PHÒNG GD&ĐT THỊ XÃ VĨNH
CHÂU GD&ĐT
PHÒNG
TRƯỜNG
TRƯỜNG ...................
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG PHÂN MÔN THƯỜNG
THỨC MĨ THUẬT 6
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY PHÂN MÔN VẼ TRANG TRÍ
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
Người thực hiện:
Năm học:
1
Tên SKKN: ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG PHÂN
MÔN THƯỜNG THỨC MĨ THUẬT 6
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã làm thay
đổi toàn bộ cuộc sống con người. Sự tác động mạnh mẽ của công nghệ thông tin
đã ảnh hưởng đến muôn mặt của đời sống xã hội. Hệ thống nhà trường cũng
khơng nằm ngồi sự tác động mạnh mẽ đó. Do vậy, việc ứng dụng cơng nghệ
thơng tin vào giảng dạy đang là vấn đề được các nhà giáo dục quan tâm.
Ứng dụng công nghệ thông tin không những nâng cao chất lượng dạy và học
trong trường phổ thơng mà cịn là phương tiện quan trọng để làm một cuộc cách
mạng nhằm thay đổi phương pháp dạy học. Khơng cịn lối truyền thụ một chiều
cơng nghệ thơng tin đã làm tích cực hóa q trình dạy học, mang đến một luồng
sinh khí mới cho hệ thống các nhà trường hiện nay. Sử dụng phần mềm dạy học
hợp lý, bài giảng sinh động sẽ mang lại hiệu quả giáo dục cao đồng thời tăng
tính tích cực nhận thức cho học sinh.
Ngày nay cơng nghệ thơng tin đóng vai trị quan trọng trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội. Ngành giáo dục đã có những chuyển biến về việc đổi mới
PPDH, chương trình dạy học để phù hợp với những thành tựu khoa học thực
tiễn. Trong thời đại công nghệ thông tin phát triển, để đáp ứng nhu cầu học tập
thì địi hỏi việc dạy học phải thay đổi phương pháp, phương tiện.
Ứng dụng cơng nghệ thơng tin góp phần đổi mới PPDH, hình thành phương
pháp tư duy mới, đưa phương pháp dạy học vào quỹ đạo sử dụng sức mạnh của
công cụ hiện đại để chuyển tải những khối lượng kiến thức lớn mở rộng tầm
nhận thức của học sinh, làm thay đổi căn bản cách dạy, cách học. Ứng dụng
công nghệ thông tin sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho cơng tác dạy học những bộ
mơn có yêu cầu về tính trực quan, phương pháp phân tích, hướng dẫn cụ thể.
Bởi vì giáo viên có điều kiện thu thập thông tin liên quan đến bài dạy một cách
dễ dàng nhanh chóng trên các trang Web, các kênh thơng tin trong và ngồi
2
nước. Qua q trình xử lý những thơng tin đó giáo viên đã tự tạo cho mình một
thư viện tư liệu cần thiết cho bộ mơn để giảng dạy có hỉệu quả.
Với mục tiêu chung và chương trình cụ thể, việc dạy học mĩ thuật ở THCS
không chỉ là vẽ mà lấy hoạt động mĩ thuật để nâng cao hiểu biết cho học sinh
giúp các em có thêm kiến thức, kỹ năng trong việc cảm thụ cái đẹp.
Trăn trở với những điều trên, tôi mạnh dạn đưa ra một số kinh nghiệm của bản
thân về vấn đề “ Ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy phân môn
thường thức mĩ thuật 6”
I.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lý luận
Qua thực tế giảng dạy môn Mĩ thuật tơi cảm nhận được học sinh có niềm đam
mê, u thích mĩ thuật. Các em thích thể hiện những ước mơ trong sáng của
mình trên những bức tranh vẽ, được tiếp xúc, làm quen với một số tác phẩm hội
hoạ, điêu khắc nổi tiếng không những ở trong nước mà cả của nước ngoài …
Ngày nay phong trào mĩ thuật trong bậc trung học cơ sở ngày càng được chú
trọng. Hầu hết các em học sinh rất yêu thích, hào hứng với môn học. Sự coi
trọng bộ môn nghệ thuật của các giáo viên, học sinh và các bậc phụ huynh cho
thấy rằng Mĩ thuật là một môn học bổ ích, lý thú. Vì vậy mơn học Mĩ thuật đã
dần được đầu tư và có những chuyển biến tích cực. Với sự đầu tư trang bị và
quan tâm của tất cả mọi người mà các em học sinh đã đón nhận các tiết học một
cách thích thú.
Được sự quan tâm các cấp lãnh đạo đầu tư công nghệ thông tin cho dạy học
đã góp phần khơng nhỏ trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy - học của
giáo viên và học sinh. Học sinh yêu thích, chú ý đến môn học đã tạo nên những
tiết học thực sự hiệu quả.
Khi giáo viên sử dụng giáo án điện tử ngoài những kiến thức cơ bản về máy
tính thì mĩ thuật còn phải thành thạo một số những ứng dụng phần mềm đồ họa
như: Corel Draw; Adobe Photoshop; Ilustrater…Hiện nay, ở một số trường, rất
3
nhiều giáo viên đã bị cuốn vào cách dạy máy móc của cơng nghệ tạo nhiều hiệu
ứng chiếu ảnh và chữ viết cho học sinh quan sát mà xa rời vị trí của bảng đen,
của phấn trắng hoặc lạm dụng nhiều slide hình ảnh sẽ làm giảm sự tập trung của
các em. Việc áp dụng công nghệ thông tin vào bài dạy một cách hợp lý có hiệu
quả để thay thế những tiết dạy truyền thống tạo tính tích cực trong học tập, kích
thích trí tưởng tượng cho học sinh là việc làm thiết thực.
2. Cơ sở thực tiễn
a. Thuận lợi
Nhà trường luôn quan tâm và tạo điều kiện về cơ sở vật chất và tài liệu chuyên
môn cho việc giảng dạy bộ mơn, bản thân ln tìm tịi nghiên cứu tài liệu tự
nâng cao trình độ chun mơn, ln cố gắng đầu tư soạn giảng theo phương
phương pháp mới để hướng học sinh học một cách tích cực, chủ động và sáng
tạo. Sau đó tự rút kinh nghiệm của bản thân để có giải pháp thích hợp cho tiết
dạy sau được tốt hơn.
b. Khó khăn
Có thể nói phân mơn thường thức Mĩ thuật là một phân môn tương đối khó
dạy đối với các giáo viên mĩ thuật bởi khi giảng dạy phân môn này các giáo viên
THCS thường gặp những hạn chế sau:
Lịch sử Việt Nam và thế giới vô cùng phong phú và đa dạng. Từ xã hội
nguyên thuỷ cho đến ngày nay, mĩ thuật phát triển liên tục, khơng ngừng, lồi
người đã chứng kiến sự ra đời của nhiều trào lưu, nhiều phong cách nghệ thuật
trải qua các thời kỳ khác nhau. Các tác phẩm mĩ thuật đa dạng được lưu giữ rất
nhiều ở các bảo tàng mĩ thuật trên thế giới. Khơng ai có thể nói rằng mình đã
được chiêm ngưỡng thưởng thức tất cả các tranh, tượng nguyên bản trong kho
tàng đồ sộ đó của mĩ thuật Việt Nam và thế giới. Phần lớn chúng ta mới chỉ
đựơc xem tranh, tượng đó qua các phiên bản, các ảnh chụp đen trắng hoặc màu
rất nhỏ bé trong các tuyển tập tranh tượng (ví dụ: tác phẩm Mô - na - li - da của
Lê - ô – na đờ - vanh xi).
4
Tuy là một giáo viên dạy môn mĩ thuật, tôi cũng như các giáo viên mĩ thuật
khác không tránh khỏi các hạn chế đó. Do vậy chưa thể nói rằng mình đã hiểu
biết một cách đầy đủ về nghệ thuật Việt Nam và thế giới. Hơn nữa, có những
nền nghệ thuật cổ đã bị mai một hoặc chỉ còn tồn tại trên sách vở, thơ, văn... đó
là một khó khăn rất lớn khi giảng dạy phân môn này.
Cái hạn chế nữa của phân môn này là đồ dùng dạy học, tài liệu liên quan
đến bài dạy Đồ dùng dạy học có một ý nghĩa vơ cùng quan trọng đối với việc
dạy và học mơn mĩ thuật nói chung và phân mơn thường thức mĩ thuật nói riêng.
Bởi nó là sự hiện diện của kiến thức – các đường nét, hình mảng, hình khối, đậm
nhạt, màu sắc, bố cục, các cơng trình, các tác phẩm mĩ thuật nổi tiếng của các
họa sĩ... Nếu thiếu đồ dùng dạy học, học sinh khó có thể lĩnh hội đầy đủ kiến
thức ngơn ngữ mĩ thuật nhất là phân môn này. Thế nhưng đây lại là mặt hạn chế
lớn đối với các giáo viên khi giảng dạy phân môn này như việc sưu tầm tài liệu,
tranh ảnh liên quan đến bài học là rất khó và tốn kém. Bởi vì có rất nhiều cơng
trình, tác phẩm mĩ thuật, kiến trúc chỉ còn lại trong sách vở nên việc cho học
sinh xem các tranh ảnh liên quan là điều khó thực hiện. Ngay cả việc các tác
phẩm hội hoạ, điêu khắc, kiến trúc còn tồn tại được in trên sách báo bán trong
các nhà sách thì giáo viên cũng khơng dễ gì sưu tầm được bởi vì: Tài liệu được
in một cách rải rác khơng tập, mỗi cuốn sách lại in một tác phẩm hay một cơng
trình nào đó. Ví dụ: giáo viên muốn sưu tầm tài liệu tranh ảnh về nhà Lý thì phải
tìm và mua tới hơn 10 cuốn sách, tranh mới đủ cho một tiết dạy. Mỗi cuốn chỉ
nhắc tới một cơng tình hoặc một tác phẩm nghệ thuật trong một mục lục nhỏ cịn
lại là những tài liệu khơng liên quan. Chính vì thế nếu mua thì người giáo viên
phải bỏ ra một số lượng tiền khơng nhỏ để có thể giảng một tiết dạy mĩ thuật
thời Lý. Như vậy muốn giảng hay, tốt và đầy đủ của phân môn này trong trường
THCS thì người giáo viên hay nhà trường đó phải bỏ ra một số tiền lớn. Hơn
nữa, có những tài liệu được in từ rất lâu khiến cho việc sưu tầm trở nên khó
khăn. Ví dụ như cuốn “Mĩ thuật thời Trần” (nhà xuất bản văn hoá) đây là một
cuốn sách hay, giáo viên có thể sử dụng phần lớn tiết dạy vào cuốn sách này.
5
Thế nhưng khơng phải ai cũng sưu tầm được vì nó xuất bản năm 1977 mà khơng
có tái bản.
Hơn nữa việc phải đầu tư thời gian, công sức để sưu tầm các tài liệu địi hỏi
phải có thời gian nên dẫn đến việc các giáo viên không quan tâm sưu tầm tài liệu
mà chỉ dựa vào số lượng kiến thức, tranh ảnh ít ỏi trong sách giáo khoa và sách
giáo viên để giảng dạy cho học sinh. Tình trạng chung hiện nay của giờ thường
thức mĩ thuật là đơn điệu nhàm chán, học sinh thường có thái độ thờ ơ với giờ
học này. Với những giờ học, giáo viên chỉ cung cấp một số lượng kiến thức bằng
lý thuyết mà không cho học sinh xem hay chỉ xem một số ít hình ảnh nhỏ bé
trong sách giáo khoa nên đa số học sinh sau khi học thường không nhớ đựơc
những tác phẩm, cơng trình mĩ thuật của Việt Nam và thế giới. Nhưng cũng có
rất nhiều giáo viên chịu khó quan tâm và sưu tầm tranh ảnh liên quan đến bài
học. Tuy nhiên đa phần là những tranh ảnh trong sách báo, tạp chí có khung hình
nhỏ bé chỉ phù hợp cho giáo viên tham khảo còn nếu dùng làm trực quan giảng
dạy thì khơng phù hợp. Hiện nay cơng nghệ thông tin phát triển internet hỗ trợ
rất nhiều cho việc tìm kiếm tài liệu minh họa nhưng một số tranh lại khơng có
trên mạng hoặc là do trình độ sử dụng của giáo viên còn hạn chế hoặc là nếu tìm
có thì cũng khó bởi giáo viên khơng thể in tranh màu khổ lớn để dạy được vì rất
tốn kém hơn nữa trường thuộc xã nghèo, đường sá khó đi nên việc đi lại in tranh
cũng gặp nhiều khó khăn.
Về phía học sinh đa phần là con em nhà nơng kinh tế gia đình cịn khó
khăn, chưa có điều kiện tiếp xúc với công nghệ thông tin nhiều, sách báo cịn
hạn chế nên khơng có cơ hội tìm hiểu sâu hơn các tác phẩm, tác giả trong phân
môn thường thức mĩ thuật nên khó khăn trong tiết học thường thức mĩ thuật.
Trước tình trạng trên, là một giáo viên dạy bộ môn mĩ thật để thực hiện một
tiết dạy thường thức mĩ thuật và học sinh thích học mơn thường thức mĩ thuật là
điều quan trọng là mục đích chính của phân mơn thường thức mĩ thuật.
II.
TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP:
- Phạm vi nghiên cứu: Học sinh trường ...................
- Đối tượng: đề tài này có thể áp dụng cho học sinh khối 6,7,8,9
6
- Thời gian nghiên cứu: từ tháng ………….đến tháng ………..
- Phương pháp nghiên cứu:
+ Đọc tài liệu: nghiên cứu tài liệu có liên quan đến đề tài
+ Điều tra: Qua thực nghiệm của bản thân dạy trên lớp và qua kiểm tra chất
lượng của học sinh. Phân loại học lực học sinh và tìm hiểu thái độ học tập
của học sinh.
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp: phân tích và tổng hợp những thuận lợi
khó khăn của việc dạy học thường thức mĩ thuật để đề ra biện pháp phù hợp
+ Phương pháp thực nghiệm: Vận dụng dạy thử ở các lớp, áp dụng những
giải pháp đã đề ra xem kết quả dạy học có tốt hơn khơng.
+ Phương pháp so sánh và chứng minh: So sánh kết quả trước và sau khi tiến
hành thực nghiệm áp dụng các giải pháp.
Nội dung cơ bản của phân môn thường thức mĩ thuật : Giới thiệu, phân tích
tác phẩm mĩ thuật Việt Nam, thế giới: Sơ lược về mĩ thuật Việt Nam thời kì cổ
đại, thời Lý, thời Trần, thời Lê, thời Nguyễn và thời hiện đại, mĩ thuật thế giới
thời cổ đại (Ai Cập, Hy Lạp, La Mã); Mĩ thuật thời Phục hưng , mĩ thuật hiện
đại phương tây, mĩ thuật một số nước ở vùng Châu Á (Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật
Bản, Lào, Campuchia), Các bài thường thức mĩ thuật SGK thường tập trung vào
giới thiệu các nền mĩ thuật tiêu biểu, nêu những đặc điểm cơ bản. Để bài dạy có
hiệu quả tơi thực hiện một số giải pháp sau:
1. Giải pháp 1: Sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa và sách giáo
viên:
a) Thường thức mĩ thuật là phân môn giúp cho HS hiểu được phần nào bao quát
về lịch sử mĩ thuật, những trào lưu, trường phái, quan điểm của từng thời kỳ
cũng như những thành tựu đó. Nội dung kiến thức mang tính tổng hợp vì vậy để
học sinh hiểu, nhớ được nội dung bài học, không bị nhàm chán, tạo đượng hứng
thú cho học sinh thì vai trị của tranh ảnh phục vụ cho việc dạy - học là vô cùng
quan trọng và cần thiết. Nhưng hiện nay tranh ảnh cho phân môn thường thức
mĩ thuật khơng có nhiều, vì vậy giáo viên phải tận dụng hết những hình ảnh có ở
7
SGK. Để tìm hiểu nội dung bài học giáo viên phải yêu cầu học sinh bám sát vào
SGK, quan sát các hình ảnh ở SGK. Tùy vào từng bài để Giáo viên có phương
pháp khác nhau.
b) Giáo viên chia nhóm, yêu cầu học sinh đọc sách giáo khoa, xem tranh trong
sách giáo khoa và thảo luận theo phiếu bài tập mà giáo viên đã chuẩn bị, sau đó
học sinh trình bày kết quả thảo luận, GV chốt lại phần HS vừa trình bày.
Giáo viên có thể tận dụng hình ảnh ở SGK để thực hiện bài dạy bằng cách đưa
ra những yêu cầu VD:
- Em hãy quan sát bức tranh Nghỉ chân bên đồi của họa sĩ Tô Ngọc Vân
(trang 128, bài 21 Mĩ thuật 7 ) và cho biết bức tranh vẽ gì
Cuối giờ học yêu cầu học sinh thi vẽ hoặc viết ví dụ:
- Quan sát hình Rồng thời lý ( Trang 110, bài 12, mĩ thuật 6) và vẽ trang trí
hình vng hoặc hình trịn có sử dụng họa tiết hình Rồng
- Em hãy vẽ lại chân dung của một trong ba họa sĩ: Trần Văn Cẩn, Nguyễn
sáng, Bùi Xuân Phái (bài 21 TTMT lớp 7)
- Em hãy viết một đoạn văn ngắn miêu tả vẻ đẹp của tượng phật Bà Quan
Âm nghìn mắt nghìn tay (bài 5 TTMT lơp 8)
c) Như vậy giờ học không kém phần hấp dẫn đối với học sinh mà giáo viên
thoát ra khỏi tâm lí nặng nề về thiếu tranh ảnh tài liệu minh họa. Tóm lại nếu
giáo viên biết sử dụng SGK và SGV chúng ta vẫn có thể có giờ học tích cực và
hiệu quả.
2. Giải pháp 2: Kết hợp các phương pháp dạy học:
a) Học phân môn thường thức mĩ thuật trong trường THCS Việc đổi mới
phương pháp dạy học phân môn thường thức mĩ thuật trong trường THCS là
việc làm cần thiết và phải được làm liên tục nhằm tạo ra các giờ học bổ ích, lí
thú tạo sự hứng thú cho học sinh khi học những giờ học này. Nhưng đổi mới là
một khái niệm dễ hiểu mà khó làm. Mỗi một giáo viên phải tự tìm ra cho mình
một cách dạy như thế nào để phù hợp với điều kiện, khả năng của mình mà vẫn
tạo ra được một giờ học sôi nổi thiết thực? Trong q trình giảng dạy tại trường
THCS tơi đã tự rút ra một số giải pháp mà giáo viên mĩ thuật có thể thực hiện
8
đựơc trong điều kiện hiện nay đáp ứng được yêu cầu đổi mới của ngành giáo
dục và đào tạo.
b) Sử dụng tốt đồ dùng dạy học: Đối với phân môn thường thức mĩ thuật
việc sử dụng đồ dùng dạy học là một phần quan trọng trong một tiết dạy. Vì
ngơn ngữ của mĩ thuật là hình ảnh, là trực quan sinh động cụ thể. Do đó phát
huy tối đa hiệu quả đồ dùng dạy học là một trong những phương pháp đổi mới
tốt nhất.
Sử dụng tranh ảnh minh hoạ Việc sử dụng tranh ảnh minh hoạ trong giờ thường
thức mĩ thuật là thường xuyên và không thể thiếu. Tuy nhiên bộ đồ dùng dạy
học trong các trường THCS mới chỉ có một số ít tranh, ảnh của lớp 6 và lớp 8
(thậm chí lớp 8 chỉ có một bài thường thức mĩ thuật). Tất cả những tranh ảnh
trên chỉ là hình ảnh phóng to trong sách giáo khoa. Hơn nữa các giáo viên
thường chỉ cho học sinh xem một số tranh này. Nên tính hiện thực và trực quan
cụ thể là không cao. Giáo viên cần phải sưu tầm các tài liệu có liên quan tới tiết
dạy có thể sưu tầm trong sách báo, tuyển tập hay tạp chí .... Từ đó tập hợp thành
quyển, bộ theo trình tự cho từng tiết dạy và từng thời kỳ lịch sử mĩ thuật
Ví dụ: Mĩ thuật Việt Nam có thể chia thành Mĩ thuật cổ đại và Mĩ thuật
hiện đại như: - Mĩ thuật thời nguyên thuỷ - Mĩ thuật thời Lý - Mĩ thuật thời Trần
- Mĩ thuật thời Lê – Mĩ thuật Việt Nam giai đoạn 1945-1975. Việc sưu tầm tranh
ảnh và tập hợp thành bộ, quyển cho riêng mình giúp giáo viên cung cấp được
nhiều kiến thức mĩ thuật cho học sinh mà khơng cần phải thuyết trình giảng giải
quá nhiều, hơn nữa còn giúp giáo viên định lượng được thời gian cho tiết học
một cách khoa học và hợp lý. Ngoài ra tập hợp thành bộ, quyển giáo viên có thể
bổ sung theo từng năm và sử dụng được nhiều năm liên tiếp.
Tận dụng tối đa các phương tiện hiện đại: Đổi mới trong dạy - học bộ mơn
mĩ thuật nói chung và phân mơn thường thức mĩ thuật nói riêng có một phần
được nhắc tới rất nhiều đó là việc hiện đại hố trong giảng dạy. Như đã phân tích
ở phần trên, việc sưu tầm tranh ảnh đối với giáo viên là rất khó nhưng sử dụng
nó như thế nào để phát huy hết tác dụng của những tài liệu đó lại khó hơn. Vì
tranh ảnh sưu tầm có nhược điểm chung là rất bé chỉ phù hợp cho giáo viên
9
tham khảo cịn nếu cho học sinh xem thì cần hỗ trợ rất nhiều các phương tiện
hiện đại đó là máy chiếu (máy lập thể Projector). Sử dụng nó giáo viên có thể
cho các em thấy rõ hơn, chính xác hơn về vẻ đẹp của từng cơng trình nghệ thuật,
tác phẩm mĩ thuật. Tận dụng tối đa các phương tiện này giáo viên sẽ bớt đi rất
nhiều những hoạt động không cần thiết trong giờ dạy. Hơn nữa lại đảm bảo tính
thẩm mĩ của các tác phẩm của họa sĩ, các cơng trình kiến trúc.
Ví dụ: Giới thiệu cho học sinh xem một số tranh dân gian Việt Nam, khi sử
dụng máy chiếu học sinh sẽ thấy rõ được sự khác biệt giữa tranh dân gian Đông
Hồ và tranh dân gian Hàng Trống, khác nhau về màu sắc, đường nét, về bố
cục…vì khi có sự hỗ trợ của máy chiếu hình ảnh sẽ rõ ràng hơn
Sử dụng băng hình trong phân mơn thường thức mĩ thuật: Sử dụng băng
hình trong dạy học mĩ thuật là một phương tiện ít người nhắc tới do nhiều
nguyên nhân đó là để thực hiện được trước hết phải có đủ phương tiện vật chất
(đầu máy, tivi, ...) sau đó phải có băng hình để xem mà băng hình trong bộ đồ
dùng dạy học của trường THCS là chưa có mà giáo viên khơng thể tự đi quay
hay thu được. Tuy nhiên nếu băng hình trong giờ học này được sử dụng, nó
chính là một phương tiện dạy học hiệu quả nhất. Sự hiện diện của băng hình
giúp cho học sinh và giáo viên gần như trực tiếp quan sát các cơng trình, tác
phẩm nghệ thuật. Hơn nữa hình ảnh mà học sinh quan sát là hình ảnh động khác
với ảnh phiên bản minh hoạ cho nên tạo được hứng thú cho học sinh.
Ví dụ: Khi dạy bài “Một số cơng trình tiêu biểu của Mĩ thuật Ai Cập, Hi
Lạp, La Mã thời kì cổ đại”, để giúp học sinh hình dung rõ hơn về Kim tự tháp
giáo viên có thể cho học sinh xem một đoạn video ngắn miêu tả cấu trúc cũng
như cách xây dựng Kim tự tháp…
Sử dụng các phương pháp dạy và học: Chúng ta đã biết mỗi tác phẩm
nghệ thuật là tổng hợp các kiến thức của nhiều phân môn, trong đó có cả âm
nhạc, thơ ca, văn học, lịch sử … Vì vậy phương pháp dạy học hiệu quả tốt nhất
là: - Phương pháp phân tích - Phương pháp gợi mở - Phương pháp trực quan Phương pháp so sánh - Phương pháp tích hợp - Phương pháp làm việc theo
nhóm - Phương pháp làm việc theo cặp, và liên hệ với thực tiễn cuộc sống sẽ có
10
lợi thế hơn vì nó đảm bảo cho học sinh được thảo luận trên cơ sở hiểu biết riêng
của mình, vận dụng các kiến thức liên môn đồng thời tiếp nhận ý kiến của học
sinh làm cho nhận thức của các em sâu rộng hơn, kiến thức không rời rạc, được
móc nối liên kết giữa các mơn học với nhau, giữa kiến thức sách vở và thực tiễn
sinh động bên ngồi. Đây chính là tinh thần cơ bản của dạy tích hợp mà chúng ta
đang đề cập. Dùng các phương pháp này, giáo viên sẽ là người tổ chức điều
hành, học sinh vừa là người tổ chức vừa là người thực hiện.
Ví dụ: Giáo viên chia nhóm, u cầu mỗi nhóm chuẩn bị một nội dung
cùng câu hỏi gợi ý. Học sinh đọc tài liệu, xem hình ảnh minh hoạ sau đó các
nhóm thảo luận tìm ra kiến thức, tìm ra cách giải quyết bài tập, cử người ghi
chép và thảo luận trước lớp. Các nhóm khác trao đổi tiếp. Giáo viên tóm tắt bổ
sung vừa có tính chất nhắc lại, gói lại, vừa mở rộng thêm làm cho nhận thức của
học sinh sâu sắc và phong phú hơn. Ngoài tranh ảnh giới thiệu ở sách giáo khoa,
ở bộ đồ dùng dạy học, giáo viên còn yêu cầu học sinh sưu tầm thêm và gợi ý học
sinh phân tích, tự ghi chép nội dung theo cảm nhận riêng.
c) Nếu giáo viên biết sử dụng phương pháp đổi mới kết hợp đồ dùng dạy
học mĩ thuật phong phú và đa dạng sẽ tránh được việc học một chiều nghĩa là
giáo viên thuyết trình học sinh nghe và tưởng tượng một cách mơ hồ về kiến
thức đã học, không tạo được giờ học sôi nổi và hứng thú cho học sinh. Ngược lại
nếu có nhiều đồ dùng dạy học, học sinh sẽ phát huy tính tích cực, tự giác có thể
đưa ra nhận xét, cảm xúc của mình về từng giai đoạn mĩ thuật, cuộc đời sáng tác
và các tác phẩm nghệ thuật một cách khách quan và tổng hợp. Học sinh có ý
thức tìm tịi tự nhiên để học tập, gắn kết giữa học và hành, nhà trường và xã hội.
Hình thành ở học sinh tính tự giác trong học tập, phát triển khả năng độc
lập tư duy, suy nghĩ sáng tạo. Điều này rất cần cho con người lao động mới. Bồi dưỡng năng lực ghi chép theo cảm nhận riêng không quá lệ thuộc vào sách
và các tài liệu có sẵn. Đây mới là u cầu có tính chất cấp thiết đối với đổi mới
phương pháp dạy học hiện nay, là xu thế chung của các nhà trường trên thế giới.
Tự học, tự tìm tài liệu, tự tìm phương pháp học và tổ chức học tập, đánh giá
dưới sự điều hành của giáo viên.
11
3. Giải pháp 3: phương pháp tổ chức trò chơi:
a) Trong một tiết học có phần nặng về lý thuyết nhưng Thường thức mĩ thuật
nếu học sinh có thể tham gia trò chơi vừa giúp các em thoải mái, vui vẻ lại có
thể hiểu thêm nội dung bài học thì xem như tiết dạy đó đã thành cơng. Đối với
phân môn thường thức mĩ thuật, giáo viên cần cung cấp thêm cho các em những
hiểu biết về Mĩ thuật của Việt Nam và trên thế giới, tuỳ thuộc vào từng nội dung
bài học mà giáo viên có thể chọn những hình thức chơi phù hợp.
b) Ví dụ như trong bài 21: “Giới thiệu về một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu từ
cuối thế kỷ XIX đến năm 1945”. Mục tiêu của bài học là giúp các em có thêm
những hiểu biết về thân thế và sự nghiệp, cùng với những đóng góp to lớn của
những nhà hoạ sĩ tiêu biếu đối với nền văn học nghệ thuật ở nước ta.
Qua đó sẽ giúp các em có thêm những hiểu biết về một số chất liệu mà
những hoạ sĩ đã dùng rất thành công như hoạ sĩ Tô Ngọc Vân, Nguyễn Phan
Chánh…đã dùng. Chính từ bài học này, học sinh sẽ cảm nhận được vẻ đẹp của
một số tác phẩm, xây dựng thái độ, tình cảm yêu mến, trân trọng những giá trị
của lịch sử cũng như của các tác phẩm nổi tiếng của nền mỹ thuật Việt Nam. Và
từ đó có thể vẽ nên một số tác phẩm đẹp và đậm chất thiếu nhi.
Sau khi xác định được mục tiêu cụ thể đó, giáo viên có thể xây dựng trò
chơi “Nhanh tay nhanh mắt” giúp các em nắm bắt kiến thức tốt: Trong hoạt
động 2 của tiết học, giáo viên cho học sinh tìm hiểu về một số tác phẩm tiêu
biểu của các hoạ sĩ thì có thể chia đội chơi. Chia lớp thành ba đội chơi, mỗi đội
chon từ 2-3 học sinh. Cho trước một tờ giấy và những bức tranh của các hoạ sĩ.
Yêu cầu mỗi đội chơi tìm đúng tranh và dán ảnh tranh đó vào đúng tên của từng
hoạ sĩ. Trong 3 phút, đội nào tìm và dán đúng nhiều nhất sẽ là đội chiến thắng.
Cuối cùng cô giáo nhận xét phần thi của ba đội, có thể cho các em học sinh ở
dưới nhận xét phần thi của các bạn hoặc cũng có thể cho chính các em của từng
đội lên giải thích vì sao lựa chọn và nêu lên đặc điểm của từng hoạ sĩ…Sau đó
cơ giáo tổng hợp các ý kiến và đưa ra các kết luận cuối cùng cho phần thi. Tuyên
dương đội thắng cuộc và khích lệ động viên đối với các đội chơi khác.
12
Hoặc trong bài Tranh dân gian Việt Nam ( bài 19, mĩ thuật 6) có thể tổ chức chơi
trị chơi “ơ chữ bí mật”
Ở trị chơi này GV chuẩn bị hệ thống các hàng ngang, hàng dọc theo chủ đề.
Giáo viên đưa ra một số câu hỏi liên quan đến nội dung bài học tương ứng với
từng hàng ngang. HS tìm các chữ cái thích hợp để điền vào ơ trống đã cho theo
yêu cầu.
Đây là dạng trò chơi mà tôi và đồng nghiệp thường hay sử dụng nhất trong q
trình dạy học, vì hiệu quả của trị chơi này mang lại là rất cao.
-Dạng thứ nhất: Ơ chữ có một hàng ngang
VD: Màu sắc trong tranh Đông Hồ được lấy từ đâu?
T
H I
Ê
N N H I
Ê
N
- Dạng thứ hai: Ơ chữ có nhiều hàng ngang và có từ chìa khố bí mật hàng dọc
(mơ phỏng trị chơi Đường lên đỉnh Ơlimpia)
c) Qua trị chơi, học sinh được hình thành năng lực quan sát, được rèn luyện kỹ
năng nhận xét, đánh giá hành vi. Bằng trò chơi, việc học tập được tiến hành
một cách nhẹ nhàng, sinh động, không khô khan, nhàm chán. Học sinh được lơi
cuốn vào q trình luyện tập một cách tự nhiên, hứng thú và có tinh thần trách
nhiệm, đồng thời giải trừ được những mệt mỏi, căng thẳng trong học tập. Nhất
là đối với bộ môn mỹ thuật, là bộ môn sáng tạo ra cái đẹp thì việc phương pháp
tổ chức trị chơi sẽ giúp cho các em có được khơng khí học tập nhẹ nhàng - tạo
cảm xúc bất ngờ cho học sinh để có những điều bất ngờ hay độc đáo trong bố
cục, xây dựng hình và cách dùng màu được tốt hơn. Có tinh thần đồn kết hơn
giữa các thành viên trong đội chơi.
III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
Với một số giải pháp trên, nếu giáo viên sử dụng tốt, linh hoạt, hài hịa thì
giờ học sẽ sơi nổi, học sinh tiếp thu nhanh hơn, hiệu quả hơn, dần dần cảm nhận
được cái đẹp, cái hay trong tác phẩm cũng như trong cuộc sống.
Áp dụng một số giải pháp giúp học sinh hứng thú học phân môn thường
thức mĩ thuật nêu trên và qua một các bài học cụ thể, tôi khảo sát và thấy chất
13
lượng học thường thức mĩ thuật của học sinh trường ................... được nâng lên
rõ rệt.
Sau khi học xong tiết thường thức mĩ thuật tôi làm phiếu điều tra như sau
Em hãy nêu suy nghĩ của mình qua tiết học vừa rồi?
Em có thích học phân mơn thường thức mĩ thuật không?
Và kết quả thu được trước và sau khi áp dụng các giải như sau:
Trước khi áp dụng các giải pháp năm học 20…. – 20……:
Khối
Sĩ số
u thích
SL
Tỉ lệ
Khơng thích
SL
Tỉ lệ
6
7
8
9
Tổng
Sau khi áp dụng các giải pháp năm học 2019 – 2020:
Khối
Sĩ số
u thích
SL
Tỉ lệ
Khơng thích
SL
Tỉ lệ
6
7
8
9
Tổng
ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
Các kết quả nghiên cứu trên tôi hy vọng rằng các phương pháp, giải pháp
đưa ra góp một phần nào trong chương trình dạy mỹ thuật nói chung và giảng
dạy phân mơn thường thức mĩ thuật nói riêng
Là giáo viên giảng dạy môn Mĩ thuật tại trường tơi thấy cơ sở vật chất cịn
thiếu thốn vì vậy đề nghị các cấp có thẩm quyền tạo mọi điều kiện thuận lợi, cung
cấp các thiết bị cần có, hiện đại phù hợp với từng bộ môn để giúp giáo viên có
14
điều kiện nghiên cứu và vận dụng vào công việc giảng dạy của mình được tốt
hơn, giúp học sinh có tiết học sinh động, dễ hiểu đạt hiệu quả cao. Đối với mơn
Mĩ thuật cần có phịng học Mĩ thuật rộng, đầy đủ ánh sáng. Phương tiện (bàn,
ghế, giá vẽ, mẫu vẽ, giấy, màu, máy chiếu hình, tranh, tượng, phiên bản, các tài
liệu tham khảo …) theo đặc thù của bộ môn
Trên thực tế, việc ứng dụng sáng kiến này có khả năng áp dụng trong phạm vi
rộng trên tồn thị xã. Tôi rất mong nhận được sự giúp đỡ cùng những lời góp ý
chân thành từ các cấp lãnh đạo và các thầy cô giáo để sáng kiến này ngày một
hoàn thiện hơn.
NGƯỜI THỰC HIỆN
(Ký tên và ghi rõ họ tên)
15