các chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước, cơng tác đào tạo nghề (dạy nghề) thời gian qua đã
đạt được nhiều kết quả quan trọng như quy mô, mạng lưới hệ thống cơ sở dạy
nghề được mở rộng; cơ cấu ngành nghề đào tạo ngày càng đa dạng, phù hợp với
xu thế; hệ thống tổ chức và quản lý lĩnh vực dạy nghề từ Trung ương đến địa
phương được hoàn thiện hơn; Công tác đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý được
kiện tồn;… Bên cạnh những thành tựu trên thì cơng tác này vẫn cịn bộc lộ
khơng ít hạn chế, bất cập trong việc quy hoạch phát triển, cụ thể là: số lượng,
chất lượng, cơ cấu ngành nghề chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của lao động
trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy nghề cịn
thiếu về số lượng và đơi khi bị lạc hậu về công nghệ; nguồn lực đầu tư cịn hạn


chế và đặc biệt là trong cơng tác quản lý nhà nước về dạy nghề vẫn còn những
thiếu sót nhất định về bộ máy, cách thức thực hiện,..;..
Đào tạo nghề không chỉ bảo đảm nguồn nhân lực lao động kỹ thuật cho
nền kinh tế mà cịn góp phần giải quyết việc làm, nâng cao mức sống cho người
dân, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động và thực hiện chính sách cơng bằng
trong dạy nghề. Do đó, việc gắn dạy nghề với nhu cầu thị trường lao động là giải
pháp hữu hiệu để phát triển giáo dục nghề nghiệp trong bối cảnh mới.
Từ những lý do trên, tôi đã chọn đề tài “Phân tích thực trạng quản lý nhà
nước về dạy nghề ở Việt Nam” để nghiên cứu về thực trạng và đưa ra một số
giải pháp nhằm nâng cao hoạt động quản lý nhà nước về dạy nghề ở Việt Nam
trong thời gian tới.
Bài tiểu luận gồm 03 chương:
Chương 1. Những vấn đề cơ bản của quản lý nhà nước về đào tạo nghề tại
Việt Nam.
Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước về đào tạo nghề tại Việt Nam hiện
nay.


Chương 3. Giải pháp quản lý nhà nước về đào tạo nghề tại Việt Nam trong
thời gian tới.


NỘI DUNG
Chương 1. Những vấn đề cơ bản của quản lý nhà nước về đào tạo nghề tại
Việt Nam.
1.1. Những khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm nghề:
Nghề là một khái niệm rộng và phức tạp, đặt vào từng hoàn cảnh hay xét theo
mỗi một góc độ cụ thể thì khái niệm nghề có phạm vi và cách hiểu khác
nhau. Theo cách tiếp cận của các quốc gia trên thế giới, nghề là một hiện

tượng xã hội gắn chặt với sự phân công lao động, với tiến bộ khoa học kỹ
thuật và văn mình nhân loại. Ở Việt Nam, nghề cũng được nhiều ngành khoa
học khác nhau nghiên cứu và đưa ra nhiều định nghĩa song chưa được thống
nhất cụ thể. Tuy nhiên, dù được hiểu ở góc độ nào thì chúng ta vẫn có thể
thấy được một vài nét đặc trưng nhất định trong các định nghĩa về nghề:
- Nghề là hoạt động, là công việc lao động của con người được lặp đi lặp
lại.
- Nghề là sự phân công lao động xã hội, phù hợp với yêu cầu xã hội.
- Nghề là phương tiện để sinh sống.
- Nghề là lao động kỹ năng, kỹ xảo chuyên biệt có giá trị trao đổi trong xã
hội, địi hỏi phải có q trình đào tạo nhất định.
Ngày nay, nghề biến đổi một cách mặt mẽ và gắn chặn với xu hướng phát
triển kinh tế xã hội của đất nước.
Trong bài phân tích dưới đây, nghề được hiểu theo nghĩa là một hình thức
phân cơng lao động, nó địi hỏi kiến thức lý thuyết tổng hợp và kỹ năng thực
hành để hoàn thành những công việc nhất định.
1.1.2. Khái niệm đào tạo nghề
Theo Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014: “Đào tạo nghề là hoạt động dạy
nghề, học nghề nhằm chuẩn bị những điều kiện cần thiết để mọi người có thể tự
tạo việc làm, kiếm việc làm hoặc có cơ hội nâng cao chất lượng của quá trình
lao động và thăng tiến trong nghề nghiệp. Đào tạo nghề là một nhiệm vụ trọng
tâm trong việc phát triển nguồn nhân lực và gắn với việc giải quyết nhu cầu về
việc làm của người lao động”.
Đào tạo nghề gồm đào tạo nghề dài hạn và đào tạo nghề ngắn hạn.


Đào tạo nghề dài hạn được thực hiện dưới hình thức đào tạo mới và đào
tạo lại nhằm cung cấp một đội ngũ công nhân kĩ thuật, nhân viên nghiệp vụ lành
nghề, đủ khả năng tiếp cận và sử dụng thành thạo các phương tiện kĩ thuật và
công nghệ hiện đại, đáp ứng nguồn nhân lực có kĩ thuật cho các khu công

nghiệp, khu chế xuất, xuất khẩu lao động.
Đào tạo nghề ngắn hạn, dạy nghề tổ chức theo lớp học - vừa học lí thuyết
vừa thực hành; dạy nghề theo hình thức kèm cặp tại xưởng hoặc tại nơi sản xuất
- chủ yếu rèn luyện kĩ năng thực hành nghề; chuyển giao công nghệ - truyền lại
cho người học nghề những cơng nghệ mới, bí quyết cơng nghệ được sử dụng
trong quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh nhằm tạo cơ hội cho
người lao động tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm.
Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá
nhân trong và ngoài nước đầu tư xây dựng, phát triển cơ sở dạy nghề. Tất cả các
cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật
đều có thể mở cơ sở dạy nghề... Các cơ sở dạy nghề truyền thống, kèm cặp tại
xưởng, tại nhà thì được xét miễn, giảm thuế.
1.1.3. Các đặc điểm của đào tạo nghề
Thứ nhất, người lao động ở nơng thơn được tham gia chương trình đào tạo
nghề của Chính phủ ban hành. Trong đó ưu tiên dạy nghề cho các đối tượng là
người thuộc diện được hưởng chính sách ưu đãi người có cơng với cách mạng,
hộ nghèo, hộ có thu nhập tối đa bằng 150% thu nhập của hộ nghèo, người dân
tộc thiểu số, người tàn tật, người bị thu hồi đất canh tác.
Thứ hai, kinh phí hỗ trợ đào tạo nghề được lấy từ ngân sách trung ương,
địa phương, doanh nghiệp. Trong đó, ngân sách trung ương đảm bảo kinh phí để
thực hiện chính sách hỗ trợ lao động nơng thơn học nghề, hoạt động đào tạo; các
cá nhân, doanh nghiệp tham gia công tác đào tạo nghề được hưởng mức thuế ưu
đãi theo đúng quy định của pháp luật.
Thứ ba, đào tạo nghề phải gắn với giải quyết việc làm cho người lao động.
Đây là đặc điểm nổi bật của đề án 1956 của Chính phủ về đào tạo nghề cho
người lao động nông thôn.


Thứ tư, đào tạo nghề hướng tới từng bước xoá bỏ sự cách biệt cứng nhắc
giữa khu vực nông thôn và khu vực thành thị, giữa lao động chân tay và lao

động trí óc.
Thứ năm, sự liên kết giữa các bên tham gia ở tất cả các khâu của đào tạo
nghề. Từ khâu tuyển sinh đầu vào đến quá trình đào tạo và đầu ra phải có sự
phối hợp ăn ý giữa chính quyền - đại diện quản lý nhà nước, doanh nghiệp - đại
diện tiếp nhận lao động qua đào tạo nghề, người lao động - đại diện bên hưởng
thụ hỗ trợ dự án. Trong đó, chính quyền quản lý đóng vai trị cầu nối trung gian
cho nhà tuyển dụng doanh nghiệp và người lao động, thường xuyên điều tra
khảo sát nhu cầu lao động của nhà tuyển dụng lao động và thông tin rộng rãi đến
các cấp và trực tiếp đến người lao động, đặc biệt người lao động chưa có việc
làm hoặc mới nghỉ việc.
Thứ sáu, từng bước thay đổi những định hướng giá trị nghề nghiệp trong
đó kết hợp hài hồ giữa lợi ích, nhu cầu cá nhân và xã hội. Quan niệm của nhiều
người là chỉ học nghề khi khơng đậu cao đẳng/đại học cịn rất phổ biến, xem
trọng nghề được đào tạo rất ít mà hầu hết cho rằng học nghề cho có bởi vì chỉ có
bằng cao đẳng/đại học mới có thể kiếm được việc làm. Để thay đổi nhận thức là
công việc không phải ngày một ngày hai mà mất đến một năm, thậm chí hơn
một năm mới hy vọng có sự chuyển biến từ sâu bên trong của người lao động,
chỉ khi nào họ nhận thức đúng vai trị của cơng tác đào tạo nghề thì chất lượng
mới có thể thay đổi theo hướng tích cực.
Thứ bảy, chuyển dần từ đào tạo nghề một lần sang đào tạo, bồi dưỡng liên
tục, suốt đời. Chuyển từ đào tạo kỹ năng sang đào tạo và hình thành năng lực,
đặc biệt là các năng lực mềm (tư duy, thích nghi, biến đổi…). Đây là đặc điểm
có tính đột phá trong đào tạo nghề, từ việc thay đổi trong suy nghĩ của người lao
động đến việc hình thành năng lực tư duy lâu dài, từ việc được ý thức cho đến tự
ý thức.
1.2. Hệ thống tổ chức, nội dung quản lý nhà nước về đào tạo nghề
1.2.1. Hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về đào tạo nghề
Đào tạo nghề là một ngành học trong hệ thống giáo dục quốc dân. Từ năm 1988.
Tổng cục Dạy nghề hiện nay là Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp trực thuộc bộ



Lao động, thương binh và xã hội được thành lập và thực hiện chức năng quản lý
nhà nước về đào tạo nghề, vốn trước đó là do bộ giáo dục đào tạo thực hiện.

Hình 1: Mơ hình hóa hệ thống cơ quan quản lý về đào tạo nghề

Hiện nay chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về dạy nghề. Chính phủ trình
Quốc hội trước khi quyết định những chủ trương lớn có ảnh hưởng đến quyền và
nghĩa vụ học tập của công dân trong phạm vi cả nước, những chủ trương về cải
cách nội dung, chương trình của bậc đào tạo, cấp đào tạo; hàng năm báo cáo với
Quốc hội về hoạt động giáo dục – đào tạo trong đó có đào tạo nghề (trong giáo
dục nghề nghiệp) và về việc thực hiện ngân sách cho hoạt động đào tạo nghề.
Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội là cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề
ở Trung ương. Tổng cục giáo dục nghề nghiệp là cơ quan thuộc Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội thực hiện chức năng tham mưu giúp bộ trưởng quản lý
nhà nước về giáo dục nghề nghiệp (trong đó có đào tạo nghề). Theo Luật giáo
dục nghề nghiệp, cụ thể cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp ở
Trung ương chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về
giáo dục nghề nghiệp và có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền
và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển giáo
dục nghề nghiệp;


b) Xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền
và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục nghề nghiệp;
c) Quy định mục tiêu, nội dung và phương pháp đào tạo; tiêu chuẩn nhà giáo;
danh mục nghề đào tạo ở các trình độ; tiêu chuẩn cơ sở vật chất và thiết bị đào
tạo; ban hành quy chế tuyển sinh, kiểm tra, thi, xét công nhận tốt nghiệp và cấp
văn bằng, chứng chỉ đào tạo trong giáo dục nghề nghiệp;

d) Quy định việc đăng ký và cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động giáo dục
nghề nghiệp;
đ) Quản lý và tổ chức thực hiện việc kiểm định chất lượng giáo dục nghề
nghiệp;
e) Thực hiện công tác thống kê, thông tin về tổ chức và hoạt động đào tạo nghề
nghiệp;
g) Tổ chức bộ máy quản lý giáo dục nghề nghiệp;
h) Quản lý và tổ chức việc đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý giáo
dục nghề nghiệp, người dạy các chương trình đào tạo thường xuyên;
i) Huy động, quản lý và sử dụng các nguồn lực để phát triển giáo dục nghề
nghiệp;
k) Quản lý, tổ chức công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ; sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ về đào tạo nghề nghiệp;
l) Quản lý, tổ chức công tác hợp tác quốc tế về giáo dục nghề nghiệp;
m) Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giáo dục nghề nghiệp; giải
quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về giáo dục nghề nghiệp.
Các Bộ, cơ quan ngang bộ phối hợp với bộ chủ quản thực hiện quản lý nhà nước
về dạy nghề theo thẩm quyền được quy định và trực tiếp quản lý cơ sở giáo dục
nghề nghiệp của bộ, ngành mình (nếu có) theo chức năng, nhiệm vụ được phân
công.
Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực
hiện quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp theo phân cấp của Chính phủ;
xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục nghề nghiệp phù hợp với nhu
cầu nhân lực của địa phương; kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giáo dục
nghề nghiệp của các cơ sở hoạt động giáo dục nghề nghiệp, các tổ chức, cá nhân


có tham gia giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn theo thẩm quyền; thực hiện xã hội
hóa giáo dục nghề nghiệp; nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục nghề
nghiệp tại địa phương.

1.2.2. Nội dung quản lý nhà nước về đào tạo nghề
Xuất phát từ vai trò của dạy nghề đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước, nội dung chủ yếu trong quản lý nhà nước về đào tạo nghề bao
gồm:
Một là, hoạch định chiến lược, xây dựng quy hoạch, kế hoạch và các
chính sách phát triển nghề.
Hoạch định chiến lược phát triển dạy nghề là q trình nghiên cứu một
cách có hệ thống, thống nhất đảm bảo sự tham gia của các chủ thể trong hoạt
động dạy nghề. Các chiến lược chính là kim chỉ nam cho những quy hoạch, kế
hoạch đào tạo nghề cụ thể theo giai đoạn hoặc nghành khác nhau.
Xây dựng quy hoạch, kế hoạch dựa trên những mục tiêu đã được đề ra
trong chiến lược phát triển, những nội dung được đề ra trong quy hoạch, kế
hoạch đều được thực hiện để hướng vào các mục tiêu, nhiệm vụ được đặt ra cho
cơng tác dạy nghề.
Chính sách là công cụ giúp các cơ quan quản lý thực hiện, hiện thực hóa những
nội dung được đề ra trong quy hoạch, kế hoạch để đạt được những mục tiêu đã
đề ra.
Hai là, xây dựng, tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về đào tạo
nghề.
Để thống nhất quản lý và điều tiết các hoạt động đào tạo nghề trên phạm vi cả
nước, tạo ra hành lang pháp lý cho các hoạt động dạy nghề của các cơ sở dạy
nghề được thực hiện. Xây dựng, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về
dạy nghề là nội dung trọng tâm đảm bảo cho hoạt động quản lý nhà nước về đào
tạo nghề được thực hiện xuyên suốt.
Trong việc tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về đào tạo nghề,
trách nhiệm và thẩm quyền của các cơ quan quản lý cũng được nêu rõ trong luật
định và có những chế tài cụ thể để đảm bảo việc thực hiện các văn bản trên theo
đúng đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước.



Ba là, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về dạy nghề.
Nhận thức đúng đóng vai trị quan trọng trong mọi hoạt động thực tiễn của con
người. Vì vậy việc tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật về dạy nghề là
thực sự cần thiết. Nhờ có hoạt động này mà các thông tin về đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được cung cấp đầy đủ, cụ thể cho các
đối tượng lao động nghề, cũng nhờ vậy mà giúp nhận thức của họ và của các
ban ngành liên quan được chuyển biến theo hướng tích cực hơn, đóng vai trị
quan trọng trong cơng cuộc cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Bốn là, thanh tra, kiểm tra; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong
lĩnh vực dạy nghề.
Thanh tra, kiểm tra là một giai đoạn quan trọng trong chu trình quản lý nhà
nước. Hoạt động thanh tra, kiểm tra sẽ đảm bảo trong q trình thực hiện hiện
các chính sách pháp luật về hoạt động đào tạo nghề không xảy ra sai sót hoặc
khơng đúng chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước. Nếu như có sẽ can
thiệp kịp thời để chỉ đạo, hướng dẫn hoặc đề xuất sửa đổi bổ sung, hồn thiện
chính sách pháp luật và xử lý các sai phạm theo thẩm quyền quy định.
Trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm được giao cho người
đứng đầu cơ quan tổ chức. Trường hợp cần thiết thì người đứng đầu cơ quan,
đơn vị có thể giao cho cơ quan thanh tra hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành
thẩm tra, xác minh, kết luật và kiến nghị các biện pháp xử lý.
Năm là, huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực nhằm phát triển hoạt động
dạy nghề cả về số lượng và chất lượng.
Chăm lo, phát triển sự nghiệp đào tạo nghề nói riêng và giáo dục nghề nghiệp
nói chung là trách nhiệm của toàn xã hội. Trên quan điểm đầu tư cho giáo dục
nghề nghiệp, cụ thể là đào tạp nghề là một loại đầu tư phát triển, Nhà nước ta
ngày càng tăng cường đầu tư, tăng tỷ trọng chi trong ngân sách cho dạy nghề,
đồng thời ban hành những chính sách thích hợp nhằm huy động các nguồn lực
như nhân lực, vật lực, tài lực,… trong nhân dân, của các tổ chức quốc tế để phát
triển dạy nghề.



Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước về đào tạo nghề tại Việt Nam hiện
nay
2.1. Thực trạng hoạt động đào tạo nghề tại Việt Nam hiện nay
Quy mô, mạng lưới hệ thống cơ sở dạy nghề
Thực hiện tinh thần chỉ đạo của hệ thống các văn bản pháp quy của Đảng
và Nhà nước về phát triển GDNN trong thời kỳ mới, thời gian qua, các bộ,
ngành đã tổ chức rà soát, sắp xếp các cơ sở dạy nghề thuộc phạm vi quản lý theo
các điều kiện quy định. Theo đó, những cơ sở khơng đáp ứng các điều kiện theo
quy định hoặc hoạt động không hiệu quả sẽ được sắp xếp lại theo hướng giải thể
hoặc sáp nhập. Mạng lưới cơ sở được tinh gọn, tuy nhiên vẫn đảm bảo tính bao
phủ tồn quốc, đa dạng về loại hình, trình độ đào tạo và mơ hình hoạt động.
Về cơ cấu phân bố, các cơ sở đào tạo tập trung nhiều nhất ở vùng đồng
bằng Sông Hồng và vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung. Các vùng
Tây Nguyên và Trung du miền núi phía Bắc là những vùng có ít các cơ sở dạy
nghề, chủ yếu là các cơ sở dạy nghề phục vụ cho đào tạo nghề ngắn hạn, cịn các
trường cao đẳng và trung cấp có số lượng rất ít.
Bối cảnh phát triển khoa học cơng nghệ đang đặt ra một yêu cầu cấp thiết
cho các cơ sở sản xuất kinh doanh là phải đổi mới cơng nghệ đi đơi với nâng cao
trình độ đội ngũ công nhân. Do vậy, việc phân bố các cơ sở không hợp lý giữa
các vùng miền như hiện nay sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới công tác đào tạo và
cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng tại chỗ cũng như ảnh hưởng tới hiệu quả
lao động cho các trung tâm lao động.
Cơ cấu ngành nghề đào tạo
Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội cho thấy, quá trình phân hóa nghề
nghiệp đang diễn ra theo chiều hướng giảm thuần nông, tăng hộ kinh tế hỗn hợp
để tiến tới phi nơng hồn tồn. Do vậy, cơ cấu ngành nghề đào tạo của giáo dục
nghề nghiệp trong bối cảnh hiện nay cũng đặt ra vấn đề cần phải có những điều
chỉnh cần thiết nhằm phù hợp với cơ cấu ngành nghề xã hội và đáp ứng nhu cầu
nghề nghiệp của người học. Nhu cầu tuyển chọn ngành nghề để tham gia học tập

của người học cũng hết sức đa dạng. Thực tế cho thấy, nhu cầu đào tạo nghề
được xác lập dựa trên căn cứ đặc thù phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng,


miền. Có những địa phương tập trung phát triển các ngành cơng nghiệp, cơng
nghệ cao và có những địa phương lại chú trọng vấn đề đào tạo các ngành nghề
truyền thống.
Theo báo cáo kết quả tuyển sinh hàng năm, trung bình mỗi năm có
khoảng trên 2 triệu người theo học các trình độ trong GDNN. Trên cơ sở thực
trạng tuyển sinh và đào tạo nghề cho thấy, tỷ lệ cao đẳng và trung cấp chỉ chiếm
khoảng trên 25% còn lại là sơ cấp và các hình thức đào tạo thường xuyên khác.
Sự mất cân đối về số lượng người học ở các trình độ cao đẳng, trung cấp và sơ
cấp sẽ là rào cản đối với chủ trương đào tạo nghề chất lượng cao, đáp ứng yêu
cầu phát triển của đất nước thời gian tới. Hiện nay, để tăng số học sinh vào học
trung cấp, cao đẳng của GDNN, các bộ ngành đang khẩn trương triển khai công
tác phối hợp với các địa phương thực hiện Quyết định số 522/QĐ-TTg ngày
14/5/2018 của Thủ tướng Chính phủ về giáo dục hướng nghiệp và phân luồng
học sinh sau trung học vào học GDNN. Đồng thời, các bộ, ngành và địa phương
phối hợp để lựa chọn, phê duyệt ngành, nghề trọng điểm và trường được lựa
chọn ngành, nghề trọng điểm giai đoạn 2016 - 2020 và định hướng đến năm
2025 để tập trung ưu tiên đầu tư đồng bộ trở thành trường chất lượng cao.
Tuy nhiên, tình trạng mất cân đối trong cơ cấu ngành nghề đào tạo, giữa
các vùng miền chậm được khắc phục, chưa đáp ứng được nhu cầu nhân lực của
xã hội. Tuyển sinh giáo dục nghề nghiệp khó khăn, đặc biệt ở những ngành,
nghề nặng nhọc độc hại, ngành nghề năng khiếu. Triển khai đào tạo nghề chất
lượng cao (phát triển nghề trọng điểm, trường nghề chất lượng cao và thí điểm
đào tạo nghề cấp độ quốc tế, khu vực theo chương trình chuyển giao từ nước
ngồi...) cịn chậm. Mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp còn nhiều bất cập,
chưa phân bố hợp lý giữa các vùng, miền, chưa quy hoạch tới từng ngành, nghề,
cấp trình độ đào tạo.

Công tác đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được xác định là nhân tố
quyết định trong việc đổi mới giáo dục hiện nay. Với tinh thần đó, Quyết định số
899/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chương trình mục tiêu Giáo
dục nghề nghiệp - Việc làm và An toàn lao động giai đoạn 2016-2020” đã đề ra


mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng, chuẩn hóa đội ngũ cán bộ quản lý GDNN, nhằm
hình thành đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục nghề nghiệp có tính chun nghiệp,
hiệu quả.
Cùng với việc mạng lưới cơ sở GDNN tăng lên, số lượng cán bộ quản lý
cũng tăng theo; đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và đào tạo nghề các cấp được
kiện toàn trong cả nước; các chương đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kỹ năng nghề,
nghiệp vụ sư phạm, chuyển giao cơng nghệ ở nước ngồi, tiếp cận trình độ quốc
tế, đào tạo tiếng Anh chuyên ngành... đã có tác động tích cực đến tồn hệ thống
giáo viên, cán bộ quản lý GDNN.
Công tác học sinh - sinh viên (HS-SV)
Thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách cho các đối
tượng người học của GDNN (miễn giảm học phí, hỗ trợ học tập, tơn vinh, sử
dụng…). Các chính sách hỗ trợ đào tạo nghề nghiệp được Bộ LĐ-TB&XH tham
mưu trình Chính phủ ban hành nhằm khuyến khích học sinh, người lao động,
các đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế tham gia học nghề, tạo việc làm. Cụ
thể như hỗ trợ học phí đào tạo trình độ trung cấp, cao đẳng; tín dụng HS-SV; đào
tạo nội trú đối với HS-SV người dân tộc thiểu số; hỗ trợ đào tạo trình độ sơ cấp
và đào tạo dưới 3 tháng...
Quản lý tốt HS-SV là điều kiện thuận lợi cho quá trình trang bị kiến thức,
kỹ năng chuyên môn, đồng thời tạo ra môi trường tốt cho việc rèn luyện phẩm
chất đạo đức, nhân cách và tác phong, lối sống cho người học.
Hợp tác quốc tế
Tiếp tục phát huy hiệu quả của các chương trình hợp tác quốc tế trong giai

đoạn trước, những năm qua, các hoạt động hợp tác quốc tế lĩnh vực GDNN đã
được đẩy mạnh cả về quy mơ, hiệu quả, hình thức và đa dạng hóa về nội dung.
Cụ thể như, xây dựng hành lang pháp lý, cơ chế, chính sách về hợp tác quốc tế
để thu hút nguồn vốn ODA, tạo điều kiện thuận lợi để các đối tác, các nhà tài trợ
tham gia hỗ trợ nâng cao chất lượng GDNN Việt Nam; xây dựng hệ thống mạng
lưới các đối tác phát triển đã và đang hỗ trợ Việt Nam trong lĩnh vực GDNN;
tham gia tích cực và đầy đủ, đóng góp có trách nhiệm vào các hoạt động hợp tác


quốc tế và là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế, diễn đàn song phương, đa
phương trong lĩnh vực GDNN.
Thơng qua chính sách và hoạt động hợp tác quốc tế đã tiếp thu, học hỏi
được nhiều kinh nghiệm hay cho công tác tổ chức và quản lý GDNN; tạo nhiều
cơ hội để các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, đào tạo nghề và học viên trong nước
được tiếp cận với sân chơi GDNN quốc tế; tận dụng hiệu quả các chính sách đầu
tư của các tổ chức quốc tế đối với GDNN Việt Nam; nâng cao trình độ chun
mơn, phương pháp giáo dục trong các cơ sở đào tạo GDNN.
Nhìn chung, sau thời gian thực hiện chủ trương hợp nhất, chất lượng
GDNN đã được nâng cao và mang lại nhiều kết quả tích cực, góp phần cụ thể
hóa đường lối, chủ trương, chính sách và pháp luật về GDNN của Đảng và Nhà
nước, đưa Luật vào cuộc sống nhanh hơn, hiệu quả hơn nhằm thực hiện tốt việc
đổi mới giáo dục, góp phần quan trọng vào việc nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo
và nâng tầm chất lượng nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, tạo tính ổn định và thống nhất đầu mối quản lý nhà nước lĩnh vực GDNN.
Nhận thức của xã hội, người dân và doanh nghiệp về GDNN đã có những
chuyển biến tích cực; số lượng người tham gia vào GDNN ngày càng tăng.
2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về đào tạo nghề tại Việt Nam hiện nay
2.2.1. Thực trạng tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về đào tạo nghề tại Việt
Nam hiện nay
Hệ thống tổ chức và quản lý lĩnh vực GDNN từ Trung ương đến địa

phương
Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề đổi mới hệ
thống tổ chức và quản lý nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các
đơn vị sự nghiệp cơng, Chính phủ đã có Nghị quyết số 08/NQ-CP ngày
24/1/2018 về chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số
19-NQ/TW (trong đó có sắp xếp, quy hoạch mạng lưới các cơ sở GDNN), Nghị
định số 15/2019/NĐ-CP ngày 1/2/2019 quy định chi tiết một số điều và biện
pháp thi hành Luật GDNN, trong đó tập trung quy định rõ trách nhiệm quản lý
nhà nước (QLNN) về GDNN của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐTB&XH), các bộ ngành liên quan và ủy ban nhân dân các cấp.


Trên tinh thần ấy, các bộ, ngành liên quan đã kịp thời có văn bản hướng
dẫn, đơn đốc các địa phương thực hiện việc bàn giao chức năng QLNN về
GDNN tại địa phương. Đến nay, công việc bàn giao đã hoàn thành trên phạm vi
toàn quốc(2). Bộ máy QLNN về GDNN được kiện toàn từ Trung ương tới địa
phương. Việc quản lý được thực hiện theo hướng phân cấp mạnh cho địa
phương và tăng cường tính tự chủ, đi đơi với trách nhiệm giải trình của cơ sở
GDNN. Để thực hiện được mục tiêu đổi mới và nâng cao chất lượng GDNN,
đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực bảo đảm chất lượng, Bộ LĐ-TB&XH đã chủ
động triển khai áp dụng đồng bộ 8 nhóm giải pháp cụ thể nhằm tăng tính hiệu
quả trong thực thi chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước về đổi mới căn
bản QLNN trong lĩnh vực GDNN, bao gồm: Đổi mới và nâng cao hiệu lực, hiệu
quả QLNN về GDNN; trao quyền tự chủ đầy đủ cho các cơ sở GDNN; hoàn
thiện quy hoạch mạng lưới cơ sở GDNN; chuẩn hóa các điều kiện bảo đảm chất
lượng; tăng cường quản lý chất lượng GDNN; gắn kết GDNN với thị trường lao
động, việc làm và an sinh xã hội; phát triển hệ thống đánh giá và cấp chứng chỉ
kỹ năng nghề quốc gia cho người lao động; tăng cường truyền thông, nghiên cứu
khoa học và hợp tác quốc tế.
Với cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm QLNN được
phân định rõ ràng đã tạo được hệ thống thể chế đồng bộ; tạo sự thống nhất,

xuyên suốt công tác quản lý, chỉ đạo và tổ chức thực hiện; phát huy được tính
chủ động, sáng tạo của các bộ, ngành, địa phương trong việc thực hiện quyền
hạn và trách nhiệm được giao trong QLNN về GDNN trên địa bàn. Từng bước
tách được QLNN với quản trị của các đơn vị sự nghiệp; bảo đảm quyền tự chủ,
tự chịu trách nhiệm xã hội của các đơn vị sự nghiệp trong các lĩnh vực GDNN.
Quá trình thực hiện chủ trương kiện toàn bộ máy QLNN về GDNN cịn bộc lộ
những bất cập nhất định. Cơng tác QLNN lĩnh vực GDNN ở địa phương còn
chồng chéo giữa hai ngành giáo dục và LĐ-TB&XH.
2.2.2. Thực trạng nội dung quản lý nhà nước về đào tạo nghề tại Việt Nam
hiện nay
Một là, hoạch định chiến lược, xây dựng quy hoạch, kế hoạch và các
chính sách phát triển nghề.


Đại hội Đảng lần thứ XIII đã thông qua Chiến lược phát triển KT-XH giai
đoạn 2021-2030, trong đó một lần nữa nhấn mạnh phát triển nguồn nhân lực
nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong ba đột phá chiến lược và
cũng đã chỉ rõ xây dựng hệ thống GDNN mở và linh hoạt. Đây là cơ sở, là tiền
đề rất quan trọng cho các phát triển GDNN của nước ta trong thời gian tới.
Nhận thức của các cấp, ngành và tồn xã hội về vai trị và tầm quan trọng
của GDNN trong việc hình thành đội ngũ nhân lực trong sản xuất kinh doanh
dịch vụ đã có sự chuyển biến tích cực. Giáo dục đào tạo nói chung và GDNN
nói riêng ln được Đảng và Nhà nước quan tâm trong thời gian qua, đầu tư của
nhà nước và xã hội cho GDNN không ngừng tăng, các điều kiện đảm bảo chất
lượng của các cơ sở GDNN được củng cố và phát triển, năng lực đào tạo của hệ
thống GDNN tăng đáng kể.
Đảng ta đã ban hành Nghị quyết về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục
và đào tạo đáp ứng sự nghiệp cơng nghiệp hóa trong bối cảnh hội nhập quốc tế;
đồng thời, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 24/CT-TTg ngày
28/5/2020 về đẩy mạnh phát triển nhân lực có kỹ năng nghề, góp phần nâng cao

năng suất lao động và tăng năng lực cạnh tranh quốc gia trong tình hình mới.
Theo đó, yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tiếp tục triển khai có hiệu quả các
cơ chế, chính sách phát triển GDNN, phát triển nhân lực có kỹ năng nghề; tăng
cường chuyển đổi số và đào tạo trực tuyến, chú trọng đào tạo lại và đào tạo
thường xuyên lực lượng lao động để tạo chuyển biến mạnh mẽ về quy mô, chất
lượng và hiệu quả của GDNN; bảo đảm người học có kỹ năng chun mơn, kỹ
năng số, kỹ năng mềm, kỹ năng khởi nghiệp và ngoại ngữ… thích ứng với yêu
cầu của thị trường lao động. Phấn đấu đến năm 2030, GDNN Việt Nam tiếp cận
trình độ các nước ASEAN-4, đến năm 2045 tiếp cận trình độ các nước G20;
Đồng thời, yêu cầu Bộ LĐTBXH tổ chức tổng kết, đánh giá các chương trình,
dự án phát triển GDNN, phát triển nhân lực có kỹ năng nghề thuộc Chương trình
mục tiêu quốc gia giai đoạn 2016 - 2020; đề xuất cho giai đoạn tiếp theo.
Hai là, xây dựng, tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về
đào tạo nghề.


Hệ thống pháp luật được hoàn thiện tương đối đồng bộ và toàn diện . Các
hoạt động của giáo dục nghề nghiệp, từ hệ thống vĩ mô đến các cơ sở đều được
điều chỉnh bởi các văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục nghề nghiệp. Thủ
tướng đã ban hành quyết định 630/QĐ-Ttg ngày 22 tháng 5 năm 2011 phê duyệt
Chiến lược phát triển dạy nghề thời kỳ 2011-2020. Chiến lược phát triển dạy
nghề được thực hiện trong bối cảnh có sự thay đổi cả trong tổng thể chủ trương
chung của Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, cùng những
thay đổi luật pháp liên quan. Hệ thống dạy nghề được điều chỉnh đồng thời bởi
cả hai Luật Giáo dục và Luật Dạy nghề, đến năm 2015 là Luật GDNN với quy
định các trình độ trong GDNN gồm cao đẳng, trung cấp và sơ cấp.
- Chính phủ đã ban hành khung trình độ quốc gia . Trong đó, hệ thống
GDNN có 5 bậc từ bậc 1-5. Đến cuối năm 2020 đã tổ chức xây dựng,
thẩm định ban hành 600 quy định khối lượng kiến thức tối thiểu, yêu cầu
về năng lực mà người học đạt được sau khi tốt nghiệp (chuẩn đầu ra) cho

300 ngành, nghề đào tạo ở trình độ TC, CĐ theo quy định; đã thí điểm
xây dựng chuẩn đầu ra cho 17 nghề từ bậc 1-3.
Có thể nói, chủ yếu hoạt động đào tạo nghề của Việt Nam được duy trì ổn
định theo quan điểm, định hướng và nguyên tắc chung thể hiện rõ bằng những
quy định trong Luật giáo dục nghề nghiệp năm. Bên cạnh đó, hoạt động GDNN
cịn cũng được quy định bởi một số văn bản luật chuyên ngành khác đã nêu trên.
Cùng với đó là các nghị định, thông tư hướng dẫn chi tiết thực hiện các điều
khoản của các văn bản luật.
Trong thời gian qua, các văn bản pháp luật được ban hành với hai định
hướng chính: thứ nhất là các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật giáo dục
nghề nghiệp năm 2014 và thứ hai là các văn bảo hướng dẫn điều chỉnh việc thực
thi pháp luật và tổ chức giáo dục và đào tạo nghề gắn với tình hình thực tiễn hội
nhập kinh tế quốc tế, yêu cầu quản lý và theo tinh thần cải cách hành chính, tạo
thuận lợi cho hoạt động của các cơ sở.
Ba là, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về dạy nghề.
Bốn là, thanh tra, kiểm tra; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm
trong lĩnh vực dạy nghề.


Trong thời gian qua, công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố
cáo, xử lý vi phạm pháp luật về dạy nghề chưa được quan tâm đúng mức, mang
tính chất kế hoạch hóa mà chủ yếu tập trung và chấn chỉnh, khắc phục những
yếu kém, sơ hở, thiếu sốt trong q trình hoạt động dạy tại một số cơ sở giáo
dục nghề nghiệp. Hoạt động thanh tra, kiểm tra hiện nay chủ yếu tập trung ở lĩnh
vực pháp luật lao động, an tồn lao động,.. đối với cơng tác thanh tra, kiểm tra,
giải quyết và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo về dạy nghề mặc dù đã được quan
tâm thực hiện nhưng chưa thường xuyên, nhìn chung là cịn ít so với quy mơ, số
lượng các cơ sở GDNN.
Năm là, huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực nhằm phát triển hoạt
động dạy nghề cả về số lượng và chất lượng.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác GDNN của
nước ta thời gian qua vẫn cịn những hạn chế như: Cơng tác quản lý nhà nước về
GDNN còn bộc lộ khá nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển đất
nước trong bối cảnh mới. Mạng lưới cơ sở GDNN còn chưa hợp lý về phân bố
giữa các vùng miền, ngành nghề, trình độ đào tạo; việc sáp nhập cơ sở GDNN ở
một số nơi cịn mang tính hành chính, cơ học, chưa bảo đảm tính khoa học và
phù hợp thực tiễn, chưa có cơ chế bảo đảm hiệu quả hoạt động của các cơ sở
GDNN sau sắp xếp, sáp nhập; các điều kiện bảo đảm chất lượng chưa đáp ứng
được yêu cầu đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo. Do đó, chất lượng, hiệu
quả của nhiều cơ sở GDNN còn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, chưa tạo được cơ chế gắn bó chặt chẽ với các cơ sở doanh nghiệp và các
đơn vị sử dụng lao động. Cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực đầu ra của
GDNN chưa đáp ứng được yêu cầu của Cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
Nguồn nhân lực cho nghiên cứu, phát triển, ứng dụng các công nghệ 4.0 chiếm
tỷ lệ nhỏ, chất lượng cịn thấp. Ở một số địa phương, mơ hình đào tạo nghề cịn
thiên về lý thuyết, ít thực hành; sự gắn kết giữa cơ sở đào tạo nghề với doanh
nghiệp chưa thực sự hiệu quả. Quá trình triển khai thực hiện chủ trương xã hội
hóa GDNN cịn chậm và nhiều lúng túng, không đồng đều ở các tỉnh, thành phố,
chưa huy động tối đa các nguồn lực xã hội hóa...


Chương 3. Giải pháp quản lý nhà nước về đào tạo nghề tại Việt Nam trong
thời gian tới
Để công tác quản lý nhà nước về đào tạo nghề nói riêng và quản lý nhà
nước về giáo dục nghề nghiệp nói chung tại Việt Nam có hiệu quả trong thời
gian tới, dưới đây tơi xin trình bày một số giải pháp cụ thể, bao gồm
Một là, tập trung hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế, đổi mới cơ
chế, chính sách phát triển GDNN, đào tạo nghề. Hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung
các văn bản để đồng bộ hóa các quy định giữa các Luật: Luật GDNN, Luật Giáo
dục, Luật Việc làm, Bộ Luật Lao động. Triển khai các hoạt động đánh giá, sơ kết
Luật GDNN để sửa đổi, bổ sung Luật GDNN phù hợp với giai đoạn phát triển

mới và định hướng chuyển đổi số quốc gia. Hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung chính
sách, quy định về quản lý, đảm bảo chất lượng, xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng
nghề quốc gia; xây dựng và ban hành khung trình độ kỹ năng nghề quốc gia
(mới) và hệ thống đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia cho người lao
động. Có chính sách tăng cường và khuyến khích chuẩn hóa lao động theo
khung trình độ kỹ năng nghề quốc gia nhằm tăng cường khả năng dịch chuyển
của người lao động trong thị trường trong nước và quốc tế; đồng thời nâng cao
hiệu quả đào tạo cho nguồn nhân lực đối với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp;
Hai là, đổi mới quản trị hệ thống giáo dục nghề nghiệp. Đa dạng hóa các
mơ hình, hình thức, loại hình đào tạo, trình độ đào tạo. Nghiên cứu bổ sung các
trình độ đào tạo (trình độ trên trung cấp, dưới cao đẳng; trên cao đẳng, dưới đại
học…), nhằm thích ứng với sử dụng lao động trong các doanh nghiệp trong bối
cảnh cách mạng công nghiệp 4.0. Thực hiện phương châm vừa đảm bảo chất
lượng, hiệu quả vừa đáp ứng nhu cầu đa dạng của người học, nhu cầu của doanh
nghiệp và thị trường lao động. Phát triển mạnh mơ hình đạo nghề tại doanh
nghiệp, do doanh nghiệp tổ chức thực hiện (market- based model) và mở rộng
thí điểm mơ hình đào tạo nghề kép (dual model)- kết hợp giữa nhà trường và
doanh nghiệp. Phát triển hình thức đào tạo trực tuyến, kết hợp giữa đào tạo trực
tuyến với đào tạo trực tiếp trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Nâng cao hiệu
quả công tác phân luồng học sinh từ THCS và THPT vào các cơ sở GDNN theo


hướng phù hợp với cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động của từng vùng, miền, kết
hợp cơ chế hành chính và cơ chế thị trường.
Ba là, thực hiện chuyển đối số, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản
lý và hoạt động đào tạo. Tăng cường hạ tầng Công nghệ thông tin quản lý cho
các cơ quan QLNN về GDNN ở trung ương, địa phương và các cơ sở GDNN.
Phát triển, hồn thiện các ứng dụng Cơng nghệ thơng tin trong lĩnh vực GDNN,
đảm bảo tính kết nối, liên thơng với các đơn vị thuộc Bộ, với Chính phủ và các
bộ, ngành liên quan. Xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin thị trường lao động liên

quan đến GDNN. Đẩy mạnh số hố các tài liệu, chương trình, giáo trình đào tạo
GDNN. Thực hiện chuyển đổi số trong quản lý, dạy và học. Số hóa, mơ phỏng
hóa các hoạt động đào tạo trong các cơ sở GDNN, trong quản trị nhà trường, từ
việc tuyển sinh, tổ chức đào tạo, mơ phỏng hóa trang thiết bị và bài giảng, đánh
giá kết quả học tập, quản lý văn bằng, chứng chỉ, số hóa văn bằng…thích ứng
với cách mạng cơng nghệ 4.0.
Bốn là, tăng cường nguồn lực và nâng cao hiệu quả đầu tư cho giáo dục nghề
nghiệp. Đầu tư cho giáo dục nghề nghiệp được ưu tiên trong kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội, phát triển nhân lực. Ngân sách cho giáo dục nghề nghiệp được
ưu tiên trong tổng chi ngân sách nhà nước dành cho giáo dục, đào tạo; được
phân bổ theo nguyên tắc công khai, minh bạch, kịp thời. NSNN tập trung đầu tư
cho các cơ sở GDNN trọng điểm, trường chất lượng cao tiếp cận trình độ khu
vực và thế giới, các trường chuyên biệt và các ngành, nghề trọng điểm, ngành
nghề đặc thù; phát triển đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý cơ sở GDNN; hỗ trợ
nâng cao trình độ cho các nhà giáo trong các cơ sở GDNN ngồi cơng lập. Hỗ
trợ cho các đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế trong xã hội, đảm bảo bình
đẳng trong tiếp cận dịch vụ giáo dục nghề nghiệp. khơng để ai lại phía sau. Đa
dạng hóa nguồn lực xã hội để nâng cao chất lượng đào tạo, giảm dần tỷ lệ chi từ
NSNN trong tổng chi cho GDNN.
Tám là, truyền thông, hợp tác quốc tế về giáo dục nghề nghiệp. Xây dựng
các sản phẩm truyền thông đa dạng, thiết thực, hiệu quả; ứng dụng mạnh mẽ
công nghệ thông tin trong hoạt động truyền thông GDNN. Tổ chức tuyên truyền
nhằm nâng cao nhận thức của doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động về lợi ích,


quyền và nghĩa vụ tham gia GDNN; của cơ quan quản lý các cấp về tầm quan
trọng của GDNN đối với nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và
hội nhập quốc tế; của người học, gia đình và xã hội về vai trị của GDNN cũng
như các cơ hội phát triển nghề nghiệp trong xu hướng học tập suốt đời. Xây
dựng, tổ chức thực hiện các chương trình khởi sự, khởi nghiệp, xúc tiến việc làm

cho học sinh, sinh viên trong các cơ sở GDNN để nâng cao khả năng tự tạo việc
làm, tìm kiếm việc làm cho học sinh, sinh viên sau khi tốt nghiệp. Mở rộng trao
đổi kinh nghiệm quốc tế, thu hút nguồn vốn ODA cho đổi mới và nâng cao chất
lượng giáo dục nghề nghiệp; Tham gia các tổ chức quốc tế, đặc biệt là các tổ
chức nghiên cứu trong các nước ASEAN về giáo dục nghề nghiệp. Tăng cường
hợp tác, liên kết đào tạo với nước ngoài, đặc biệt là các ngành nghề mới trong
lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ, như cơ - điện tử; y- sinh; công nghệ nano…; các
ngành nghề phục vụ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Tạo điều kiện
thuận lợi để các nhà đầu tư, các cơ sở GDNN có uy tín trên thế giới mở cơ sở
GDNN quốc tế tại Việt Nam.


KẾT LUẬN
Trong những năm qua, việc đào tạo, bồi dưỡng, chuẩn bị nhân lực có kỹ
năng nghề được Đảng, Nhà nước rất quan tâm và đã có nhiều chuyển biến tích
cực về nhận thức, quy mơ tuyển sinh, chất lượng và hiệu quả đào tạo. Hệ thống
các quy định pháp luật về giáo dục nghề nghiệp từng bước được hoàn thiện;
mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp phát triển rộng khắp, đa dạng về loại hình
và trình độ đào tạo; chất lượng được tăng cường; xuất hiện ngày càng nhiều mơ
hình đào tạo chất lượng cao, đào tạo gắn với nhu cầu của doanh nghiệp, góp
phần quan trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước.
Tuy nhiên, quy mô, cơ cấu và chất lượng nhân lực có kỹ năng nghề vẫn
chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nhất là trong bối cảnh do
ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19, xu hướng tự động hóa, điện tử hóa, số
hóa, tác động của cuộc Cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 13 đã nêu rõ định hướng phát
triển đất nước ta 10 năm tới và các năm tiếp theo là: “Đến năm 2025, là nước
đang phát triển, có cơng nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập
trung bình thấp. Đến năm 2030, là nước đang phát triển, có cơng nghiệp hiện

đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập
cao."
Đồng thời, Đảng ta khẳng định phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao vẫn là một trong ba đột phá chiến lược. Trong đó yêu
cầu:
- Đẩy nhanh thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện và nâng cao chất lượng
giáo dục, đào tạo, trọng tâm là hiện đại hóa và thay đổi phương thức đào tạo
giáo dục nghề nghiệp;
- Đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở,
linh hoạt; bảo đảm thống nhất với chủ trương đổi mới căn bản và toàn diện giáo
dục và đào tạo;


- Tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chuyển dịch nhanh cơ
cấu lao động, nhất là ở nông thơn; giảm tỷ lệ lao động khu vực phi chính thức;
- Chú trọng đào tạo lại, đào tạo thường xuyên lực lượng lao động; Hình
thành đội ngũ lao động lành nghề, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc
gia, gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo và sử dụng lao động;
- Chuẩn bị nguồn nhân lực cho chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội
số;
- Đẩy mạnh công tác hướng nghiệp, phân luồng, liên thông trong giáo
dục, đào tạo gắn với nhu của của xã hội….
Lần đầu tiên, trong năm 2020 Thủ tướng Chính phủ có quyết định lấy
ngày 4-10 hàng năm là ngày kỹ năng lao động Việt Nam và ban hành Chỉ thị
riêng về đẩy mạnh phát triển nhân lực có kỹ năng nghề, nhất là nhân lực có tay
nghề cao để tranh thủ thời cơ dân số vàng, nâng tầm kỹ năng lao động Việt Nam,
góp phần nâng cao năng suất lao động và tăng năng lực cạnh tranh quốc gia
trong tình hình mới; giao Bộ LĐTBXH xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ
ban hành Chiến lược phát triển GDNN cho giai đoạn mới.
Đây là những cơ sở rất quan trọng để có thể phát triển giáo dục nghề

nghiệp của đất nước ta trong thời đại mới.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



×