Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường cao đẳng sư phạm từ thực tiễn tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 89 trang )

1

z

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

VÕ THỊ HOÀI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG
CAO ĐẲNG SƯ PHẠM TỪ THỰC TIỄN TỈNH NGHỆ AN

Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Nhà nước và Pháp luật
Mã số: 60.38.01.01

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Quân

Nghệ An, 2017


2

MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 5
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 5
2. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................... 7
3. Nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................................ 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 7
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 8
6. Những đóng góp mới của đề tài ........................................................................ 8


7. Kết cấu của luận văn ......................................................................................... 8
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH
VIÊN CÁC TRƯỜNG CAO ĐẮNG SƯ PHẠM ................................................. 9
1.1. Khái niệm, đặc điểm giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường cao đẳng
sư phạm ................................................................................................................. 9
1.2. Vai trò của giáo dục pháp luật và các điều kiện đảm bảo giáo dục pháp luật
cho sinh viên các trường cao đẳng sư phạm ....................................................... 20
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .................................................................................... 27
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN
CAO ĐẲNG SƯ PHẠM NGHỆ AN .................................................................. 28
2.1. Thực trạng về các trường cao đẳng sư phạm ở nước ta hiện nay ................ 28
2.2. Khái quát đặc điểm tình hình tỉnh Nghệ An ................................................ 28
2.3. Khái quát về Trường Cao đẳng sư phạm Nghệ An ...................................... 31
2.4. Thực trạng giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Cao đẳng sư phạm
Nghệ An .............................................................................................................. 35
2.5. Nhận xét, đánh giá chung về công tác giáo dục pháp luật tại Trường Cao
đẳng sư phạm Nghệ An ....................................................................................... 47
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .................................................................................... 52


3

CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT CHO SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM NGHỆ AN ...... 53
3.1. Quan điểm đảm bảo giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Cao đẳng sư
phạm Nghệ An .................................................................................................... 53
3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật cho sinh viên
Trường Cao đẳng sư phạm Nghệ An .................................................................. 57
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 78

PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN .......................................................................... 81
KẾT QUẢ XỬ LÝ PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN .......................................... 86


4

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
GDPL: Giáo dục pháp luật
PBGDPL: Phổ biến và Giáo dục pháp luật
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
GS: Giáo sư
TS: Tiến sĩ
TSKH: Tiến sĩ khoa học
BTC: Bộ Tài chính
BTP: Bộ Tư pháp
BGDĐT: Bộ Giáo dục và Đào tạo
BCA: Bộ Cơng an
BQP: Bộ Quốc phịng
BLĐTBXH: Bộ Lao động - Thương binh và xã hội
PC: Pháp chế
THCS: Trung học cơ sở
THPT: Trung học phổ thông
HSSV: Học sinh và sinh viên


5

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục pháp luật ln giữ vị trí quan trọng trong đời sống xã hội, là

công việc không thể tách rời với quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật. Là nhiệm vụ đầu tiên trong hoạt động thực thi pháp luật, là phương tiện để
chuyển tải những đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, góp
phần nâng cao ý thức pháp luật, hình thành thói quen “Sống và làm việc theo
Hiến pháp và pháp luật”.
Giáo dục pháp luật trong các nhà trường đặc biệt đóng vai trị quan trọng
trong việc hình thành nhân cách, lối sống và ý thức pháp luật cho thế hệ trẻ. Do
đó, Đảng và Chính phủ đã ra những Nghị quyết, Chỉ thị trong đó đã khẳng định
rằng để xây dựng và nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân cần đưa việc giáo
dục pháp luật vào các trường học, các cấp học, từ phổ thông đến đại học, trung
học chuyên nghiệp cùng toàn thể nhân dân. Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần
thứ V, khẳng định “các cấp uỷ Đảng, các cơ quan Nhà nước và các đoàn thể
phải thường xuyên giải thích pháp luật trong các tầng lớp nhân dân, đưa việc
giáo dục pháp luật vào các trường học, các cấp học, xây dựng ý thức sống có
pháp luật và tôn trọng pháp luật” [6].
Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng tồn quốc lần thứ VII nhấn mạnh: “coi
trọng cơng tác giáo dục tuyên truyền, giải thích pháp luật, đưa việc dạy pháp
luật vào hệ thống các trường của Đảng, của Nhà nước (kể cả các trường phổ
thông, đại học) của các đoàn thể nhân dân” [7].
Chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng tại Chỉ thị số 32-CT/TW ngày
09/12/2003 về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân và
Kết luận số 04-KL/TW ngày 19/4/2011 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa
XI) về kết quả thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW; Đề án đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo theo Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban
Chấp hành Trung ương (Khóa XI).
Quán triệt quan điểm của Đảng ngày 20/6/2012 Quốc hội đã ban hành
Luật phổ biến giáo dục pháp luật. Thực hiện Quyết định số 1928/QĐ-TTg, ngày
20/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Nâng cao chất lượng
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường”; Kế hoạch số 366/KHBGDĐT, ngày 28/6/2010 và Công văn số 3707/BGDĐT-PC, ngày 28/6/2010



6

của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) về việc hướng dẫn triển khai Đề án “Nâng
cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường”; Thông
tư liên tịch số 73/2010/TTLT-BTC-BTP, ngày 14/5/2010 của Bộ Tài chính và
Bộ Tư pháp hướng dẫn việc lập, quản lý, sử dụng và quyết tốn kinh phí bảo
đảm cơng tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
Giáo dục pháp luật có vai trò và ý nghĩa quan trọng, đặc biệt trong hệ
thống giáo dục và đào tạo. Giáo dục pháp luật trong nhà trường được thực hiện
qua nhiều kênh khác nhau nhưng có hai kênh chính đó là:
Thứ nhất, Giáo dục pháp luật thơng qua chương trình mơn học, học phần
có liên quan trực tiếp đến pháp luật như: Pháp luật đại cương, pháp luật.
Thứ hai, là hình thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho sinh viên, được
thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức lồng ghép phong phú, thông qua các
hoạt động ngoài giờ lên lớp như: Thi tìm hiểu pháp luật, thông tin pháp luật, hội
thảo chuyên đề pháp luật nhằm giúp sinh viên tiếp cận với pháp luật một cách
kịp thời và hợp lý, góp phần bồi dưỡng niềm tin vào pháp luật, rèn luyện các
hành vi ứng xử theo chuẩn mực pháp luật cho các em.
Tuy nhiên, trong một thời gian khá dài, công tác GDPL cho sinh viên còn
chưa được chú trọng đúng mức, sự hiểu biết pháp luật của sinh viên còn nhiều
hạn chế dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật trong giới trẻ nói chung và sinh
viên nói riêng có chiều hướng gia tăng.
Biểu hiện cụ thể như: Một tỷ lệ không nhỏ sinh viên còn hiểu biết pháp
luật một cách rất sơ sài, hời hợt. Nhiều sinh viên coi các môn học pháp luật
trong trường đại học, cao đẳng chỉ là một mơn học phụ, thậm chí có sinh viên
chưa phân biệt được hành vi hợp pháp với hành vi không hợp pháp, giữa các
loại vi phạm pháp luật hành chính, dân sự, hình sự... dẫn đến những hành vi vi
phạm pháp luật một cách đáng tiếc.Vẫn còn một bộ phận sinh viên có biểu hiện

xuống cấp về đạo đức, lối sống, vi phạm pháp luật, thậm chí phạm tội nghiêm
trọng làm cho cả xã hội phải quan tâm, lo lắng.
Những hạn chế này do nhiều nguyên nhân tác động, thể hiện ở việc nhận
thức về vai trị, vị trí và tầm quan trọng của công tác này ở một số trường chưa
đúng mức; chương trình, nội dung GDPL còn dàn trải, chưa thống nhất giữa các
trường đại học; hình thức và phương pháp GDPL còn chậm đổi mới, hoạt động
GDPL ngoại khóa cịn đơn điệu, thiếu hấp dẫn; đội ngũ nhà giáo và cán bộ làm


7

cơng tác GDPL cịn thiếu về số lượng, năng lực của một số cán bộ chưa đáp ứng
yêu cầu công việc; cơ chế phối hợp giữa các chủ thể GDPL còn chưa đồng bộ…
Xuất phát từ các lý do này, Học viên chọn chọn đề tài: “Giáo dục pháp
luật cho sinh viên các trường cao đẳng sư phạm từ thực tiễn tỉnh Nghệ An” cho
luận văn thạc sĩ chuyên ngành luật của mình tại Trường Đại học Vinh.
2. Mục đích nghiên cứu
Luận văn góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và nhu cầu thực
tiễn về giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Cao đẳng sư phạm Nghệ An. Từ
đó nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật cho sinh viên.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn cần có những nhiệm vụ chủ
yếu sau:
Phân tích làm rõ các khái niệm và tính chất của GDPL cho sinh viên.
Đánh giá thực trạng của công tác giáo dục pháp luật cho sinh viên
Trường Cao đẳng sư phạm Nghệ An, luận văn tập trung nghiên cứu: những
thuận lợi, khó khăn, kết quả đạt được hạn chế từ thực trạng của việc giáo dục
pháp luật tại Trường Cao đẳng sư phạm Nghệ An.
Trên cơ sở thực trạng thực hiện giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường
Cao đẳng sư phạm Nghệ An, cùng với những quan điểm chỉ đạo của Đảng và

Nhà nước, luận văn đề xuất các giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của
công tác giáo dục pháp luật cho sinh viên.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Luận văn góp phần nghiên cứu cơ sở lý luận về công tác giáo dục pháp
luật cho sinh viên tại Trường Cao đẳng sư phạm Nghệ An.
Phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở khái quát phân tích thực trạng giáo dục pháp luật ở Trường
Cao đẳng sư phạm Nghệ An, phát hiện và phân tích những điểm chưa hợp lý
hiện nay và đề xuất một số biện pháp, phương hướng, có thể vận dụng để tiến
tới hoàn thiện và nâng cao chất lượng đối với công tác giáo dục pháp luật cho
sinh Trường Cao đẳng sư phạm Nghệ An nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho
cho sinh viên.


8

5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được xây dựng trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Quan điểm, đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Phương pháp luận trong nghiên cứu là
phương pháp duy vật biện chứng của triết học Mác - Lênin.
Luận văn kết hợp các nghiên cứu biện chứng duy vật, lịch sử, phân tích,
so sánh, tổng hợp các phương pháp điều tra xã hội học pháp luật, phương pháp
phân tích tổng hợp để chọn lọc, để đánh giá phân tích thực trạng cơng tác giáo
dục pháp luật cho sinh viên tại Trường Cao đẳng sư phạm Nghệ An, đồng thời
đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả cho công tác giáo dục
pháp luật đối với sinh viên.
6. Những đóng góp mới của đề tài

Luận văn là cơng trình nghiên cứu có hệ thống về thực trạng công tác giáo
dục pháp luật cho sinh viên tại trường cao đẳng sư phạm hiện nay. Đề xuất
phương hướng và các giải pháp cơ bản về giáo dục pháp luật cho sinh viên.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
đề tài gồm 03 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường
cao đẳng sư phạm
Chương 2: Thực trạng giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Cao đẳng
sư phạm Nghệ An
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nhằm tăng cường công tác giáo dục
pháp luật cho sinh viên Trường Cao đẳng sư phạm Nghệ An


9

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH
VIÊN CÁC TRƯỜNG CAO ĐẮNG SƯ PHẠM
1.1. Khái niệm, đặc điểm giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường
cao đẳng sư phạm
1.1.1. Khái niệm
GDPL thường được quan niệm là một dạng hoạt động gắn liền với việc
triển khai thực hiện pháp luật cũng như trong hoạt động thực tiễn áp dụng pháp
luật.
Hiện nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về GDPL, chưa có sự thống
nhất. Để có một cách nhìn nhận đúng đắn, khoa học về GDPL, tác giả xin đưa ra
một số các quan niệm về GDPL cơ bản sau đây:
- Quan niệm thứ nhất cho rằng, GDPL là một trong những yếu tố cấu
thành giáo dục chính trị, tư tưởng và đạo đức. Do đó, chỉ cần thực hiện tốt q
trình giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục đạo đức là mọi người đã có ý thức

pháp luật cao, có sự tơn trọng và tuân thủ pháp luật. Tuy nhiên, chúng ta thấy có
điểm chưa hợp lý bởi vì chính trị, tư tưởng, đạo đức không phải là pháp luật. Tư
tưởng, đường lối chính trị của đảng cầm quyền là sự định hướng chung, trong
khi pháp luật là sự thể chế hoá tư tưởng, đường lối chính trị đó. Khơng thể lấy
cái chung thay thế cái riêng, cái cụ thể được. Hơn nữa, đạo đức và pháp luật là
hai phạm trù khác nhau, giữa chúng có mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau trong quá
trình nhà nước quản lý xã hội.
- Quan niệm thứ hai, coi GDPL là sự tuyên truyền hay phổ biến pháp luật.
Tuy nhiên, tuyên truyền là việc công bố giới thiệu nội dung pháp luật để
mọi người biết, động viên thuyết phục mọi người để mọi người tin tưởng và
thực hiện đúng pháp luật.
Phổ biến pháp luật cũng có đối tượng tác động rộng rãi. Tuy vậy, phổ biến
pháp luật khác với tuyên truyền ở chỗ tính động viên, thuyết phục của phổ biến
không cao như tuyên truyền. Mặt khác phổ biến mang tính tác nghiệp, truyền đạt
nội dung pháp luật cho các đối tượng xác định hơn tuyên truyền pháp luật.
So với tuyên truyền hay phổ biến pháp luật thì GDPL cũng nhằm nâng
cao nhận thức, tình cảm song phương thức tiến hành chặt chẽ hơn, đối tượng xác
định chặt chẽ hơn, mục đích rõ ràng hơn. Xét ở góc độ nhất định thì tun
truyền và phổ biến chính là một góc độ của GDPL.


10

- Quan điểm thứ ba cho rằng khơng có khái niệm GDPL. Pháp luật là
những quy tắc xử sự do Nhà nước đặt ra, có tính bắt buộc chung, tất cả mọi
người đều có nghĩa vụ phải thực hiện. Vì thế, không cần đặt ra vấn đề GDPL,
chỉ cần ban hành, phổ biến pháp luật và mọi người phải thực hiện.
- Quan điểm thứ tư cho rằng GDPL là lấy “trừng trị” để giáo dục người vi
phạm và răn đe giáo dục người khác. Thông qua việc xử lý những hành vi vi
phạm pháp luật như áp dụng hình phạt với người phạm tội, xử lý hành vi vi

phạm hành chính hay áp dụng các chế độ trách nhiệm dân sự sẽ có tác dụng
GDPL cho mọi người khơng cần phải tuyên truyền hay giải thích pháp luật.
Tất cả các quan niệm trên, mặc dù ở nhiều góc độ khác nhau nhưng đều
có sự nhìn nhận GDPL ở những khía cạnh và mức độ hợp lý nhất định. Song các
quan niệm đó ít nhiều bộc lộ sự phiến diện, hoặc đơn giản đến mức tầm thường
hố vai trị của GDPL và chưa thấy được đặc thù và các giá trị vốn có của
GDPL.
Bản thân pháp luật mới chỉ là văn bản quy phạm pháp luật. Pháp luật chỉ
đi vào đời sống thông qua cơ chế điều chỉnh bao gồm các giai đoạn: Ban hành,
tuyên truyền, giáo dục, tổ chức thực hiện, kiểm tra giám sát.
Để có một quan niệm đúng đắn về khái niệm GDPL, chúng ta phải xuất
phát từ khái niệm giáo dục trong khoa học sư phạm với nghĩa rộng, hẹp khác
nhau.
Theo nghĩa rộng, Giáo dục là quá trình ảnh hưởng của những điều kiện
khách quan và sự tác động của nhân tố chủ quan. Điều kiện khách quan gồm:
Chế độ xã hội, điều kiện kinh tế…, nhân tố chủ quan là tác động có định hướng
của con người.
Theo nghĩa hẹp, giáo dục là hoạt động có định hướng của con người tác
động lên khách thể giáo dục. Theo nghĩa này thì sự ảnh hưởng hay tác động của
yếu tố khách quan không thuộc nội hàm của khái niệm giáo dục.
Vận dụng khái niệm giáo dục theo nghĩa hẹp, các nhà khoa học pháp lý đã
xây dựng khái niệm GDPL dựa trên các yếu tố sau:
Thứ nhất, sự hình thành ý thức con người là một quá trình chịu ảnh hưởng
và chịu sự tác động của các điều kiện khách quan lẫn các nhân tố chủ quan. Điều
kiện khách quan là những yếu tố ảnh hưởng hình thành lên ý thức con người.
Nhân tố chủ quan là nhân tố có tác động có chủ đích, có định hướng, có nội
dung và phạm vi nhất định. Yếu tố ảnh hưởng khách quan có thể tự phát, thụ


11


động, có thể theo chiều này hoặc chiều khác khơng có chủ đích. Vậy theo nghĩa
hẹp của giáo dục thì GDPL đó là sự tác động có định hướng của nhân tố chủ
quan bằng việc xác định nội dung, chương trình pháp luật cần đưa vào kế hoạch
giáo dục cho công dân.
Thứ hai, từ nghĩa hẹp của giáo dục trong khoa học sư phạm để xây dựng
khái niệm GDPL chúng ta nhận thức được mối quan hệ giữa “cái chung” và “cái
riêng”, “cái đặc thù”, trong mối quan hệ với giáo dục nói chung là “cái chung”
“cái riêng” vừa phải mang những đặc điểm chung vừa phải mang tính thể hiện
những nét đặc thù. GDPL là “cái riêng” trong mối quan hệ với giáo dục là “cái
chung”, “cái phổ biến”
Tính đặc thù của GDPL so với các hoạt động giáo dục khác ở một số điểm
sau đây:
- Về mục đích của GDPL: Hoạt động GDPL mang tính định hướng, nhằm
nâng cao ý thức pháp luật, hình thành tình cảm lịng tin và sự tôn trọng đối với
pháp luật của Nhà nước từ đó tự giác xử sự phù hợp với pháp luật hiện hành.
- Về nội dung: GDPL có nội dung cơ bản riêng biệt, những tri thức của
nhân loại về Nhà nước và pháp luật cũng như nội dung của các văn bản pháp
luật thực định sẽ được chuyển đến khách thể (hoặc đối tượng) một cách thiết
thực và có hiệu quả.
- Về chủ thể, đối tượng, hình thức, phương pháp GDPL: Hoạt động này là
một quá trình thường xuyên, liên tục và lâu dài chứ không phải tác động theo sự
tác động của phong trào, theo thời vụ của chủ thể giáo dục lên đối tượng GDPL.
Cần phải có sự kết hợp đồng bộ giữa gia đình, nhà trường và xã hội của các cấp,
các ngành cần quan tâm đúng mức cho hoạt động GDPL. Người GDPL (chủ thể)
phải là người có kiến thức pháp luật, có năng lực thực tiễn truyền thụ kiến thức,
được tiếp nhận đầy đủ các thông tin pháp lý để truyền tải những kiến thức pháp
lý cho người được giáo dục (đối tượng) và chủ thể phải luôn luôn là người
gương mẫu trong chấp hành pháp luật để đối tượng noi theo.
Hình thức và phương pháp giáo dục cần phù hợp với từng đối tượng. Chủ

thể phải lựa chọn cách thức và phương pháp cho phù hợp để mang lại hiệu quả
cao trong GDPL. Hình thức có thể đơn giản từ thấp đến cao hay trực quan, trừu
tượng cũng là yếu tố góp phần quyết định đến hiệu quả của GDPL.
Thứ ba, khái niệm GDPL vận dụng từ nghĩa hẹp của giáo dục có ý nghĩa
quan trọng trong việc phân biệt hai phạm trù: GDPL và phạm trù ý thức pháp


12

luật. Hai phạm trù này có mối quan hệ mật thiết với nhau nhưng không đồng
nhất với nhau.
Hoạt động GDPL là sự tác động của nhân tố chủ quan mà trước hết là
hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ đích về kế hoạch về nội dung
chương trình. Cịn sự hình thành ý thức pháp luật là sản phẩm, kết quả của các
ảnh hưởng của điều kiện khách quan là sự tác động của nhân tố chủ quan, nhưng
nhân tố này lại đóng vai trị quyết định và chủ đạo quyết định đến sự hình thành
ý thức pháp luật.
Như vậy, có thể hiểu: GDPL là một hoạt động có tổ chức, có mục đích, có
tính định hướng tác động tới các đối tượng giáo dục nhằm làm hình thành ở họ
tri thức pháp luật, tình cảm đối với pháp luật và hành vi xử sự phù hợp với pháp
luật hiện hành.
* Khái niệm GDPL cho sinh viên:
Công tác GDPL cho sinh viên các trường cao đẳng được tổ chức gắn liền
với các hoạt động của quá trình đào tạo và các nhiệm vụ khác của nhà trường.
Với tính chất là bộ phận khác của quá trình giáo dục được thực hiện ở các
trường cao đẳng cho nên GDPL cũng mang những nét chung trong quá trình
giáo dục tổng thể. Đồng thời nó cịn vận động và phát triển theo các quy luật
riêng của quá trình hình thành và phát triển nhận thức, tình cảm và hành vi phù
hợp với pháp luật hiện hành của sinh viên.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của GDPL những năm qua Đảng và Nhà

nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách, văn bản pháp luật tạo cơ sở chính trị
pháp lý cho công tác GDPL của nghành giáo dục như: Chỉ thị số 32/CT-TW
ngày 9/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng trong công tác phổ biến GDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của
cán bộ, nhân dân; Quyết định 3109/QĐ-BGD&ĐT ngày 15/6/2005 phê duyệt
quy chế tổ chức và hoạt động của Hội đồng phối hợp công tác phổ biến GDPL
của Bộ giáo dục và đào tạo; Quyết định số 5836/QĐ- BG&ĐT ngày 17/10/2006
của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo phê duyệt chương trình công tác phổ biến
GDPL giai đoạn 2006-2010 của ngành giáo dục;
Chỉ thị số 45/2007/CT-BGD&ĐT ngày 17/8/2007 của Bộ trưởng Bộ giáo
dục và đào tạo về tăng cường công tác phổ biến GDPL trong ngành giáo dục;
Chỉ thị số 71/2008/CT-BGD&ĐT ngày 23/12/2008 của Bộ trưởng Bộ giáo dục
và đào tạo về việc phối hợp nhà trường, gia đình, xã hội trong công tác giáo dục


13

trẻ em, học sinh, sinh viên; Thông tư liên tịch số 30/2010/TTLT-BGD&ĐTBTP ngày 16/11/2010 hướng dẫn việc thực hiện phối hợp thực hiện công tác
PBGDPL trong nhà trường.
Như vậy, GDPL là một phần của nội dung chương trình giáo dục ở các
cấp học và trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân. Nói cách khác
GDPL là một hoạt động tự thân, thường xuyên của ngành giáo dục. Giáo dục
pháp luật tốt khơng chỉ góp phần ổn định hoạt động của ngành mà cịn góp phần
trực tiếp vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm ngành giáo dục. Trước u cầu
đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN và hội nhập quốc tế, công tác GDPL của ngành giáo dục cần được
tăng cường thường xuyên, liên tục ở tầm cao hơn nhằm nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực của đất nước.
Từ sự phân tích trên có thể hiểu khái niệm GDPL cho sinh viên như sau:
GDPL cho sinh viên các trường cao đẳng sư phạm là một hoạt động có tổ

chức, có mục đích, có tính định hướng của đội ngũ những người làm công tác
GDPL tác động tới sinh viên nhằm làm hình thành ở họ những tri thức pháp
luật, tình cảm đối với pháp luật và hành vi xử sự phù hợp với pháp luật hiện
hành.
1.1.2. Đặc điểm
Đặc điểm của GDPL cho sinh viên các trường cao đẳng sư phạm là loại
hình đặc thù. Ngoài những đặc điểm chung của giáo dục thì GDPL cịn có những
đặc điểm riêng được thể hiện: Mục đích của GDPL, chủ thể GDPL, đối tượng
GDPL, nội dung GDPL, phương pháp và hình thức GDPL.
Thứ nhất, về mục đích của giáo dục pháp luật
GDPL nhằm ba mục đích sau:
- Mục đích nhận thức: Hình thành, làm sâu sắc và từng bước mở rộng hệ
thống tri thức pháp luật của công dân. Đây là mục đích hàng đầu, bởi vì chính sự
am hiểu về pháp luật, sự nhận thức đúng đắn về giá trị xã hội và vai trò điều
chỉnh của pháp luật sẽ là điều kiện cần thiết để hình thành tình cảm và lịng tin
đối với pháp luật của mỗi cơng dân. Hơn nữa tri thức pháp luật còn giúp con
người tổ chức một cách ý thức hoạt động của mình và tự đánh giá, kiểm tra, đối
chiếu hành vi với các chuẩn mực pháp luật. Mục đích này rất quan trọng khi mà
hiểu biết pháp luật của cơng dân cịn thấp, còn chịu ảnh hưởng của tư tưởng sản
xuất nhỏ, nhận thức về quyền và nghĩa vụ của công dân chưa đầy đủ. Mặt khác


14

cơng tác GDPL cịn chưa được coi trọng dẫn đến tình trạng pháp chế bị bng
lỏng, làm giảm hiệu lực của pháp luật, giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng
và Nhà nước.
- Mục đích cảm xúc: Hình thành tình cảm và lịng tin đối với pháp luật.
Mục đích này rất quan trọng vì nếu có tri thức pháp luật mà khơng có tình cảm
tơn trọng và lịng tin pháp luật cũng như các cơ quan bảo vệ pháp luật thì con

người rất dễ hành động chệch khỏi các chuẩn mực pháp luật vì lợi ích riêng tư.
Nội hàm của mục đích cảm xúc đạt được thơng qua việc: một là giáo dục tình
cảm cơng bằng, biết xác định các tiêu chuẩn đánh giá tính cơng bằng của pháp
luật, biết đối xử với người khác và với chính mình bằng các tiêu chuẩn công
bằng thể hiện qua các quy phạm pháp luật. Hai là, giáo dục tình cảm trách
nhiệm, ý thức tuân thủ pháp luật ở mọi nơi, mọi lúc. Phê phán, lên án các biểu
hiện coi thường pháp luật, các hành vi phạm pháp. Đồng thời ủng hộ và tích cực
tham gia bảo vệ sự nghiêm minh của pháp luật. Có được tình cảm trên con
người sẽ có lòng tin vững chắc vào sự cần thiết phải tuân thủ pháp luật. Khi đã
có lịng tin vào pháp luật con người sẽ có những hành vi hợp pháp.
- Mục đích hành vi: Hình thành động cơ, hành vi và thói quen xử sự theo
pháp luật. Động cơ và hành vi là kết quả cuối cùng của quá trình nhận thức pháp
luật, đấu tranh nội tâm dưới sự tác động của những yếu tố tâm lý, tình cảm, lịng
tin. Thói quen xử sự hợp pháp được xem là thói quen tuân thủ các quy phạm
hướng dẫn của pháp luật, thói quen sử dụng và áp dụng các tri thức pháp luật và
các quy phạm pháp luật để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, của
người khác, của Nhà nước và xã hội.
Việc phân chia các mục đích của GDPL trên đây chỉ mang tính tương đối,
giữa chúng có mối quan hệ đan xem, qua lại với nhau trong mối liên hệ hữu cơ
thống nhất. Từ tri thức pháp luật đến tính tự giác; từ tính tự giác đến tính tích
cực; từ tính tích cực đến thói quen xử sự theo pháp luật. Ngược lại, khi có thói
quen xử sự theo pháp luật thì lịng tin, tình cảm pháp luật lại được củng cố. Do
đó, khi tiến hành hoạt động GDPL thì phải hướng vào cả ba mục đích đó.
Sinh viên học tập tại các trường Cao đẳng sư phạm là những giáo viên
tương lai. Do đó, việc GDPL trong nhà trường sẽ trang bị và nâng cao những tri
thức cơ bản về pháp luật giúp họ hiểu biết về pháp luật từ đó có tình cảm pháp lý
và hành vi hợp pháp. Việc cung cấp kiến thức pháp luật cho sinh viên nhà
trường khác với việc trang bị kiến thức cho công dân bình thường bởi vì khơng



15

chỉ tạo ý thức và sự tự giác thực hiện pháp luật mà cịn là điều kiện xây dựng,
hồn thiện, bảo vệ pháp luật.
Vì vậy, GDPL cho sinh viên các trường Cao đẳng sư phạm nhằm đạt tới
những mục đích sau:
- Hình thành, làm sâu sắc và từng bước mở rộng hệ thống tri thức pháp
luật của học viên mà nhà trường đào tạo.
- Hình thành tình cảm và lịng tin đối với pháp luật của sinh viên nhà
trường.
- Hình thành động cơ, hành vi và thói quen xử sự theo pháp luật của sinh
viên.
Thứ hai, về chủ thể của giáo dục pháp luật
Chủ thể của giáo dục là thầy cô giáo và tất cả những người làm công tác
giáo dục khác, “là đối tượng gây ra hành động mang tính tương tác trong quan
hệ đối lập với đối tượng bị chi phối của hành động gọi là chủ thể” (Viện ngôn
ngữ học (1992) Từ điển tiếng việt, trung tâm từ điển ngôn ngữ, Hà Nội, tr132).
Trong khoa học pháp lý, chủ thể của GDPL được hiểu là tất cả những
người, tổ chức theo chức năng, nhiệm vụ hay tín nhiệm xã hội tham gia vào việc
GDPL nhằm thực hiện mục đích của GDPL.
Căn cứ vào mức độ liên quan giữa các mục đích giáo dục với chức năng,
nhiệm vụ hay trách nhiệm pháp lý của các chủ thể giáo dục mà chúng ta có thể
chia chủ thể giáo dục thành hai loại đó là chủ thể chuyên nghiệp và chủ thể
không chuyên nghiệp.
Chủ thể chuyên nghiệp là những người có chức năng, nhiệm vụ chủ yếu là
GDPL, trực tiếp thực hiện GDPL như giảng viên pháp luật trong các nhà trường,
báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên về pháp luật, cán bộ chỉ đạo ở hệ
thống các cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức xã hội…Đây là những chủ thể quan
trọng và chủ yếu của GDPL.
Chủ thể không chuyên nghiệp là những cá nhân, tổ chức trong chức năng

chính khơng phải là GDPL nhưng thơng qua các hoạt động chun mơn, nghiệp
vụ của mình đã tham gia tích cực vào việc thực hiện các mục tiêu và nội dung
của GDPL. Những người này bao gồm: Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng
nhân dân, cán bộ, công chức thuộc các cơ quan hành pháp, tư pháp, những người
làm công tác trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật…


16

Ngồi hai chủ thể trên, chủ thể của GDPL cịn là các công dân bằng sự tôn
trọng pháp luật, bằng ý thức trách nhiệm và gương mẫu thực hiện pháp luật mà
có ảnh hưởng tới các cơng dân khác trong xã hội.
Theo Điều 33 Luật Phổ biến giáo dục pháp luật được thơng qua tại kỳ họp
thứ 2 khố XIII thì cơ quan, tổ chức có trách nhiệm GDPL được quy định như
sau:
“Nhà trường, cơ sở giáo dục khác của hệ thống giáo dục quốc dân, của cơ
quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội, lực lưỡng vũ trang
nhân dân (gọi chung là nhà trường) theo quy định của luật giáo dục”. Tóm lại,
chủ thể của GDPL được hiểu là tất cả những người mà theo chức năng hay theo
trách nhiệm xã hội đã tham gia góp phần vào việc thực hiện mục tiêu GDPL.
Như vậy, qua việc xác định các loại hình của chủ thể GDPL cho sinh viên
các trường cao đẳng sư phạm được thực hiện chủ yếu thông qua chủ thể giáo
dục chuyên nghiệp mà trực tiếp là các giảng viên giảng dạy pháp luật. Với việc
nhận thức chủ thể GDPL cho sinh viên các trường cao đẳng sư phạm là các
giảng viên giảng dạy pháp luật, vai trò giảng viên thể hiện ở họ là người cung
cấp tri thức mới, bồi dưỡng cách học và là tấm gương trong việc thực hiện pháp
luật đối với người học. Muốn vậy, các giảng viên cần phải nắm vững đối tượng
giáo dục, nắm vững tri thức pháp luật, có tình cảm pháp lý đúng mực và có
phương pháp sư phạm vững vàng.
Thứ ba, về khách thể (đối tượng) của giáo dục pháp luật

Đối tượng của GDPL nói chung là các cơng dân hay nhóm cộng đồng
công dân, tiếp nhận trực tiếp hay gián tiếp tác động của các hoạt động GDPL
tiến hành nhằm đạt được mục đích đề ra.
Đối tượng GDPL cho sinh viên các trường cao đẳng sư phạm là cá nhân
và tập thể sinh viên. Mỗi sinh viên có những đặc điểm, những khả năng riêng
nhưng nhìn chung ở họ có những đặc trưng cơ bản sau:
Sinh viên là tầng lớp tiến bộ trong xã hội, được tiếp thu có hệ thống tri
thức của nhân loại và dân tộc. Họ là người có khả năng sáng tạo, nhạy bén, chịu
khó học hỏi, năng động trong học tập và nghiên cứu khoa học.
Bên cạnh đó sinh viên cịn có những hạn chế đó là cịn nơng nổi, bồng
bột, dễ bị kích động, khó kiềm chế, đơi khi tự cao, tự đại, thích tự do phóng
khống. Ý thức pháp luật của sinh viên cũng chưa đầy đủ, toàn diện, sâu sắc như
các đối tượng khác. Sinh viên là tầng lớp trẻ tuổi đang trong quá trình học tập và


17

rèn luyện. Họ chưa có điều kiện và khả năng để có những tư tưởng, quan niệm,
quan điểm về các hiện tượng pháp luật trong đời sống xã hội một cách đầy đủ,
hệ thống như đội ngũ cán bộ trong bộ máy nhà nước, đội ngũ nghiên cứu khoa
học pháp lý. Sự hiểu biết pháp luật của sinh viên mới đang từng bước được hình
thành, bồi đắp và làm sâu sắc thêm qua quá trình học tập và sinh hoạt dưới sự
tác động của gia đình, nhà trường và xã hội. Việc cung cấp cho sinh viên một
lượng tri thức pháp lý nhất định làm cơ sở để hình thành thói quen sống và làm
việc theo Hiến pháp và pháp luật, đồng thời để chuẩn bị tương lai trở thành
những công dân tốt, trở thành những giáo viên gương mẫu, mẫu mực giảng dạy
cho học sinh.
Thực tế hiện nay cho thấy, ý thức pháp luật của sinh viên còn hạn hẹp,
thiếu chính xác, đầy đủ, chưa ý thức được đầy đủ trách nhiệm quyền và nghĩa vụ
trong việc thực hiện pháp luật, chưa thấy hết được vai trò của pháp luật đối với

đời sống xã hội.
Tóm lại, đối với sinh viên các trường cao đẳng sư phạm cần cung cấp đầy
đủ kiến thức về pháp luật, quyền và nghĩa vụ cơ bản của cơng dân…Từ đó họ
biết sống và làm việc theo pháp luật, bảo vệ pháp luật với tư cách là một người
công dân và một người giáo viên tương lai.
Thứ tư, về nội dung pháp luật
Nội dung của giáo dục là yếu tố quan trọng của quá trình giáo dục pháp
luật. Xác định đúng nội dung của giáo dục là đảm bảo cần thiết để GDPL có
hiệu quả thiết thực. Có thể chia nội dung GDPL theo ba mức độ sau:
Mức độ tối thiểu của GDPL phổ cập cho mọi công dân: Nội dung này
gồm những kiến thức cơ bản về nhà nước và pháp luật giúp cho mỗi cơng dân ý
thức được vị trí của mình trong mối quan hệ với Nhà nước và công dân khác,
biết mình có những quyền lợi và nghĩa vụ gì và khi cần thì biết mình phải đến
đâu, làm gì, làm như thế nào để bảo vệ các quyền đó của mình.
Mức độ giáo dục theo yêu cầu của ngành nghề hoặc từng nhóm đối tượng:
Ngồi những kiến thức pháp luật cơ bản, mỗi công dân trong từng lĩnh vực cụ
thể kinh tế, văn hố, xã hội hoặc nhóm đối tượng cụ thể (thanh niên, phụ nữ,
sinh viên, nông dân, người dân tộc thiểu số…) lại có nhu cầu hiểu biết và cần
trang bị những nội dung pháp luật liên quan đến lĩnh vực hoạt động hoặc địa
điểm, đặc thù của đối tượng.


18

GDPL chuyên ngành cho những người hành nghề pháp luật (luật gia, luật
sư…) đây là mức độ cao nhất, vì đối tượng này đòi hỏi được trang bị một cách
tổng thể, toàn diện các kiến thức lý luận về nhà nước và pháp luật, hệ thống luật
trong nước và quốc tế trong lĩnh vực chuyên sâu (dân sự, hình sự, hành chính,
kinh tế…) và pháp luật thực định.
Đối với sinh viên các trường cao đẳng sư phạm thì nội dung pháp luật

được thực hiện qua chương trình môn học pháp luật đại cương dành cho sinh
viên hệ cao đẳng và môn học giáo dục pháp luật cho sinh viên hệ trung cấp. Bao
gồm các nội dung về bản chất và vai trị của Nhà nước và pháp luật, hình thức
pháp luật và quy phạm pháp luật, vi phạm pháp luật, trách nhiệm pháp luật, ý
thức pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa. Ngồi ra cịn có các nội dung liên
quan đến chuyên ngành học của sinh viên như pháp luật về thanh niên, pháp luật
về giáo dục, pháp luật hôn nhân và gia đình, pháp luật lao động, luật phịng
chống tham nhũng, pháp luật hình sự, pháp luật dân sự, pháp luật về giao thơng.
Ngồi ra cịn được tun truyền, phổ biến pháp luật bằng nhiều hình thức ngoại
khố phong phú khác.
Thứ năm, về phương pháp và hình thức giáo dục pháp luật
* Về phương pháp GDPL
Phương pháp giáo dục được hiểu là cách thức, biện pháp tác động phù
hợp với khả năng tiếp nhận của đối tượng nhằm đạt đến mục đích của giáo dục.
Trên cơ sở đó phương pháp GDPL cho sinh viên các trường cao đẳng sư
phạm được hiểu là việc áp dụng những cách thức, biện pháp nhằm truyền đạt
kiến thức pháp luật cho người học một cách có hệ thống.
Phương pháp giảng dạy hết sức quan trọng quyết định đến chất lượng và
hiệu quả của GDPL. Nếu có phương pháp đúng, phù hợp thì người học có thể
tiếp thu một cách dễ dàng, nhận thức đúng vấn đề và đạt kết quả cao trong học
tập.
Phương pháp giảng dạy nói chung và giảng dạy pháp luật ở các trường
cao đẳng sư phạm nói riêng thường được áp dụng như sau:
- Các phương pháp giảng dạy truyền thống gồm các phương pháp như:
Phương pháp thuyết trình, phương pháp dùng sách và tài liệu tham khảo,
phương pháp vấn đáp, phương pháp dạy học trực quan.


19


- Các phương pháp giảng dạy hiện đại (phương pháp giảng dạy tích cực)
gồm các phương pháp: phương pháp làm việc theo tổ hoặc nhóm, phương pháp
tình huống, phương pháp nêu vấn đề, phương pháp đóng vai…
Tuỳ nội dung kiến thức và trình độ người học, giảng viên có thể lựa chọn
các phương pháp thích hợp để có cách truyền đạt linh hoạt, hấp dẫn tạo điều
kiện cho sinh viên có thể lĩnh hội được các kiến thức cần thiết theo yêu cầu, mục
tiêu đào tạo, rèn luyện thói quen trong đời sống hằng ngày nhằm hình thành các
hành vi phù hợp với các chuẩn mực pháp luật. Hiện nay các trường cao đẳng sư
phạm đã kết hợp phương pháp dạy truyền thống và phương pháp dạy học hiện
đại nhằm nâng cao chất lượng học tập.
GDPL trong nhà trường cần phải kết hợp giữa lý luận và thực tiễn thi
hành pháp luật, kết hợp việc cung cấp kiến thức với việc rèn luyện đạo đức,
hành vi ứng xử. Đồng thời GDPL trong nhà trường cũng cần tuân theo những
phương pháp có tính chất chung như: phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo
của giảng viên, vận dụng một cách hợp lý các phương pháp giảng dạy, đảm bảo
sự thống nhất hiệu quả dạy và học hiệu quả.
* Về hình thức GDPL
Hình thức GDPL chính là hình thức tổ chức hoạt động phù hợp giữa chủ
thể và đối tượng GDPL, được quy định bởi nội dung và mục đích của GDPL.
Xuất phát từ sự đa dạng của đối tượng, địa bàn, điều kiện kinh tế xã hội ở
từng vùng, từng địa phương, hiện nay có nhiều hình thức giáo dục pháp luật
khác nhau, trong đó có một số hình thức giáo dục sử dụng thường xuyên và
thông dụng. Cụ thể: Hình thức GDPL trực tiếp (tuyên truyền miệng về pháp
luật); giáo dục pháp luật thơng qua báo chí, phát thanh truyền hình, truyền thanh
cơ sở và trên mạng internet; dạy và học pháp luật trong nhà trường; biên soạn
các loại tài liệu giáo dục pháp luật; GDPL thông qua các hoạt động hoà giải ở cơ
sở; tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật; giáo dục thơng qua Tủ sách pháp
luật; giáo dục pháp luật thông qua sinh hoạt của các câu lạc bộ; GDPL thông qua
các hoạt động văn hố, văn nghệ; GDPL thơng qua hoạt động xét xử, hoạt động
thi hành pháp luật.

GDPL cho sinh viên các trường cao đẳng sư phạm được thực hiện bằng
hai hình thức chính đó là:


20

- Giảng dạy trên lớp (GDPL chính khố): Đưa nội dung pháp luật vào
chương trình giảng dạy chính khố thơng qua môn học pháp luật đại cương và
môn học pháp luật.
- GDPL ngoại khố thơng qua các hoạt động bổ trợ giáo dục như sinh
hoạt tập thể, giáo dục ngoài giờ lên lớp như: Tổ chức đi thực tế; khảo sát, đánh
giá tình hình thực hiện pháp luật ở trường, lớp hoặc địa phương; tham dự các
phiên toà xét xử các vụ án trẻ vị thành niên phạm tội…, tổ chức thi tìm hiểu
pháp luật, thi văn nghệ, tổ chức nói chuyện các chun đề pháp luật..
Các hình thức giáo dục ngoại khoá nêu trên phải được tổ chức hợp lý kết
hợp với nội dung của chương trình giáo dục pháp luật chính khố, qua đó để
sinh viên nắm chắc và vận dụng kiến thức pháp lý đã học trên lớp, rèn luyện
hành vi và thói quen sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Việc thực
hiện các hình thức này địi hỏi sự tham gia của khơng chỉ thầy cơ giáo mà cịn
cần sự tham gia của người làm công tác thi hành pháp luật, bảo vệ pháp luật, các
cơ quan thông tin đại chúng, cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội…
1.2. Vai trò của giáo dục pháp luật và các điều kiện đảm bảo giáo dục
pháp luật cho sinh viên các trường cao đẳng sư phạm
1.2.1. Vai trò của giáo dục pháp luật
Trong những năm qua Đảng và Nhà nước rất coi trọng cơng tác GDPL nói
chung, cơng tác GDPL trong nhà trường nói riêng thơng qua các Nghị quyết của
Đại hội Đảng toàn quốc, nghị quyết của Ban chấp hành trung ương Đảng, Bộ
chính trị, Chỉ thị của ban bí thư, Nghị định của Chính phủ và Quyết định của
Thủ tướng Chính phủ. Tất cả các văn bản đều xác định rõ vai trị của cơng tác
GDPL nói chung và cơng tác GDPL trong nhà trường nói riêng. Vai trị của

GDPL thể hiện ở những nội dung sau:
Thứ nhất, GDPL cho sinh viên góp phần thể chế hố đường lối, chủ
trương của Đảng, đưa pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống.
Pháp luật là phương tiện để thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng,
đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng được thực hiện có hiệu quả trên tồn xã hội, là
phương tiện để Nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội, phương tiện để nhân
dân phát huy quyền làm chủ của mình.
GDPL cho sinh viên là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước trong đó có trách
nhiệm của các trường học. Thực hiện GDPL trong các trường cao đẳng giúp cho
sinh viên biết được các quyền của mình để từ đó sử dụng các quyền mà pháp


21

luật cho phép. Sinh viên biết được các nghĩa vụ của công dân mà họ phải thực
hiện. Đồng thời qua việc học tập, nghiên cứu họ biết được những gì pháp luật
cấm thực hiện từ đó tuân thủ pháp luật. Như vây, có thể nói GDPL được thực
hiện trong các trường cao đẳng cũng nhằm đưa pháp luật vào thực tiễn.
Thứ hai, GDPL nâng cao nhận thức và trình độ pháp lý
Ý thức pháp luật của mỗi cá nhân thể hiện mối quan hệ của con người đối
với pháp luật, thể hiện đánh giá về tính hợp pháp hay khơng hợp pháp trong
hành vi xử sự của con người cũng như trong tổ chức và hoạt động của các cơ
quan nhà nước và các tổ chức xã hội. GDPL là một trong những biện pháp góp
phần hình thành và nâng cao ý thức pháp luật.
Trước hết pháp luật tác động đến ý thức của đối tượng hình thành chu
trình: Khơng để ý đến pháp luật - để ý - biết - hiểu - chấp hành - thực hiện. Từ
chỗ người được GDPL khơng có ý thức về sự tồn tại của pháp luật đến việc bắt
đầu dành sự quan tâm của mình với pháp luật, rồi từ sự quan tâm dến pháp luật
đến sự tiếp cận và tìm hiểu pháp luật. Nhờ đó, khơng chỉ nâng cao hiểu biết
pháp luật mà còn định hướng hành vi xử sự đúng yêu cầu của quy định pháp

luật. GS. TSKH Đào Trí Úc khẳng định: “Sự hiểu biết pháp luật của nhân dân là
yếu tố đầu tiên để hình thành pháp luật. Pháp luật trải qua nhiều hình thức khác
nhau mới đến được với người dân và trở thành sự hiểu biết về pháp luật, ý thức
pháp luật” [27, tr 30-31].
GDPL hình thành niềm tin của đối tượng được giáo dục nói riêng, của
người dân nói chung. Rõ ràng việc pháp luật được thực thi một cách nghiêm
chỉnh không phụ thuộc vào sự đe doạ, cưỡng chế mà còn phụ thuộc vào sự giáo
dục, phụ thuộc vào việc nhận thức về vị trí, vai trò của pháp luật trong đời sống
xã hội. Bằng việc GDPL, đối tượng giáo dục nhận thức được vai trò và sự cần
thiết đối với đời sống xã hội, tạo niềm tin vào pháp luật như là một lẽ phải, là sự
cơng bằng trong cuộc sống. Từ đó tạo ra được ý thức, đông cơ đúng đắn trong
việc thực hiện pháp luật và đấu tranh tích cực chống các hành vi vi phạm pháp
luật.
Thứ ba, GDPL là khâu đầu tiên trong quá trình triển khai thực hiện pháp
luật
Bằng việc ban hành pháp luật và bảo đảm cho chúng được thực hiện trong
thực tế, Nhà nước mong muốn sử dụng chúng để điều chỉnh các quan hệ xã hội
phục vụ cho lợi ích của Nhà nước và xã hội. Sự khẳng định vai trò của pháp luật


22

trong đời sống xã hội gắn liền với quá trình khơng ngừng nâng cao ý thức và
tích cực tham gia của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội.
Việc chấp hành pháp luật trong thực tế không phải khi nào cũng là tự
nguyện, bởi lẽ bản thân mỗi người luôn có xu hướng làm những gì mà họ thích
hơn là những gì mà họ phải làm bởi các quy định của pháp luật, bởi sự đe doạ
phải gánh chịu những hậu quả bất lợi. GDPL mang đến cho đối tượng giáo dục
biết đến những quy định của pháp luật, giúp họ nhận thức được tính cơng bằng,
sự cần thiết phải hành động và xử sự theo đúng quy định của pháp luật vì lợi ích

của cộng đồng và lợi ích của bản thân, từ đó có thái độ tơn trọng pháp luật trong
cuộc sống một cách đúng đắn.
Thực hiện pháp luật là một hoạt động có mục đích làm cho những quy
định của pháp luật đi vào đời sống, trở thành hành vi thực tế và hợp pháp của
chủ thể. Thực hiện pháp luật bao gồm nhiều hình thức khác nhau: Tuân thủ pháp
luật, chấp hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Dù ở hình
thức nào thì thực hiện pháp luật địi hỏi người dân phải có một trình độ văn hố
pháp lý nhất định, trước tiên là phải biết pháp luật quy định như thế nào, trong
những trường hợp nhất định được xử lý ra sao và hành động như thế nào để vừa
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân, đồng thời khơng xâm phạm
đến quyền và lợi ích của người khác. GDPL giữ vai trò cung cấp cho người dân
biết quyền và nghĩa vụ của mình về những việc làm mà pháp luật quy định được
phép làm và những việc pháp luật nghiêm cấm, cách thức để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của bản thân.
Thứ tư, GDPL góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI khẳng định: “Xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Không ngừng mở rộng và phát
huy quyền dân chủ”. Nhà nước pháp quyền là Nhà nước quản lý xã hội bằng
pháp luật, mọi người trong xã hội sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
Để thực hiện được mục tiêu trên thì tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố, một trong
những yếu tố quan trọng quyết định về mặt chủ quan đó là ý thức pháp luật.
Biện pháp có ý nghĩa trong tổ chức thực hiện là giáo dục và nâng cao ý thức
pháp luật. Khơng có ý thức pháp luật và am hiểu pháp luật thì khơng thể tự giác


23

tuân theo và chấp hành nghiêm chỉnh, cũng như không thể áp dụng đúng các

quy định pháp luật trong quản lý Nhà nước.
GDPL là việc làm cần thiết để nâng cao ý thức pháp luật, phòng ngừa vi
phạm pháp luật. Công tác GDPL đặc biệt là việc giảng dạy pháp luật trong các
trường cao đẳng muốn đạt được hiệu quả phải sử dụng nhiều biện pháp phong
phú, sinh động kết hợp với việc học tập chính trị, rèn luyện chuyên môn, rèn
luyện đạo đức xã hội chủ nghĩa nhằm giáo dục có hệ thống ý thức cho cơng dân
và văn hố pháp lý, tạo dựng thói quen sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp
luật.
1.2.2. Các điều kiện đảm bảo giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường
cao đẳng sư phạm
1.2.2.1. Chương trình, nội dung GDPL
Từ năm 1992 đến năm 1995, Bộ tư pháp và Bộ giáo dục và đào tạo đã tổ
chức khảo sát thực tiễn GDPL trong các trường đại học và cao đẳng không
chuyên luật trên cơ sở đó xây dựng chương trình “pháp luật đại cương” (phần
cứng) dùng làm tài liệu giảng dạy và học tập.
Nội dung chương trình này bao gồm các vấn đề cơ bản sau:
- Bản chất, vai trò của Nhà nước và pháp luật;
- Chức năng của Nhà nước; Bộ máy nhà nước;
- Hình thức pháp luật và quy phạm pháp luật;
- Hệ thống pháp luật;
- Quan hệ pháp luật;
- Thực hiện pháp luật, vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý;
- Ý thức pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Nắm vững những kiến thức này sinh viên được GDPL có khả năng tiếp
cận các văn bản pháp luật cụ thể một cách nhanh chóng, chính xác và vận dụng
một cách sáng tạo vào cuộc sống.
Cùng với việc dạy và học chính khố các hoạt động giáo dục ngoại khố
với các hình thức phong phú và đa dạng, nội dung thiết thực đã được triển khai
rộng khắp. Hoạt động ngoại khố góp phần lơi cuốn sinh viên say mê nghiên
cứu, tìm hiểu, học tập, gắn lý thuyết với thực tiễn. Qua đó nhận thức pháp luật

và ý thức pháp luật trong sinh viên được nâng lên. Sinh viên đã trở thành những


24

thàn viên tích cực trong phong trào chống tội phạm, xây dựng làng, xã, khu phố
văn hoá.
Tuy nhiên về chương trình và nội dung giảng dạy cũng đặt ra một số vấn
đề như: Chương trình chậm đổi mới; giáo trình và các tài liệu tham khảo còn
thiếu, nội dung chưa phù hợp, nặng về lý thuyết, ít gây hứng thú cho người học.
1.2.2.2. Đội ngũ giảng viên
Giảng viên giữ vai trò quyết định trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục
pháp luật. Vai trò quyết định của giảng viên thể hiện ở việc họ là người cung cấp
những tri thức mới, bồi dưỡng cách học và là tấm gương trong việc thực hiện
pháp luật đối với người học. Muốn vậy giảng viên cần phải nắm vững đối tượng
cần giáo dục, nắm vững các tri thức pháp luật, có tình cảm pháp lý đúng mực và
có phương pháp sư phạm tốt.
Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay cho thấy các giảng viên giảng dạy pháp
luật tại các trường cao đẳng sư phạm đều chưa qua đào tạo chính quy về luật,
chưa được bồi dưỡng, thường xuyên, đầy đủ về nội dung và phương pháp mơn
học, chỉ có một số ít giảng viên được đào tạo chính quy về luật. Đội ngũ này
thường khơng ổn định, dạy kiêm nhiệm, chưa có quy hoạch, kế hoạch đào tạo,
chưa có chế độ chính sách thoả đáng tạo nguồn giảng viên để thu hút và gắn bó
họ với cơng việc. Vì vậy để tăng cường chất lượng GDPL trong tình hình mới
điều kiện có tính chất quyết định là một đội ngũ giảng viên được đào tạo chính
quy về pháp luật, có trình độ sư phạm, đủ về số lượng, gưỡng mẫu chấp hành
pháp luật.
Việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên giảng dạy pháp luật ở các
trường cao đẳng sư phạm phải gắn với mục tiêu về đội ngũ giảng viên nói chung
là “đủ số lượng, chuẩn hố về chất lượng và khơng ngừng được nâng cao về

trình độ chuyên môn và sư phạm”, đồng thời phải kết hợp giữa các giải pháp
tình thế và các giải pháp cơ bản, lâu dài để tổ chức thực hiện có hiệu quả.
1.2.2.3. Nguồn kinh phí và điều kiện vật chất
* Nguồn kinh phí
Chỉ thị 32- CT/TW ngày 9/12/2003 của Ban Bí thư đã nêu rõ “cần bố trí
một khoản ngân sách cần thiết cho cơng tác phổ biến, GDPL”. Theo quy định
của mục D của Chương trình phổ biến GDPL ban hành kèm theo quyết định số
37/2008/QĐ-TTg ngày 12/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ thì kinh phí thực
hiện chương trình phổ biến, GDPL được bố trí trong kế hoạch ngân sách hàng


25

năm do các bộ, ngành, cơ quan trung ương, các địa phương theo phân cấp ngân
sách của Nhà nước hiện hành và huy động từ sự đóng góp tự nguyện của các tổ
chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật.
Theo thông tư liên tịch số 73/2010/TTLT-BTC-BTP ngày 14/5/2010 của
liên bộ Bộ tài chính, Bộ tư pháp hướng dẫn việc lập, quản lý, sử dụng và quyết
tốn kinh phí bảo đảm cho cơng tác phổ biến, GDPL cũng nêu rõ: Kinh phí phổ
biến, GDPL thuộc cấp nào do ngân sách cấp đó đảm bảo theo phân cấp ngân
sách hiện hành và được bố trí trong dự toán của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp theo quy định của Luật ngân
sách Nhà nước và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
Bên cạnh nguồn ngân sách bố trí trực tiếp cho phổ biến, GDPL như trên,
các trường cao đẳng và đại học có thể tranh thủ thêm kinh phí từ nguồn đào tạo
cán bộ, kinh phí xây dựng chương trình, giáo trình, kinh phí tuyên truyền, kinh
phí các chương trình vì mục tiêu về an tồn giao thơng, chống ma t, phịng
chống tội phạm….
Tại thơng tư này cũng quy định rất rõ nội dung chi cho công tác phổ biến,
GDPL gồm các mục rất cụ thể từ đó giúp cho các trường cao đẳng và đại học có

cách quản lý và sử dụng đúng yêu cầu của pháp luật.
* Điều kiện vật chất
- Giáo trình
Theo quy định của Luật giáo dục thì giáo trình là tài liệu cụ thể hoá yêu
cầu về nội dung, kiến thức và kỹ năng trong chương trình giáo dục nghề nghiệp.
Hiện nay, giáo trình mơn học pháp luật đại cương ở giáo dục cao đẳng chưa
được coi là giáo trình chung nên các trường sử dụng nhiều loại tài liệu khác
nhau, với nội dung khoảng 30 - 45 tiết, như tài liệu của Đại học Khoa học xã hội
và nhân văn, tài liệu của Đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh, Giáo trình Lý
luận chung về Nhà nước và pháp luật của Đại học luật Hà Nội, có trường tự biên
soạn tài liệu…Các giáo trình này đều tập trung vào một số kiến thức cơ bản về
Nhà nước và pháp luật và giới thiệu khái quát về các ngành luật trong hệ thống
pháp luật Việt Nam.
- Tài liệu phổ biến, GDPL
Để tiến hành phổ biến và GDPL trong ngành giáo dục bên cạnh hệ thống
chương trình, giáo trình dùng trong chương trình nội khoá, các cơ quan quản lý
giáo dục, các cơ sở giáo dục đã biên soạn, cập nhật, phát hành các tài liệu phù


×