Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

ý nghĩa thực tiễn của lý luận tiền công của c mac đối với nền kinh tế nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.92 KB, 37 trang )

A. MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Học thuyết của C.Mác và P.Ăngghen hơn một trăm năm nay là cơ sở khoa
học của cuộc đấu tranh của phong trào công nhân quốc tế, cũng đã và đang là
kim chỉ nam cho mọi hành động của các nước xã hội chủ nghĩa. Trong cơng
cuộc xây dựng một cách có kế hoạch chế độ xã hội chủ nghĩa phát triển, việc
nắm vững một cách bao quát và vận dụng sáng tạo di sản tinh thần của C.Mac
và P.Ăngghen là càng quan trọng. Ý thức giác ngộ của những người lao động trở
thành một trong những động lực quan trọng nhất của sự phát triển xã hội chúng
ta. Những quan điểm của C.Mác và P.Ăngghen về những quy luật phát triển xã
hội, về sự dự đốn có tính chất khoa học và về tính chất cách mạng của các lực
lượng sản xuất cũng như về vai trị lịch sử của giai cấp cơng nhân và Đảng cách
mạng của nó, có ý nghĩa cấp thiết lớn lao trong thời kì hình thành chủ nghĩa xã
hội. Một trong những vấn đề được C.Mác và P.Ăngghen đề cập đến một cách cụ
thể, chi tiết và có ý nghĩa lý luận cũng như thực tiễn rất lớn đối với nền kinh tế
các nước xã hội chủ nghĩa nói riêng và nền kinh tế của cả thế giới nói chung đó
là vấn đề tiền cơng. Vấn đề này được C.Mác trình bày rất rõ ràng trong tác phẩm
BỘ TƯ BẢN được trích từ tuyển tập C.Mac & P.Ăngghen tồn tập, trong quyển
1 & quyển 3, Nxb chính trị quốc gia, năm 1980.
Lý luận về tiền lương của Mác là sự tiếp tục phát triển lý luận về tiền
lương của các nhà kinh tế cổ điển trước đó. Lý luận tiền lương của Mác đã vạch
rõ bản chất của tiền lương dưới CNTB đã bị che đậy – tiền lương là giá cả của
lao động, bác bỏ quan niệm của các nhà kinh tế tư bản trước đó (Ricardo).
Những luận điểm của Mác về tiền lương vẫn còn giá trị đến ngày nay. Như
chúng ta đã biết từ trước đến nay tiền công luôn là vấn đề cấp thiết đối với người
lao động. Một số chế định tiền công thích hợp sẽ tạo ra động lực lớn kích thích
người lao động hăng say sáng tạo và cống hiến cho xã hội.
Mặc dù ở nước ta chính sách tiền lương đã được cải cách. Tuy nhiên,
nhiều vấn đề cốt lõi vẫn chưa được giải quyết một cách thoả đáng, việc cải cách
chế độ tiên lương của nước ta trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
1




chủ nghĩa vẫn còn nhiều bất cập. Cho đến nay, thu nhập của người được hưởng
lương tăng, mức sống, tiêu dùng tăng, về cơ bản khơng do chính sách tiền lương
đem lại mà do tăng thu nhập ngoài lương, nhờ kinh tế tăng trưởng (tiền lương
Nhà nước trả chỉ chiếm một phần ba, thu nhập khác chiếm tới hai phần ba).
Việc hiểu và vận dụng đúng những nguyên lý về tiền lương của Mác trong điều
kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay có ý nghĩa rất lớn.Cải cách chính
sách tiền lương sẽ ảnh hưởng như thế nào đến lợi ích của người lao động, và nên
tiến hành cải cách như thế nào để đảm bảo được lợi ích người lao động, đến lợi
ích của tồn quốc gia ? Đây là vấn đề đã thu hút được sự quan tâm của đông đảo
người lao động và chuyên gia nghiên cứu. Xuất phát từ ý nghĩa lý luận và thực
tiễn Thấy rõ và thấy rõ được tầm quan trọng của tiền công đối với người lao
động tôi mạnh dạn chọn đề tài: “ý nghĩa thực tiễn của lý luận tiền công của
C.Mac đối với nền kinh tế nước ta hiện nay”
nhằm hiểu rõ hơn về hệ thống chính sách tiền lương ở Việt Nam, và đưa
ra các kiến nghị để hồn thiện hệ thống chính sách tiền lương ở Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay.
II. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Phân tích để hiểu rõ hơn về lý luận tiền công của C.Mác, cũng như sự vận
dụng lý luận tiền công của C.Mác vào thực tiễn của Việt Nam trong những năm
qua, kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế và đề ra những giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả việc vận dụng lý luận tiền công vào thực tiễn của nền kinh tế
Việt Nam.
III. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
1. Phạm vi nghiên cứu
Phần kinh tế chính trị C.Mác & V.I.Lênin mà trọng tâm là lý luận tiền
công trong chủ nghĩa tư bản.
2. Đối tượng nghiên cứu
- Lý luận tiền công của C.Mac

- Nền kinh tế Việt Nam đối với việc vận dụng lý luận tiền công của C.Mac.

2


IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phân tích, tổng hợp lý thuyết.
- Điều tra số liệu.
V. KẾT CẤU ĐỀ TÀI
Gồm có 3 phần
A. MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
C. KẾT LUẬN

3


B. NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN TIỀN CÔNG CỦA C. MÁC
Ở bề ngồi của đời sống xã hội tư bản, cơng nhân làm việc cho nhà tư
bản một thời gian nhất định, sản xuất ra một lượng hàng hóa hay hồn thành một
số cơng việc nào đó thì nhà tư bản trả cho một số tiền nhất định gọi là tiền công.
Trong tác phẩm: " Sự khốn cùng của triết học" C.Mác nhìn thấy nguồn
gốc sự vận động biện chứng trong đời sống mà tư tưởng, khái niệm phạm trù là
sự phản ánh nó. Khơng phê phán quan điểm coi quy luật kinh tế là tự nhiên và
vĩnh viễn. Giá trị khơng những là lao động được vật hóa trong hàng hóa mà cịn
là biểu hiện quan hệ sản xuất hàng hóa, nhưng là hàng hóa đặc biệt. Nó có đặc
tính là tạo ra giá trị và nó được trả trên thị trường. C.Mác chỉ ra hiệp tác đơn
giản, công trường thủ công, và nền đại công nghiệp là các giai đoạn phát triển
của chủ nghĩa tư bản.

Đầu năm 1849 tác phẩm "lao động làm thuê và tư bản” của C. Mác được
xuất bản. Trong tác phẩm C.Mác giải thích cơ sở kinh tế của sự thống trị của tư
bản và sự bóc lột làm th. Theo C.Mac, tiền cơng là giá cả của lao động đem đi
bán. Quan hệ giữa tư bản với lao động làm thuê là quan hệ cơ bản của xã hội tư bản.
1. Sự ra đời của khái niệm tiền công
1.1. Một số quan điểm về tiền công trước Mác
Chủ nghĩa trọng thương tan rã ngay từ thế kỉ XVII, trước hết ở Anh, một
nước phát triển nhất về mặt kinh tế ,đã tạo tiền đề cho sự phát triển các công
trường thủ công ở Anh, đặc biệt nghành dệt, sau đó là nghành cơng nghiệp khai
thác. Giai cấp tư sản đã nhận thức rằng: người nghèo là nguồn gốc làm giàu vô
tận cho những người giàu. Và để làm rõ nhận định trên ta hãy xem các nhà tư
tưởng nói về thu nhập, tiền cơng như thế nào ?
- Theo William Petty: cũng lấy lý luận giá trị làm cơ sở cho lý luận tiền
công. Ông xác định tiền công là khoản giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết tối thiểu.
Tiền công không thể vượt quá những sinh hoạt cần thiết tối thiểu. Nếu tiền cơng
nhiều thì cơng nhân khơng muốn làm việc. Nói một cách khác , muốn cơng nhân
làm việc thì biện pháp là hạ thấp tiền công xuống mức tối thiểu. Ông kịch liệt
4


phản đối những trường hợp tăng tiền công quá cao . Sở dĩ như vậy vì thời đại
W.Petty tư bản chưa có thể bắt cơng nhân lệ thuộc vào tư bản, tư bản phải dựa
vào sự ủng hộ của nhà nước, đề ra những đạo luật cấp tăng lương. Như vậy, mặc
dù có sai lầm, song W.Petty đó nêu được cơ sở khoa học của tiền lương là giá trị
của các tư liệu sinh hoạt.
- Theo Adam Smith - nhà kinh tế chính trị cổ điển nổi tiếng ở Anh và
trên thế giới, ơng có hai quan điểm về tiền công, tiền công ngang với sản
phẩm lao động và tiền công là phần thưởng của công nhân, do lao động của
cơng nhân tạo ra. Hai quan điểm đó giống nhau ở chỗ tiền cơng là thu nhập có
lao động. Việc coi tiền cơng ngang với sản phẩm lao động có nghĩa là coi tiền

công là giá cả của lao động. A.Smith không phủ nhận mâu thuẫn giai cấp khi
ông chỉ ra: "công nhân mà lĩnh được càng nhiều tiền công thì càng tốt, cịn ơng
chủ thì muốn trả càng ít càng hay". Theo ý ông, tiền công không thể hạ thấp
quá giới hạn nhất định vì: “người ta bao giờ cũng khó có khả năng sống bằng lao
động của mình”, ông tán thành tiền công cao. Theo ông, tiền công cao vốn là
hậu quả của việc tăng của cải ,đồng thời cũng là nguyên nhân tăng dân số".
A.Smith đã xem xét những ngun nhân khác nhau có tính chất nghề nghiệp
trong tiền công và ông cũng cho rằng tiền công của loại công nhân bậc thấp do
hai nhân tố quyết định: lượng cầu về lao động và giá cả thông thường hay trung
bình của lương thực. A.Smith cho rằng tiền công chịu sự tác động của nhân khẩu
và quy mô của tư bản quyết định tiền cơng. Ơng đã phân biệt một cách có lý
tiền cơng danh nghĩa và tiền cơng thực tế. A.Smith cũng có những hạn chế và sai
lầm về lý luận tiền công như: coi tiền công là giá cả của lao động, là phạm trù
đặc trưng cho tất cả các giai đoạn phát triển kinh tế.
- Theo David Ricardo: giá trị tạo được gồm hai phần, tiền lượng và lợi
nhuận. Và ông đã đi đến kết luận quan trọng về sự đối kháng giữa tiền lương và
lợi nhuận (ông nhận thấy quy luật của tư bản; năng suất lao động tăng lên tiền
lương giảm và lợi nhuận tăng). Một trong những công lao to lớn của ông là đã
phân tích được tiền công thực tế và xác định nó như là một phạm trù kinh tế.
Ơng nhấn mạnh rằng lượng hàng hóa người cơng nhân mua được bằng tiền công
5


chưa quyết định địa vị xã hội của người đó, sự quyết định tình hình của người
cơng nhân phụ thuộc vào mối tương quan giữa tiền lương và lợi nhuận.
- Theo sismondi, để có hạnh phúc chung, thì thu nhập phải tăng cùng lúc
với tư bản, mức tăng dân số khơng vượt q việc tăng thu nhập. Nói về tiền
cơng, ông đi theo quan điểm của Adam smith coi tiền cơng phụ thuộc vào tích
lũy tư bản, vào số lượng công nhân, cung cầu về lao động. Sissmondi lập lại
quan điểm tầm thường về sự tác động qua lại trực tiếp giữa sự gia tăng tiền công

và tăng dân số. Sismondi cơng khai nói về tình trạng điêu đứng của cơng nhân
do sự phát triển của sản xuất cơ khí. Ông nhấn mạng thất nghiệp là hiện tượng
thường xuyên. Ông chống lại quan điểm cho rằng việc tiêu dùng máy hơi nước
làm giảm nhu cầu lao động ở ngành này lại tăng nhu cầu lao động ở ngành khác.
1.2. Quan điểm của C.Mác về tiền công
1.2.1. chất kinh tế của tiền công
Bản chất, nguồn gốc và những thủ đoạn chiếm đoạt giá trị thặng dư đã
được C.Mác và P.Ăngghen phân tích. Nhưng giá trị thặng dư lại có mối liên hệ
chặt chẽ với tiền cơng. Vì vậy, sự nghiên cứu về tiền cơng của C.Mác một mặt
có tác dụng hồn chỉnh lý luận giá trị thặng dư, nhưng mặt khác lại tạo ra một lý
luận độc lập về tiền công.
Để hiểu bản chất kinh tế của tiền công dưới chủ nghĩa tư bản, cần chứng
minh người công nhân bán sức lao động chứ không phải bán lao động. Lao động
sống là nguồn gốc của giá trị, nó khơng phải là hàng hóa và tự nó khơng có giá
trị. C.Mác là người đầu tiên phát hiện, và giải quyết triệt để bản chất của tiền
công dưới chủ nghĩa tư bản. Bản chất kinh tế của tiền cơng là hình thái giá trị
của sức lao động, là sự thể hiện bằng tiền của giá trị sức lao động.
Ở trên bề mặt của xã hội tư bản, tiền công của công nhân thể hiện ra thành
giá cả của lao động, thành một số lượng tiền nhất định trả cho một số lượng
người lao động nhất định. Ở đây người ta nói đến giá trị của lao động là biểu
hiện bằng tiền của giá trị đó và là giá cả tất yếu hay giá cả tự nhiên của lao động.
Mặt khác người ta lại nói đến với những giá cả thị trưởng của lao động tức là giá
cả lên xuống trên dưới giá cả tất yếu của lao động.
6


Những người cơng nhân có khả năng làm cho lao động của mình có được
một sự tồn tại độc lập thì người cơng nhân sẽ bán hàng hóa chứ khơng phải là
bán sức lao động. Nếu khơng nói tới những mâu thuẫn ấy thì một sự trao đổi tiền
tức là lao động đã vật hóa trực tiếp với động sống, học giả sẽ xóa bỏ quy luật giá

trị là quy luật chỉ tự do phát triển trên cơ sở nền sản xuất. Tư bản chủ nghĩa,
hoặc giả sẽ xóa bỏ bản thân nền sản xuất tư bản chủ nghĩa và nền sản xuất đã dự
trên lao động làm thuê. Trên thực tế, cái trực tiếp với đối diện với kẻ sở hữu tiền
trên thị trường hàng hóa khơng phải là lao động mà là người lao động. Cái mà
người lao động bán là sức lao động của anh ta một khi lao động của anh ta thực
sự bắt đầu, thì nó khơng cịn phụ thuộc vào anh ta nữa, do đó anh ta khơng cịn
có thể bán lao động đó được. Lao động là thực thể và là thước do nội tại của giá
trị, nhưng bản thân lao động thì khơng có giá trị. Cái giá cả chi phối những giá
cả thị trường ngẫu nhiên của lao động và điều tiết các giá cả ấy, cái "giá cả tất
yếu "hoặc giá cả tự nhiên" đó của lao động, cũng giống như ở các hàng hóa khác
chỉ có thể là giá trị của lao động được biểu hiện thành tiền mà thôi. Cái gọi là giá
trị của lao động thật ra là giá trị của sức lao động tồn tại trong con người của
người lao động và khác với chức năng của nó tức là với lao động, cũng giống
như cái máy khác với những động tác của máy vậy.
Như chúng ta đã biết, giá trị hàng ngày của sức lao động được tính theo
một tuổi thọ nào đó của người cơng nhân và tương ứng với nó là ngày lao động
có một độ dài nhất định. Do vậy giá trị của sức lao động quyết định giá trị của
lao động. Ngược lại, nếu giá trị của sức lao động chênh lệch với giá trị của nó
thì giá cả của lao động cũng chênh lệch với cái gọi là giá trị của lao động. Vì giá
trị của lao động chỉ là biểu hiện bất hợp lí của giá trị sức lao động, nên cũng dễ
hiểu rằng giá trị của lao động bao giờ cũng ít hơn sản phẩm, bởi vì nhà tư bản
bao giờ cũng ít buộc sức lao động hoạt động lâu hơn số thời gian cần thiết để tái
sản xuất ra giá trị của bản thân nó.
Hình thái tiến đó xóa bỏ mọi vết tích phân chia ngày lao động ra thành
lao động cần thiết và lao động thặng dư, thành lao động được trả công và lao
động không cơng. Tồn bộ lao động thể hiện ra như là lao động được trả công. Ở
7


lao động làm thuê thì ngay cả lao động thặng dư, hay lao động không công cũng

thể hiện ra như là lao động được trả công. Quan hệ sở hữu đã che mất lao động
làm cho mình của người nơ lệ cịn ở đây thì quan hệ tiền tệ đã che mất lao động
không công của người lao động làm thuê.
Sự trao đổi giữa nhà tư bản và lao động mới thoạt nhìn thì hồn tồn
chẳng khác gi với việc mua và bán mọi thứ hàng hóa khác. Người mua đưa ra
một số tiền nhất định, người bán đưa ra một vật phẩm khác với tiền. Tiếp nữa ,vì
giá trị tao đổi và giá trị sử dụng tự chúng là những đại lượng không thể đo chung
được , cho nên nói "giá trị của lao động", "giá cả của lao động" hình như cũng
chẳng phi lý gì hơn là nói "giá trị của bông", “giá cả của bông”. Nhưng trong
chức năng làm phương tiện thanh tốn của mình thì mãi về sau, tiền mới thực
hiện giá trị hay giá cả của vật phẩm đã cung cấp. Cuối cùng, cái "giá trị sử
dụng" mà người công nhân cung cấp cho nhà tư bản thật ra không phải là sức
lao động mà là sự hoạt động của sức đó, là một lao động hữu ích nhất định: các
sự kiện là, cũng lao động ấy, về mặt khác, lại là yếu tố phổ biến tạo nên giá trị
-một thuộc tính làm cho lao động khác với tất cả hàng hóa khác - sự kiện đó, ý
thức đó, ý thức thơng thường khơng thể hiểu nổi.
Như vậy nếu lao động là hàng hóa, thì nó phải có trước, phải được vật hóa
trong một hình thức cụ thể nào đó. Tiền đề để cho lao động vật hóa được là phải
có tư liệu sản xuất. Nhưng nếu người lao động có tư liệu sản xuất, thì họ sẽ bán
hàng hóa của mình sản xuất ra, chứ không phải bán “lao động”.
Việc thừa nhận lao động là hàng hóa dẫn tới một trong hai mâu thuẫn về
lý luận sau đây:
Thứ nhất: nếu lao động là hàng hóa và nó được trao đổi ngang giá, thì nhà
tư bản không thu được lợi nhuận ( giá trị thặng dư), điều này phủ nhận sự tồn tại
thực tế của quy luật giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản.
Thứ hai: cịn nếu “hàng hóa lao động” được trao đổi khơng ngang giá để
có giá trị thặng dư cho nhà tư bản, thì phải phủ nhận quy luật giá trị.
Nếu lao động là hàng hóa, thì hàng hóa đó cũng phải có giá trị. Nhưng lao
động là thực thể và là thước đo nội tại của giá trị, bản thân lao động thì khơng có
8



giá trị. Vì thế, lao động khơng phải là hàng hóa. Cái mà cơng nhân bán cho nhá
tư bản chính là sức lao động.
Do đó tiền cơng mà nhà tư bản trả cho công nhân là giá cả của sức lao
động . Vậy bản chất của tiền công trong chủ nghĩa tư bản là hình thức biểu hiện
bằng tiền của giá trị sức lao động, hay giá cả của sức lao động, nhưng lại biểu
hiện ra bề ngoài thành giá cả của lao động.
Hình thức biểu hiện đó đã gây ra sự nhầm lẫn. Điều đó là do nhửng thực
tế sau đây:
Thứ nhất: đặc điểm của hàng hóa sức lao động là khơng bao giờ tách khỏi
người bán, nó chỉ nhận được giá cả khi đã cung cấp giá trị sử dụng cho người
mua, tức là lao động cho nhà tư bản, do đó bề ngồi nhà tư bản trả giá trị cho
nhà lao động.
Thứ hai: đối với công nhân, toan bộ lao động trong cả ngày là phương tiện
để có tiền sinh sống, do đó bản thân cơng nhân cũng tưởng rằng mình bán lao
động. Cịn đối với nhà tư bản bỏ tiền ra là để có lao động, nên cũng nghĩ rằng
cái mà họ mua là lao động.
Thứ ba: số lượng tiền công phụ thuộc vào thời gian lao động hoặc số
lượng sản phẩm xuất ra, điều đó làm cho người ta lầm tưởng rằng tiền công là
giá cả của lao động.
Tiền công đã che đậy mọi dấu vết của sự phân chia ngày lao động thành
thời gian lao động thặng dư, thành lao động được trả công và lao động khơng
được trả cơn, do đó tiền cơng che đậy mất bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.
1.2.2. Các chức năng cơ bản của tiền công
- Chức năng giá trị:
Như đã nêu ở trên, tiền công là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao
động, đươc biểu hiện ra bên ngoài là giá cả của sức lao độn. Vì vậy tiền cơng là
giá cả của sức lao động. vì vậy tiền cơng chính là thước đo sức lao động, được
biểu hiện ra bên ngoài như giá trị lao động cụ thể của việc làm được trả cơng.

Nói cách khác, giá trị của việc làm được phản ánh thơng qua tiền cơng. Nếu việc
làm có giá trị càng cao thì tiền cơng càng cao.
9


Theo Mác, tiền công là biểu hiện giá trị sức lao động, đó là giá trị của
những tư liệu sản xuất cần thiết để duy trì cuộc sống người có sức lao động, theo
điều kiện kinh tế, xá hội và trình độ văn minh của mỗi nước. Gía trị sức lao động
bao hàm cả yếu tố lịch sử, vật chất và tinh thần. Ngồi ra, duy trì và phát triển
sức lao động thì người lao động cịn phải sinh con, nuôi dưỡng con, cho nên
những tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất ra sức lao động thì phải gồm những
tư liệu sinh hoạt cho co cái họ. theo họ, chức năng cơ bản của tiền cơng cịn là
nhằm duy trì và phát triển đước sức lao động. Gía trị sức lao động là điểm xuất
phát trong mọi bài tín của sản xuất xã hội nói chung và của người sử dụng lao
động nói riêng. Gía trị sức lao động mang tính khách quan, đươ]cj quyết định và
điều tiết không theo ý muốn của cá nhân nào, dù là ngườ là cơng hay người sử
dụng lao động. Nó là két quả của sự mặc cả trên thị trường lao động giữa người
có sức lao động bán và người sử dụng lao động mua.
- Kích thích lao động và phát triển nguồn nhân lực.
Tiền cơng là thu nhập chính đáng của người lao động nhằm thỏa mãn
phần lớn các nhu cầu về vật chất và tinh thần của người lao động. Do vậy các
mức tiền cơng là các địn bẩy kinh tế rất quan trong để định hướng sự quan tâm
và động cơ trong lao động của người lao động. Khi độ lớn của tiền công phụ
thuộc vào hiệu quả sản xuất của cơng ty nói chung và cá nhân người lao động
nói riêng thì họ sẽ quan tâm đến việc không ngừng nâng
- Thúc đẩy sự phân công lao động xã hội phát triển:
Nâng cao hiệu quả lao động, cao năng suất lao động và chất lượng công
việc.năng suất lao động suy cho cùng là nguồn gốc để tăng thu nhập, tăng khả
năng thỏa mãn các nhu cầu của người lao động. Khác với thị trường hàng hóa
bình thường, cầu về lao động không phải là cầu về cầu về bản thân nó mà là cầu

dẫn xuất, tức là phụ thuộc vào khả năng tiêu thụ của sản phẩm do lao động tạo ra
và mức giá cả của hàng hóa này. Tổng mức tiền cơng quyết định tổng cầu về
hàng hóa và dịch vụ cần thiết sản xuất cũng như giá cả của nó. Do vậy tiền cơng
phải dựa trên cơ sở tăn năng suất lao động, việc tăng năng suất lao động luôn

10


luôn dẫn đến sự tái phân bố lao độn. Theo quy luật thị trường, lao độn sẽ tái
phân bố vào các khu vực có năng suất cao hơn để nhận được các mức lương cao hơn.
- Chức năng xã hội của tiền cơng:
Cùng với việc kích thích, khơng ngừng nâng cao năng suất lao động, tiền
cơng cịn là yếu tố kích thích việc hồn thiện các mối quan hệ lao động. Thực tế
cho thấy, việc duy trì các mức tiền công cao và tăng không ngừng chỉ được dựa
trên cơ sở hài hòa các mối quan hệ lao động trong các doanh nghiệp. Việc gắn
tiền công với hiệu quả của người lao động và đơn vị kinh tế sẽ thúc đẩy các mối
quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau, nâng cao hiệu quả cạnh tranh của công ty.
Bên cạnh đó, tạo tiên đề cho sự phát triển tồn diện của con người và thúc đẩy
xã hội phát triển theo hướng dân chủ, văn minh.
1.2.3. Các hình thức cơ bản của tiền cơng
Bản thân tiền cơng, đến lượt nó ,lại khốc lấy rất nhiều hình thức khác
nhau mà các cuốn sách chỉ nam về kinh tế chính trị khơng hề cho chúng ta biết,
vì trong khi quá quan tâm đến mặt vật chất, chúng ta coi thường mọi sự khác
nhau về hình thức. Tiền cơng có hai hình thức cơ bản là tiền cơng tính theo thời
gian và tiền cơng tính theo sản phẩm.
Tiền cơng tính theo thời gian là hình thức tiền cơng mà số lượng của nó ít
hay nhiều tùy theo thời gian lao động của công nhân( giờ, ngày ,tháng ...) dài
hay ngắn. Số tiền mà người công nhân nhận được về ngày lao động, tuần lao
động ,...của mình là số tiền cơng danh nghĩa của anh ta, hay tiền công được đánh
giá theo giá trị. Nhưng tùy theo độ dài của ngày lao động ,tùy theo số lượng do

người công nhân cung cấp hằng ngày ,mà cũng một số tiền công ngày ,tiền công
tuần ... như nhau lại có thể đại diện cho một giá cả lao động rất khác nhau, tức là
đại diện những số tiền rất khác nhau trả cho cùng một số lượng lao động. Vì vậy
khi nói đến tiền cơng tính theo thời gian thì lại phải phân biệt tổng số tiền công
với giá cả lao động. Nhưng làm thế nào để tính được giá cả ấy, hay giá trị bằng
tiền của một lượng lao động nhất định? Chúng ta sẽ có được giá cả trung bình
của lao động bằng cách đem chia giá trị hàng ngày trung bình của sức lao động
cho số giờ của ngày lao động trung bình. Giá cả đó sẽ dùng làm đơn vị để đo giá
11


cả của lao động. Những sự tăng lên của tiền cơng danh nghĩa hàng ngày hay
hàng tuần có thể đi kèm theo với một giá cả lao động không đổi hay tụt xuống.
Nhưng quy luật chung là: Nếu số lượng lao động hàng ngày hay hàng tuần... đã
cho sẵn thì tiền công hàng ngày hay hàng tuần phụ thuộc vào giá cả lao động,
bản thân giá cả này lại biến đổi cùng với giá trị sức lao động hay cùng với
những chênh lệch của giá cả sức lao động so với giá trị của nó. Ngược lại nếu
giá cả lao động cho sẵn thì tiền cơng ngày hay tiền cơng tuần phụ thuộc vào số
lượng lao động hàng ngày hay hàng tuần. Bây giờ, nhà tư bản có thể bóp nặn
của công nhân một số lượng lao động thặng dư nhất định mà không cần phải
dành cho anh ta số thời gian lao động cần thiết để duy trì sự sống của mình. Nhà
tư bản có thể xóa bỏ mọi sự đều đặn trong cơng việc và hồn tồn căn cứ vào sự
tiện lợi, tính tùy tiện và lợi ích trước mắt của mình mà thay thế những thời kỳ
lao động quá mức ghê gớm bằng những thời kỳ thất nghiệp bộ phận hoặc hoàn
toàn. Mượn cớ trả giá cả bình thường của lao động nhà tư bản có thể kéo dài
ngày lao động một cách bất bình thường mà khơng đền bù thích đáng gì cho
cơng nhân cả.
Từ quy luật" với giá cả lao động đã cho sẵn thì tiền công hàng ngày hay
tiền công tuần phụ thuộc vào số lương lao động đã cung cấp", trước hết có thể
rút ra kết luận nói rằng: Giá cả lao động càng thấp thì số lượng lao động phải

càng lớn, hoặc ngày lao động lại phải càng giảm, để đảm bảo cho cơng nhân có
được dù là một số tiền cơng trung bình thảm hại. Ở đây, mức giá cả lao động
thấp tác động như là một yếu tố kích thích việc kéo dài thời gian lao động.
Nhưng trái lại, việc kéo dài ngày lao động đến lượt nó cũng làm cho giá cả lao
động tụt xuống và do đó làm cho tiền công tuần cũng tụt xuống.
Nhà tư bản không hề biết rằng ngay cả giá cả bình thường của lao động
cũng bao gồm một số lượng lao dộng không cơng nhất định, và chính lao động
khơng cơng ấy là cái nguồn lợi nhuận của hắn. Phạm trù thời gian lao động
thặng dư nói chung khơng tồn tại đối với nhà tư bản, vì thời gian lao động thặng
dư này đã nằm trong ngày lao động bình thường mà hắn cho rằng đã trả trong
tiền công này rồi. Nhưng đối với hắn thì thời gian ngoại ngạch, tức là việc kéo
12


dài ngày lao động ra quá giới hạn tương ứng với giá cả lao động có tồn tại.
Thậm chí hắn cịn muốn bắt những người bán với giá bình thường cạnh tranh
với hắn phải trả thêm thời gian ngoại ngạch ấy nữa. Nhưng hắn cũng lại không
biết rằng số tiền trả thêm đó vẫn bao gồm lao động khơng cơng, cũng giống như
giá cả của giờ lao động bình thường vậy.
Tiền cơng tính theo thời gian lao động được trực tiếp đô bằng thời gian đo
bằng thời gian dài ngắn của nó, cịn trong tiền cơng tính theo sản phẩm thì lao
động được đo bằng số lượng sản phẩm trong đó lao động đã ngưng đọng lại
trong một khoảng thời gian nhất định.
Tiền cơng tính theo sản phẩm chẳng qua cũng chỉ là hình thức chuyển hóa
của tiền cơng tính theo thời gian, cũng giống như tiền cơng tính theo thời gian là
hình thức chuyển hóa của giá trị hay giá cả của sức lao động. Trong tiền cơng
tính theo sản phẩm, mới thoạt nhìn thì hình như giá trị sử dụng do công nhân
bán ra không phải là chức năng của sức lao động mà là lao động đã vật hóa
trong sản phẩm, và hình như giá cả của lao động đó khơng phải do phân số:
Giá trị hàng ngày của sức lao động

Ngày lao động của một số giờ nhất định
Quyết định như trong tiền cơng tính theo thời gian mà là do năng lực công
tác của một người sản xuất nhất định.
Tiền cơng tính theo sản phẩm cung cấp cho nhà tư bản một cái thước đo
hoàn tồn chính xác để đo cường độ lao động. Chỉ có thời gian lao động nào
nhập vào một khối lượng sản phẩm đã được quy định trước, do kinh nghiệm xác
lập, thì mới được coi là thời gian lao động xã hội cần thiết và mới được trả công
với tư cách là một thời gian lao động như thế.
Trong chế độ tiền cơng tính theo thời gian, trừ rất ít ngoại lệ ra người ta
trả một tiền công như nhau cho những cơng việc như nhau, cịn trong chế độ tiền
cơng tính theo sản phẩm thì mắc dù giá cả của thời gian lao động được đo bằng
một số lượng sản phẩm nhất định, nhưng tiền công ngày và tiền cơng tuần lại
thay đổi tùy theo sự khác nhau có tính chất cá nhân giữa các cơng nhân. Phạm vi
hoạt động lớn hơn mà tiền cơng tính theo sản phẩm mang lại cho nhà tư bản
13


trong việc quản lý, giám sát quá trình lao động của cơng nhân dễ dàng hơn. Mặt
khác sẽ góp phần phát triển cá tính, tinh thần tự do, tính độc lập, khả năng tự
kiểm tra của người công nhân và đẻ ra sự cạnh tranh giữa cơng nhân với nhau,
kích thích cơng nhân lao động tích cực, khẩn trương tạo ra nhiều sản phẩm để
nhận được tiền công cao hơn. Vì vậy, trong khi nâng tiền cơng cá nhân lên cao
hơn mức trung bình thì tiền cơng tính theo sản phẩm đồng thời lại có xu hướng
hạ thấp chính ngay mức trung bình đó xuống. Nhưng nơi nào mà một tiền cơng
tính theo sản phẩm nhất định đã được cố định từ lâu theo truyền thống rồi và do
đó mà mọi việc hạ thấp tiền cơng cũng gặp khó khăn đặc biệt. Ta thấy, đối với
những hình thức biểu hiện như "giá trị và giá cả của lao động'', hay tiền cơng,
khác với cái quan hệ cơ bản mà nó biểu hiện, tức là khác với giá trị và giá cả của
lao động, thì sự việc cũng giống như đối với tất cả mọi hình thức biểu hiện và
cái cơ sở bị che đậy ở đằng sau những hình thức đó. Khoa kinh tế chính trị cổ

điển đã đi rất gần đến tình hình thực sự của sự vật, nhưng đã khơng nêu được
tình hình đó lên một cách có ý thức. Và nó khơng thể làm được điều đó, khi nó
cũng chưa trút bỏ được cái lớp da tư sản của nó đi.
1.2.4. Tiền cơng danh nghĩa và tiền công thực tế
Tiền công danh nghĩa là số tiền mà người công nhân nhận được do bán
sức lao động của mình cho nhà tư bản. Tiền cơng được sử dụng để tái sản xuất
sức lao động, nên tiền công danh nghĩa phải được chuyển hóa thành tiền cơng
thực tế.
Tiền cơng thực tế là tiền công được biểu hiện bằng số lượng hàng hóa đã
tiêu dùng và dịch vụ mà cơng nhân mua được bằng tiền cơng danh nghĩa của mình.
Tiền công danh nghĩa là giá cả sức lao động, nên nó có thể tăng lên hay
giảm xuống tùy theo sự biến động của quan hệ cung – cầu về hàng hóa sức lao
động trên thị trường. Trong một giai đoạn nào đó, nếu tiền cơng danh nghĩa
khơng thay đổi, nhưng giá cả tư liệu tiêu dùng và dịch vụ tăng lên hoặc giảm
xuống, thì tiền cơng thực tế sẽ giảm xuống hay tăng lên.
Tiền công là giá cả của sức lao động, nên sự vận đơng của nó gắn liền với
sự biến đổi của giá trị sức lao động. Lượng giá trị sức lao động chịu ảnh hưởng
14


của các nhân tố tác động ngược chiều nhau. Nhân tố tác động làm tăng giá trị
sức lao động như: sự nâng cao trình độ chun mơn của người lao động, sự tăng
cường độ lao động và sự tăng lên của nhu cầu cùng với sự phát triển của xã hội.
Nhân tố tác động làm giảm giá trị sức lao động, đó là sự tăng năng suất lao động
làm cho giá cả tư liệu tiêu dùng rẻ đi. Sự tác động qua lại của các nhân tố đó dẫn
tới quá trình phức tạp của biến động giá trị sức lao động, do đó dẫn tới sự biến
đổi phức tạp của tiền công thực tế.
1.2.5. Xu hướng vận động của tiền công dưới chủ nghĩa tư bản
Nghiên cứu sự vận động của tiền công dưới chủ nghĩa tư bản C.Mac đã
vạch ra rằng xu hướng chung có tính quy luật sự vận động của tiền công dưới

chủ nghĩa tư bản không phải là nâng cao mức tiền cơng trung bình mà là hạ thấp
mức tiền công ấy. Bởi lẽ trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, tiền
cơng danh nghĩa có xu hướng tăng lên, nhưng mức tăng của nó nhiều khi khơng
theo kịp mức tăng giá cả tư liệu tiêu dùng và dịch vụ, đồng thời thất nghiệp là
hiện tượng thường xuyên, khiến cho cung về lao động làm thuê vượt quá cầu về
lao động, điều đó cho phép nhà tư bản mua sức lao động dưới giá trị của nó “bắt
người cơng nhân phải tn theo mọi địi hỏi của nhà tư bản đó”(Trang 50), vì
vậy tiền cơng thực tế của giai cấp cơng nhân có xu hướng hạ thấp.
Cùng với sự tăng năng suất lao động thì giá cả về tư liệu sinh hoạt của
cơng nhân rẻ đi nên tiền cơng thực tế có khả năng tăng lên. Nhưng tiền công
thực tế vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thực sự của người công nhân và sự
chênh lệch giữa chúng không những được thu hẹp mà ngược lại cịn tăng lên:
“khi tiền cơng tăng lên thì trong đại đa số các trường hợp, có chỗ tiền cơng vẫn y
ngun và có chỗ tiền cơng lại hạ xuống”(T51). “Việc tăng tiền công một cách
phổ biến sẽ làm tăng lượng cầu về tư liệu sinh hoạt và do đó sẽ làm tăng giá cả
thị trường của những tư liệu sinh hoạt đó. Các nhà tư bản sản xuất ra những tư
liệu ấy sẽ bù được thiệt hại của họ do việc tăng tiền công gây ra, bằng cách tăng
giá cả hàng hóa của họ trên thị trường” (Trang 95, Mác – Ăngghen toàn tập,
quyển 3). Mặt khác tiền công cao lên gây ra cho công nhân dục vọng muốn làm

15


giàu theo kiểu tư bản chủ nghĩa, nhưng công nhân chỉ thỏa mãn dục vọng đó
bằng cách hi sinh tinh thần và thể xác của mình” ( T55).
Thị trường sức lao động ln ở tình trạng cung về lao động vượt quá cầu
về lao động, “Giống như đối với bất kỳ thứ hàng hóa nào khác, số cầu về người
tất nhiên quy định sự sản xuất ra con người, nếu số cung vượt q số cầu thì một
bộ phận cơng nhân rơi vào cảnh ăn xin hay chết đói”( T50) do đó sự cạnh tranh
giữa cơng nhân tăng lên điều đó cho phép nhà tư bản thấy rằng hàng hóa sức lao

động buộc phải bán trong mọi điều kiện, vì cơng nhân khơng có cách nào khác
để sinh sống, mức lương trung bình bình giảm xuống cịn do hàng triệu người
khơng có việc làm đầy đủ trong năm, nói chung là họ khơng có tiền cơng. “ sự
tồn tại của công nhân bị quy thành điều kiện tồn tại của bất cứ thứ hàng hóa nào
khác”(Trang 50).
Sự biến động của giá cả thị trường cũng là một trong những nhân tố làm
ảnh hưởng tới tiền công của người công nhân, “vì giá cả thị trường xoay xung
quanh giá cả tự nhiên, cho nên công nhân là người chịu thiệt nhất và phải chịu
thiệt”(Trang 50). Nên chỉ cần một biến động nhỏ trên thị trường cũng làm ảnh
hưởng không nhỏ tới đời sống của ngưới công nhân. Hơn nữa “ những giá cả
của lao động thì ổn định hơn nhiều so với những giá cả của tư liệu sinh hoạt”
(Trang 51). Vì vậy “khi nhà tư bản được lợi, người lao động không nhất thiết
cũng phải được lợi, nhưng người lao động thì nhất định phải bị thiệt cùng nhà tư
bản”(T51).
Thêm vào đó sự phân cơng lao động xã hội cũng ảnh hưởng không nhỏ
tới sự vận động của tiền công dưới chủ nghĩa tư bản, “ngay cả trong trạng thái
xã hội có lợi nhất cho cơng nhân, hậu quả tất yếu đối với giai cấp cơng nhân
cũng là tình trạng lao động vơ độ, tình trạng bị chết yểu, tình trạng bị hành hạ
xuống thành một cái máy, một nô lệ của tư bản là cái đang được tích lũy lại một
cách nguy hiểm cho công nhân” (T54 – 55). khi xã hội tư bản tích lũy được càn
nhiều tư bản, đẩy nhanh quá trinh phân công lao động xã hội, người lao động “
khơng những khơng tích thể mua được tất cả mọi cái mà buộc phải bán bản thân
mình và tư cách người của mình nữa” (T 57). Không thể phủ nhận rằng phân
16


cơng lao động xã hội có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển kinh tế cũng như
xã hội của một quốc gia, đất nước “sự phân công lao động xã hội làm tăng sức
sản xuất của lao động, sự giàu có và hoa lệ của xã hội” ( T 58) nhưng chúng ta
cũng buộc phải thừa nhận rằng mặt trái của nó là “nó lại làm cho cơng nhân bần

cùng đến mức trở thành một cái máy, lao động dẫn tới sự tích lũy tư bản và do
đó dẫn tới sự phồn vinh ngày càng tăng của xã hội, nhưng nó lại làm cho cơng
nhân ngày càng phụ thuộc vào các nhà tư bản , đặt công nhân vào một sự cạnh
tranh ngày càng mạnh, đẩy công nhân vao cái nhịp điệu điên cuồng của sản xuất
quá thừa mà tiếp theo đó là một sự tiêu điều cũng sâu như vậy” (T 58).
Nhưng sự hạ thấp của tiền công thực tế chỉ diễn ra như một xu hướng vì
có những nhân tố chống lại sự hạ thấp tiền công, đó là cuộc đấu tranh của giai
cấp cơng nhân địi tăng tiền công. Trong xã hội tư bản luôn luôn diễn ra cuộc
đấu tranh gay gắt và không ngừng giữa tư bản và lao động, “nhà tư bản không
ngừng tim cách hạ thấp tiền công tới mức tối thiểu về thể xác và kkeos dài ngày
lao động tới mức tối đa về thể xác, cịn cơng nhân thì khơng ngừng gây sức ép
theo hướng ngược lại” ( T 157).
Trong các nước tư bản phát triển, mức lương thường cao hơn các nước
đang phát triển. Nhưng ở đó có sự bóc lột cao hơn, kỹ thuật tổ chức lao động
hiện đại được áp dụng. Gía cả hàng hóa sức lao động thấp là nhân tố thu hút tư
bản độc quyền vào các nước đang phát triển . Mặt khác, trong điều kiện của chủ
nghĩa tư bản ngày nay, do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ
nên nhu cầu về sức lao động có chất lượng ngày càng tăng đã buộc giai cấp tư
sản phải cải tiến tổ chức lao động cũng như kích thích người lao động bằng lợi
ích vật chất.
Trong điều kiện chủ nghĩ tư bản hiện đại, tiền cơng theo thời gian với
những hình thức đa dạng chiếm ưu thế trong việc tìm kiếm những phương pháp
mới nhằm bóc lột lao động làm thu, giai cấp tư sản buộc phải thừa nhận vai trò
của con người trong quá trình sản xuất và điều chỉnh lại việc tổ chức lao động
cũng như kích thích người lao động.

17


Sự bóc lột lao động làm thuê ở các nước tư bản phát triển cịn có những

hình thức che dấu tinh vi hơn. Khi thiên về sự củng cố “mối quan hệ con người”,
về sự thống trị của các nguyên tắc “cơng ty là một gia đình”, giai cấp tư sản hiện
đại thực hiện mưu toan thuyết phục công nhân rằng lợi ích của xí nghiệp, lợi ích
của tư bản thống nhất với lợi ích của cơng nhân. Vai trị kích thích của tiền cơng
được sử dụng vào mục đích đó. Khơng phải chỉ có thái độ tận tâm với công việc
mà sự phục vụ trung thành cho công ty cũng được kích thích bởi đại lượng và
hình thức của tiền cơng. Điều đó có nghĩa là khơng chỉ bằng hình thức tiền cơng,
mà cịn bằng tổ chức tiền cơng dựa trên cơ sở tâm lý của hoạt động lao động,
giai cấp tư sản rất muốn thủ tiêu hoặc làm dịu bớt mâu thuẫn giữa tư bản và lao
động. Đó là đặc trưng của những liên hiệp lớn hiện đại, ở đó các nhà tư bản đã
khơng tiếc tiền chi vào những chi phí nhằm tạo ra ra “bầu khơng khí tin cậy” để
hình thành ở người cơng nhân “ý thức người làm chủ”. Tính mềm dẻo trong sự
vận dụng các hình thức khác nhau của tiền cơng, việc tính toán những yêu cầu
kỹ thuật tổ chức và tâm lý khi trang bị nơi làm việc đã dẫn đến tăng năng suất
lao động và tăng chất lượng sản phẩm, tất cả đều nhằm mục đích duy nhất và
khơng bao giờ thay đổi, đó là tăng giá trị thặng dư.
II. Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA LÝ LUẬN TIỀN CÔNG CỦA C.
MÁC ĐỐI VỚI VIỆT NAM
1. Chính sách tiền lương ở Việt Nam
Chính sách tiền lương là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính
sách kinh tế xã hội của đất nước. Chính sách này liên quan chặt chẽ đến lợi ích,
thói quen và tâm lý của đơng đảo người lao động. Từ ngày thành lập nước đến
nay chế độ tiền lương đã nhiều lần cải tiến, ở đây trong phạm vi đề tài chỉ đề cập
đến 2 lần cải cách gần nhất để đánh giá thực trạng chính sách và cơ chế tiền
lương ở nước ta.
1.1. Đặc điểm và nội dung của chính sách tiền lương qua các thời kỳ
Chính sách tiền lương ban hành theo nghị định số 235/HĐBT ngày
18/9/1985 của hội đồng bộ trưởng theo điều kiện tổng điều chỉnh giá, lương, tiền

18



nhưng vẫn dựa trên cấu trúc kinh tế xã hội của mơ hình quản lý trực tiếp cứng
của nhà nước, chưa có sự thay đổi trong cơ chế quản lý kinh tế.
Cơ chế quản lý tiền lương là một bộ phận cấu thành cơ chế quản lý kinh
tế. Trong những năm 1980, cơ chế quản lý kinh tế vẫn còn được thực hiện theo
mơ hình kế họach hóa tập trung quan liêu, bao cấp trong đó lao động và tiền
lương của các đơn vị, các doanh nghiệp, và các cơ quan nhà nước đều phải kế
hoạch hóa do ngân sách nhà nước chi trả. Đối với các xí nghiệp quốc doanh sau
khi hồn thành kế hoạch đều được trích một phần lợi nhuận định mức do nhà
nước ổn định để lập các quỹ xí nghiệp và phân phối bổ sung cho công nhân, viên chức.
Về công cụ quản lý tiền lương. Mức tiền lương tối thiểu và các mức lương
trong hệ thống thang lương, bảng lương được thực hiện thống nhất trong toàn
quốc. Tiền lương giữa các vùng được điều chỉnh theo phụ cấp chênh lệch giá
sinh hoạt theo vùng.
Khi chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chính
sách tiền lương theo nghị định 235/HĐBT vừa lạc hậu, vừa chứa đựng nhiều
mâu thuẫn, có ảnh hưởng xấu đến sản xuất, đời sống và công bằng xã hội.
Cơ chế và chính sách tiền lương theo nghị định 25/CP và 26/CP được xây
dựng đáp ứng đòi hỏi khách quan của công cuộc đổi mới với những quan điểm là:
- Tiền lương là giá cả sức lao động được hình thành qua thỏa thuận giữa
người sử dụng lao động và người lao động phù hợp với quan hệ cung cầu sức
lao động trong nền kinh tế thị trường.
- Thay đổi kết cấu tiền lương từ việc phân phối gián tiếp sang phân phối
trực tiếp trong tiền lương, đồng thời phân biệt rõ hệ thống tiền lương của các
chức vụ bầu cử, hành chính sự nghiệp, sản xuất kinh doanh và lực lượng vũ
trang. Tách dần các chế độ đãi ngộ ra khỏi tiền lương.
- Thực hiện chính sách tiền lương trên cơ sở sắp xếp, tinh giản bộ máy và
biên chế trong khu vực hành chính sự nghiệp, gắn tiền lương với chất lượng,
hiệu quả, thúc đẩy cải cách nền hành chính quốc gia.


19


1.2. Thực trạng của việc áp dụng chính sách tiền lương tại Việt Nam
1.2.1. Về thang lương, bảng lương và phụ cấp lương ở Việt Nam từ
1985 đến nay
Trả lương cho các đối tượng theo chất lượng và số lượng lao động là một
trong những nhu cầu của tổ chức tiền lương.
Có thể nói, thang lương, bảng lương và phụ cấp góp phần trả lương theo
số, chất lượng lao động, khuyến khích người lao động nâng cao trình độ về mọi
mặt, nâng cao năng suất lao động, góp phần bù đắp hao phí lao động, đảm bảo
cung cấp đủ lao động cho các ngành các lĩnh vực, các vùng trong nước.
Thang lương là bảng xác định quan hệ tỷ lệ về tiền lương giữa những
người công nhân trong cùng một nghề hoặc một nhóm người khác nhau, theo
trình độ lành nghề. Những ngành nghề khác nhau sẽ có những thang lương
tương ứng khác nhau. Một thang lương gồm có một số bậc lương và hệ số lương
phù hợp với bậc lương đó.
Trong lần cải tiến tiền lương 1993, theo nghị định số 26CP

ngày

23/5/1993 chính phủ đã ban hành có 21 thang lương của công nhân với 2 loại
sáu và bảy bậc, mỗi bậc lương có các hệ số lương. Hệ số này là sự gấp bội so
với lương tối thiểu. ưu điểm của các thang lương này là đã nâng cao hơn bộ số
của thang lương ( trước đây là 1,4 lần nay là 2,464 lần). Tuy nhiên việc thiết kế
các thang lương cịn có nhiều nhược điểm. Số thang lương còn quá nhiều, khiến
cho mối quan hệ về tiền lương giữa các ngành chưa hợp lý, biểu hiện rõ nhất là
tiền lương bậc một của các thang lương khác nhau không nhiều: Số bậc của các
thang lương cũng không khác nhau nhiều ( ít nất là 6 bậc nhiều nhất là 7 bậc) đã

gây nên sự phức tạp không cần thiết. Các thang lương dùng chủ yếu áp dụng cho
các doanh nghiệp và chỉ có ý nghĩa dùng để đóng bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y
tế, do đó người lao động ít quan tâm đến bậc lương mà chỉ quan tâm đến thu nhập.
Bảng lương là bảng thường dùng để xác định quan hệ tỷ lệ và dùng để trả
lương cho nhiều đối tượng như công nhân sản xuất, cho cán bộ xử lý xí nghiệp,
cán bộ viên chức chiến sỹ lực lượng vũ trang.... Bảng lương có các bộ phận cấu
thành sau: Số lượng bậc lương; hệ số lương tương ứng của từng bậc: Các ghi
20


chú cần thiết để sắp xếp. Đợt cải tiến tiền lương năm 1993 bảng lương được
dùng để trả lương cho cơng nhân viên chức, viên chức hành chính, sự nghiệp và
lực lượng vũ trang...tất cả các bảng lương này đều so sánh giữa bậc lương tối
thiểu khi thể hiện hệ số lương. Căn cứ vào nghị định 25/ CP thì bảng lương dùng
để trả cho cơng nhân viên chức có:
- Bảng lương chức vụ dân cử quản lý nhà nước từ cấp tỉnh đến cấp huyện.
- Hệ thống 19 bảng lương các ngạch công chức, viên chức và phụ cấp
chức vụ lãnh đạo, khu vực hành chính sự nghiệp.
- Hệ thống bảng lương sỹ quan và quân nhân chuyên ngành, phụ cấp lãnh
đạo, phụ cấp hạ sỹ quan và binh sỹ của lực lượng vũ trang.
- Bảng lương chuyên gia cao cấp gồm 3 bậc có hệ số mức lương: 7.5; 8,0;
và 8.5 áp dụng cho các lĩnh vực chính trị kinh tế, hành chính khoa học kỹ thuật,
giáo dục y tế, văn hóa nghệ thuật...
Về bảng lương áp dụng đối với các doanh nghiệp trong cả nước theo nghị
định số 26/CP của chính phủ dùng để trả lương cho công nhân viên trực tiếp sản
xuất kinh doanh và phục vụ cần dùng 24 bảng lương áp dụng cho công nhân,
nhân viên, một bảng lương chức vụ quản lý doanh nghiệp và một bảng lương
viên chức chuyên môn nghiệp vụ thực hành, phục vụ ở các doanh nghiệp. Các
bảng lương đang áp dụng hiện nay còn nhược điểm: Số bảng lương quá nhiều,
trong mỗi bảng lương lại chia ra làm nhiều ngạch; Sự chênh lệch lương giữa các

ngạch không đáng kể, gây nên sự phức tạp không cần thiết gây khó khăn cho
việc sắp xếp trả lương điều động luân chuyển cơng chức; Mỗi bảng lương có
q nhiều bậc chênh lệch giữa các bậc quá ít gây nên hiện tượng bình qn cho
việc trả lương, có bảng lương cịn nhiều "bậc treo".
Phụ cấp lương là số tiền tính theo tỷ lệ tiền lương cấp bậc hoặc tiền lương
chức vụ hoặc theo lương tối thiểu để trả thêm cho công nhân, viên chức và các
lực lượng vũ trang ngoài tiền lương cấp bậc hoặc lương chức vụ. Phụ cấp lương
hiện nay chiếm khoảng 45% quỹ lương cơ bản của khu vực hưởng lương từ
ngân sách nhà nước. Phụ cấp lương thường có:
- Mức phụ cấp ( hay phần trăm phụ cấp) có thể có các mức 0.1(10%) ; 0,2 (20%)
21


- Đối tượng được phụ cấp: Loại công việc, loại lao động, hay chức vụ,
loại địa phương được hưởng, thời gian được hưởng.
- Thừa số tính theo mức phụ cấp: Đó là mức lương tối thiểu hay lương cấp
bậc, chức vụ của người đó.
Ngồi ra cũng có những loại khác cũng có thể coi là phụ cấp như ăn trưa,
ăn tối, trang phục mà ở đây không đề cập đến. Trong đợi cải tiến tiền lương năm
1993 các phụ cấp lương đều tính bằng % so với mức lương tối thiểu hoặc so với
mức lương cấp bậc hoặc chức vụ. Nghị định 25/CP của chính phủ quy định có 7
phụ cấp, trong đó có 5 phụ cấp so với mức lương tối thiểu và 2 phụ cấp so với
lương cấp bậc hoặc chức vụ. Các chế độ phụ cấp hiện hành đã có thể tác dụng
bù đắp hao phí lao động, khuyến khích thu hút người lao động đến làm việc tại
các ngành nghề, lĩnh vực công tác khác nhau, góp phần ổn định lao động ở
những nơi cơng việc nặng nhọc, độc hại, những nơi điều kiện tự nhiên khó
khăn...Tuy nhiên, các loại phụ cấp trên cũng trùng lặp, chưa xác định được
những căn cứ thật cụ thể những tiêu chí thật rõ ràng để xác định các loại phụ cấp
khác nhau như phụ cấp khu vực, phụ cấp thu hút, phụ cấp đặc biệt. Các loại phụ
cấp tính theo các cách khác nhau. Có loại tính theo lương tối thiểu như phụ cấp

chức vụ lãnh đạo, độc hại, phụ cấp lưu động, phụ cấp khu vực. Đó chính là phụ
cấp thêm một khoản tiền tuyệt đối, không phụ thuộc vào mức lương được xếp.
Như vậy là khơng chính xác. Cũng có loại phụ cấp được quy định từ 1993
nhưng đến nay vẫn chưa thực hiện ( phụ cấp đắt đỏ). Nhìn chung các mức cịn
thấp, chưa thể hiện đầy đủ trách nhiệm, chưa khuyến khích đội ngũ cán bộ lãnh
đạo. Chính sách tiền lương đang được thực hiện là kết quả của đợt cải cách tiền
lương năm 1993.
1.2.2. Thực trạng thực hiện chính sách tiền lương ở nước ta
Đây là một cuộc cải cách rất căn bản không những về lương mà còn là
một đợt sắp xếp lại hệ thống phân phối tiền lương từ ngân sách nhà nước
(NSNN), nhằm mục tiêu xố bỏ triệt để tình trạng bao cấp, khắc phục tính bình
qn trong phân phối, sắp xếp lại hệ thống thang bảng lương và tạo bước ngoặt
về nhận thức quan điểm- coi tiền lương là giá cả sức lao động, trong điều kiện
22


phát triển nền kinh tế thị trường và từng bước xây dựng thể chế kinh tế thị
trường.
Những thay đổi về cơ chế kinh tế từ cuối những năm 80, đặc biệt từ sau
cải cách tiền lương năm 1993, dẫn đến việc tách biệt rõ ràng hơn sự hình thành
quỹ lương giữa khu vực hành chính – sự nghiệp và sản xuất, kinh doanh trong
kinh tế Nhà nước. Đối với khu vực sản xuất, kinh doanh: quỹ tiền lương là một
bộ phận chi phí cần thiết để tạo nên giá trị mới, là chi phí cho lao động sống.
Quỹ lương của các doanh nghiệp Nhà nước hoàn toàn tách hẳn khỏi ngân sách
Nhà nước. Các doanh nghiệp tự hình thành qũy lương trên cơ sở kết quả sản
xuất, kinh doanh của mình có tính đến mức tiền cơng lao động trên thị trường
địa phương. Nhà nước chỉ quản lý việc thực hiện mức lương tối thiểu và đơn giá
tiền lương trong giá thành sản phẩm.
Sau hơn 10 năm áp dụng chính sách lương mới, chúng ta thấy có nhiều ưu
điểm và tiến bộ so với hệ thống tiền lương trong thời kỳ bao cấp, như Nghị

quyết phiên họp thường kỳ (tháng 8-2001) của Chính phủ cũng đã đánh giá: “ .
thực hiện phân phối công bằng hơn, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
nâng cao năng suất lao động và hiệu quả công tác”. Tuy vậy, cuộc sống luôn
luôn biến động, trong khi tiền lương lại chủ yếu nằm trong trạng thái tĩnh, ít có
thay đổi trong cả hệ thống thang bảng lương, cho nên nó đã bộc lộ nhiều mặt
hạn chế. Chẳng hạn:
Tiền lương thực tế vẫn chưa làm được chức năng tái sản xuất sức lao
động. Mức lương của nhiều chức danh thậm chí khơng thể chu cấp đủ để ăn,
chưa kể đến các khoản như tiền nhà, chữa bệnh, tiền điện, nước . đã được tiền tệ
hố vào lương. Người lao động thực tế khơng thể tích luỹ từ lương để thuê hay
mua nhà ở. Mức lương tối thiểu còn quá thấp, mặc đã qua 3 lần điều chỉnh (từ
120 lên 144, 180, 210 ngàn đồng), nhưng mới bù lại phần nào giá trị thực tế của
tiền lương bị giảm đi do lạm phát. Mỗi lần điều chỉnh tiền lương tối thiểu đều
phải bàn cãi, đấu tranh, giằng co giữa đòi hỏi tất yếu, bức bách từ cuộc sống với
hạn chế của tài chính ngân sách. Có hai “chốt hãm” làm cho mọi ý định tăng
mức lương tối thiểu đều phải chùn lại, đó là khơng có nguồn tài chính và nếu với
23


nguồn tài chính có hạn muốn tăng lương thì phải giảm biên chế, nhưng vì nhiều
lý do khác nhau, biên chế tiếp tục tăng thêm. Ngay trong đợt sắp xếp lại biên chế
để thực hiện giảm biên đồng loạt 15%, thì biên chế cũng đã tăng lên 2,5%
Hệ thống thang bảng lương năm 1993 chưa thực sự khuyến khích người lao
động phấn đấu về mựat chun mơn, vơ hình trung khuyến khích cán bộ, cơng
chức chạy đua theo chức vụ. Chẳng hạn, các kỳ lên lương vẫn nặng về thời gian,
thâm niên cơng tác, “đến hẹn lại lên”, khơng có chính sách lên lương vượt cấp,
trước niên hạn (trừ một số cấp bậc của cán bộ cao cấp do bầu cử hoặc đề bạt)
cho dù thành tích đạt được về mặt chun mơn đến mức độ nào. Thi nâng bậc
cịn mang tính hình thức, kết quả thi chưa thực sự gắn với chuyên môn công tác
cụ thể, đối tượng “quá độ” còn nhiều, nên dễ bị áp dụng tuỳ tiện. Hậu quả là

chính sách tiền lương chưa thực sự khuyến khích người lao động, chưa khuyến
khích các tài năng, đặc biệt là tài năng trẻ.
Tình trạng bất hợp lý và khơng cơng bằng vẫn cịn là vấn đề bức bách của
chính sách tiền lương hiện nay. Điều đó được thể hiện trên cả hai khía cạnh: thứ
nhất, tình trạng bình quân chủ nghĩa vẫn chưa được khắc phục. Mặc dầu lương
tối thiểu và tối đa đã chênh lệch gấp hơn 10 lần, tăng lên hơn 2 lần so với hệ
thống tiền lương của thời kỳ bao cấp, mới đầu tưởng chừng nó có thể góp phần
khắc phục được tính chất bình quân trong phân phối, nhưng do sự chi tiết đến
thái quá lại cũng làm cho tiền lương rơi vào trạng thái bình quân chủ nghĩa. Bởi
vì, khoảng cách giữa các bậc lương quá ngắn, thấp nhất là 0,09 và cao nhất là
0,43; phấn đấu 2 năm mới thêm được mỗi tháng 18,9 ngàn đồng, 3 năm mới
được tăng thêm 25,2 ngàn đồng (bậc cán sự). Thêm vào đó, thời gian phấn đấu
để đạt tới bậc cao nhất quá dài, có những bậc lương đưa ra mà khơng ai vươn
tới, hoặc do quá cao, hoặc do thời gian phấn đấu quá dài. Ví dụ: 16 bậc cán sự,
thấp nhất là 1,46, cao nhất là 3,33, khoảng cách mỗi bậc là 0,12 tương đương 48 năm.
Thứ hai, tình trạng bất hợp lý do vẫn tồn tại nhiều ngành, nhiều cơ quan
và khu vực có sự chênh lệch quá mức về thu nhập, hình thành nhiều khoản thu
và chia chác trong các cơ quan mà Nhà nước không quản lý nổi. Mọi người đều
biết rằng mức lương hiện nay không thể đảm bảo được mức sống bình thường.
24


Chẳng hạn, một sinh viên đại học hiện nay muốn sống và học tập bình thường
phải được chu cấp tối thiểu 500 và trung bình là 700 ngàn đồng/tháng ở Hà nội
(ở thành phố Hồ Chí Minh cịn cao hơn, từ 700 ngàn – 1 triệu đồng), tương
đương với một cán sự bậc 10, nghĩa là phải làm việc được 30 năm. Đây là một
nghịch lý. Bất hợp lý nữa là thu nhập ngoài lương lớn hơn lương rất nhiều trong
một bộ phận cán bộ, công chức; chênh lệch về thu nhập giữa các ngành, các cơ
quan, đơn vị rất lớn. Hiện nay có khoảng 40% số các đơn vị hành chính- sự
nghiệp cả nước là hoạt động sự nghiệp. Tính riêng năm 1999, theo Bộ Tài chính,

số thu của 56 trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp đã có 304,946
tỉ đồng (bằng 68,43% kinh phí NSNN cấp). Số thu của 21 đơn vị thuộc Bộ Khoa
học – Công nghệ và Môi trường, Trung tâm Khoa học tự nhiên và Công nghệ
quốc gia đạt 6,373 tỉ đồng (bằng 16,4% kinh phí NSNN cấp) . Khoản trích 30%
viện phí để khen thưởng trong ngành y tế là 80,566 tỉ đồng, bình quân mỗi biên
chế trong ngành nhận 6,387 triệu đồng/năm, trong đó cao nhất là Bệnh viện Chợ
Rẫy 16,28 triệu đồng), thấp nhất là Bệnh viện Tâm thần trung ương (2,79 triệu
đồng). Đó là chưa kể sự chênh lệch quá lớn giữa lao động trong biên chế nhà
nước với các thành phần kinh tế khác.
Những chênh lệch và những nghịch lý ấy đang là lý do cả về vật chất lẫn
ý thức làm cho người lao động coi tiền lương là một khoản thu “thu nhập phụ”,
không ai sống chỉ bằng lương, Nhà nước không quản lý được thu nhập . và
chúng đang gây ra những hậu quả tiêu cực, như: hạch tốn sai, báo cáo khơng
đầy đủ, giấu nguồn thu, trốn thuế thu nhập, sử dụng thu nhập mập mờ, tuỳ tiện,
cản trở kiểm tra, kiểm soát. Điều tệ hại không đo đếm được là tạo ra tâm lý lạm
dụng của công, nạn tham nhũng tập thể, dùng tiền công để chi tiêu thoả sức .
Diện hưởng lương từ ngân sách nhà nước (NSNN) quá rộng, cơ cấu bất hợp lý
và vẫn mang nặng tính chất bao cấp. Hiện nay, có 8 đối tượng hưởng lương, phụ
cấp, trợ cấp mang tính chất lương từ NSNN, gồm: cán bộ cơng chức khối hành
chính; cán bộ cơng chức khối sự nghiệp; cán bộ cơng chức khối cơ quan đảng và
đồn thể; cán bộ công chức khối cơ quan dân cử (Quốc hội, Hội đồng nhân dân
các cấp); cán bộ cấp xã, phường; cán bộ, chiến sĩ khối lực lượng vũ trang, công
an, an ninh ; các đối tượng bảo hiểm xã hội, hưu trí, mất sức; những người có
25


×