Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Một vài vấn đề về văn bản trong sách giáo khoa tiếng Việt bậc tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (529.27 KB, 10 trang )

2.

Trƣờng tiểu học Nguyễn
Bỉnh Khiêm, Quận 1,
TP. Hồ Chí Minh
Điện thoại: 0903 391
746
Email:


MỘT VÀI VẤN ĐỀ
VỀ
VĂN
BẢN
TRONG
SÁCH
GIÁO
KHOA
TIẾNG VIỆT BẬC
TIỂU HỌC

TS. LÊ THỊ NGỌC ĐIỆP

TÓM TẮT
Các văn bản trong sách giáo khoa Tiếng Việt bậc tiểu học đƣợc sắp xếp theo hệ
thống, có tính liên kết về chủ đề. Ngồi những bài văn súc tích, sách giáo khoa cịn có
những bài thơ rất sinh động, gần gũi với trẻ em; góp phần tạo hứng thú cho học sinh đối
với môn Tiếng Việt, đồng thời tạo cơ sở để các em có thể phát triển năng khiếu và khả
năng sáng tạo trong quá trình học tập làm văn. Tác giả biên soạn sách giáo khoa đã quan
tâm đến sự phát triển ngôn ngữ của học sinh, trong đó có chú ý đến năng lực văn bản
của trẻ.


Từ khóa: văn bản, sách giáo khoa, tiếng Việt, tiểu học

ABSTRACT
Some Issues about the Vietnamese Language Text in Textbook at Primary Schools
The text in Vietnamese primary textbook is arranged systematically, related to
the subject. Besides the concise compositions, the textbook also has the lively poems
close to the children; stimulating excitement for students to Vietnamese as well as
making students improve their potential and creativity in learning writing. The textbook
writers have concerned about the children‟s language development, including the text
skills.
Key words: text, textbook, Vietnamese, primary school

229


Để chuẩn bị nguồn nhân lực đáp ứng sự phát triển của kinh tế công nghiệp, kinh
tế tri thức và xu thế tồn cầu hóa mạnh mẽ trong những năm đầu thế kỉ XXI, từ đầu
những năm 90 của thế kỉ XX đến nay, nhiều quốc gia đã rà soát và đổi mới chƣơng trình
giáo dục theo bốn trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI do UNESCO đề xƣớng là: Học để
biết, Học để làm, Học để cùng chung sống, Học để tự khẳng định mình.
Chƣơng trình giáo dục phổ thông của các nƣớc trong khu vực và trên thế giới
ngày càng thể hiện sự quan tâm đúng mức đến mục tiêu và các năng lực cần phát triển ở
học sinh. Các chƣơng trình giáo dục mới xây dựng vào giai đoạn cuối thế kỉ XX – đầu
thế kỉ XXI đều coi trọng việc thực hành và vận dụng; nội dung chƣơng trình thƣờng tập
trung vào các kiến thức, kĩ năng cơ bản thiết thực, tích hợp đƣợc nhiều mặt giáo dục.
Tại Việt Nam, chƣơng trình giáo dục tiểu học mới đƣợc triển khai đại trà từ năm
học 2002 – 2003 là một sự kiện giáo dục quan trọng trong những năm đầu của thế kỉ
XXI. Với nhu cầu đổi mới một cách tồn diện, nội dung chƣơng trình sách giáo khoa
(SGK) phải theo kịp và đón đầu sự phát triển của trẻ em trong độ tuổi tiểu học trong xã
hội hiện đại; đáp ứng yêu cầu mới của việc đào tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp

công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc; theo kịp xu thế phát triển chƣơng trình tiểu học
của các nƣớc phát triển trên thế giới và các nƣớc trong khu vực, góp phần đảm bảo cho
nguồn nhân lực Việt Nam có đủ sức cạnh tranh và hợp tác khi hội nhập quốc tế; đóng
góp vào việc hình thành và phát triển hệ thống giá trị của các công dân trong một xã hội
cơng bằng, bác ái, có cuộc sống tinh thần và vật chất văn minh, vừa phải đậm đà bản sắc
dân tộc, vừa phải thích ứng với sự giao lƣu hợp tác quốc tế rộng rãi.
Ở nƣớc ta, tất cả các trƣờng tiểu học trên toàn quốc cùng sử dụng thống nhất một
chƣơng trình và một bộ sách SGK do Bộ Giáo dục và Đào tạo biên soạn. Trong số các
mơn học đƣợc quy định trong chƣơng trình tiểu học tại Việt Nam, môn Tiếng Việt
chiếm thời lƣợng nhiều nhất (40.7% so với tổng thời lƣợng chƣơng trình tiểu học). Mục
tiêu của môn Tiếng Việt ở trƣờng tiểu học nhằm:
- Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, nói,
đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trƣờng hoạt động của lứa tuổi. Thông
qua việc dạy và học tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác của tƣ duy.
- Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về tiếng Việt và những hiểu
biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con ngƣời, về văn hóa, văn học của Việt Nam và
nƣớc ngồi.
- Bồi dƣỡng tình u tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng,
giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con ngƣời Việt Nam xã hội chủ
nghĩa [1, tr. 9].

230


SGK Tiếng Việt bậc tiểu học đƣợc biên soạn theo quan điểm giao tiếp, quan
điểm tích hợp và quan điểm tích cực hố hoạt động học tập của học sinh. Theo quan
điểm tích hợp, kiến thức tiếng Việt đƣợc tích hợp với các mảng kiến thức về văn học, tự
nhiên, con ngƣời và xã hội theo nguyên tắc đồng quy. Các phân mơn Tập đọc, Chính tả,
Tập viết, Luyện từ và câu, Tập làm văn, Kể chuyện trƣớc đây ít gắn bó với nhau, nay
đƣợc tập hợp lại xung quanh trục chủ điểm và các bài đọc. Vì vậy, các văn bản đƣợc sử

dụng trong SGK Tiếng Việt tiểu học có vị trí rất quan trọng. Nó chứa đựng hầu hết các
ngữ liệu, làm cơ sở để học sinh học các phân mơn khác của chƣơng trình Tiếng Việt.
Trong phạm vi đề tài, chúng tôi xin nêu một số vấn đề về Văn bản trong SGK
Tiếng Việt bậc tiểu học.
1. Yêu cầu thụ đắc Văn bản trong SGK Tiếng Việt tiểu học
Theo yêu cầu trong sách hƣớng dẫn (SHD) về chuẩn kiến thức mơn Tiếng Việt
tiểu học, chúng ta có thể thấy rằng yêu cầu thụ đắc văn bản đã có ngay từ lớp 1. Yêu
cầu “Luyện nói từ 2 – 3 câu theo chủ đề Chia quà” [2, tr. 11], theo chúng tơi, đã xác
nhận điều đó. Nhƣ vậy, có thể nói yêu cầu thụ đắc văn bản sẽ thực hiện ở 5 lớp học đối
với học sinh tiểu học là sự tiếp nối. Điều này có nghĩa là, trong SGK, các tác giả cung
cấp cho học sinh về văn bản có từ lớp 1 đến lớp 5. Đƣơng nhiên, sự phức tạp ở mỗi lớp
sẽ khác nhau. Cho nên, việc phân bố văn bản trong SGK cũng sẽ đa dạng theo phân
khúc lớp học của học sinh.
Đi vào cụ thể, đối với chuẩn kiến thức tiếng Việt lớp 1, chúng tơi thấy văn bản
thƣờng gồm có “từ 2 – 3 câu theo chủ đề”. Yêu cầu này đƣợc lặp đi lặp lại trong SGK
Tiếng Việt lớp 1, xác nhận văn bản đƣợc giới thiệu ở lớp học này là những cấu trúc đơn
giản. Còn trong SHD chuẩn kiến thức Tiếng Việt lớp 2, cùng với vấn đề từ ngữ và câu,
văn bản đã đƣợc đặt ra một cách đầy đủ ở mức cao hơn. Ngay từ tuần thứ nhất, với yêu
cầu “Bƣớc đầu có khái niệm về một bản tự thuật (lí lịch)” [2, tr. 6, lớp 2]. Yêu cầu này
cho thấy văn bản đƣợc cung cấp cho học sinh trong SGK lớp 2 đã là những văn bản
hoàn chỉnh.
Trong SHD chuẩn kiến thức lớp 3, lớp 4 và lớp 5, yêu cầu thụ đắc văn bản đƣợc
đặt ra ngay từ tuần học đầu tiên. Ví dụ ở SHD lớp 3 đã yêu cầu “Trình bày đƣợc một số
thông tin về tổ chức Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh” [2, tr. 7]. Hay nhƣ trong
SHD chuẩn kiến thức lớp 4, đã yêu cầu học sinh tiểu học “kể nối tiếp đƣợc tồn bộ câu
chuyện Sự tích hồ Ba Bể” [2, tr. 6]. Nhƣ vậy, yêu cầu tri nhận đơn vị này gắn liền với
việc sử dụng những đơn vị ngữ pháp thuộc cấp độ thấp hơn là từ và câu. Nói cách khác,
tuy khơng thật rõ, nhƣng hình nhƣ các tác giả SGK đã bƣớc đầu vận dụng q trình thụ
đắc ngơn ngữ từ trên xuống (top down process). Điều đó cho thấy việc cung cấp các văn
bản trong SGK từ lớp 3 trở đi là để vừa tiếp nhận, vừa “luyện tập” và “hoàn thiện” kiến

thức ngữ pháp đã học trƣớc đó. Vì vậy, có thể nói, các tác giả biên soạn SGK Tiếng
231


Việt lớp 3, 4 và 5 phải đáp ứng yêu cầu vừa “cung cấp những đơn vị ngôn ngữ” mới,
vừa dùng nó để ơn luyện kiến thức đã đƣợc giới thiệu ở những năm học trƣớc đó.
Tùy theo lứa tuổi, mức độ tiếp thu của học sinh và phụ thuộc vào nội dung chủ
điểm của đơn vị học trong từng tuần lễ, các văn bản giới thiệu trong SGK đƣợc chọn lọc
với nhiều loại khác nhau: văn bản hành chính, văn bản khoa học, văn bản báo chí, văn
bản nghệ thuật; trong đó, văn bản nghệ thuật chiếm đa số. Những mô tả và nhận xét về
văn bản của chúng tôi dƣới đây sẽ làm rõ hơn đặc điểm này.
2. Mô tả và nhận xét về văn bản trong SGK Tiếng Việt tiểu học
2.1. Về chủ đề và độ dài của văn bản
Trong SGK Tiếng Việt, các văn bản đƣợc sắp xếp theo nội dung từng chủ đề, phù
hợp với đối tƣợng học sinh tiểu học ở mỗi lớp. Theo đó, các chủ đề lần lƣợt là Em là
học sinh, Măng mọc thẳng, Ngôi nhà chung, Bầu trời và mặt đất, Trên đơi cánh ƣớc
mơ, Có chí thì nên, Tiếng sáo diều, Vẻ đẹp muôn màu,… Nhƣ vậy, chủ đề của các văn
bản đƣợc sắp xếp theo trật tự từ, từ hƣớng nội đến hƣớng ngoại, từ “bản thân” học sinh
phát triển dần ra “bên ngoài” xã hội. Cách khai thác nội dung nhƣ thế là hợp với tâm lí
lứa tuổi, giúp ích cho học sinh luyện tập thực hành ở các phân môn khác.
Các văn bản đƣợc sử dụng trong SGK Tiếng Việt tiểu học khá phong phú và đa
dạng. Các loại văn bản tập đọc nhƣ thế tạo cơ hội cho học sinh đƣợc tiếp xúc với nhiều
mảng hiện thực, mở rộng tầm nhìn cuộc sống, giúp học sinh làm quen với nhiều phong
cách tạo lập văn bản khác nhau, thích ứng đƣợc nhiều kiểu văn bản đã học trong thực
hành giao tiếp.
Tuy nhiên, về độ dài, chúng tơi nhận thấy cũng có những chỗ chƣa thật phù hợp.
Ngồi những bài trong SGK có độ dài vừa phải, phù hợp với khả năng tiếp thu của học
sinh, theo chúng tơi, vẫn cịn một số bài có số lƣợng từ quá nhiều so với mức độ đọc của
học sinh lớp 1 và lớp 2. Có những bài trên 170 từ đối với lớp 1 và trên 250 từ ở lớp 2.
Cụ thể đó là các bài “Khơng nên phá tổ chim” (TV1, T.2, tr. 151), “Con chuột huênh

hoang” (TV1, T.2, tr. 157), “Có cơng mài sắt, có ngày nên kim” (TV2, T.1, tr. 4), “Tìm
ngọc” (TV2, T.1, tr. 138), “Chuyện bốn mùa” (TV2, T.2, tr. 4), “Tôm Càng và Cá Con”
(TV2, T.2, tr. 68), “Chuyện quả bầu” (TV2, T.1, tr. 116), “Ơng Mạnh thắng thần gió”
(TV2, T.2, tr. 13), “Kho báu” (TV2, T.2, tr. 83). Đây là một điểm đáng lƣu ý mà khi có
dịp biên soạn lại SGK, các tác giả cần quan tâm cân nhắc.
2.2. Về thể loại văn bản
Hầu hết các văn bản đƣợc sử dụng trong SGK Tiếng Việt tiểu học thuộc thể loại
văn bản văn học. Những bài tập đọc đƣợc trích tuyển hoặc chỉnh biên từ các tác phẩm
có giá trị trong kho tàng văn học Việt Nam và văn học thế giới. Ví dụ: “Chuyện quả
bầu” (TV2, T.1, tr. 116), “Vƣơng quốc vắng nụ cƣời” (TV4, T.2, tr. 143), “Dù sao trái
232


đất vẫn quay!” (TV4, T.2, tr. 86), “Nhà bác học và bà cụ” (TV3, T.2, tr. 32), “Ông
Trạng thả diều” (TV4, T.1, tr. 104),… Ở lớp 5, SGK cũng đã có sử dụng văn bản hội
thoại (“Lịng dân”, TV5, T.1, tr. 24), đƣợc trích từ một vở kịch để học sinh thực hành
phân vai, đọc diễn cảm.
Các văn bản khác (văn bản thuộc phong cách báo chí, khoa học, hành chính,…)
có nội dung về thiên nhiên, mơi trƣờng, văn hóa, khoa học. Đồng thời, những văn bản
này cũng đã giới thiệu cho học sinh một số vấn đề về xã hội nhƣ: những nghề nghiệp
phổ biến, an tồn giao thơng, quyền trẻ em, giáo dục dân số,… phù hợp với trình độ và
lứa tuổi học sinh tiểu học. Chẳng hạn một số bài nhƣ: “Đơn xin vào Đội” (TV3, T.1, tr.
9), “Trên con tàu vũ trụ” (TV3, T2, tr.136), “Vẽ về cuộc sống an toàn” (TV4, T.2, tr.
54), “Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em” (TV5, T.2, tr. 145),… Theo chúng tơi,
nhìn ở bình diện thể loại, việc sử dụng văn bản trong SGK Tiếng Việt tiểu học nhƣ thế
là hợp lí.
2.3. Về tính mạch lạc và liên kết trong văn bản
Đối tƣợng tiếp cận với các văn bản trong SGK là học sinh tiểu học, do đó, tính
mạch lạc và mức độ đơn giản về bố cục cũng nhƣ sự liên kết trong văn bản phải đƣợc
quan tâm đúng mức. Tính mạch lạc của văn bản đƣợc biểu hiện trong quan hệ giữa các

từ ngữ trong một câu, giữa các câu trong văn bản. Mạch lạc cũng đƣợc thể hiện trong
quan hệ giữa chủ đề của các câu và đƣợc thể hiện ở cả hai dạng quan hệ: duy trì chủ đề
và triển khai chủ đề.
Tính mạch lạc trong văn bản đƣợc thực hiện bằng những phƣơng tiện liên kết
thích hợp. Các phƣơng thức liên kết này đƣợc thể hiện đa dạng trong các văn bản,
không gây trở ngại cho học sinh trong quá trình tìm hiểu; ngƣợc lại, chính điều này đã
góp phần rèn cho trẻ kĩ năng sử dụng từ ngữ để viết thành câu và liên kết câu thành
đoạn văn với nhiều cách thức khác nhau.
Qua phân tích những văn bản có trong SGK Tiếng Việt tiểu học, chúng tôi nhận
thấy các văn bản hiện có thƣờng sử dụng phép nối, phép lặp và phép thế nhiều hơn
những phép liên kết khác. Điều này có thể chấp nhận đƣợc vì học sinh tiểu học dễ dàng
tiếp thu và vận dụng vào bài tập thực hành đối với các phép liên kết đơn giản.
Nhƣ chúng tôi đã nêu trên đây, sự ƣu việt của ngơn ngữ SGK hiện tại về “tính
mạch lạc trong văn bản” là nhờ đã biết lựa chọn thông qua các bài văn, bài thơ đƣợc liên
kết linh hoạt bằng những phƣơng tiện khác nhau, giúp học sinh đƣợc rèn luyện và nâng
cao kĩ năng viết tốt hơn ở phân môn Tập làm văn. Chẳng hạn, với nghệ thuật dùng từ,
đặt câu cùng với việc sử dụng hài hòa phép liên kết trong văn bản, tác giả đoạn văn sau
đây đã khiến ngƣời đọc cảm nhận đƣợc mùi thơm đặc trƣng của thảo quả:
Gió tây lƣớt thƣớt bay qua rừng, quyến hƣơng thảo quả đi, rải theo triền núi, đƣa
233


hƣơng thảo quả ngọt lựng, thơm nồng vào những thôn xóm Chin San. Gió thơm. Cây cỏ
thơm. Đất trời thơm. Ngƣời đi từ rừng thảo quả về, hƣơng thơm đậm ủ ấp trong từng
nếp áo, nếp khăn (“Mùa thảo quả”, TV5, T.1, tr. 113).
Hay nhƣ trong bài thơ “Quê hƣơng” (TV3, T.1, tr. 79), tác giả Đỗ Trung Quân đã
khéo léo sử dụng phép lặp từ ngữ và lặp cú pháp ở cả bốn khổ thơ, mang đến cho ngƣời
đọc những hình ảnh quen thuộc, những tình cảm thiêng liêng của mỗi ngƣời dân đối với
quê hƣơng đất nƣớc:
Quê hƣơng là chùm khế ngọt

Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hƣơng là đƣờng đi học
Con về rợp bƣớm vàng bay.
Quê hƣơng là con diều biếc
Tuổi thơ con thả trên đồng
Quê hƣơng là con đị nhỏ
Êm đềm khua nƣớc ven sơng.
Q hƣơng là cầu tre nhỏ…
...Quê hƣơng mỗi ngƣời chỉ một…
Để đáp ứng yêu cầu trên, các văn bản trong SGK thƣờng dùng các kết từ (và,
với, thì, mà, cịn, nhƣng, vì, nếu, tuy, cho nên,…), kết ngữ (vì vậy, do đó, bởi thế, tuy
vậy, với lại, thế mà, thì ra,…) và một số trợ từ, phụ từ (cũng, cả, lại,…) thông dụng
khác. Việc thƣờng xuyên dùng những phƣơng tiện liên kết cụ thể ấy để làm phƣơng tiện
liên kết, nối các bộ phận trong văn bản cũng là một ƣu điểm trong lựa chọn văn bản của
SGK. Ví dụ:
Bác sĩ bảo cụ bị sỏi thận, phải mổ lấy sỏi ra. Cụ sợ mổ. Hơn nữa, cụ không tin
bác sĩ ngƣời Kinh bắt đƣợc con ma ngƣời Thái. Thế là cụ trốn về nhà. Nhƣng về đến
nhà, cụ lại lên cơn đau quằn quại (“Thầy cúng đi bệnh viện”, TV5, T.1, tr. 158).
Ngồi ra, các văn bản cịn sử dụng những từ ngữ đồng nghĩa hay đại từ để thay
thế những từ ngữ có ý nghĩa tƣơng đƣơng. Cách làm nhƣ thế trong văn bản SGK Tiếng
Việt tiểu học cũng nhƣ việc sử dụng những từ hoặc ngữ để thay thế cho ý của cả đoạn
văn là một cách làm hợp lí. Ví dụ:
Ngày mai, mn thú trong rừng mở hội thi chạy để chọn con vật nhanh nhất.
Ngựa con thích lắm. Chú tin chắc sẽ giành đƣợc vòng nguyệt quế. Chú sửa soạn khơng
biết chán và mải mê soi bóng mình dƣới dòng suối trong veo. […]. Ngựa cha thấy thế,
234


bảo: Con trai à, con phải đến bác thợ rèn để xem lại bộ móng. Nó cần thiết cho cuộc
đua hơn là bộ đồ đẹp

(“Cuộc chạy đua trong rừng”,TV3, T.2, tr. 80).
Thỉnh thoảng trong văn bản SGK Tiếng Việt cũng xuất hiện một số văn bản có
sử dụng phép liên tƣởng. Nhƣ chúng tôi đã nhận xét, phép liên kết này đƣợc sử dụng rất
hạn chế. Ví dụ:
- Từ căn gác nhỏ của mình, Hải có thể nghe tất cả các âm thanh náo nhiệt, ồn ã
của thủ đô. Tiếng ve kêu rền rĩ trong những đám lá cây bên đƣờng. Tiếng kéo lách
cách của những ngƣời bán thịt bò khơ. Tiếng cịi ơ tơ xin đƣờng gay gắt. Tiếng còi tàu
hỏa thét lên và tiếng bánh sắt lăn trên đƣờng ray ầm ầm.
(“Âm thanh thành phố”, TV3, T.1, tr. 146)
Qua khảo sát về tính mạch lạc và liên kết trong văn bản, chúng tôi nhận thấy
thêm một vấn đề là vị trí của câu đƣợc các tác giả SGK quan tâm và đảm bảo đặc biệt
trong điều kiện triển khai nội dung văn bản. Các đoạn văn trong bài đọc thƣờng có câu
mở đoạn, câu thuyết minh, câu mở rộng chủ đề và câu kết đoạn. Từng câu, từng đoạn
trong văn bản đƣợc liên kết chặt chẽ, mạch lạc, tạo nên những bài văn, bài thơ đầy hình
ảnh, giàu nhịp điệu và phong phú về từ ngữ. Đây là ƣu điểm nổi bật của các tác giả
trong việc lựa chọn văn bản để đƣa vào SGK môn Tiếng Việt tiểu học. Chúng tôi rất
tâm đắc với một số đoạn trích trong các văn bản sau đây:
- Chiều chiều, trên bãi thả, đám trẻ mục đồng chúng tơi hị hét nhau thả diều
thi. Cánh diều mềm mại nhƣ cánh bƣớm. Chúng tơi vui sƣớng đến phát dại nhìn lên
trời. Tiếng sáo diều vi vu trầm bổng. Sáo đơn, rồi sáo kép, sáo bè,… nhƣ gọi thấp xuống
những vì sao sớm.
(“Cánh diều tuổi thơ”, TV4, T.1, tr. 146).
- Ôi chao! Chú chuồn chuồn nƣớc mới đẹp làm sao! Màu vàng trên lƣng chú
lấp lánh. Bốn cái cánh mỏng nhƣ giấy bóng. Cái đầu tròn và hai con mắt long lanh nhƣ
thủy tinh. Thân chú nhỏ và thon vàng nhƣ màu vàng của nắng mùa thu.
(“Con chuồn chuồn nƣớc ”, TV4, T.2, tr. 127).
Ở đây, dễ thấy vai trò quan yếu của câu mở đầu văn bản. Các câu còn lại chỉ làm
nhiệm vụ thuyết minh cho nó. Theo quan sát bƣớc đầu của chúng tơi, văn bản có cấu
trúc nhƣ thế chiếm một tỉ lệ khá cao. Và đây là mô hình triển khai nội dung rất phù hợp
với tâm lí của trẻ em.

Trong mỗi quyển sách đều có những bài văn hay đƣợc học sinh yêu thích. Chính
những văn bản ấy đã góp phần làm tăng tính thuyết phục của bộ sách. Đó là những bài
nhƣ Đầm sen (TV1, T.2, tr. 91), Cây bàng (TV1, T.2, tr. 127), Mùa nƣớc nổi (TV2, T.2,
235


tr. 19), Sông Hƣơng (TV2, T.2, tr. 72), Nhớ lại buổi đầu đi học (TV3 T.1, tr. 51), Chõ
bánh khúc của dì tơi (TV3, T.1, tr. 91), Sầu riêng (TV4, T.2, tr. 34), Đƣờng đi Sa Pa
(TV4, T.2, tr. 102), Quang cảnh làng mạc ngày mùa (TV5, T.1, tr. 10), Kì diệu rừng
xanh (TV5, T.1, tr. 75), Mùa thảo quả (TV5, T.1, tr. 113), Phong cảnh đền Hùng (TV5,
T.2, tr.1 68),…
Các kiểu quan hệ thời gian thể hiện mạch lạc đƣợc sử dụng khá hiệu quả trong các
văn bản tập đọc trong SGK Tiếng Việt tiểu học. Chúng không chỉ là những yếu tố góp
phần đắc lực cho việc tạo nên tính mạch lạc, chặt chẽ trong truyện mà cịn là cơ sở cần
thiết giúp học sinh hiểu cốt truyện. Tuy nhiên, vẫn có một số bài tập đọc thể hiện quan
hệ thời gian và khơng gian chƣa hợp lí. Ví dụ: “Bài tập làm văn” (TV3, T.1, tr. 46),
“Phong cảnh đền Hùng” (TV5, T.2, tr. 68).
3. Một vài so sánh về văn bản đƣợc sử dụng trong sách giáo khoa Tiếng Việt bậc
tiểu học của Việt Nam và sách giáo khoa Tiếng Anh cùng bậc của Singapore
Trong quá trình khảo sát hai bộ SGK bậc tiểu học của Việt Nam và Singapore,
chúng tôi nhận thấy đối tƣợng của hai bộ sách này là học sinh tiểu học, vì vậy những
văn bản đƣợc sử dụng trong sách đƣợc chọn lọc và sắp xếp theo từng chủ điểm thích
hợp với lứa tuổi. Văn bản trong SGK Tiếng Anh không chỉ là những bài tập đọc đơn
thuần mà nó cịn là những “đề án” mẫu để giúp học sinh tự thiết kế và sáng tạo ra những
sản phẩm cho riêng mình theo yêu cầu của chƣơng trình học trong từng cấp lớp. Có thể
nói, việc sử dụng ngơn ngữ trong SGK mơn Tiếng Anh tiểu học ở Singapore rất hiệu
quả.
Xét về nội dung, mỗi bộ sách đều hƣớng ngƣời học đến những nội dung gần gũi
với bản thân, gia đình, nhà trƣờng, quê hƣơng, đất nƣớc và thế giới xung quanh. Nếu
nhƣ SGK Tiếng Anh có những câu chuyện về những con ngƣời khuyết tật nhƣng có

nghị lực vƣơn lên trong cuộc sống hay những nhà bác học vĩ đại với những cơng trình
khoa học to lớn thì SGK Tiếng Việt cũng giới thiệu những nhân vật lịch sử đƣợc lƣu
truyền từ đời này sang đời khác, những gƣơng mặt nổi bật trong từng lĩnh vực khoa học,
nghệ thuật,… Song, SGK Tiếng Anh chú trọng đến những suy nghĩ cá nhân, khuyến
khích học sinh khám phá và bộc lộ suy nghĩ của mình trong từng vấn đề cụ thể. Trong
khi đó, SGK Tiếng Việt chỉ thực hiện tốt việc cung cấp ngữ liệu, chƣa tạo điều kiện để
ngƣời học khai thác hết nguồn ngữ liệu phong phú trong sách để vận dụng vào thực
hành, luyện tập và rèn kĩ năng tƣ duy ngôn ngữ.
Hai bộ sách lớp 5 đều giới thiệu những vở kịch có phân vai nhân vật, nhƣng kịch
bản trong SGK Tiếng Anh dài hơn, nội dung có tính kích hoạt, tƣơng tác, buộc học sinh
phải suy nghĩ và nêu ý kiến cá nhân về những tình huống khác nhau nếu mình là một
trong những nhân vật của câu chuyện (“The Cowardly Lion”, English 5A, tr. 28). Trong
khi đó, SGK Tiếng Việt chỉ yêu cầu học sinh phân vai theo lời thoại có sẵn và luyện đọc
236


diễn cảm đoạn trích trong vở kịch (“Lịng dân”, TV5, T.1, tr. 24). Rõ ràng, hai yêu cầu
về giáo dục ngôn ngữ là rất khác nhau.
Các bài tập đọc trong hai bộ SGK đều thể hiện đƣợc tính mạch lạc và liên kết
trong văn bản. Những bài văn miêu tả, tƣờng thuật đƣợc sử dụng nhƣ một công cụ chủ
lực để giới thiệu với học sinh về cấu trúc, nội dung và hình thức của văn bản; giúp trẻ
nhận diện đƣợc một cách cụ thể về một văn bản hoàn chỉnh và phát triển tốt kĩ năng xây
dựng văn bản, nhất là về phƣơng diện bố cục, trong quá trình luyện viết, đặc biệt đối với
phân môn Tập làm văn.
4. Nhận xét chung
Nhìn chung, với những ƣu điểm và nhƣợc điểm đã đƣợc phân tích, có thể nói rằng
những văn bản đƣợc sử dụng trong SGK môn Tiếng Việt tiểu học hiện nay là hợp lí.
Các văn bản đƣợc sắp xếp theo hệ thống, có tính liên kết về chủ đề. Ngồi những bài
văn súc tích, SGK cịn có những bài thơ rất sinh động, gần gũi với trẻ em; góp phần tạo
hứng thú cho học sinh đối với mơn Tiếng Việt, đồng thời tạo cơ sở để các em có thể

phát triển năng khiếu và khả năng sáng tạo trong quá trình học tập làm văn. Tác giả biên
soạn SGK đã quan tâm đến sự phát triển ngôn ngữ của học sinh, trong đó có chú ý đến
năng lực văn bản của trẻ. Điều này phù hợp với quan điểm của Đỗ Hữu Châu: “Cho đến
nay, ngƣời ta chỉ nói đến sự phát triển ngơn ngữ của trẻ em về âm, về từ, về câu. Cần
phải nói đến năng lực văn bản của trẻ em. Và năng lực văn bản – xét theo quan điểm
giao tiếp – lại là năng lực cần phải bàn trƣớc trong sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em”
[3, tr. 775].
Các bài tập đọc đƣợc chọn làm cơ sở cho nhiều phân môn khác nhau thuộc phạm
vi mơn Tiếng Việt. Chính vì vậy, cần có sự chọn lọc khắt khe đối với các văn bản đƣợc
đƣa vào sử dụng trong SGK. Ngoài những văn bản nghệ thuật hiện có, SGK Tiếng Việt
cần bổ sung một số văn bản hành chính, báo chí có tính thời sự nhƣng vẫn đảm bảo giá
trị lâu dài và mang tính giáo dục cao để học sinh lớp 4, lớp 5 có điều kiện nâng cao nhận
thức, mở rộng vốn hiểu biết, rèn kĩ năng sống và phát triển năng lực tƣ duy có hiệu quả;
đảm bảo mục tiêu “dạy chữ để dạy ngƣời”.
Để việc thụ đắc ngôn ngữ của học sinh đƣợc thuận lợi, theo đề nghị của Barbara
Lust, “chúng ta cần biết những gì trẻ em biết và không biết trong phạm vi ngữ pháp liên
quan đến tiến trình phát triển ngơn ngữ của trẻ. Với quan điểm phát triển, trong lĩnh vực
ngơn ngữ tâm lí học, chúng ta phải dựa trên các nghiên cứu về tƣ duy miêu tả và xử lí
ngơn ngữ nhƣ thế nào, cũng nhƣ các nghiên cứu về hành vi sử dụng ngôn ngữ” [4, tr.
123]. Đây cũng là gợi ý để các tác giả biên soạn sách nghiên cứu và chọn lọc ngữ liệu
phù hợp với đối tƣợng học sinh, tạo điều kiện cho trẻ phát huy sáng tạo và phát triển
năng lực ngôn ngữ trong từng giai đoạn.
237


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Bộ Giáo dục và Đào tạo (2000), Chƣơng trình tiểu học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.


2.

Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Hƣớng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn
học ở tiểu học – Lớp 1, 2, 3, 4, 5, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

3. Đỗ Hữu Châu (2005), Tuyển tập, Tập 1: Từ vựng – Ngữ nghĩa, Nxb Giáo dục, Quảng
Nam.
4. Lust B (2013), Child Language Acquisition and Growth, Cambridge.
5. Moskalskaja O.I. (1996), Ngữ pháp văn bản (Trần Ngọc Thêm dịch), Nxb Giáo dục,
Thành phố Hồ Chí Minh.
6. My Pals are here! English 1A (2001), Nxb Federal.
7. My Pals are here! English 1B (2001), Nxb Marshall Cavendish Education.
8. My Pals are here! English 2A, 2B (2001), Nxb MPH Education.
9. My Pals are here! English 3A, 3B, 4A, 4B (2003), Nxb Marshall Cavendish Education.
10. My Pals are here! English 5A, 5B (2004), Nxb Marshall Cavendish Education.
11. My Pals are here! English 6A, 6B (2005), Nxb Federal.
12. Tiếng Việt lớp 1, Tập 1 – 2 (2002), Nxb Giáo dục, Thành phố Hồ Chí Minh.
13. Tiếng Việt lớp 2, Tập 1 – 2 (2003), Nxb Giáo dục, Thành phố Hồ Chí Minh.
14. Tiếng Việt lớp 3, Tập 1 – 2 (2004), Nxb Giáo dục, Thành phố Hồ Chí Minh.
15. Tiếng Việt lớp 4, Tập 1 – 2 (2005), Nxb Giáo dục, Thành phố Hồ Chí Minh.
16. Tiếng Việt lớp 5, Tập 1 – 2 (2006), Nxb Giáo dục, Thành phố Hồ Chí Minh.
17. Trần Ngọc Thêm (1985), Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội.

238



×