Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho giáo viên các trường tiểu học trên địa bàn quận gò vấp, thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 107 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
……………***……………

HUỲNH ANH TUẤN

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CƠNG TÁC GIÁO DỤC CHÍNH
TRỊ TƯ TƯỞNG CHO GIÁO VIÊN CÁC TRƯỜNG TIỂU
HỌC TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN GỊ VẤP
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

NGHỆ AN, 2016


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
……………***……………

HUỲNH ANH TUẤN

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CƠNG TÁC GIÁO DỤC
CHÍNH TRỊ TƯ TƯỞNG CHO GIÁO VIÊN CÁC TRƯỜNG
TIỂU HỌC TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN GỊ VẤP,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


Chun ngành: CHÍNH TRỊ HỌC
Mã số: 60310201

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thái Sơn

NGHỆ AN, 2016


3

LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành và lịng kính trọng, tác giả xin bày tỏ lòng biết
ơn sâu sắc đến:
Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo Sau đại học; Khoa Giáo dục chính trị
Trường Đại học Vinh;
Q thầy giáo, cơ giáo trực tiếp giảng dạy và giúp đỡ chúng tôi trong
q trình học tập và nghiên cứu;
Đặc biệt, tơi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Thái
Sơn, đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tơi trong suốt quá trình thực hiện luận
văn.
Lãnh đạo và cán bộ Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Gò Vấp; Ban
giám hiệu, đội ngũ giáo viên Tiểu học trên điạ bàn huyện cùng gia đình, bạn
bè, đồng nghiệp đã tận tình giúp đỡ, ủng hộ, cung cấp tài liệu, tạo điều kiện
thuận lợi trong quá trình học tập và khảo sát điều tra, tham gia đóng góp ý
kiến quý báu cho việc triển khai nghiên cứu đề tài.
Trong quá trình nghiên cứu, mặc dù đã rất cố gắng song Luận văn
khơng tránh khỏi những thiếu sót, kính mong nhận được sự chỉ dẫn, góp ý
của Q Thầy Cơ giáo và đồng nghiệp để Luận văn hoàn thiện hơn.
Nghệ An, tháng 6 năm 2016
Tác giả


Huỳnh Anh Tuấn


4

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

TH

Tiểu học

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


5

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 6
B. NỘI DUNG ................................................................................................. 15

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ,
TƯ TƯỞNG CHO GIÁO VIÊN TIỂU HỌC ….……………..……………..15
1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài.............................................15
1.2. Tầm quan trọng và những yêu cầu đặt ra đối với cơng tác giáo dục chính trị,
tư tưởng cho giáo viên tiểu học hiện nay……..…………….……………….…24
1.3. Nội dung, hình thức, phương pháp, tiêu chí đánh giá chất lượng cơng tác
giáo dục chính trị, tư tưởng cho giáo viên Tiểu học ...........................................34
Kết luận chương 1 .......................................................................................... 43
Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ, TƯ
TƯỞNG CHO GIÁO VIÊN CÁC TRƯỜNG TIỂU HỌC TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN HIỆN
NAY…………………………………………………………..………………..44
2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cơng tác giáo dục chính trị, tư
tưởng cho giáo viên tiểu học trên địa bàn quận Gò Vấp......................................44
2.2. Tình hình cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho giáo viên các trường
Tiểu học quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh – kết quả đạt được và những tồn
tại, hạn chế………………………………...........................................……...54
2.3. Đánh giá chung về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho giáo viên tiểu
học ở quận Gò Vấp trong thời gian qua ………….………….......................…65
Kết luận chương 2 .......................................................................................... 71
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG CƠNG TÁC GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ, TƯ TƯỞNG CHO GIÁO
VIÊN CÁC TRƯỜNG TIỂU HỌC QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH TRONG THỜI GIAN TỚI……………………………….........72
3.1. Phương hướng nâng cao chất lượng cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho
giáo viên các trường Tiểu học quận Gị Vấp, thành phố Hồ Chí Minh.............72
3.2. Những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, tư tưởng
cho giáo viên các trường Tiểu học quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh trong
giai đoạn hiện nay................................................................................................76
Kết luận chương 3 .................................................................. ..........................99

C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................. 100
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 104


6

A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong quá trình lãnh đạo Đảng ta ln xác định cơng tác giáo dục chính
trị tư tưởng là một bộ phận quan trọng của cơng tác tư tưởng, góp phần xây
dựng, bồi đắp nền tảng tinh thần xã hội. Sinh thời Hồ Chí Minh cũng đặc biệt
coi trọng cơng tác cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng. Văn kiện Đại hội X
của Đảng đã chỉ rõ tính cấp bách và yêu cầu:“ Đổi mới, nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác giảng dạy và học tập lý luân chính trị”. Văn kiện Đại hội
XI tiếp tục xác định: “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hơn nữa hiệu
quả của công tác tư tưởng, tuyên truyền giảng dạy và học tập chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước, đổi mới nâng cao chất lượng giáo dục chính trị tư
tưởng, giáo dục công dân trong hệ thống các trường chính trị và các trường
thuộc hệ thống giáo dục quốc dân”.[21; 185]. Như vậy, cơng tác giáo dục
chính trị tư tưởng cho mọi đối tượng đã được Đảng ta đặc biệt quan tâm,
trong đó có đối tượng là giáo viên.
Tại Đại hội chiến sĩ thi đua toàn ngành Giáo dục ngày 21-2-1956, Bác
đã căn dặn: “Các cô, các chú là những thầy giáo, những cán bộ giáo dục đều
phải luôn ln cố gắng học thêm, học chính trị, học chun mơn. Nếu khơng
tiến bộ mãi thì sẽ khơng theo kịp đà tiến chung, sẽ trở thành lạc hậu”[25;427]
. Đặc biệt Hồ Chủ tịch đã căn dặn toàn Đảng, toàn dân ta: “Bồi dưỡng thế hệ
Cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Đại hội
X của Đảng chỉ rõ phải coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện nhân cách của
người Việt Nam. Trong đó, “ Bồi dưỡng các giá trị văn hóa trong thanh niên,
học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo

đức và bãn lĩnh văn hóa con người Việt Nam”[18; 268] sẽ góp phần đáp ứng
tốt yêu cầu về đào tạo nguồn nhân lực trẻ.


7

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: Người thầy giáo phải học chính trị,
hay nói cách khác là đội ngũ giáo viên phải được đào tạo, phải có kiến thức lý
luận chính trị, đồng thời Người đặt nhiệm vụ học chính trị lên trước nhiệm vụ
học chun mơn. Cơng tác cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng là một mặt
hoạt động ln ln đứng ở vị trí trọng yếu, vì nó góp phần trực tiếp vào việc
xây dựng phẩm chất chính trị, tư tưởng, quan điểm, lập trường, thái độ chính
trị của mỗi giáo viên trong nhà trường. Cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng
có vai trị rất to lớn, góp phần vào việc giác ngộ lý tưởng cách mạng, nâng
cao nhận thức chính trị, thống nhất ý chí và hành động cho đội ngũ giáo viên
nhằm thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối, Nghị quyết, Chỉ thị của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Xác định cơng tác giáo dục chính
trị tư tưởng là một chức năng quan trọng song song trong công tác cán bộ
nhằm đưa các đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến
gần hơn với giáo viên, xây dựng nội dung, chuẩn mực đạo đức theo chủ đề
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ... Do đó yêu cầu thực
tiễn cấp bách đặt ra hiện nay là phải nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả
cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng nhất đặc biệt đối với giáo viên bậc tiểu
học ở nước ta hiện nay.
Cơng tác này địi hỏi phải tiến hành một cách liên tục, thường xuyên và
đang trở thành một trong những nội dung không thể thiếu được công tác bồi
dưỡng đội ngũ giáo viên hàng năm. Như vậy, để nâng cao chất lượng đội ngũ
giáo viên toàn diện trước hết cần phải nâng cao chất lượng công tác giáo dục
chính trị tư tưởng cho giáo viên các trường tiểu học. Đó cũng chính là nhiệm
vụ vừa cơ bản, vừa cấp bách, đồng thời là đòi hỏi khách quan của nhiệm vụ

cách mạng nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Trong những năm qua Đảng ủy quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh
xác định việc nâng cao chất lượng và hiệu quả cơng tác cơng tác giáo dục
chính trị tư tưởng cho giáo viên bậc tiểu học là nhiệm vụ thường xuyên, có ý
nghĩa quan trọng với sự phát triển giáo dục tiểu học. Công tác giáo dục chính


8

trị tư tưởng nói chung và cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng cho giáo viên
các trường tiểu học đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, tình hình tư
tưởng và tinh thần đội ngũ giáo viên các trường tiểu học quận Gò Vấp được
đánh giá là tương đối ổn định, có nhiều chuyển biến theo hướng tích cực,
nhưng vẫn cịn những điều phải quan tâm. Cơng tác giáo dục chính trị tư
tưởng cho giáo viên tiểu học vẫn gặp phải những khó khăn nhất định khi thực
hiện tổ chức triển khai, theo dõi, phối hợp và nhiều khó khăn khác làm ảnh
hưởng đến chất lượng thật sự của công tác này.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Nâng cao chất
lượng công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho giáo viên các trường tiểu
học trên địa bàn quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài nghiên
cứu với hy vọng góp phần nâng cao chất lượng cơng tác giáo dục chính trị tư
tưởng cho giáo viên tiểu học trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có nhiều cơng trình, bài viết, tài liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu
nêu trên được xuất bản trong những năm gần đây. Trước hết phải kể đến
những văn kiện, nghị quyết của Đảng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam “Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI”, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội 2011, nghiên cứu một số nội dung
như: công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng; tăng cường xây dựng
Đảng về chính trị; nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận.

Văn kiện là tài liệu có giá trị cao giúp chúng tơi đi sâu tìm hiểu vấn đề tư tưởng
chính trị hiện nay. Tuy nhiên, văn kiện cũng chưa đề cập một cách cụ thể cơng
tác giáo dục chính trị tư tưởng cho giáo viên tiểu học.
- Ban Tuyên giáo Trung ương “Tài liệu nghiên cứu các văn kiện đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng”, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội
2011, tài liệu đề cập đến một số vấn đề như: tăng cường xây dựng Đảng về


9

chính trị, nâng cao chất lượng và hiệu quả cơng tác tư tưởng, lý luận, rèn
luyện phẩm chất đạo đức cách mạng chống chủ nghĩa cá nhân.
- Ban Tư Tưởng - Văn hóa Trung ương: “Tài liệu học tập nghị quyết
hội nghị lần thứ chín ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX”, Nxb Chính
trị Quốc gia Hà Nội 2004, tài liệu này bàn đến nội dung “Nâng cao chất lượng
và hiệu quả cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng, kiên quyết khắc phục sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ đảng viên” .
- Ban Tư Tưởng - Văn hóa Trung ương, Tài liệu phục vụ nghiên cứu kết
luận hội nghị lần thứ mười ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2004, tài liệu phân tích vấn đề tiến hành sinh hoạt
chính trị tự phê bình và phê bình về tư tưởng, đạo đức lối sống trong toàn
Đảng và bộ máy nhà nước, trước hết là đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý.
- Ban Tư Tưởng - Văn hóa Trung ương “Tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ,
công tác tuyên giáo ở cơ sở”, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội 2005, tài liệu
bàn đến một số vấn đề chung về công tác giáo dục lý luận chính trị. Tài liệu
cung cấp cho chúng tôi rất rõ khái niệm về công tác giáo dục lý luận chính trị,
nội dung cơng tác giáo dục lý luận chính trị.
- Ban Tư Tưởng - Văn hóa Trung ương “Tài liệu bồi dưỡng lý luận
chính trị”, Nxb Lao Động - Xã hội 2007, tìm hiểu vấn đề độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội khoa học là mục tiêu là lý tưởng của Đảng và dân

tộc ta, vấn đề xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc là nền tảng tinh thần của xã hội.
Bên cạnh các văn kiện, nghị quyết của Đảng các cấp cịn có nhiều cuốn
sách, cơng trình nghiên cứu khoa học, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sỹ liên quan
đến mảng đề tài giáo dục chính trị tư tưởng nói chung. Trong phạm vi luận văn,
chúng tơi đã tham khảo một số cơng trình tiêu biểu sau:


10

- Cuốn sách: Nhận diện về “tự diễn biến” “tự chuyển hóa” và giải pháp
đấu tranh ngăn chặn, (Nxb Chính trị Quốc gia - sự thật Hà Nội, 2013). Cuốn
sách bao gồm nhiều bài viết của nhiều tác giả đề cập đến lĩnh vực tư tưởng chính
trị và suy thối tư tưởng chính trị của cán bộ đảng viên hiện nay.
Trong cuốn sách Nhận diện và đấu tranh chống suy thối tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên hiện nay của nhiều tác giả, (Nxb
Quân đội nhân dân Hà Nội, (2013), các tác giả đã đề cập đến nhiều nội dung
xung quanh vấn đề suy thối tư tưởng chính trị của cán bộ đảng viên hiện nay.
Tác giả Trần Hùng (2000), Hiệu quả giáo dục lý luận chính trị cho sinh
viên các trường Đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh: Thực trạng và giải
pháp, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội. Luận án cung cấp những khái niệm về giáo dục lý luận chính trị và
những hiệu quả, những yếu tố tác động đến hiệu quả giáo dục lý luận chính trị
cho sinh viên các trường Đại học. Tác giả phân tích thực trạng và những vấn
đề đặt ra đối với các hoạt động giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên các
trường Đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh. Từ những cơ sở lý luận và thực
trạng đã phân tích tác giả đưa ra một số phương hướng và giải pháp để nâng
cao hiệu quả cơng tác giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên.
Tác giả Vũ Ngọc Am: Quá trình đổi mới cơng tác giáo dục chính trị tư
tưởng cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở trong cuộc đấu tranh chống “Diễn biến hịa

bình”, Luận án tiến sĩ lịch sử, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội
2002. Tác giả nhấn mạnh nội dung, vai trò của cơng tác giáo dục chính trị tư
tưởng trong cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, tìm hiểu âm mưu và hoạt động diễn biến hịa
bình của chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng thù địch chống phá cách mạng
Việt Nam trong thời gian qua về chính trị tư tưởng.


11

Cao Xuân Trung (2002), Những điều kiện tâm lý - sư phạm nâng cao
hiệu quả giáo dục chính trị - tư tưởng cho quân nhân ở đơn vị cơ sở hiện nay,
Luận án tiến sĩ tâm lý học, Học viện chính trị quân sự. Ở chương thứ 3 của
luận án đề cập đến thực trạng hiệu quả và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả giáo dục chính trị - tư tưởng cho quân nhân ở đơn vị cơ sở thời điểm lúc
đó.
Đặng Quang Thành, Xây dựng lối sống có văn hóa của thanh niên
Thành Phố Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội 2005. Luận án đề cập đến các giải pháp về xây dựng lối sống có văn hóa
của thanh niên Thành Phố Hồ Chí Minh, đặc biệt là vấn đề giáo dục chính trị,
tư tưởng và đạo đức.
Ý thức chính trị của cơng nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngồi ở nước ta hiện nay của Dương Thị Thanh Xuân 2007, Luận án
tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Luận án
tập trung nghiên cứu ý thức chính trị, ý thức chính trị của giai cấp cơng nhân
Việt Nam,tính tất yếu cần phải nâng cao ý thức chính trị cho cơng nhân ở
nước ta hiện nay.
Lương Thùy Liên (2009), Nguyên tắc thống nhất dân tộc, giai cấp,
nhân loại trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh, Luận án tiến sĩ triết học,

trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn (Đại học Quốc Gia Hà Nội).
Cơng trình nghiên cứu đề cập đến một số khái niệm cơ bản như: khái niệm tư
tưởng chính trị Hồ Chí Minh; khái niệm dân tộc, giai cấp, nhân loại; khái
niệm nguyên tắc thống nhất dân tộc, giai cấp, nhân loại trong tư tưởng chính
trị Hồ Chí Minh và những nhân tố quy định sự hình thành nguyên tắc thống
nhất dân tộc, giai cấp, nhân loại trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh.


12

Nhìn chung tất cả các cơng trình nghiên cứu nêu trên đều có liên quan đến
đề tài nghiên cứu của chúng tơi ở nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên
cho đến nay vẫn chưa có một cơng trình nào đề cập một cách toàn diện, đầy đủ về
vấn đề nâng cao chất lượng cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ giáo
viên các trường tiểu học trên địa bàn quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh. Vì
vậy chúng tơi cho rằng việc triển khai nghiên cứu đề tài nêu trên là có ý nghĩa
khoa học và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và đánh giá thực trạng cơng tác giáo dục
chính trị, tư tưởng cho đội ngũ giáo viên tiểu học tại quận Gò Vấp hiện nay,
luận văn đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng cho giáo viên các trường Tiểu học quận Gị Vấp, thành phố
Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong những năm tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho
đội ngũ giáo viên tiểu học.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng
cho đội ngũ giáo viên tiểu học trên địa bàn quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay.

- Đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng cơng tác
giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ giáo viên tiểu học trên địa bàn quận
Gị Vấp, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các vấn đề liên quan đến cơng tác giáo dục chính trị
tư tưởng cho đội ngũ giáo viên tiểu học trên địa bàn quận Gị Vấp, thành phố
Hồ Chí Minh.


13

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài giới hạn trong phạm vi nghiên cứu các vấn đề về chất lượng của
công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ giáo viên tiểu học trên địa
bàn quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Cụ thể là Các trường tiểu
học Nguyễn Thượng Hiền, tiểu học Trần Văn Ơn, tiểu học Phạm Ngũ Lão,
tiểu học Nguyễn Viết Xuân, tiểu học Trần Quốc Toản, tiểu học Hoàng Văn
Thụ, tiểu học Chi Lăng, tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu từ góc độ chính trị học, sử dụng phương pháp biện
chứng duy vật Mácxit làm nền tảng. Trên cơ sở đó, luận văn sử dụng kết hợp
phương pháp lịch sử và lơgíc, phân tích với tổng hợp, so sánh, điều tra xã hội
học và các phương pháp đặc thù của chính trị học.
6. Những đóng góp mới của đề tài
- Về lý luận: Luận văn góp phần làm rõ cơ sở khoa học và cơ sở lý luận
của chất lượng cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho giáo viên các trường
tiểu học trong bối cảnh hiện nay.
- Về thực tiễn: Luận văn góp phần đánh giá thực trạng chất lượng công
tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho giáo viên các trường Tiểu học quận Gò

Vấp, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cơng tác này.
- Luận văn có thể trở thành tài liệu tham khảo cho tất cả mọi người có
sự quan tâm nghiên cứu về lĩnh vực giáo dục chính trị, tư tưởng nói chung và
cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho giáo viên bậc tiểu học nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận của công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho
giáo viên tiểu học.


14

Chương 2: Thực trạng cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho giáo
viên các trường tiểu học trên địa bàn quận Gị Vấp, thành phố Hồ Chí Minh
giai đoạn hiện nay
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng cơng tác
giáo dục chính trị, tư tưởng cho giáo viên các trường tiểu học quận Gò Vấp,
thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới


15

B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
TƯ TƯỞNG CHO GIÁO VIÊN TIỂU HỌC
1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
1.1.1. Khái niệm chính trị
Chính trị là một khái niệm phức tạp, trừu tượng. Từ trước tới nay đã có

nhiều quan niệm, quan điểm khác nhau về chính trị. Theo ngun nghĩa tiếng Hy
Lạp, chính trị (politica) là cơng việc của Nhà nước, công việc của xã hội liên
quan tới vấn đề Nhà nước. Theo quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen thì chính
trị là vấn đề giai cấp, quan hệ giai cấp, đấu tranh giai cấp và đỉnh cao của
cuộc đấu tranh này là đấu tranh giành quyền lực cho một giai cấp nhất định.
Bước ngoặt của đấu tranh chính trị là sự bùng nổ cách mạng xã hội, giành lấy
chính quyền nhà nước, lật đổ chế độ cũ và thiết lập chế độ mới. Chính trị là
vấn đề quyền lực, biểu hiện trực tiếp là quyền lực nhà nước và tính hiện thực
của quyền lực lại là lợi ích, mà trước hết là lợi ích kinh tế.
Như vậy, chính trị luôn luôn gắn liền với vấn đề giai cấp và đấu tranh
giai cấp. Các quan điểm, tư tưởng chính trị ln ln gắn liền với quyền và
lợi ích giai cấp. Chính trị bao giờ cũng là chính trị của một giai cấp cụ thể nào
đó. Khơng có những vấn đề chính trị chung chung, trừu tượng đứng bên trên,
bên ngồi lợi ích của những giai cấp cụ thể. Hay nói cách khác khơng có
những quan điểm, tư tưởng phi giai cấp hoặc chung cho nhiều giai cấp khác
nhau trong xã hội có sự phân chia giai cấp.
Theo Từ điển Triết học: “Chính trị là tất cả những hoạt động, những
vấn đề gắn với quan hệ giai cấp, dân tộc, quốc gia và các nhóm xã hội xoay
quanh một vấn đề trung tâm đó là vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà
nước” [36 ; 269]. Theo nghĩa rộng: Chính trị là hoạt động của con người


16

nhằm làm ra, gìn giữ và điều chỉnh những luật lệ chung mà những luật lệ này
tác động trực tiếp lên cuộc sống của những người góp phần làm ra, gìn giữ và
điều chỉnh những luật lệ chung đó. Với cách hiểu như thế, chính trị ln ln
tồn tại và vẫn giữ vai trò hết sức quan trọng đối với từng con người cũng như
toàn xã hội, đặc biệt là đối với xã hội có sự phân chia giai cấp. Trong bất kỳ
xã hội nào thì cũng cần những luật lệ chung để hoạt động nhịp nhàng và khoa

học, tránh tình trạng vơ tình hay cố ý xâm phạm quyền lợi, lợi ích, tài sản, sức
khỏe hay thậm chí tính mạng của người khác hay của cộng đồng. Một xã hội
dù có phát triển đến đâu thì cũng cần có luật giao thơng để con người có thể
lưu thơng một cách trật tự và hiệu quả. Hay, con người không thể sống trong
một xã hội mà tình trạng an ninh khơng đảm bảo (cướp bóc, khủng bố) do
thiếu luật lệ. Mặc dù phần lớn xã hội hiện nay trên thế giới khơng tránh khỏi
các hiện tượng cướp bóc và khủng bố nhưng phải thừa nhận rằng pháp luật đã
góp phần ngăn chặn đáng kể những hành vi bất lương đó. Và trong một chừng
mực nào đó, có thể hiểu đây cũng đồng thời là những vấn đề có tính chính trị,
mang ý nghĩa chính trị sâu sắc.
Với những ý nghĩa như trên, chính trị là lĩnh vực cực kỳ rộng lớn và có
mối quan hệ bao trùm đối với tất cả các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã
hội. Tuy nhiên, nhiều cơng trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng mối quan hệ giữa
chính trị và kinh tế là mối quan hệ cơ bản nhất, trọng yếu nhất, bao trùm nhất
chi phối các quan hệ khác trong đời sống xã hội. C.Mác đã chỉ rõ: "Phương
thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội,
chính trị và tinh thần nói chung. Khơng phải ý thức của con người quyết định
tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ"[24;
258]. Cơ sở hạ tầng xã hội bao giờ cũng là nhân tố cơ bản quyết định kiến
trúc thượng tầng, khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay muộn sự thay đổi


17

kiến trúc thượng tầng cũng sẽ diễn ra. Ông viết: "Cơ sở kinh tế thay đổi thì
tồn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh
chóng"[24; 425]. Sự biến đổi của cơ sở hạ tầng dẫn đến sự biến đổi của kiến
trúc thượng tầng là cả một quá trình hết sức phức tạp. Nguyên nhân của q
trình đó, xét cho cùng là sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Cơ sở hạ tầng với tư cách là kết cấu kinh tế hiện thực của xã hội không

chỉ sản sinh ra kiến trúc thượng tầng tương ứng, mà cịn quy định cả tính chất
của kiến trúc thượng tầng - giai cấp nào giữ địa vị thống trị xã hội về mặt kinh
tế thì nó cũng chiếm địa vị thống trị trong kiến trúc thượng tầng xã hội; mâu
thuẫn trong đời sống kinh tế, xét đến cùng, quyết định mâu thuẫn trong lĩnh
vực tư tưởng; cuộc đấu tranh giai cấp trong lĩnh vực chính trị tư tưởng là biểu
hiện của những mâu thuẫn đối kháng trong lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên, kiến
trúc thượng tầng không phải là sản phẩm giản đơn, thụ động của cơ sở hạ
tầng. Toàn bộ kiến trúc thượng tầng cũng như các yếu tố cấu thành của nó có
tính độc lập tương đối, có sự tác động qua lại lẫn nhau và tác động mạnh mẽ
trở lại đối với cơ sở hạ tầng, đặc biệt là các yếu tố nhà nước, đảng phái chính
trị. Tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng là tích cực khi
nó tác động cùng chiều với sự vận động của các quy luật kinh tế khách quan
đó, cịn ngược lại thì nó sẽ là trở lực, gây tác hại cho sự phát triển của sản
xuất và xã hội.
Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là mối quan hệ xuyên suốt lịch sử
phát triển của xã hội có giai cấp, nó quy định sự vận động, biến đổi của các xã
hội đó. Theo các nhà kinh điển mác-xít sự chuyển biến trạng thái xã hội từ xã
hội này sang xã hội khác đều do quan hệ kinh tế - chính trị quyết định. Sự
thay đổi đó có nguyên nhân sâu xa là từ sự phát triển của lực lượng sản xuất,
dẫn tới sự thay đổi trong quan hệ sản xuất và toàn bộ hệ thống các quan hệ xã


18

hội. C.Mác nhấn mạnh: "Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con
người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của
họ - tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ
phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ
những quan hệ sản xuất ấy họp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ
sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị

và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực
đó"[24; 518]. Như vậy, trong hệ thống các quan hệ xã hội, quan hệ sản xuất là
bộ phận cấu thành quan trọng nhất và sự vận động của mối quan hệ kinh tế chính trị đã đóng vai trị quyết định trong việc tạo ra tính chất đặc thù của
tồn bộ hệ thống đó trong từng điều kiện lịch sử cụ thể. C.Mác đã nhận
định: "Tổng hợp lại thì những quan hệ sản xuất hợp thành cái mà người ta gọi
là những quan hệ xã hội, là xã hội, và hơn nữa hợp thành một xã hội ở vào
một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, một xã hội có tính chất độc đáo
riêng biệt. Xã hội cổ đại, xã hội phong kiến, xã hội tư sản đều là những tổng
thể quan hệ sản xuất như vậy, mỗi tổng thể đó đồng thời lại đại biểu cho một
giai đoạn phát triển đặc thù trong lịch sử nhân loại".[24; 615]. Như vậy, quan
hệ sản xuất với tư cách là cơ sở kinh tế có ảnh hưởng quyết định tới sự biến
đổi của chính trị.
Một mặt, chính trị phụ thuộc vào kinh tế, sự chuyển biến về chính trị
gắn liền với sự chuyển biến về chế độ kinh tế. Theo C.Mác "chính trị tức là
kinh tế được cơ đọng lại". Kinh tế mạnh mới bảo đảm cho nền chính trị ổn
định. Mặt khác, chính trị tác động mạnh mẽ trở lại đối với kinh tế và có địa vị
hàng đầu do tính giai cấp, tính đảng của các hoạt động kinh tế trong các chế
độ xã hội có giai cấp. Mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị cịn
thể hiện ở chỗ: chúng có thể phù hợp với nhau hoặc cũng có thể mâu thuẫn


19

với nhau. Nếu sự thống nhất, phù hợp giữa chúng tạo nên sự ổn định và phát
triển xã hội thì sự không phù hợp giữa chúng tạo nên sự bất ổn định, sự trì trệ,
thậm chí cịn là sự rối loạn xã hội. C.Mác và Ph.Ăng-ghen không đưa ra một
cái nhìn siêu hình hoặc tuyệt đối hóa một trong hai yếu tố của mối quan hệ
này, mà nó có tính biện chứng sâu sắc và có tác động tương hỗ, thúc đẩy nhau
cùng phát triển.
Đối với nước ta hiện nay, chính trị gắn liền với vai trị lãnh đạo và sự

cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam. Kể từ ngày thành lập đến nay,
Đảng ta đã thể hiện được năng lực lãnh đạo cũng như uy tín tuyệt đối của
mình. Đảng đã dẫn dắt, đưa sự nghiệp cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi
này đến thắng lợi khác. Không chỉ lãnh đạo nhân dân, dân tộc Việt Nam giành
và giữ được độc lập lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, Đảng cịn lãnh đạo
thành cơng sự nghiệp xây dựng, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống, đem lại
những lợi ích thiết thực cho tồn thể nhân dân lao động. Sự nghiệp cách mạng
Xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng CNXH, giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng
sản do Đảng lãnh đạo đạng giành được những thành quả to lớn. Hiện thực lịch
sử mấy chục năm qua cho thấy Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là đội
tiên phong của giai cấp vơ sản Việt Nam mà cịn là người đại diện chân chính
cho tồn thể lợi ích chính đáng của dân tộc, của nhân dân. Hệ thống chính trị
Việt Nam do Đảng ta lãnh đạo và xây dựng đang ngày càng hoàn thiện, phát
triển vững mạnh, nhanh chóng, đảm nhiệm và gánh vác ngày càng tốt hơn
những trọng trách mà lịch sử đã và đang giao phó.
1.1.2. Khái niệm tư tưởng
Hiểu theo nghĩa chung nhất tư tưởng là một hình thức tồn tại của ý thức
xã hội, kết quả của quá trình nhận thức hiện thực khách quan, trở thành kinh
nghiệm và sự hiểu biết trong tâm trí mỗi con người. V.I.Lê nin coi tư tưởng là


20

hình thức cao của nhận thức, là mục tiêu, chương trình, kế hoạch nhằm tiếp
tục nhận thức và cải tạo thế giới khách quan. Tư tưởng là nhận thức và khát
vọng của con người.
Hiểu theo nghĩa hẹp, tư tưởng là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ đời
sống tinh thần của một con người, của một cá nhân cụ thể. Vấn đề tư tưởng
bao gồm toàn bộ hoạt động nhận thức, tình cảm, suy nghĩ, ý chí, niềm tin, lý
tưởng… Từ góc độ này, khái niệm tư tưởng gắn liền với đời sống tinh thần và

hoạt động tư duy của mỗi một cá nhân. Do đó, trong một chừng mực, ý nghĩa
nhất định, tư tưởng là tiền đề, là nền tảng cực kỳ quan trọng chi phối mọi
hành vi, hoạt động của con người. Vấn đề tư tưởng quyết định hành vi, thái độ
của cá nhân. Suy nghĩ đúng, tư tưởng tốt sẽ có hành vi, thái độ tốt. Suy nghĩ
sai lầm, nhận thức lệch lạc, tư tưởng xấu sẽ dẫn đến những hành vi, thái độ
xấu, sai lầm.
Theo Từ điển Triết học: “Tư tưởng là hình thức phản ánh thế giới bên
ngồi, trong đó bao hàm sự ý thức về mục đích và triển vọng của việc tiếp tục
nhận thức và cải tạo thế giới bên ngoài. Tư tưởng khái quát hoá kinh nghiệm
của sự phát triển tri thức trước đó và được dùng làm nguyên tắc để giải thích
các hiện tượng”[36; 451].
Tư tưởng là một hình thái ý thức xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng, tư
tưởng là sự phản ánh của hiện thực trong ý thức, là biểu hiện của quan hệ giữa
con người với thế giới xung quanh. Tư tưởng bị qui định bởi tính chất của chế
độ xã hội, do điều kiện sinh hoạt vật chất của con người quyết định. Trong xã
hội có giai cấp, tư tưởng luôn mang bản chất giai cấp, tư tưởng là biểu hiện
lợi ích vật chất của các giai cấp, cuộc đấu tranh về tư tưởng thực chất là một
dạng thức của cuộc đấu tranh giai cấp.


21

Xét về phạm vi, tư tưởng có thể được nhìn nhận dưới nhiều góc độ
khác nhau như tư tưởng của một giai cấp, của một tầng lớp người trong xã
hội, chẳng hạn như tư tưởng tư sản, tư tưởng vô sản, tư tưởng phong kiến. Tư
tưởng giai cấp, tư tưởng xã hội bao giờ cũng tồn tại, bộc lộ và biểu hiện thông
qua tư tưởng của những cá nhân, của những con người cụ thể trong hiện thực
xã hội. Tuy nhiên mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ lịch sử tư tưởng có những đặc
trưng, đặc điểm cụ thể khác nhau. Tư tưởng thời cổ đại khác với tư tưởng thời
kỳ trung đại, cận đại. Trong xã hội hiện đại, tư tưởng của con người cũng có

vơ vàn những biểu hiện hết sức phong phú, sinh động, phức tạp, phản ánh
những điều kiện sinh hoạt vật chất vô cùng phong phú trong hiện thực cuộc
sống hôm nay.
1.1.3. Khái niệm giáo dục chính trị, tư tưởng
Để hiểu thế nào là giáo dục chính trị tư tưởng, trước hết chúng ta cần
tìm hiểu về khái niệm giáo dục. Giáo dục, hiểu theo nghĩa chung nhất là hình
thức học tập theo đó kiến thức, kỹ năng, và thói quen của một nhóm người
được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua giảng dạy, đào tạo,
hay nghiên cứu khoa học. Giáo dục thường diễn ra dưới sự hướng dẫn của
người khác, nhưng cũng có thể thơng qua q trình tự học. Bất cứ trải nghiệm
nào có ảnh hưởng đáng kể lên cách mà người ta suy nghĩ, cảm nhận, hay hành
động đều có thể được xem là có tính giáo dục. Giáo dục thường được chia
thành các giai đoạn hoặc phân chia dựa vào các hình thức tổ chức hoặc dựa
vào đặc trưng, đặc điểm của từng loại hình cụ thể.
Như vậy, giáo dục chính trị, tư tưởng là một hình thức, một bộ phận,
một nội dung nằm trong quá trình hoạt động giáo dục nói chung của xã hội.
Có thể nói đây là một mảng có tính chất đặc thù của hoạt động giáo dục. Giáo
dục chính trị, tư tưởng là những hoạt động giáo dục gắn liền với lĩnh vực
chính trị, tư tưởng, là sự giáo dục những nội dung, những vấn đề liên quan,


22

đặc thù, bó hẹp trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng, gắn liền với những vấn đề
có tính chính trị, tư tưởng. Đây không chỉ là vấn đề giáo dục nói chung mà
cịn là một lĩnh vực giáo dục hết sức đặc biệt, có tính nhạy cảm, phức tạp. Nó
liên quan đến vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp, liên quan đến vấn đề
quyền và lợi ích giai cấp, liên quan đến vấn đề đấu tranh giành và giữ quyền
lực nhà nước, quyền lực chính trị nói chung. Nói đến những vấn đề này là nói
đến những mâu thuẫn xã hội, là vấn đề đấu tranh một mất một cịn. Đặc biệt

nó là sự thể hiện tập trung những vấn đề về lập trường, phẩm chất đạo đức
cách mạng, đến lý tưởng, niềm tin, định hướng chính trị, văn hóa chính trị…
Đó là lĩnh vực đặc thù nhưng cũng vô cùng rộng lớn và đặc biệt là hết sức
phức tạp.
Trong thực tế có những khái niệm khác nhau về cơng tác giáo dục
chính trị - tư tưởng. Có quan niệm cho rằng đây là lĩnh vực riêng của công tác
tư tưởng, của những người làm công tác tư tưởng. Lại có quan niệm cho rằng
giáo dục chính trị, tư tưởng là nội dung của giáo dục, chỉ cần thực hiện giảng
dạy những mơn chính trị theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo là đủ.
Hiểu như vậy là phiến diện. Con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của nước ta
dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mọi lĩnh vực Đảng
đều lãnh đạo nhất qn, trong đó có cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Đó
là hoạt động có chủ đích của Đảng nhằm xác lập thế giới quan khoa học trên
cơ sở hệ tư tưởng là Chủ nghĩa Mác - Lê nin. Giáo dục chính trị, tư tưởng là
truyền bá Chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, giáo dục truyền thống cách mạng của
dân tộc, lý tưởng xã hội chủ nghĩa tới cán bộ đảng viên và quần chúng nhân
dân thống nhất về tư tưởng, nâng cao nhận thức chính trị, lý tưởng xã hội chủ
nghĩa và năng lực lãnh đạo hoạt động thực tiễn xủa họ, hướng họ vận dụng
những hiểu biết đó vào đời sống chính trị.


23

Giáo dục chính trị, tư tưởng cũng chính là quá trình giáo dục tinh thần
yêu nước nồng nàn, giáo dục chủ nghĩa anh hùng cách mạng và tính nhân văn
cao cả, là quá trình giáo dục những giá trị truyền thống tốt đẹp, thiêng liêng
của dân tộc, của cha ông để lại. Q trình giáo dục chính trị, tư tưởng cũng
chính là q trình hình thành thế giới quan duy vật biện chứng, hình thành
nhân sinh quan khoa học.

Mặt khác cũng cần hiểu rõ hơn về công tác tư tưởng của Đảng là hoạt
động có mục đích của một giai cấp, một chính Đảng nhằm hình thành và phát
triển hệ tư tưởng, truyền bá hệ tư tưởng cho quần chúng, thúc đẩy quần chúng
hành động vì lợi ích của chủ thể hệ tư tưởng. Công tác tư tưởng trong chế độ
XHCN là hoạt động có mục đích của Đảng Cộng sản và Nhà nước nhằm hình
thành phát triển hệ tư tưởng XHCN, biến hệ tư tưởng XHCN thành hệ tư
tưởng thống trị xã hội, động viên cổ vũ con người hành động tích cực sáng tạo
vì lý tưởng mục tiêu của CNXH.
Giáo dục chính trị, tư tưởng là sự tác động có mục đích, có hệ thống
với các hình thức, biện pháp khác nhau của một chủ thể đến khách thể nhằm
nâng cao tri thức của khách thể về hệ tư tưởng, đường lối chính trị, thực hiện
tập hợp, tổ chức, định hướng và giác ngộ họ tự giác trong hoạt động thực tiễn
theo mục tiêu đã đề ra.
Như vậy cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng là một bộ phận của công
tác tư tưởng quan trọng của Đảng mà mọi ngành dưới sự lãnh đạo của Đảng
đều phải thực hiện và tham gia. Ngành giáo dục phải làm tốt công tác tư
tưởng cho đảng viên thông qua việc giáo dục chính trị, tư tưởng mà hình
thành nền văn hóa chính trị cho đội ngũ đảng viên, cổ vũ hành động của họ
ngày một tích cực hơn trên cơ sở nhận thức niềm tin biến thành hành động cụ
thể để họ trở thành con người mới - con người XHCN, cống hiến sức lực cho
cuộc cách mạng XHCN, xây dựng đất nước. Bác Hồ đã khẳng định “Muốn


24

xây dựng CNXH trước hết phải có con người XHCN”, những con người đó
có được khi thực hiện giáo dục tồn diện: chun mơn, đạo đức, tăng cường
giáo dục chính trị, tư tưởng bằng nhiều nội dung, hình thực, phương tiện nhất
là trong các lớp tập huấn cán bộ, đảng viên.
1.2. Tầm quan trọng và những yêu cầu đặt ra đối với cơng tác giáo

dục chính trị, tư tưởng cho giáo viên tiểu học hiện nay
1.2.1. Tầm quan trọng của cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho
đội ngũ giáo viên tiểu học
Cơng tác chính trị, tư tưởng nói chung là hoạt động lãnh đạo quan trọng
hàng đầu của Đảng nhằm nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, phát triển
cương lĩnh, đường lối chính sách, xây dựng thế giới quan khoa học, bồi
dưỡng lý tưởng, lẽ sống, giáo dục niềm tin... xây dựng Đảng vững mạnh về
chính trị, tư tưởng, đạo đức. Cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng là một trong
những phương thức lãnh đạo có vị trí quan trọng hàng đầu trong hoạt động
lãnh đạo của Đảng. Chính vì vậy, đối với ngành giáo dục nói riêng cũng như
tất cả các ngành khác nói chung trong xã hội, cơng tác chính trị, tư tưởng
cũng có vị trí quan trọng bậc nhất trong mọi hoạt động.
Đối với đội ngũ giáo viên bậc tiểu học, công tác chính trị, tư tưởng
cũng đóng vai trị quyết định cho sự tồn tại và phát triển của đội ngũ. Làm tốt
công tác này sẽ mang lại hiệu quả cao cho sự phát triển về số lượng và chất
lượng của bậc học này. Một giáo viên tiểu học có những quan điểm, nhận
thức đúng đắn về chính trị, tư tưởng sẽ có vai trị, tác dụng như một đầu tàu,
sẽ phát huy sức mạnh lan tỏa, lơi kéo cả đồn tàu cùng tiến về phía trước.
Ngược lại, một giáo viên tiểu học khơng được giáo dục đúng đắn về chính trị,
tư tưởng, có những quan niệm, quan điểm sai lầm, có những nhận thức, hiểu
biết lệch lạc, sai trái về lập trường chính trị, có những biểu hiện suy thối về
tư tưởng, đạo đức, lối sống sẽ tạo ra những ảnh hưởng không nhỏ, gây ra


25

những cản trở, những tác động xấu đến môi trường xã hội xung quanh. Chính
vì lẽ đó, cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho giáo viên tiểu học lại càng
phải chú trọng hơn bất kỳ đối tượng nào khác.
Hiện nay, do tác động của nền kinh tế thị trường, một bộ phận nhà giáo

và cán bộ quản lý giáo dục có biểu hiện tiêu cực, thiếu gương mẫu về chính
trị, tư tưởng đạo đức và lối sống, việc tự học và tự nghiên cứu còn hạn chế,
chậm đổi mới về phương pháp giảng dạy. Cá biệt có một số nhà giáo và cán
bộ quản lý giáo dục còn xúc phạm danh dự, nhân phẩm người học. Những vi
phạm này làm ảnh hưởng đến uy tín của ngành giáo dục, làm tổn hại đến danh
dự nhà giáo, đến truyền thống tơn sư trọng đạo của dân tộc và cịn ảnh hưởng
xấu trong việc giáo dục nhân cách cho thế hệ trẻ. Chính vì vậy, việc nâng cao
phẩm chất chính trị, ý thức đạo đức nghề nghiệp, lối sống và phong cách sư
phạm, trình độ chun mơn nghiệp vụ, xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục trong sạch, vững mạnh là việc làm có ý nghĩa cấp thiết.
Trong thời điểm này, cuộc vận động “Mỗi thầy, cô giáo là một tấm gương đạo
đức, tự học và sáng tạo” với những yêu cầu về phẩm chất đạo đức, tinh thần
tự học và sáng tạo của nhà giáo mà cuộc vận động đặt ra sẽ tạo sự chuyển
biến mạnh mẽ trong đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục về ý thức tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, đạo đức nghề nghiệp, thường xun tự
học nâng cao trình độ chính trị, chun mơn nghiệp vụ và sáng tạo trong các
hoạt động giáo dục và quản lý giáo dục, góp phần đổi mới mạnh mẽ sự nghiệp
giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội.
Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng là hoạt động đặc biệt quan trọng
của Chi Bộ các trường học. Trong thực tiễn, công tác giáo dục chính trị, tư
tưởng đã góp phần định hướng nhận thức, xây dựng và củng cố niềm tin của
cán bộ, đảng viên, đội ngũ giáo viên vào sự lãnh đạo của Đảng, từ đó tạo


×