Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

MỘT SỐ BIỆN PHÁP LÀM TỐT BÀI VĂN MIÊU TẢ LỚP 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.53 KB, 22 trang )

1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
UBND TỈNH PHÚ THỌ
TRƯỜNGPHẦN
ĐẠI HỌC
HÙNG
MỞ
ĐẦUVƯƠNG
1. Lí do chọn đề tài
Tiếng Việt của người Việt là một kho báu. Con người dần tìm hiểu,nghiên
cứu chiếm lĩnh kho báu ấy qua từng giai đoạn, từng thời kì và qua từng lứa tuổi.
Đối với học sinh tiểu học, tìm hiểu, nghiên cứu Tiếng Việt dành cho các em,
bước đầu có phần nhẹ nhàng, đơn giản là một bàn đạp, một nền tảng để các em
thâm nhập vào toàn bộ Tiếng Việt nắm hiểu và sử dụng Tiếng Việt như sử dụng
kho báu để đạt hiệu quả cao.
Dạy Tiếng Việt ở bậc tiểu học nói chung và lớp 4 nói riêng, ta cần phải
nắm rõ nhiệm vụ của từng phân mơn. Trong bộ mơn Tiếng Việt có rất nhiều

BÀI TẬP LỚN

phân môn: Tập đọc; Luyện từ và câu; Kể chuyện; Tập làm văn.Trong số các
phân mơn đó thì tập làm văn có vị trí rất lớn trong chương trình Tiếng Viêt, góp
phầnđề
hệtài:
thống lại kiến thức tiếng mẹ đẻ cho học sinh, làm phong phú tâm hồn
Tên
các em, góp phần tích lũy được vốn sống bằng những hiểu biết và cảm xúc của

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 4



bản thân thông qua hoạt động quan sát hằng ngày trong cuộc sống. Cần quan sát

VIẾT TỐT BÀI VĂN MIÊU TẢ

thường xuyên và quan sát bằng nhiều giác quan, đó là yêu cầu quan trọng để có
vốn sống phong phú, có cái nhìn về thế giới xung quanh tinh tế hơn, nhạy cảm
hơn, phù hợp với tâm lí lứa tuổi ngây thơ, hồn nhiên giàu cảm xúc.
Học phần: Cơ sở ngôn ngữ học của việc dạy Tiếng Việt ở tiểu học
Ở lớp 4 chương trình Tập làm văn có rất nhiều thể loại. Qua thực tế giảng
Mã học phần: GT2302.
dạy lớp 4, tôi phát hiện ra khi chấm bài Tập làm văn, tôi thấy đa số học sinh đã
Họ và tên giảng viên: Nguyễn Xuân Huy
biến các bài văn miêu tả thành văn kể, liệt kê một cách khô khan, nghèo nàn về
Học viên thực hiện: Nguyễn Thị Thùy Trang
từ, diễn đạt ý rườm rà, tối nghĩa. Cách dùng từ đặt câu chưa phù hợp, viết câu
Lớp: K5B – Giáo dục học Tiểu học.
còn rời rạc, chưa liên kết, thiếu lơgíc, chưa sáng tạo. Bố cục bài văn chưa rõ
ràng, cách chấm câu, cách sử dụng từ ngữ giàu hình ảnh chưa linh hoạt, chưa
sinh động. Mặt khác, một số em còn phụ thuộc vào bài văn mẫu, áp dụng một
cách máy móc, chưa biết sử dụng bài văn mẫu để hình thành lối hành văn riêng
của mình, biến lời văn người khác thành cách diễn đạt của mình. Phần lớn các
Năm học: 2020 - 2021
em dùng lời hướng dẫn của giáo viên để viết bài văn của mình một cách rập
khn, máy móc. Do đó, bài văn chưa đạt hiệu quả cao.
2


Là một giáo viên tôi rất băn khoăn và trăn trở: Làm thế nào để giúp các
em học sinh lớp 4 học tốt phân môn Tập làm văn nhất là văn miêu tả con vật ?

Với những lí do trên nên tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp
học sinh lớp 4 viết tốt bài văn tả con vật”.
2. Mục đích nghiên cứu
- Giúp học sinh hình thành các kỹ năng quan sát, phân tích, đưa ra nhận xét,
chính kiến của bản thân; biết truyền những rung cảm của mình vào đối tượng
miêu tả; biết sử dụng những từ ngữ có giá trị biểu cảm, những câu văn sáng rõ
về nội dung. Các em có cái nhìn hồn nhiên về thế giới xung quanh và có tính
chân thực khi miêu tả về con người, cảnh vật, đồ vật, một cách cụ thể, sống
động nhưng nó vẫn tồn tại trong thực tế cuộc sống. Các em biết sử dụng, vận
dụng các hình ảnh so sánh, nhân hóa để bài văn miêu tả được phong phú và sinh
động, nâng cao chất lượng khi làm bài. Qua đó, bồi dưỡng cho các em tình yêu
quê hương đất nước, vốn sống, vốn ngơn ngữ và khả năng giao tiếp.
- Kích thích hứng thú học tập của học sinh đối với bộ mơn Tập làm văn nói
riêng, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học mơn Tiếng Việt nói chung.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng là học sinh lớp 4A, Trường Tiểu học Lê Đồng – TX.Phú Thọ
- Chương trình phân mơn Tập làm văn lớp 4.
4. Phương pháp nghiên cứu:
4.1. Phương pháp thực hành giao tiếp.
4.2. Phương pháp phân tích ngơn ngữ.
4.3. Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề.
4.4. Phương pháp rèn luyện theo mẫu

3


PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn
Văn miêu tả là một trong những thể loại văn rất quen thuộc và phổ biến
trong cuộc sống cũng như trong các tác phẩm văn học. Đây là loại văn có tác

dụng rất lớn trong việc tái hiện đời sống, hình thành và phát triển trí tưởng
tượng, óc quan sát và khả năng nhận xét, đánh giá của con người. Với đặc trưng
của mình, những bài văn miêu tả làm cho tâm hồn, trí tuệ người đọc thêm phong
phú, giúp ta cảm nhận được văn học và cuộc sống một cách tinh tế hơn, sâu sắc
hơn. Chính vì thế, văn miêu tả được đưa vào nhà trường từ rất lâu và ngay từ bậc
Tiểu học. Đề tài của văn miêu tả với các em là những gì gần gũi, thân quen với
thế giới trẻ thơ, các em có thể quan sát được một cách dễ dàng, cụ thể như: chiếc
cặp, cái bàn, những vườn cây ăn quả mình yêu thích, những con vật ni trong
nhà…
Bài văn miêu tả nếu không sáng tạo sẽ trở thành một bài văn khô cứng,
góp nhặt của người khác, nội dung bài văn sẽ không hồn nhiên, trong sáng, mới
mẻ. Hơn nữa, bài văn miêu tả là thể loại văn bản mang tính chất nghệ thuật cao,
mang tính sáng tạo, tính cá thể của người viết. Ngôn ngữ trong văn miêu tả là
ngôn ngữ giàu sức gợi cảm và là ngôn ngữ của các biện pháp tu từ.
Chương trình Tập làm văn lớp 4 gồm 62 tiết, trong đó văn miêu tả
chiếm 30 tiết ( 7 tiết học kì I và 23 tiết học kì II).
Trong đó bao gồm: + Kĩ năng miêu tả : 1 tiết
+ Miêu tả đồ vật : 10 tiết
+ Miêu tả cây cối : 11 tiết
+ Miêu tả con vật : 8 tiết
Ngôn ngữ trong văn miêu tả cần cụ thể, giàu hình ảnh và có nét riêng
biệt. Chính vì thế để có bài văn hay địi hỏi người viết phải biết cách dùng từ
ngữ, biết vận dụng linh hoạt các biện pháp nghệ thuật tu từ được học.
2Thực trạng
Qua quá trình giảng dạy cũng như qua việc dự giờ học tập chuyên môn ở các
đồng nghiệp, tôi nhận thấy việc dạy làm văn ở lớp 4 còn gặp một số khó khăn:
4


Về giáo viên:

- Một số giáo viên còn ngại khi phải dạy phân mơn tập làm văn nên khi dạy
cịn nhiều lúng túng về phương pháp và nội dung hay hình thức tổ chức một tiết
dạy Tập làm văn dẫn đến hiệu quả các tiết dạy chưa cao. Điều này được thể hiện
rõ qua những tiết thao giảng, dự giờ chéo phân môn Tập làm văn ở trường.
- Phương pháp dạy của giáo viên cịn rập khn, thiếu sự dẫn dắt gợi mở cho
học sinh, chưa kích thích được sự sáng tạo tìm tịi, chưa chọn từ ngữ, hình ảnh, ý
của học sinh.
- Giáo viên ít quan tâm đến việc hướng dẫn các em phải tả như thế nào để bộc lộ
được nét riêng biệt của đối tượng mình đang tả, thốt khỏi việc tả một cách
khn mẫu
- Giáo viên khi lên lớp còn truyền đạt “chay”, thiếu tranh ảnh, vật thật để hổ trợ
cho các em trong quá trình làm văn miêu tả.
- Giáo viên chưa hướng dẫn được cho học sinh tìm ra phương pháp làm văn
miêu tả thành cơng, bên cạnh năng lực quan sát cịn cần sự liên tưởng, tưởng
tượng và vận dụng năng lực của bản thân vào bài viết.
- Việc chấm và sửa bài cho các em còn chung chung, chưa sửa ý, câu hay cách
dùng từ đặt câu,việc vận dụng các biện pháp nghệ thuật vào bài văn của học sinh
nhằm phát huy cho học sinh khi học, làm tập làm văn.
- Thiếu sự kết hợp, liên hệ giữa tiết dạy phân môn tập làm văn với các môn học
khác.
Về học sinh:
- Do khả năng tư duy của học sinh Tiểu học còn dừng lại ở mức độ tư duy đơn
giản trực quan, chất lượng cảm thụ văn học của học sinh chưa đồng đều dẫn đến
chất lượng làm văn chưa cao dẫn đến khi viết văn cịn gặp khơng ít khó khăn.
- Khả năng quan sát miêu tả còn sơ sài, học sinh chưa biết sử dụng các giác quan
để quan sát, quan sát chưa theo một trình tự, thấy đâu tả đó.
- Học sinh dùng từ đặt câu chưa hay, chưa biết lựa chọn từ ngữ thích hợp, vốn từ
ngữ cịn quá nghèo nàn, dùng từ địa phương nhiều, diễn đạt ý văn mà như nói
chuyện bình thường.
5



- Dùng văn mẫu một cách chưa sáng tạo (do sách tham khảo bán tràn lan trên thị
trường) các em rập khuôn theo mà chưa biết sáng tạo chọn lọc thành cái riêng
của mình.
- Một số em chưa biết nội dung, tác dụng của các biện pháp nghệ thuật vào bài
văn dẫn đến lời văn khơ khan, thiếu hình ảnh, thiếu tình cảm.
- Một số học sinh trung bình, yếu viết câu chưa thành thạo nên diễn đạt chưa
mạch lạc, các ý trong bài văn còn nhiều hạn chế.
3. Các biện pháp nâng cao hiệu quả dạy tập làm văn cho học sinh.
Để nâng cao chất lượng làm văn cho học sinh lớp 4, đòi hỏi người giáo
viên phải kiên trì và bền bỉ vì đây là một cơng việc rất khó khăn.
Tuỳ theo nội dung yêu cầu của mỗi bài học và đối tượng học sinh mà bản
thân tôi đã áp dụng linh hoạt nhóm các biện pháp, hoặc một biện pháp chủ đạo
và kết hợp một số biện pháp hỗ trợ khác.
Cụ thể như khi dạy học sinh lớp 4 viết bài văn miêu tả con vật, bản thân
tôi đã chú trọng các biện pháp sau:
3.1. Biện pháp 1: Bồi dưỡng và tích luỹ vớn từ
3.1.1. Làm giàu vốn từ ngữ thông qua các tiết học.
Từ ngữ là nhân tố cơ bản để xây dựng câu văn, đoạn văn, bài văn. Nó có
một vị trí và ý nghĩa vô cùng quan trọng. Hiểu, sử dụng đúng, sử dụng hay mới
có thể diễn đạt và diễn đạt tốt nội dung, ý kiến của mình. Vậy mà vốn từ của các
em rất ít. Điều này khiến tơi suy nghĩ nhiều. Những kiến thức lơ mơ, thiếu vốn
từ làm thế nào có thể viết văn hay được. Để viết được bài văn, đoạn văn hay, học
sinh khơng chỉ cần có cảm xúc, cảm nghĩ tinh tế mà cịn phải tích luỹ vốn từ
phong phú, tạo câu linh hoạt và đa dạng. Cách làm nhanh nhất là thông qua môn
Tập đọc, Kể chuyện, Tập làm văn,... Nhiều bài tập đọc, Kể chuyện, Tập làm văn
là bài văn hay, số lượng từ ngữ miêu tả ở các bài đó rất phong phú, sử dụng từ
sáng tạo. Vì vậy khi dạy giáo viên cần chỉ ra các từ ngữ miêu tả, có thể chọn
trường hợp đặc sắc nhất để phân tích sự sáng tạo của nhà văn khi sử dụng từ.

Ví dụ: Khi dạy phân môn tập đọc bài: “ Dế Mèn bênh vực kẻ yếu” Giáo viên
nêm chỉ cho HS thấy những từ, cụm từ tác giả dùng để miêu tả ngoại hình của
6


chị Nhà Trò (gầy yếu, ngắn chùn chùn,...), hoạt động của chị (khóc tỉ tê, nức
nở,...) và miêu tả hành động của Dế Mèn như: xòe cả hai cảng ra, đạp phanh
phách,... Thông qua bài tập đọc trên, học sinh đã tích lũy được một số vốn từ
miêu tà về ngoại hình và hành động con vật.
Hay, khi dạy bài kể chuyện “ Con vịt xấu xí” tơi cho học sinh thấy được một số
từ, cụm từ miêu tả như: Quá nhỏ, yếu ớt,...( ngoại hình), chành chọe, bắt nạt,
hắt hủi,..(Hành động).
Khi dạy bài: “Cấu tạo của bài văn miêu tả con vật” thông qua bài tập các em
cũng sẽ tự tích lũy cho mình một số từ, cụm từ tả ngoại hình như: vàng đậm, đỏ
tía, xanh đen, mềm mại,...(hành động) như: bệ vệ, nhanh nhẹn, liến thoắng,...
Giáo viên cần lưu ý cho học sinh bộc lộ tình cảm, thái độ của mình đối với con
vật yêu hay ghét, gắn bó hay khơng gắn bó... Để bài viết có sức biểu đạt gần gũi
hơn, học sinh cần biết liên hệ bản thân mình đã làm gì để chăm sóc con vật ? ...
3.1.2. Bồi dưỡng vốn sống cho học sinh:
Hiện nay, trong trường học, chúng ta dạy tập làm văn nói chung và bồi
dưỡng năng khiếu viết văn cho học sinh nói riêng thường thiên về các kĩ thuật
làm bài mà không cung cấp các chất liệu sống, cái tạo nội dung bài viết. Thường
giáo viên ra một đề bài và hướng dẫn kĩ thuật làm bài. Còn học sinh thì gắng đọc
thật nhiều bài văn làm mẫu, thậm chí cịn có em bê y ngun bài văn của người
khác vào bài của mình, thì được xem là bài viết khá, nghĩa là giỏi chép văn.
Khi thấy một em học sinh ngồi trước một số đề văn mà không viết được, thầy cô
giáo thường cho rằng các em không nắm vững lý thuyết viết thể văn nọ, thể văn
kia mà khơng hiểu rằng các em khơng có hứng thú viết vì đã khơng tạo ra được
quan hệ thân thiết giữa bản thân và đề bài - đối tượng miêu tả, .....nghĩa là các
em khơng có nội dung, khơng có gì để nói, để viết.

Ví dụ: Có một lần, em được bố mẹ dẫn đi chơi vườn bách thú. Ở đó có rất
nhiều con vật, em viết một đoạn văn tả lại con vật mà em ấn tượng.
Với đề bài này chắc chắn rằng nhiều học sinh không thể viết được. Bởi vì
trong thực tế nhiều học sinh chưa từng được trực tiếp đi tham quan vườn bách
thú, nếu như bắt các em áp dụng kiến thức lí thuyết để làm bài thì chắc chắn
7


rằng nhiều em sẽ khó viết thành bài văn theo đúng u cầu.
Ngun nhân của tình trạng khơng có gì để viết là do học sinh thiếu hụt
vốn sống vốn cảm xúc. Vì vậy, GV cần đóng vai trị dẫn dắt, gợi mở, tạo nguồn
cảm hứng, khơi dậy suy nghĩ trong các em. Sau khi các em đã quan sát, làm
quen với đối tượng rồi thì cần phải viết những bài cụ thể về những gì đã quan sát
được.
Ngồi ra giáo viên cần xây dựng cho học sinh có hứng thú và thói quen
đọc sách. Phải làm cho học sinh thích đọc và thấy được rằng khả năng đọc là có
ích cho các em suốt cả cuộc đời, thấy được đó là một trong những con đường
đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ đầy đủ và phát triển, sách báo sẽ
giúp học sinh có vốn từ ngữ phong phú,vốn sống, tầm nhìn, hiểu biết rộng hơn,
giúp các em có khả năng phát triển sức sáng tạo....như người xưa nói " Trong
bụng khơng có ba vạn quyển sách, trong mắt chưa có núi sơng kì lạ của thiên hạ
thì chưa học được văn".
Định hướng cho học sinh lựa chọn sách báo để đọc, đọc nhiều khơng có
nghĩa là đọc một cách không chọn lọc. Cần chọn những sách như thế nào ? Thầy
giáo cần giáo dục thái độ đọc cho các em. Kiên trì, chịu khó khơng chỉ đọc để
giải trí, mà đọc phải có suy nghĩ, liên hệ, rút ra những bài học bổ ích, ghi chép,
thu hoạch về nội dung, nghệ thuật, về những điểm nổi bật, gây ấn tượng cịn
đọng lại trong tâm trí mình vào cuốn sổ tích luỹ.
3.1.3. Xây dựng phong trào tích luỹ vốn từ
Để tăng cường việc tích cực học tập cho các em trong phân mơn Tập làm

văn địi hỏi giáo viên phải chuẩn bị tốt, đặc biệt là về việc thu thập từ theo chủ
điểm liên quan đến nội dung bài học hàng tuần, giáo viên cần tăng cường nhiều
hình thức khen thưởng để khuyến khích các em tích cực tìm được nhiều từ bằng
cách:
- Đầu tuần tơi phát động phong trào thi đua thu thập từ, cụm từ miêu tả giàu hình
ảnh.
- Cuối tuần tơi tổ chức cho học sinh báo cáo kết quả mình thu thập được bằng
nhiều hình thức như: trị chơi, hái hoa học tập,...
8


- Khen thưởng cho những em thu thập được nhiều từ, cụm từ liên quan đến phân
môn tập làm văn của tuần: Tặng 3 - 2 - 1 bông hoa học tốt theo số lượng từ mà
các em thu thập được. Sau đó tổng kết số bơng hoa, chọn học sinh có nhiều bơng
hoa học tốt để khen vào tiết sinh hoạt lớp cuối tuần.
3.2. Biện pháp 2: Sử dụng vốn từ để viết câu văn đoạn văn.
3.2.1. Bồi dưỡng cho các em cách dùng từ, đặc biệt là cách dùng từ gợi
âm thanh và từ gợi hình ảnh trong văn miêu tả con vật.
Như chúng ta đã thấy vốn sống, tầm hiểu biết của các em chưa phong phú,
các em đang trong quá trình tìm hiểu, cảm nhận thế giới xung quanh.
Từ các chi tiết quan sát được, học sinh cũng chưa biết chọn lọc từ ngữ gợi
hình, gợi cảm để vận dụng vào bài viết một cách linh hoạt, sáng tạo. Hầu hết, bài
văn miêu tả của các em cịn thiên về kể lại sự vật, khơ khan thiếu hình ảnh. Bởi
vậy để giúp các em biết dùng từ đúng và hay, tôi sử dụng các phương pháp sau
đây:
Dạy tốt các dạng bài ôn tập từ, đặc biệt là từ gợi âm thanh, gợi hình ảnh, (để các
em thay thế tránh tình trạng lặp từ).
Ví dụ: Tìm từ gợi âm thanh, gợi hình ảnh, từ đồng nghĩa để gợi tả con vật:
+ Từ gợi âm thanh: ủn ỉn, phì phị, kéc kè e...e, phành phạch,...
+ Từ gợi hình ảnh: khệnh khạng, lăn trịn,...

Ngồi ra bản thân tơi cịn hướng dẫn các em sưu tầm các bài văn miêu tả,
các bài thơ, các tác phẩm văn xuôi như truyện ngắn, tùy bút, phóng sự,... hay
u cầu học sinh tìm những từ gợi âm thanh, gợi hình ảnh có trong đoạn văn,
trong tác phẩm đó.
Ví dụ: Hãy tìm từ gợi âm thanh, gợi hình ảnh miêu tả trong đoạn văn sau:
“Mùa xuân cây gạo gọi đến bao nhiêu là chim... đàn đàn, lũ lũ bay đi, bay về...”
(Bài cây gạo – sách Tiếng Việt lớp 3)
Ví dụ : Em hãy tìm những từ gợi âm thanh trong đoạn văn sau:
Bầy gia cầm nhà bác Tám đang cho ăn giữa sân trông thật nhộn nhịp. Hàng
chục chú gà con mới nở hơn tuần lễ lích nhích tranh nhau ăn hạt tấm bác tung ra.
Ba con gà mái lại cục cục liên hồi, gọi con mình, chỉ mồi cho chúng. Một chú
9


gà trống bống đâu nổi hứng vỗ cánh phành phạch vươn cổ Kéc Kè ke một hồi
dài nhưng chẳng ai buồn để ý. Ở góc sân phía xa, mấy anh chàng vịt đang thời
vỗ béo, cất giọng quạc quạc một cách uể oải ý chừng no mồi rồi nên không quan
tâm đến lũ gà đang tíu tít đằng kia. (Sưu tầm).
Mục đích của kiểu bài này khơng chỉ đơn thuần yêu cầu học sinh xác định
được từ gợi âm thanh, gợi hình ảnh mà qua đó giúp các em thấy được giá trị, tác
dụng của các từ tượng thanh, tượng hình trong văn miêu tả, qua đoạn văn này
các em học được cách miêu tả đối với dạng đề tả con vật.
Ngồi ra cịn giúp các em biết phân chia từ gợi âm thanh, gợi hình ảnh
phù hợp với từng con vật. Do vậy trước khi chọn con vật để miêu tả bước đầu
giáo viên nên giúp các em hình dung xem có những từ ngữ gợi âm thanh, gợi
hình ảnh nào phù hợp với con vật mà mình định tả khơng ? Sau khi các em đã
có kỹ năng nhuần nhuyễn thì việc áp dụng vào các bài viết khác sẽ dễ dàng hơn.
3.2.2. Giúp các em biết sử dụng từ đúng và hay:
Để viết được đoạn văn, bài văn miêu tả hay, các em cần có vốn từ và biết cách
sử dụng từ đúng lúc, đúng chỗ, biết dựa vào từ để tạo ra cái mới, cái riêng, cái

độc đáo trong bài mình viết. Chính vì vậy mà các em phải dùng từ đúng và dùng
từ hay.
Ví dụ: Cách dùng từ miêu tả âm thanh của các con vật trong bài: “Buổi sáng
mùa hè trong thung lũng”.
Rừng núi cịn chìm đắm trong màn đêm. Trong bầu khơng khí đầy hơi ẩm
và lành lạnh, mọi người đang ngon giấc trong những chiến chăn đơn. Bỗng một
con gà trống vỗ cánh phành phạch và cất tiếng gáy lanh lảnh ở đầu bản. Tiếp đó,
rải rác khắp thung lũng, tiếng gà gáy râm ran. Mấy con gà rừng trên núi cũng
thức dậy gáy te te. Trên mấy cành cây cao cạnh nhà, ve đua nhau kêu ra rả.
Ngoài suối, tiếng chim cuốc vọng vào đều đều. Bản làng đã thức giấc.
3.2.3. Giúp các em viết câu đúng và biết viết câu hay:
*Viết câu đúng: Một câu văn đúng phải đảm bảo về cấu trúc ngữ pháp, diễn đạt
được nội dung, suy nghĩ của người viết.
Ví dụ:
10


Chú gà trống nhà em/ đã ra dáng một chú gà trống đẹp.
CN

VN

*Viết câu hay: Câu hay là câu được mở rộng các thành phần phụ, sử dụng các
biện pháp nhân hoá, so sánh hoặc từ láy, từ gợi tả, gợi cảm.
Ví dụ: Qua một thời gian chăm sóc chu đáo,giờ đây, chú gà trống nhà em đã
trở thành một chàng hiệp sĩ trông thật oai vệ làm sao.
Việc dùng từ ngữ giàu hình ảnh, gợi tả, gợi cảm, các biện pháp so sánh,nhân hóa
khi viết văn sẽ giúp cho câu văn, bài văn trở nên sinh động hơn, mượt mà hơn, ý
tứ hơn và thu hút người đọc, người nghe.
Để giúp các em biết viết câu văn có hình ảnh, sử dụng biện pháp tu từ, tôi

cho học sinh làm dạng bài tập tìm hình ảnh so sánh, nhân hố trong đoạn thơ,
bài thơ.
Ví dụ: Tìm hình ảnh so sánh trong câu thơ sau:
“Con mẹ đẹp sao
Những hòn tơ nhỏ
Chạy như lăn trịn
Trên sân trên cỏ.”
(Trích bài Đàn gà mới nở - Sách Tiếng Việt 2)
Yêu cầu học sinh chỉ ra hình ảnh so sánh trong đoạn thơ trên ?
Hình ảnh so sánh : con mẹ - hịn tơ nhỏ ; chạy – lăn tròn
Đoạn thơ trên miêu tả những chú gà con lơng vàng óng mượt trơng như những
hịn tơ mềm mại. Do hình dáng nhỏ nhắn “ bé tý” lại giống “cuộn tơ” nên khi
chạy giống như lăn trịn. Việc sử dụng hình ảnh so sánh đã giúp đoạn thơ sinh
động hơn, đàn gà con được miêu tả cụ thể, giàu hình ảnh, gần gũi và đáng u.
Ví dụ: Chỉ rõ biện pháp nhân hóa đã được sử dụng trong bài thơ sau như thế nào?
Đám ma bác giun.
Bác Giun đào đất suốt ngày
Trưa nay chết dưới bóng cây sau nhà
Họ hàng nhà kiến kéo ra
Kiến con đi trước, kiến già theo sau
11


Cầm hương kiến Đất bạc đầu
Khóc than kiến Cánh khốc màu áo tang
Kiến Lửa đốt đuốc đỏ làng
Kiến Kim chống gậy, kiến Càng nặng vai
Đám ma đưa đến là dài
Qua những vườn chuối, vườn khoai, vườn cà
Kiến Đen uống rượu la đà

Bao nhiêu kiến Gió bay ra chia phần...
Trần Đăng Khoa
Học sinh sẽ tự tìm ra các câu thơ có hình ảnh như: “Bác giun đào đất suốt
ngày”; “Họ hàng nhà kiến kéo ra”;.Các con vật đó được nhân hóa bằng từ Bácđào đất ; họ hàng - kéo ra;...học sinh thấy cái hay của bài thơ ở chỗ, một mặt
nhận ra cảnh “đám ma” với tất cả các nghi lễ, một mặt nhận ra đặc điểm sinh
động của từng lồi kiến. Nhà thơ đã có con mắt quan sát tinh tường nên đã ghép
nhặt rất chính xác đặc điểm của từng loài kiến vơi các chi tiết trong một tang lễ :
“Kiến đất cầm hương” , “Kiến cánh khoác màu áo tang” ( vì kiến cảnh có bộ
lơng ngồi mỏng, trắng),...
Lưu ý: Giáo viên cho học sinh thấy rõ biện pháp nhân hố khơng chỉ làm
cho câu văn giàu hình ảnh hơn, hay hơn mà nhờ biện pháp nhân hoá các con vật
tạo nên gân gũi với con người, trở thành một người bạn tốt của chúng ta.
Như vậy bài văn không chỉ đơn thuần là bài văn miêu tả mà trong đó cịn có tình
cảm của người viết . Có như vậy mới đạt được hiệu quả.
Ví dụ: Em hãy viết một đoạn văn miêu tả con vật mà em thích trong đó có sử
dụng phép nhân hóa hoặc so sánh.
Thơng qua các dạng bài tập đó tơi đã củng cố cho HS về so sánh, nhân hóa.
Giúp học sinh nhận ra cái hay của các câu thơ, bài thơ, câu văn, đoạn văn hay
những tác phẩm văn xi. Qua đó học sinh học được cách nhân hóa, so sánh và
cách quan sát, biết liên tưởng sự vật này với sự vật khác, biết vận dụng, chọn
lọc những gì qua sát được để viết các câu văn có hình ảnh, làm cho đoạn
12


văn hay hơn.
3.2.4. Hướng dẫn học sinh kĩ năng quan sát..
Như chúng ta đã biết quan sát là sử dụng các giác quan để nhận biết sự vật. Ở
một bài văn miêu tả chủ yếu các em phải sử dụng ba giác quan cần thiết là thị
giác (mắt nhìn), thính giác (tai nghe) và xúc giác (tay sờ). Mắt cho ta cảm giác
về hình dáng (Cao hay thấp, mập hay gầy,...) , cho ta thấy hoạt động (Con gà

khi đi cổ thường nghển cao, con vịt bước đi chậm chạp, lạch bạch,...), Tai cho
ta cảm giác về âm thanh (Chú gà gáy Ị ó o... hay kéc kè ke e e...), Tay cho ta
cảm giác về mềm hay cứng,... dạy cho học sinh quan sát chính là dạy cách sử
dụng các giác quan để tìm ra các đặc điểm của sự vật và biết lựa chọn chi tiết
đặc điểm riêng của con vật để quan sát. Các con vật mà mình chọn để miêu tả
phải có những nét nổi trội . Giáo viên cần hướng dẫn học sinh tìm ra các đặc
điểm tiêu biểu của con vật mình định tả, để phân biết nó với các con vật khác
giúp bài văn thêm sinh động hấp dẫn và độc đáo.
Ví dụ: Quan sát những đặc điểm nổi bật của con gà trống nhà em nó có gì
khác so với con gà trống nhà hàng xóm.
Ngồi ra khi dạy văn miêu tả giáo viên cần định hướng cho học sinh cách quan
sát và quan sát có phương pháp:
- Lựa chọn trình tự quan sát:
+ Quan sát con vật từ xa đến gần.
+ Quan sát con vật từ cụ thể đến bao quát.
+ Quan sát thói quen sinh hoạt của con vật theo thời gian trong ngày.
+ Quan sát theo thời kỳ phát triển của con vật.
Ví dụ: Khi tả con mèo giáo viên có thể hỏi “Dùng tay sờ vào con mèo em có
cảm giác như thế nào?”
Hướng dẫn cách thu thập các nhận xét do quan sát mang lại.
Khi học sinh trình bày kết quả quan sát, nên hướng các em trả lời bằng
nhiều chi tiết cụ thể và sử dụng ngơn ngữ chính xác, gợi hình. Sau đó giúp các
em biết lựa chọn, sắp xếp các chi tiết miêu tả quan sát được cho lơgíc.
Trong thực tế giảng dạy, nghiên cứu, tôi thấy những câu văn miêu tả hay
13


là những câu sử dụng từ gợi hình ảnh, gợi tả âm thanh một cách sáng tạo, gợi tả
sát thực. Để viết được những câu văn đó học sinh phải quan sát đối tượng một
cách tinh tế. Vì vậy tơi rất chú ý phương pháp quan sát, luôn rèn cho các em kĩ

năng quan sát cần thiết, biết chọn các chi tiết tiêu biểu để đưa vào bài văn .Khi
hướng dẫn quan sát, tôi luôn gợi cho các em vận dụng vốn hiểu biết, khả năng
liên tưởng cảm xúc và vốn ngôn ngữ, giúp cho việc quan sát, cảm nhận của các
em được tốt hơn. Tơi cịn gợi ý cho lớp cùng nhận xét, bình và chọn những từ
ngữ, ý văn hay, hình ảnh đẹp, phù hợp rồi ghi nhanh lên bảng làm cơ sở cho các
em chọn lựa, vận dụng chính những từ ngữ, câu văn, ý văn được lớp đánh giá
cao theo ý thích của riêng mình để thực hiện yêu cầu của bài tập.
Vì vậy để viết tốt bài văn miêu tả đòi hỏi người viết phải hiểu, biết về đối
tượng miêu tả. Hay nói cách khác là phải biết nhận dạng đúng và đầy đủ đối
tượng mình miêu tả. Để có được điều đó thì địi hỏi người viết phải biết cách
quan sát, biết chọn lọc các chi tiết quan sát được để vận dụng làm bài.
3.3. Biện pháp 3: Sử dụng bản đồ tư duy (mạng ý nghĩa), kết hợp với
các phương pháp dạy học tích cực.
Sử dụng bản đồ tư duy (mạng ý nghĩa), kết hợp với các phương pháp dạy
học tích cực.(PP gợi mở, PP vấn đáp, PP thảo luận nhóm, ...)
Như chúng ta đã biết qua một số kết quả nghiên cứu khoa học cho thấy
việc sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học làm cho các em hiểu sâu, nhớ lâu và in
đậm điều mà chính tự suy nghĩ viết ra theo ngơn ngữ của mình. Vì vậy, sử bản
đồ tư duy huyđộng tối đa tiềm năng bộ não, giúp học sinh học tập một cách tích
cực, đó chính là biện pháp đổi mới phương pháp dạy học có hiệu quả.
Việc sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học sẽ dần hình thành cho các em
tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một
cách tổng thể, khoa học chứ khơng phải học vẹt, học thuộc lòng. Học sinh hiểu
bài, nhớ lâu, vận dụng tốt. Khối lượng kiến thức ngày càng tăng theo cấp số
nhân, vì vậy sử dụng bản đồ tư duy rèn cho các em tư duy lôgic để có thể vận
dụng vào thực hành giao tiếp nói, viết trong cuộc sống.
Đặc biệt sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học kiến thức mới, giúp học
14



sinh học tập một cách chủ động, tích cực và huy động được tất cả học sinh tham
gia xây dựng bài một cách hào hứng. Cách học này còn phát phát triển được
năng lực riêng của từng học sinh không chỉ về trí tuệ mà cịn có kĩ năng diễn đạt,
hệ thống hoá kiến thức hay huy động những điều đã học trước đó để chọn lọc
các ý để ghi chép, vận dụng kiến thức được lọc qua sách vở vào cuộc sống. Vận
dụng bản đồ tư duy trong dạy học sẽ dần hình thành cho học sinh tư duy mạch
lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc có cách nhìn vấn đề có hệ thống, khoa
học. Sử dụng bản đồ tư duy (mạng ý nghĩa ) là cách thức giáo viên tổ chức cho
học sinh suy nghĩ, diễn đạt một cách chủ động và sáng tạo trong dạy Tập làm
văn. Thông qua bài học theo chủ điểm đã được học trong SGK hay qua cuộc
sống hàng ngày của các em. Với vốn kiến thức các em đã được trang bị trên cơ
sở khai thác kinh nghiệm và hiểu biết, cũng như những ý tưởng và ngôn từ mà
các em đã chiếm lĩnh qua các tiết của phân môn Tiếng Việt hay qua cuộc sống
hàng ngày, nhưng để các em biết cách vận dụng tốt vào bài viết của mình đây
cũng là một vấn đề nan giải. Để giúp các em vận dụng tốt vốn kiến thức mà
mình đã được trang bị thì bản thân tơi đã sử dụng cách dạy trong tiết “Viết bài
văn miêu tả” là: sử dụng bản đồ tư duy (mạng ý nghĩa), kết hợp với các phương
pháp dạy học tích cực, cụ thể là:
- GV giới thiệu một số dạng sơ đồ mạng:
HS quan sát chọn một sơ đồ phận dụng làm bài.

15


Hoạt động 1: Tìm hiểu đề.
- Học sinh định hình cụ thể đối tượng cần miêu tả trong trí đồng thời viết đối
tượng ấy (con gì /là gì?, ở đâu, lúc nào...) vào khung chủ đề.

* Hoạt động 2: Tìm ý.
Như chúng ta đã biết, làm văn miêu tả không phải lúc nào cũng có đối tượng

trước mặt để thực hiện “ Bút cầm tay, ghi chép lại hiện trường”.
Vì vậy để viết được bài văn miêu tả thì học sinh phải sử dụng hồi ức, vận dụng
những hiểu biết, nhận xét cảm xúc đã có trong quá khứ về đối tượng miêu tả.
Hồi ức, tưởng tượng là cách nhìn gián tiếp sự vật, là phục hồi nhìn nhận bằng
cách gợi nhớ là cách nhìn “ thầm” để giúp các em làm bài vận dụng khả năng
phục hồi kí ức, tưởng tượng.Trong các tiết này, tôi luôn sử dụng cách trò
chuyện, khơi gợi rồi đề nghị các em nhắm mắt lại nhớ lại, nghĩ về con vật mình
định tả đã xác định trong khung chủ đề và tự chọn lọc, viết ra những từ ngữ
liên quan đến con vật đó.
VD: HS suy nghĩ tìm được những từ, cụm từ liên quan đến chú gà: to khỏe,
mào, ị ó o.., bộ lông, đuôi, oai vệ, đôi chân,...ghi vào khung chủ đề:
- Bên cạNh đó, giáo viên cũng cần rèn luyện cho học sinh kĩ năng học hỏi thu
thập thông tin từ các tài liệu tham khảo, các bài văn mẫu . Quá phụ thuộc vào
bài làm của người khác là không tốt nhưng nếu biết biến lời văn của người khác
thành của mình thì sẽ giúp bài biết sinh động, phong phú hơn. Phải học hỏi xem
người ta trình bày bài viết như thế nào? Sử dụng từ ngữ ra sao ? Những câu văn
16


hay, diễn tả độc đáo, các em hồn tồn có thể ghi chép lại, hay áp dụng cấu trúc
câu cho những bài làm khác. Tuy nhiên cách áp dụng phải linh hoạt. Sách tham
khảo có chỗ tốt, có chỗ chưa tốt, chưa sát thực tế. Chúng ta phải làm cho nó cụ
thể hơn, gần gũi hơn, khơng nên viết q xa vời, sáo rỗng, có gần gũi với đời
sống thì bài viết mới được đón nhận .

Hoạt động 3: Lập dàn ý.
Sắp xếp ý đã có vào sơ đồ.
- Hướng dẫn học sinh đánh số thứ tự cho các ý tìm được sao cho các ý đó có thể
phát triển phù hợp với bố cục, nội dung bài văn miêu tả.
- Gọi học sinh xem lại các ý trong mạng và đánh số thứ tự.

- Gọi vài học sinh lên thể hiện mạng ý nghĩa của mình đã tìm được trước lớp,để
cả lớp có thể theo dõi việc làm mẫu của bạn, vài em học sinh nhận xét

17


Hoạt động 4: Học sinh diễn đạt các ý trong mạng ý nghĩa thành bài.
Hướng dẫn các em diễn đạt mỗi một từ ngữ xoay quanh mạng thành ít
nhất một câu. Ví dụ: từ “Bộ lơng ”. Diễn đạt thành câu: Chú khốc một bộ lơng
đỏ tía pha lấn màu xanh óng ánh khiến chú ta trở nên thật sang trọng, quý phái.
Hay: Bộ lông của chú mượt, mịn màng và rất dày.
Ở sơ đồ tư duy, cần lưu ý cho học sinh những chỗ có thể so sánh hay dùng
từ ngữ độc đáo thì có thể ghi chú.
Hoạt động 5: Trao đổi sửa chữa và nhận xét.
Đối với học sinh lớp Bốn việc sửa chữa và tự nhận xét bài cho nhau là
việc làm rất khó khăn, ít em tự thực hiện được. Việc tập cho các em biết tự kiểm
tra, rà soát lại bài viết về cả nội dung và cách diễn đạt, cách trình bày là rất cần
thiết, nó khơng chỉ giúp các em nâng cao khả năng làm văn, nâng cao chất lượng
câu văn, đoạn văn, bài văn của các em mà còn giúp cho các em rèn luyện kĩ
năng trình bày, diễn đạt vấn đề.
Trong mỗi giờ Tập làm văn, nhất là văn viết, tôi hết sức chú trọng việc tập
cho học sinh biết tự cân nhắc, trau chuốt câu văn, ý văn cho phù hợp.
Khi các em hồn thành bài tập, tơi thường tổ chức cho các em đọc lại bài, đối
chiếu với yêu cầu của đề bài để kiểm tra xem nội dung bài làm đã đảm bảo
chưa? Câu văn, ý văn đã rõ ràng, đủ ý chưa?...Thời gian đầu các em sẽ rất bỡ
ngỡ, khó thực hiện, tơi tập cho cả lớp cùng thực hiện chung trên một vài bài, sau
đó là cùng thực hiện trong nhóm, dần dần là mỗi cá nhân sẽ tự kiểm tra, rà soát
trên bài làm của mình. Ngay trong q trình các em làm bài, tơi cũng theo dõi,
giúp các em tự nhận xét, kiểm tra, điều chỉnh kịp thời những chỗ chưa hay, chưa
phù hợp, tập cho các em biết chú trọng đến cách diễn đạt sao cho đúng, đủ, rõ ý.

Ngồi ra, tơi cịn thường xuyên tổ chức cho các em nhận xét, đánh giá bài
của bạn (cách dùng từ, đặt câu, ...) rồi rút kinh nghiệm, vận dụng vào bài của
mình theo các bước:
+ Chọn đọc bài, câu văn của bạn và trao đổi, suy nghĩ tìm ý hay, cách chỉnh sửa
những ý chưa hay, chưa phù hợp.
18


+ Rút kinh nghiệm, học tập ở bài làm của bạn để bổ sung, chỉnh sửa bài làm của
mình.
Hoạt động 6: Dựa vào bài viết nháp đã sửa, học sinh viết bài vào vở cho hoàn
chỉnh.
Sau một năm nghiên cứu chương trình dạy Tập làm văn lớp 4. Bằng cả sự lao
động nỗ lực của thầy và sự rèn luyện chăm chỉ của trị. Chất lượng học văn của
lớp tơi nâng cao rõ rệt. Từ chỗ học sinh chưa viết được những bài văn gãy gọn,
mạch lạc, các em đã xây dựng được những bài văn hay, câu văn giàu hình ảnh,
đạt bài khá, bài giỏi ngày càng nhiều. Tơi cũng xin đưa ra những bài văn điển
hình của các học sinh lớp tôi.
Bài số 1: Đề bài: Viết đoạn văn tả con vật ni trong gia đình?
Gâu ...gâu...gâu, đó là tiếng sửa ồm ồm khi có người lạ của chó mực nhà
em.Ngồi cái bụng trắng muốt, tồn thân chú đen như mực tàu. Trông chú ta
mới bảnh bao làm sao với đôi tai chỉ nhỉnh hơn hai cái mộc nhĩ một chút, ln
dựng lên để nghe ngõng. Mực có một bộ răng chắc khoẻ nhọn hoắt đặc biệt bón
chân chú được trang bị bộ móng vuốt và bọc một lớp nệm thịt giúp chú ta đi lại
dễ dàng, không gây ra tiếng động. Khi mặt trời chiếu xuống Mực ta nhanh
chóng tìm cho mình một nơi lý tưởng để sưởi ấm. Lúc đi học về khi nghe bước
chân em ngồi ngõ chú ta lao ra vẫy đi rối rít. Đến bữa ăn em lại cho chú hai
bát cơm cá đầy, chú ta nhìn em với ánh mắt biết ơn, đi ngốy tít. Gia đình em
rất u q chú vì Mực đã bảo vệ sự bình yên cho mọi người.
Bài số 2: Đề bài: Tả đàn gà mẹ và đàn gà con?

Sáng sớm ông mặt trời tỉnh giấc, vươn vai, vén màn rọi những tia nắng
ban mai xuống làng quê, cảnh vật thay đổi, tươi tỉnh hẳn. Chị Mái Mơ dẫn đàn
con đi kiếm ăn.
Đàn gà trông thật xinh xắn, chúng kêu liếp nhiếp chạy quanh chân mẹ
giống như cái kén vàng ươm biết cử động. Đôi mắt chúng ngơ ngác nhìn quanh
tỏ vẻ lạ lùng, giống như những em bé mới cất tiếng khóc chào đời. Đơi chân nhỏ
xíu như chiếc tăm màu hồng hồng. Cái mỏ như hai vỏ trấu chắp lại nhưng em
chắc rằng chúng phải cứng cáp hơn nhiều. Trông đàn gà con bé bỏng, tuổi thơ
19


lại chợt hiện về với bao ký ức đẹp đẽ. Con gà mái mẹ thì lo lắng để mắt đến con
mình. Đơi mắt ấy mới dịu dàng làm sao, nó cứ dõi theo từng bước chân của đàn
con nhỏ. Chân chị bước thong thả cho đàn con kịp theo. Thấy mẹ “lục tục”, đàn
con ùa về chân mẹ để được chia phần. Trên mặt chị Mái Mơ hiện rõ niềm vui.
Khi mặt trời lên cao, đôi cánh của chị đủ rộng che mát cho cả đàn con của mình.
Chú trống choai thấy mẹ con gà Mái Mơ đi kiếm ăn ở vườn lạ cũng đi theo.
Thỉnh thoảng chú lại cất giọng gáy lanh lảnh của mình cho tất cả cùng nghe. Gió
nhẹ thổi làm cỏ cây rung rinh. Trên cành cây chim hót véo von.
Nhìn đàn gà con đáng u lòng em tràn ngập niềm vui. Em mong sao các
chú gà con nhanh lớn để có thêm đàn gà con mới.
Hoạt động 7: Nhận xét - tuyên dương.
- Tuyên dương trước lớp đối với bài viết xuất sắc và những bài viết có tiến bộ.
- Tặng bơng hoa học tốt cho những bài làm hay.
- Khuyến khích học sinh học tập cách diễn đạt của những bạn có bài viết tốt.
- Giáo viên chỉ ra cho những em viết chưa tốt lỗi ở đâu ? Cần sửa như thế nào ?
Cịn thiếu yếu tố gì ?
4. Hiệu quả nghiên cứu
Với những biện pháp như đã trình bày ở trên đã giúp cho cả giáo viên và
học sinh tự tin, chủ động hơn trong các tiết học tập làm văn (văn miêu tả). Các

giờ Tập làm văn cũng trở nên nhẹ nhàng, sinh động hơn. Học sinh khơng cịn
lúng túng trong việc lập dàn ý cho mỗi bài văn; việc viết một đoạn văn, hay bài
văn của các em trở nên dễ dàng hơn. Các em đã biết miêu tả một số đặc điểm
của một sự vật cụ thể theo yêu cầu, biết viết câu văn đúng ngữ pháp, rõ ý; biết
sử dụng những từ ngữ sát nghĩa, có tác dụng gợi tả, gợi cảm; bước đầu biết sử
dụng biện pháp tu từ đơn giản khi viết văn. Lời văn, ý văn của các em khơng
cịn nặng tính liệt kê hay kể lể nữa, nhờ vậy mà chất lượng phân môn Tập làm
văn cũng như môn Tiếng Việt đã nâng lên rõ rệt.

20


PHẦN KẾT LUẬN.
Trong quá trình thực hiện và đưa vào thực tế trong phạm vi đề tài ở tiết Tập
làm văn miêu tả lớp 4. Bản thân tôi đã rút ra nhiều kinh nghiệm và khẳng định
đây là hình thức dạy học làm chuyển hố q trình học tập của học sinh. Như
vậy cần phải thực hiện một số giải pháp sau:
Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát tìm ý: quan sát bằng nhiều giác
quan: mắt, mũi, tay, tai… qua đó học sinh phát hiện, khám phá đầy đủ các đặc
điểm của sự vật, làm cho chúng hiện ra đầy đủ, rõ ràng tránh được những bài
văn miêu tả chung chung mờ nhạt. Khi hướng dẫn học sinh quan sát cần gợi mở,
dẫn dắt theo một trình tự hợp lý, để học sinh tự mình quan sát, tự mình cảm
nhận tính chất mn hình mn vẻ của sự vật. Đây là điều kiện chủ yếu làm nền
tảng giúp cho bài viết trở nên chân thật, tự nhiên và đây cũng là cơ sở cho sự
phát huy trí tưởng tượng và năng lực sáng tạo của học sinh (sáng tạo trong cách
nhìn, cách nghĩ, cách diễn đạt nội dung…).
Đặc biệt, giáo viên phải sử dụng tranh. ảnh trong văn miêu tả cụ thể, từng
vùng, từng miền khác nhau mà giáo viên lựa chọn tranh ảnh cho phù hợp để cho
các em quan sát tốt hơn.
Tích luỹ và lựa chọn vốn từ ngữ khi miêu tả cũng là biện pháp không

kém phần quan trọng giúp cho học sinh nhớ lại một từ ngữ, một hình ảnh, biết
lựa chọn từ ngữ hay, thích hợp, phong phú vào bài văn để thêm phần hấp dẫn.
Bài văn miêu tả hay thì khơng thể thiếu cảm xúc của người viết, có thể
hiện được cảm xúc trong bài văn thì mới thu hút người đọc, người nghe.
Song, để q trình đó diễn ra tốt, địi hỏi người giáo viên phải nắm vững
yêu cầu cơ bản và biết vận dụng linh hoạt sáng tạo trong từng tiết học với từng
đối tượng được tả. Bởi vậy, dạy tập làm văn giáo viên không chỉ dựa vào sách
giáo khoa mà còn cần đến những tư liệu tham khảo để mở rộng hiểu biết về nội
dung phương pháp và vốn từ ngữ trong từng văn cảnh để cung cấp gợi ý cho học
sinh. Có như vậy thì chất lượng giáo dục mới từng bước nâng lên.
Trên đây là bài học mà bản thân tơi đã rút ra trong q trình nghiên cứu và
trải nghiệm trong các năm học bản thân tôi dạy học sinh lớp 4. Tôi sẽ đem kinh
21


nghiệm này tiếp tục áp dụng để giảng dạy phân môn Tập làm văn ở các năm sau
với mong muốn lớn nhất của tôi là giúp học sinh học tốt môn Tập làm văn ở tiểu
học. Tuy nhiên những biện pháp tôi đã áp dụng trên, tuỳ vào đối tượng học sinh
mà giáo viên cần vận dụng một cách khéo léo, sáng tạo. Với kinh nghiệm giảng
dạy chưa nhiều nên trong bài viết chắc chắn khơng tránh khỏi thiếu sót, tơi rất
mong nhận được các ý kiến đóng góp, bổ sung của thầy cơ để đề tài ngày càng
hồn thiện và áp dụng có hiệu quả hơn.
Xin chân thành cảm ơn !

22



×