Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Các vị nữ thần được tôn thờ ở Cù Lao Chàm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (65.54 KB, 4 trang )

Các vị nữ thần được tôn thờ ở Cù Lao Chàm
Trần Phương
Việc thờ phụng các vị nữ thần vốn rất phổ biến trong xã hội Việt Nam
trong lịch sử. Từ nhu cầu tín ngưỡng thờ nữ thần, các cơng trình kiến trúc, các
hình thức nghi lễ thờ cúng, lễ hội, các hình thức sinh hoạt tín ngưỡng liên quan
cũng được hình thành, phát triển, góp phần tạo nên tính đa dạng của văn hóa
Việt Nam.
Về nguồn gốc của tín ngưỡng thờ nữ thần, nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân
Hương cho rằng: “Để được bình n trong cuộc sống, được an tồn trong lao
động sản xuất, các cộng đồng cư dân đã tin tưởng vào sự hỗ trợ của các vị thần
linh, trong đó có vai trị của các Nữ thần/Mẫu”1. Vào cuối thế kỷ XIX, trong
thời kỳ nhà Nguyễn, Cù Lao Chàm có tên gọi phường Tân Hợp, thuộc tổng
Thanh Châu, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam. Hiện nay, Cù Lao Chàm là xã
Tân Hiệp, thuộc thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam, nằm cách khu phố cổ Hội
An khoảng 18km về phía Đơng, là vùng đất có lịch sử cư trú của con người khá
lâu đời, đồng thời còn là nơi có cảnh sắc thiên nhiên đẹp với hệ sinh thái tự
nhiên vô cùng phong phú. Trải qua thời gian, các thế hệ cư dân ở Cù Lao Chàm
đã tạo dựng và để lại cho thế hệ ngày nay một kho tàng di sản văn hóa đa dạng.
Trên phương diện văn hóa vật thể, có thể ít ở nơi đâu có số lượng di tích nhiều
và đa dạng như ở Cù Lao Chàm. Trên địa phận Cù Lao Chàm hiện nay có 23 di
tích tơn giáo – tín ngưỡng phân bố ở Hòn Lao, Hòn Tai và Hòn Dài, trong đó số
lượng di tích tập trung nhiều nhất ở Hịn Lao với 20 di tích; cùng với một kho
tàng văn hóa dân gian phong phú cịn được lưu truyền, bảo lưu. Bên cạnh các
loại hình di tích liên quan đến tín ngưỡng dân gian như thờ cá Ơng, Âm Linh,
Thành Hồng, thờ tổ nghề như nghề Yến, nghề cá… cịn có các di tích thờ nữ
thần.
Quảng Nam xã chí có ghi chép về các vị nữ thần được thờ phụng ở Cù
Lao Chàm, gồm có: Thiên Y Chúa Ngọc, Đại Càn Quốc Gia Nam Hải Tứ Vị
Thánh Nương, Ngũ Hành Tiên Nương. Những vị nữ thần nêu trên được triều
đình nhà Nguyễn sắc phong để nhân dân phụng thờ. Tuy nhiên, bên cạnh đó cịn
có các vị nữ thần mang sắc thái dân gian được cư dân Cù Lao Chàm tôn thờ


như: Bà Mụ, Bà Bạch (Bạch Thố Kim Tinh), Bà Mộc.
Trong lịch sử, một số tư liệu đã ghi chép về các miếu thờ nữ thần ở Cù
Lao Chàm. Quốc Sử quán triều Nguyễn mô tả về Cù Lao Chàm: “Cách huyện
Diên Phước 68 dặm về phía Đơng, ngất ngưỡng giữa biển gọi là đảo Ngọa
Long, cũng gọi là hịn Cù Lao, có tên nữa là Tiêm Bút, tên cổ là Chiêm Bất Lao,
làm trấn sơn cho cửa biển Đại Chiêm... Trên núi có nhiều đền thờ như đền thờ 3
vị Phục Ba Tướng quân, đền thờ Cao Các, đền thờ thần Bô Bô và các đền thờ
thần: Ngọc Lân, Thành Hoàng, Chúa Lồi, Bạch Mã, Ngũ Hành…”2. Rất tiếc,
hiện nay những dấu tích về đền thờ các vị nữ thần như Bô Bô, Chúa Lồi trên Cù
Lao Chàm khơng cịn(?).
Nguyễn Xn Hương (2011), Tín ngưỡng thờ nữ thần của người Việt ở xứ Quảng, Nxb Đà Nẵng,
tr.12.
2
Quốc sử quán triều Nguyễn (1997), Đại Nam Nhất thống Chí, tập 2, Nxb Thuận Hóa, tr 358-359.
1

1


Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi là vị nữ thần đứng đầu trong các vị nữ thần
ở Việt Nam thời kỳ phong kiến. Theo cách gọi dân gian thì tục danh của vị nữ
thần này có khá nhiều danh xưng khác nhau như: bà Lồi, bà Yang, bà Chúa
Ngọc, bà Chúa Xứ,… Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi nguyên là một vị nữ thần
Champa, có tên gọi là Thánh Mẫu Pơ Inư Nưgar. Trong q trình cộng cư, người
Việt đã tiếp thu, biến đổi nhằm phù hợp với phong tục của người Việt. Vị nữ
thần này đã được các vua triều Nguyễn ban sắc phong: “Hoàng Huệ Phổ Tế
Linh Cảm Diệu Thông Mặc Tướng Trang Huy Dực Bảo Trung Hưng Thiên - Y
-A - Na Diễn Ngọc Phi thượng đẳng thần”.
Đại Càn Quốc Gia Nam Hải Tứ Vị Thánh Nương là vị nữ thần thường
hiển linh cứu giúp những tàu thuyền gặp nạn trên biển, bảo vệ bình an cho người

dân, có tên gọi dân gian là bà Đại Càn, danh hiệu được triều đình gia phong đầy
đủ là: “Hàm Hoằng Quang Đại Chí Đức Phổ Bác Hiển Hóa Trang Huy Dực
Bảo Trung Hưng Đại Càn Quốc Gia Nam Hải Tứ Vị Thánh Nương thượng đẳng
thần”. Đây là vị thần giữ vị trí đứng đầu trong danh sách các vị thần được thờ tự
và là vị chủ thần được thờ trang trọng nhất tại nhiều đình làng tại Hội An cũng
như nhiều địa phương. Quảng Nam xã chí có ghi thơng tin về sắc thần vị Đại
Càn tại làng Tân Hiệp, trong tổng số sắc phong của làng là 20 thì có đến 5 sắc
phong cho vị Đại Càn. Cù Lao Chàm trước đây có hai ngơi đình với quy mơ lớn
là đình Tiền Hiền và đình Đại Càn, tiếc rằng đình Đại Càn hiện nay đã bị sụp đổ
hồn tồn, chỉ cịn lại bình phong dạng cuốn thư, một trụ biểu, một tấm bia đá
với hoa văn rồng mây mang phong cách hậu Lê đã bị bào mịn chỉ cịn sót lại
một số chữ. Theo những chữ cịn sót lại trên văn bia cho biết đình được xây
dựng vào thời nhà Lê, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 22 (1761).
Ngũ Hành Tiên Nương là tên gọi chung cho năm vị nữ thần, bao gồm:
Kim Đức Thánh Phi, Mộc Đức Thánh Phi, Thủy Đức Thánh Phi, Hỏa Đức
Thánh Phi và Thổ Đức Thánh Phi. Dân gian gọi chung năm Bà là Bà Ngũ Hành,
danh hiệu được triều đình nhà Nguyễn gia phong mỹ tự là: “Tư Hóa Mặc Vận
Thuận Thành Hòa Tự Tư Nguyên Trang Huy Dực Bảo Trung Hưng thượng đẳng
thần”. Ngũ Hành trong quan niệm dân gian liên quan tới mọi mặt đời sống con
người, không kể người làm những nghề nghiệp hay sinh sống ở những khu vực
khác nhau. Con người thờ Ngũ Hành và cầu mong được thần phù hộ, độ trì trong
việc làm ăn, cầu sức khỏe, may mắn, tránh rủi ro, hoạn nạn. Quảng Nam xã chí
có ghi lại các lần triều đình nhà Nguyễn sắc phong cho thần Ngũ Hành ở làng
Tân Hiệp (Cù Lao Chàm) từ thời vua Tự Đức thứ 5 (1852) đến đời vua Khải
Định thứ 9 (1924). Hiện nay, tại Cù Lao Chàm cịn hiện diện 04 ngơi miếu thờ
Ngũ Hành Tiên Nương (miếu Ngũ Hành Bãi Hương, miếu Hiệp Hịa, miếu Bà
xóm trong, miếu Bà xóm giữa).
Bà Mụ là danh xưng dùng để gọi chung cho 15 vị gồm “Ba bà Chúa Sanh
Thai” còn gọi là “Sanh Thai nương nương” và “12 bà mụ” còn gọi là “thập nhị
Hoa Bà” hay “Kim Hoa nương nương”. Có nhiều nguồn tài liệu nhắc đến sự

tích Bà Mụ, trong tác phẩm Lược khảo về thần thoại Việt Nam tác giả Nguyễn
Đổng Chi viết: “Sự tích của 12 vị nữ thần này hiện nay chúng ta chỉ còn biết
một cách lờ mờ. Có thuyết nói đó là các thần giúp việc cho Ngọc Hồng từ lúc
ơng ta có ý định sáng tạo ra loại người…”, hay Lê Quý Đôn trong tác phẩm Vân
2


đài loại ngữ viết: “Tục nước ta, đẻ con được ba ngày, làm mâm cơm cúng Mụ.
Đến hôm đầy tháng, hơm một trăm ngày, hơm đầy tuổi tơi, đều có làm cỗ cúng
gia tiên, bày tiệc ăn mừng…”.3
Miếu Bà Mụ ở Cù Lao Chàm được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 19
trên một vị trí cao của Hịn Gieo nhìn ra biển, nơi trước đây tấp nập tàu thuyền
qua lại. Có nhiều truyền thuyết liên quan đến di tích này cùng các tục lệ về cầu
tự, cầu được bình an khi sinh nở hiện lưu truyền tại địa phương phần nào thể
hiện sự quan trọng của di tích miếu Bà Mụ trong đời sống tinh thần của cư dân
dân vùng đảo Cù Lao Chàm trước đây cũng như hiện nay. Các cụ cao niên cho
biết tại đây mỗi khi có sự cố sinh đẻ khó khăn thì các bà thường đến đây cầu
khẩn để mẹ trịn con vng.
Bên cạnh các cơng trình thuộc thiết chế văn hóa – tín ngưỡng làng xã,
cộng đồng cư dân Việt sinh sống tại Cù Lao Chàm cịn xây dựng một số cơng
trình khác để thờ tự các vị thần liên quan đến nghề nghiệp, đất đai, khe suối, núi
rừng, biển cả… theo quan niệm của mình. Miếu Bà Mộc tại rừng Cấm thuộc
xóm Cấm được hình thành trên cơ sở đó. Ngơi miếu được cư dân địa phương
xây dựng vào cuối thế kỷ 19. Về lai lịch vị thần này, hiện cư dân địa phương
không rõ là thờ bà nào nhưng qua khảo sát thì ngơi miếu này có thể là miếu thờ
Mộc trụ thần xà, một loài vật liên quan đến biển.
Bạch Thố Kim Tinh, hiện nay chưa có tư liệu để xác định danh tính vị nữ
thần này. Trong Quảng Nam xã chí ghi chép về các vị nữ thần được sắc thần của
triều đình ở Cù Lao Chàm cũng khơng thấy nhắc đến. Qua tra cứu các vị nữ thần
được triều đình sắc phong trong tập Quảng Nam xã chí đối với các địa phương

khác trên địa bàn thành phố Hội An, chỉ thấy ở làng Cẩm Phô được triều đình
sắc phong vị nữ thần Bạch Thố Kim Tinh này 2 lần vào ngày 18/3 năm Khải
Định thứ 2 (năm 1917) tước phong: Trinh Uyển hạ đẳng thần và ngày 25/7 năm
Khải Định thứ 9 (năm 1924) gia tặng mỹ hiệu: Trai Tịnh trung đẳng thần. Tại
Xóm Cấm (nay thuộc thơn Bãi Ơng) - Cù Lao Chàm hiện nay cịn hiện diện ngôi
miếu thờ Bạch Thố Kim Tinh, cư dân địa phương thường gọi là lăng Bà Bạch
hay lăng Bà Lớn.
Tại thơn Bãi Làng - Cù Lao Chàm có ngơi miếu thờ vị thần nữ, cư dân địa
phương thường gọi là lăng Cơ. Ngơi miếu có quy mơ nhỏ, niên đại khoảng cuối
thế kỷ 19. Xa xưa nơi này là nghĩa địa, những người làm nghề lưới sịng cùng
dân xóm Đình đóng góp kinh phí xây dựng ngơi miếu để thờ vị nữ thần này. Về
sau, do chiến tranh nhiều người trong đất liền đổ đến cư trú thành Xóm Mới nên
miếu nằm giữa xóm.
Có thể nói, tín ngưỡng thờ nữ thần đã đi sâu vào đời sống văn hóa tín
ngưỡng của cộng đồng cư dân Cù Lao Chàm, phản ánh vai trị quan trọng của
tín ngưỡng nữ thần trong đời sống tâm linh của con người nơi đây, đồng thời
thơng qua đó cịn thể hiện sự giao thoa văn hóa của vùng đất Cù Lao Chàm
trong tiến trình lịch sử, góp phần làm phong phú, đa dạng loại hình di sản văn
hóa địa phương - Cù Lao Chàm nói riêng, Hội An nói chung.
Phạm Phước Tịnh (2014), Về 12 Bà Mụ được thờ cúng ở Hội An, Đặc san Nghiên cứu lịch sử xứ
Quảng, số 5, 2014.
3

3


* Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Xuân Hương (2011), Tín ngưỡng thờ nữ thần của người Việt ở xứ Quảng,
Nxb Đà Nẵng, tr.12.
2. />3. Quốc sử quán triều Nguyễn (1997), Đại Nam Nhất thống Chí, tập 2, Nxb Thuận

Hóa, tr 358-359.
4. Vũ Ngọc Khánh – Mai Ngọc Chúc – Phạm Hồng Hà (2002), Nữ thần và Thánh mẫu
Việt Nam, Nxb Thanh niên, tr.224.
5. Vũ Ngọc Khánh – Mai Ngọc Chúc – Phạm Hồng Hà (2002), Nữ thần và Thánh mẫu
Việt Nam, Nxb Thanh niên, tr.176 – 187.
6. Trần Văn An, Thông tin nghiên cứu bảo tồn di sản, số 02 (34)-2016, Các vị thần
biển được thờ/tơn sùng tại các đình làng, lăng, miếu ở Hội An, tr.31.
7. Vũ Ngọc Khánh – Mai Ngọc Chúc – Phạm Hồng Hà (2002), Nữ thần và Thánh mẫu
Việt Nam, Nxb Thanh niên, tr.156 – 162.
8. Dương Văn An, Ô Châu cận lục, Nguyễn Khắc Thuần dịch, hiệu đính và chú giải,
Nxb Giáo dục Việt Nam, 2009, tr.95-97.
9. Dương Văn An, Ô Châu cận lục, Nguyễn Khắc Thuần dịch, hiệu đính và chú giải,
Nxb Giáo dục Việt Nam, 2009, tr.97-98.
10.
/>11. Ngơ Đức Chí, Đời sống cư dân Cù Lao Chàm dưới triều Nguyễn, tạp chí Văn hóa
Quảng Nam – 5 năm tạp chí Văn hóa Quảng Nam 2013-2017, Nxb Đà Nẵng, tr320.
12. Ngô Đức Thịnh, Ba dạng thức thờ Mẫu của người Việt, Website của khoa Văn hóa
học, trường Đại học KHXH&NV – ĐHQG TP.HCM.
13. Hồ sơ di tích - tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di sản Văn hóa Hội
An.
14. Viện Viễn Đông Bác cổ (1941-1943), Quảng Nam xã chí.

4



×