Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ giảng viên trường đại học sư phạm kỹ thuật vĩnh long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
----------

VŨ TRUNG KIÊN

GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ, TƯ TƯỞNG
CHO ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT
VĨNH LONG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Đồng Tháp, năm 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
----------

VŨ TRUNG KIÊN

GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ, TƯ TƯỞNG
CHO ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT
VĨNH LONG
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ


Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐINH TRUNG THÀNH

Đồng Tháp, năm 2016


-1NHẬN XÉT CỦA NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC


-2LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài luận văn tốt nghiệp, em
đã nhận được sự quan tâm của nhiều đơn vị, thầy cô, đồng nghiệp và gia đình.
Em xin chân thành cảm ơn:
Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo Sau đại học, Ban Chủ nhiệm khoa Giáo
dục Chính trị Trường Đại học Vinh; Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo Sau đại học
Trường Đại học Đồng Tháp cùng quý Thầy, Cô đã tham gia giảng dạy lớp Cao
học Chính Trị học khóa 22.
Ban Giám hiệu, các đơn vị phòng, khoa, đội ngũ cán bộ, viên chức của
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long đã tạo điều kiện cho em trong
suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt, em xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Đinh
Trung Thành, người hướng dẫn trực tiếp và tận tình giúp đỡ em hồn thành luận
văn.
Em xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp cùng các anh,
chị học viên lớp Cao học Chính Trị học khóa 22 đã dành nhiều tình cảm, giúp
đỡ, động viên em hồn thành khóa học.
Đồng Tháp, tháng 6 năm 2016
Tác giả

Vũ Trung Kiên



-3MỤC LỤC
Trang
NHẬN XÉT CỦA NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

1

LỜI CẢM ƠN

2

MỤC LỤC

3

A. MỞ ĐẦU

4

B. NỘI DUNG

10

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CƠNG TÁC GIÁO DỤC CHÍNH

10

TRỊ, TƯ TƯỞNG CHO ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN
1.1. Những vấn đề chung về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội


10

ngũ giảng viên
1.2. Nội dung, phương thức giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ giảng

22

viên
1.3. Vai trị của cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ giảng viên

28

Chương 2. THỰC TRẠNG CƠNG TÁC GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ, TƯ

36

TƯỞNG CHO ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ
PHẠM KỸ THUẬT VĨNH LONG
2.1. Khái quát về Trường đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long

36

2.2. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ giảng viên Trường đại

42

học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG GIÁO DỤC

60


CHÍNH TRỊ, TƯ TƯỞNG CHO ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN TRƯỜNG
ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT VĨNH LONG
3.1. Quan điểm tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ giảng

60

viên Trường đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long
3.2. Giải pháp tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ giảng

64

viên Trường đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long
C. KẾT LUẬN

88

D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

90


-4A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục chính trị, tư tưởng là một trong những khâu quan trọng của việc
hình thành nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa. Giáo dục chính trị, tư
tưởng nhằm xây dựng những con người, những tập thể tha thiết gắn bó với lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có đạo đức trong sáng, ln có ý chí
kiên cường để xây dựng và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc, góp phần tăng
cường cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Nằm trong hệ thống giáo dục đào tạo của quốc gia, các học viện, trường
đại học ngoài nhiệm vụ giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học, cịn có nhiệm
vụ rất quan trọng là tham gia đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận. Để thực
hiện tốt nhiệm vụ này đòi hỏi đội ngũ giảng viên ở các học viện, trường đại học
phải không ngừng nâng cao năng lực đấu tranh tư tưởng, lý luận của mình. Hơn
nữa, với nhiệm vụ đào tạo thế hệ trẻ “vừa hồng, vừa chuyên” lực lượng kế cận,
nguồn lực quan trọng để tiếp tục thực hiện nhiệm vụ đấu tranh tư tưởng, lý luận
của Đảng. Do vậy, trước những yêu cầu, nhiệm vụ trên mặt trận tư tưởng, lý
luận trong tình hình mới, các học viện, trường đại học cần phải đặc biệt quan
tâm việc bồi dưỡng năng lực đấu tranh tư tưởng, lý luận, đẩy mạnh hơn nữa
cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho giảng viên.
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long, với sứ mệnh là trung tâm
đào tạo giáo viên dạy nghề và cán bộ kỹ thuật có trình độ đại học đạt chuẩn quốc
gia, là trung tâm bồi dưỡng và đánh giá kỹ năng nghề của khu vực trong các lĩnh
vực giáo dục nghề nghiệp, công nghệ kỹ thuật, nhà trường đã không ngừng ứng
dụng khoa học công nghệ trong hoạt động đào tạo và quản lý, từng bước hồn
thiện và nâng trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên về nhiều mặt.
Trong đó, quan trọng nhất là cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ
giảng viên trong nhà trường, nhằm từng bước đáp ứng yêu cầu đào tạo ra đội
ngũ giáo viên dạy nghề và công nhân kỹ thuật chất lượng cao cho khu vực và
trong cả nước.


-5Đứng trước địi hỏi của sự nghiệp đổi mới tồn diện nền giáo dục và đào
tạo cũng như yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chuyên môn đặc thù của trường Đại
học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long, đội ngũ giảng viên trong nhà trường còn bộc
lộ hạn chế và yếu kém ở nhiều mặt như: tư tưởng chính trị, bản lĩnh chính trị,
trình độ nhận thức chính trị, trình độ lý luận chính trị; phẩm chất đạo đức cách
mạng, đạo đức nghề nghiệp; năng lực tổ chức quản lý, năng lực hoạt động thực
tiễn,… Để khắc phục tình trạng trên cần phải giải quyết nhiều vấn đề liên quan

đến công tác phát triển đội ngũ trong nhà trường, trong đó, vấn đề có ý nghĩa
cấp bách là phải đổi mới và tăng cường hơn nữa cơng tác giáo dục chính trị, tư
tưởng nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng cho đội
ngũ này trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chun mơn trong nhà trường.
Xuất phát từ những lý do đó, tác giả chọn vấn đề “Giáo dục chính trị, tư
tưởng cho đội ngũ giảng viên Trường Đại học Sư phạm kỹ thuật Vĩnh
Long” làm đề tài luận văn Thạc sĩ khoa học Chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Do tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề giáo dục chính trị, tư tưởng cho
đội ngũ cán bộ, đảng viên, mà cho đến nay đã có rất nhiều nguồn tài liệu, văn
bản, sách báo, các cơng trình khoa học của Đảng, Nhà nước, các cơ quan khoa
học và nhiều nhà nghiên cứu đã đề cập đến vấn đề ở những mức độ khác nhau.
Đó là nguồn tư liệu quý báu giúp tác giả tham khảo, kế thừa, phát triển trong quá
trình nghiên cứu, hồn thiện luận văn của mình như:
Các tài liệu là sách, ấn phẩm, tạp chí gồm:
Nguyễn Thái Sơn (2001), Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ chủ chốt, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội;
Lương Gia Ban (chủ biên, 2002), Góp phần nâng cao chất lượng giảng
dạy và đổi mới nội dung chương trình các mơn học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội;


-6Vũ Ngọc Am (2003), Đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho
cán bộ, đảng viên cơ sở trong giai đoạn hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội;
Ngô Ngọc Thắng (2004), Đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội
ngũ cán bộ cấp cơ sở trong thời kỳ đổi mới, Nhà xuất bản Lý luận chính trị;
Hồ Chí Minh với cơng tác giáo dục lý luận chính trị (2007), Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội;
Vũ Ngọc Am (2009), Một số vấn đề đổi mới phương pháp giáo dục lý

luận chính trị, Nhà xuất bản Thông tấn;
Phạm Huy Kỳ (2010), Lý luận và phương pháp nghiên cứu, giáo dục lý
luận chính trị, Nhà xuất bản Chính trị - Hành chính quốc gia, Hà Nội;
GS. Nguyễn Đức Bình, GS.TS. Trần Ngọc Hiên, GS. Đồn Trọng Truyến,
Nguyễn Văn Thảo, PGS.PTS. Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên, 1999), Đổi mới
và tăng cường hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội;
GS.TSKH. Vũ Ngọc Hải, GS.TSKH. Nguyễn Minh Đường, PGS.TS.
Đặng Bá Lãm, TSKH. Phạm Đỗ Nhật Tiến (2013), Quản lý nhà nước hệ thống
giáo dục Việt Nam trong đổi mới căn bản, toàn diện và hội nhập quốc tế, Nxb.
Giáo Dục Việt Nam, Hà Nội;
PGS.TS.GVCC. Đoàn Minh Duệ - Ths. Hồ Thị Hồng Cúc (Đồng chủ
biên, 2014), Một số giải pháp nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ cơ
sở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long trong thời kỳ hội nhập và phát triển, Nxb
Nghệ An.
Trong các tài liệu nói trên, các tác giả đã bàn đến và làm sáng tỏ về lý
luận chính trị, trình độ lý luận chính trị, tầm quan trọng của việc giáo dục chính
trị, tư tưởng, nâng cao chất lượng cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng, vai trị
của vấn đề này trong đời sống xã hội, trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta, góp
phần làm cơ sở nghiên cứu phương pháp giảng dạy, cách thức bồi dưỡng, giáo
dục chính trị, tư tưởng. Tuy nhiên, các cơng trình trên cũng chưa đi vào nghiên


-7cứu có hệ thống về cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đối tượng là đội
ngũ giảng viên trong trường đại học.
Các tài liệu là cơng trình khoa học gồm:
Luận án Tiến sĩ Triết học của Lê Hanh Thơng (2003), Đổi mới giáo dục lý
luận chính trị cho cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã các tỉnh khu
vực Nam Bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội;
Đề tài cấp Bộ mã B.08 – 23 do PGS.TS Ngô Ngọc Thắng (chủ nghiệm đề

tài, 2008), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vào giáo dục lý luận
chính trị trong giai đoạn hiện nay;
Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Một số quan điểm cơ bản của C.Mác, PH.
Ăngghen, V.I. Lênin và Hồ Chí Minh về Cơng tác tư tưởng (2012), Học viện Báo
chí và Tuyên truyền, Khoa Tuyên truyền, Hà Nội;
Luận văn Thạc sĩ Lý luận và phương pháp dạy học bộ mơn chính trị, Đại
học Vinh (2010), Nâng cao hiệu quả cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho
đảng viên chi bộ xã Tân Hội, Thị xã Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn
hiện nay của Trần Văn Hịa;
Luận văn Thạc sĩ chính trị học, Đại học Vinh (2014), Bồi dưỡng lý luận
chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên các trường trung học phổ thông huyện
Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa của Phạm Xuân Dinh;
Luận văn Thạc sĩ Chính trị học, Đại học Vinh (2015), Văn hóa chính trị
của đội ngũ giảng viên các trường đại học trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long hiện nay
của Nguyễn Hồng Hải;
Luận văn Thạc sĩ Chính trị học, Đại học Vinh (2015), Nâng cao chất
lượng giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ cơ sở của huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng
Tháp trong giai đoạn hiện nay của Hứa Thị Diễm Phương.
Qua nghiên cứu nhận thấy chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách có
hệ thống và sâu sắc về cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ giảng
viên Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long trong thời kỳ đổi mới căn


-8bản, toàn diện giáo dục đào tạo hiện nay. Đề tài của tác giả khơng trùng lặp với
các cơng trình khoa học đã cơng bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất giải pháp giáo dục chính
trị, tư tưởng cho đội ngũ giảng viên Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh
Long.

3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ cơ sở lý luận của cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội
ngũ giảng viên.
- Khảo sát thực trạng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ
giảng viên Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long thời gian qua, chỉ ra
các thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của các thành tựu, hạn chế đó. Phát hiện
những yêu cầu đặt ra trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ
giảng viên của trường trong giai đoạn hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường cơng tác giáo dục chính trị, tư
tưởng cho đội ngũ giảng viên Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long
trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ giảng viên Trường Đại
học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội
ngũ giảng viên viên Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long trong giai
đoạn 2010 – 2015 và đề xuất giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả cơng tác giáo
dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ giảng viên Trường Đại học Sư phạm Kỹ
thuật Vĩnh Long giai đoạn 2016 – 2020.
Không gian nghiên cứu: Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long.


-95. Phương pháp nghiên cứu
Khi tiến hành nghiên cứu, tác giả đã vận dụng tổng hợp phương pháp duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử (Các quan điểm toàn diện, phát triển, lịch sử
cụ thể,…), coi trọng phương pháp lịch sử - logic.
Đề tài còn sử dụng một số phương pháp cụ thể như:
- Phương pháp quan sát thực tiễn nhằm phát hiện vấn đề.

- Phương pháp phân tích - tổng hợp.
- Phương pháp điều tra xã hội học.
- Phương pháp thống kê.
6. Những đóng góp về mặt khoa học của đề tài
Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận của cơng tác giáo dục chính trị, tư
tưởng cho đội ngũ giảng viên trong Trường Đại học.
Trên cơ sở đánh giá khái quát thực trạng công tác giáo dục chính trị, tư
tưởng của đội ngũ giảng viên Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long
trong thời gian vừa qua, từ đó đề xuất giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường cơng
tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ giảng viên của Trường trong giai
đoạn hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần cung cấp thêm cơ sở lý luận
và thực tiễn cho việc hoạch định công tác phát triển đội ngũ ở Trường Đại học
Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long nói chung; về cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng
cho đội ngũ giảng viên hiện nay trong nhà trường nói riêng. Kết quả nghiên cứu
của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, bồi
dưỡng, giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ giảng viên trong các trường cao
đẳng nghề, các cơ sở dạy nghề thuộc hệ thống.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của đề tài được chia làm 3 chương, 07 tiết.


- 10 B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CƠNG TÁC GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ,
TƯ TƯỞNG CHO ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN
1.1. Những vấn đề chung về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho
đội ngũ giảng viên
1.1.1. Giáo dục chính trị, tư tưởng

1.1.1.1. Giáo dục
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt mà bản chất của nó là truyền
thụ và lĩnh hội những kiến thức và kinh nghiệm của các thế hệ lồi người. Nhờ
đó mà các thế hệ nối tiếp nhau lĩnh hội, kế thừa, bổ sung và phát triển những
kiến thức và kinh nghiệm của thế hệ trước, trên cơ sở đó mà nhân loại ngày càng
phát triển.
Theo Từ điển Tiếng Việt, giáo dục là “hoạt động nhằm tác động một cách
có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm
cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề
ra” [50, tr.394].
Dưới một góc độ khác, giáo dục được hiểu “là hiện tượng truyền đạt lại
những giá trị, những kinh nghiệm lịch sử - xã hội đã được tích lũy qua các thế
hệ. Các thế hệ nối tiếp nhau tiếp thu có chọn lọc hệ thống những tri thức, những
kinh nghiệm ấy, tham gia cải tạo xã hội, cải tạo bản thân, thúc đẩy cuộc sống
phát triển không ngừng” [29, tr.3].
Theo nghĩa rộng, giáo dục được hiểu “là sự hình thành nhân cách có mục
đích và có tổ chức những sức mạnh thể chất và tinh thần của con người, hình
thành thế giới quan, bộ mặt đạo đức và thị hiếu thẩm mỹ cho con người; với
nghĩa rộng nhất, khái niệm này bao hàm giáo dưỡng, dạy học và tất cả những
yếu tố tạo nên những nét tính cách và phẩm hạnh của con người, đáp ứng các
nhu cầu của nền kinh tế - xã hội” [39, tr.25-26].


- 11 Theo nghĩa hẹp, “giáo dục bao gồm quá trình hoạt động nhằm hình thành
thế giới quan khoa học, lí tưởng đạo đức, thái độ thẩm mỹ đối với hiện thực của
con người, kể cả việc phát triển, nâng cao thể lực” [39, tr.27]. Quá trình này
được xem là một bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể mà kết quả được xem
xét trên phương diện ý thức, thái độ, hành vi, thói quen biểu hiện sự phát triển
của trình độ “có giáo dục” của mỗi người.
Trong lịch sử phát triển giáo dục của nhân loại, đã có nhiều hình thức giáo

dục khác nhau. Mỗi hình thức đều phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và hồn
cảnh lịch sử đã sản sinh ra nó. Lịch sử đã chứng minh rằng giáo dục là một hiện
tượng xã hội đặc biệt, luôn luôn là thành phần trong cơ cấu, thiết chế xã hội và
gắn liền với sự thỏa mãn nhu cầu phát triển và tiến bộ xã hội: bất cứ xã hội nào
muốn tồn tại và phát triển đều phải tổ chức và thực hiện việc giáo dục liên tục
đối với các thế hệ. Vì giáo dục là một nhu cầu tất yếu của xã hội cho nên trong
tiến trình phát triển, xã hội sẽ tìm ra phương thức thích hợp để đáp ứng, nhằm
thỏa mãn các yêu cầu về giáo dục để duy trì sự tồn tại và phát triển theo hướng
ngày càng hoàn thiện hơn.
1.1.1.2. Chính trị
Trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, đã có rất nhiều quan niệm khác nhau
về chính trị. Thuật ngữ “chính trị” (politica) theo nguyên nghĩa tiếng Hy Lạp có
nguồn gốc từ “thành bang” (polis). Theo đó, chính trị là cơng việc của Nhà nước.
Platơn coi chính trị là “nghệ thuật cung đình”, liên kết trực tiếp các chuẩn
mực của người anh hùng và sự thơng minh; chính trị là nghệ thuật cai trị.
Arixtốt coi con người là “động vật chính trị”; chính trị là khoa học lãnh đạo
con người.
Thời kỳ phục hưng ở phương Tây, chính trị được coi là hoạt động điều tiết
của những cá nhân trong xã hội. Chính trị có nhiệm vụ xây dựng những “kế ước”
cho phép tạo ra một xã hội dân sự và các quy định để mọi người cùng chung sống
trong xã hội đó.


- 12 Max Weber cho rằng, chính trị là khát vọng tham gia vào quyền lực hay ảnh
hưởng đến sự phân chia quyền lực, định rõ vị thế của từng cá nhân trong một trật tự
nhất định.
Ở phương Đông, người Trung Quốc cổ đại coi chính trị là sự tác động, điều
tiết để xã hội phát triển đúng đắn; là sắp đặt, quản lý để xã hội có kỷ cương, nề nếp,
ổn định. Trong thời kỳ cận đại, Tôn Trung Sơn định nghĩa: chính là việc của dân
chúng, trị là quản lý. Chính trị là quản lý việc của dân chúng. Các nhà nghiên cứu

Nhật Bản xem chính trị là hoạt động tìm kiếm những khả năng áp đặt quyền lực
chính trị.
Theo quan điểm của C.Mác, chính trị là vấn đề giai cấp, quan hệ giai cấp,
đấu tranh giai cấp và đỉnh cao của cuộc đấu tranh này là đấu tranh giành quyền
lực cho một giai cấp nhất định. C.Mác cho rằng: “Mục đích trước mắt của những
người cộng sản cũng là mục đích trước mắt của tất cả các đảng vô sản khác: Tổ
chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản,
giai cấp vơ sản giành lấy chính quyền” [12, tr.615]. Bước ngoặt của đấu tranh
chính trị là sự bùng nổ cách mạng xã hội, giành lấy chính quyền nhà nước, lật đổ
chế độ cũ và thiết lập chế độ mới: “Thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai
cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát
triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi
người” [12, tr.628]. Theo C.Mác, chính trị là vấn đề quyền lực, biểu hiện trực
tiếp là quyền lực nhà nước, C.Mác luận giải: “Giai cấp vơ sản sẽ dùng sự thống
trị chính trị của mình để từng bước một đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai
cấp tư sản, để tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước,
tức là trong tay giai cấp vô sản đã được tổ chức thành giai cấp thống trị, và để
tăng thật nhanh số lượng những lực lượng sản xuất” [12, tr.626]. C.Mác kết
luận: “Bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp nào cũng là cuộc đấu tranh chính trị” [12,
tr.608].
V.I. Lênin cho rằng, chính trị là tồn bộ những hoạt động có liên quan đến
công việc của nhà nước, là một thực thể tồn tại trong đời sống xã hội với những


- 13 cấp độ khác nhau (cá nhân, cộng đồng, giai cấp, dân tộc, nhà nước, nhân
loại,…). Từ đó, Lênin nêu ra những quan điểm chủ yếu về chính trị như sau: một
là, chính trị là lợi ích, là quan hệ lợi ích, là đấu tranh giai cấp trước hết vì lợi ích
gia cấp; hai là, cái căn bản nhất của chính trị là việc tổ chức chính quyền nhà
nước, là sự tham gia vào công việc nhà nước, là định hướng cho nhà nước, xác
định hình thức, nội dung, nhiệm vụ của nhà nước; ba là, chính trị là biểu hiện

tập trung của kinh tế, là việc xây dựng nhà nước về kinh tế, đồng thời chính trị
khơng thể không chiếm hàng đầu so với kinh tế; bốn là, chính trị là lĩnh vực
phức tạp nhất, nhạy cảm nhất, liên quan đến vận mệnh hàng triệu con người.
Giải quyết những vấn đề chính trị vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đời sống xã hội có bốn lĩnh vực cơ bản là
kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội, phải coi các lĩnh vực đó đều quan trọng như
nhau. Trong tác phẩm “Thường thức chính trị”, Người đã chỉ rõ nội hàm của
khái niệm chính trị rất cơ bản và dễ hiểu. Theo Người, chính trị bao gồm: Quan
hệ giữa các giai cấp trong xã hội; Chế độ xã hội do giai cấp xác lập; Đấu tranh
giữa các giai cấp trên cơ sở lợi ích kinh tế, động lực cách mạng và con đường
giải phóng của người nghèo; Quyền và lợi ích của nhân dân; Nhiệm vụ của Nhà
nước; Đảng chính trị, quyền và nghĩa vụ của đảng viên; Quan hệ quốc tế và xu
thế phát triển hợp quy luật của quốc gia, dân tộc.
Theo Người, “mấu chốt của vấn đề chính trị ở Việt Nam trong những năm
đầu thế kỷ XX là giành và giữ chính quyền, là thực hiện dân chủ kiểu mới, làm
cho nhân dân thực sự là người làm chủ, làm cho dân giàu, nước mạnh và sẵn
sàng làm bạn với tất cả các nước trên tinh thần hịa hiếu, tơn trọng chủ quyền và
hợp tác cùng có lợi” [34, tr.201,252].
Theo Từ điển Triết học: “Chính trị là tất cả những hoạt động, những vấn
đề gắn với quan hệ giai cấp, dân tộc, quốc gia và các nhóm xã hội xoay quanh
một vấn đề trung tâm đó là vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước”
[51, tr.269].


- 14 Theo Từ điển Tiếng Việt, chính trị là “những tổ chức điều khiển bộ máy
nhà nước trong nội bộ một nước về quan hệ chính thức giữa các nước với nhau”,
“những hoạt động của một giai cấp, một chính đảng, một tập đồn xã hội nhằm
giành lấy hoặc duy trì quyền điều khiển bộ máy nhà nước”, “những hiểu biết về
mục đích, đường lối, nhiệm vụ đấu tranh của một giai cấp, một chính đảng nhằm
giành lấy hoặc duy trì quyền điều khiển bộ máy nhà nước” [50, tr.163].

Như vậy, chính trị là một hình thái ý thức xã hội, thuộc kiến trúc thượng
tầng. Khi xã hội có sự phân chia giai cấp dựa trên các cơ sở kinh tế, thì đồng
thời chính trị cũng có vị trí độc lập và có tác động lớn đối với kinh tế. Trong
điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội, nói tới chính trị, trước hết là bao hàm vai
trị lãnh đạo của đảng cộng sản, hiệu lực quản lý của nhà nước, quyền làm chủ
của nhân dân lao động trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Giành và giữ
chính quyền; những vấn đề xây dựng Đảng, xây dựng chế độ mới, xây dựng và
thực thi quyền làm chủ của nhân dân.
Từ tất cả các quan điểm trên, có thể rút ra: Chính trị là tồn bộ những
hoạt động có liên quan đến mối quan hệ giữa các giai cấp, dân tộc, quốc gia,
các lực lượng xã hội xoay quanh vấn đề giành, giữ và thực thi quyền lực chính
trị, mà cơ bản nhất là quyền lực nhà nước.
1.1.1.3. Tư tưởng
Theo nghĩa rộng, tư tưởng là sự phản ánh hiện thực khách quan của ý thức
dưới dạng những hiểu biết về khái niệm, phạm trù, quy luật.
Theo nghĩa hẹp, tư tưởng được xem là hệ thống các khái niệm, quan điểm,
lý luận do một giai cấp, đảng phái được xác định trên cơ sở phản ánh những lợi
ích giai cấp và các quan hệ chính trị của các giai cấp trong một xã hội nhất định.
Hiểu theo nghĩa chung nhất, tư tưởng là một hình thức tồn tại của ý thức
xã hội, kết quả của quá trình nhận thức hiện thực khách quan, trở thành kinh
nghiệm và sự hiểu biết trong tâm trí mỗi con người. V.I. Lê nin coi tư tưởng là
hình thức cao của nhận thức, là mục tiêu, chương trình, kế hoạch nhằm tiếp tục
nhận thức và cải tạo thế giới khách quan.


- 15 Theo Từ điển Triết học, “Tư tưởng là hình thức phản ánh thế giới bên
ngồi, trong đó bao hàm sự ý thức về mục đích và triển vọng của việc tiếp tục
nhận thức và cải tạo thế giới bên ngồi. Tư tưởng khái qt hố kinh nghiệm của
sự phát triển tri thức trước đó và được dùng làm nguyên tắc để giải thích các
hiện tượng” [51, tr.451].

Theo Từ điển Tiếng Việt, “Tư tưởng là sự phản ánh của hiện thực trong ý
thức, là biểu hiện quan hệ của con người đối với thế giới chung quanh. Là những
quan điểm, ý nghĩa phản ánh thế giới vật chất trong nhận thức con người và thể
hiện mặt này hay mặt khác của thế giới khách quan” [50, tr.1071].
Như vậy, tư tưởng là một hình thái ý thức xã hội thuộc kiến trúc thượng
tầng, tư tưởng là sự phản ánh của hiện thực trong ý thức, là biểu hiện của quan
hệ giữa con người với thế giới xung quanh. Nó bao gồm tư tưởng triết học, tư
tưởng tôn giáo, tư tưởng quân sự, tư tưởng văn học – nghệ thuật, tư tưởng chính
trị,… Trong đó, tư tưởng và chính trị, hay tư tưởng và tư tưởng chính trị là hai
yếu tố có mối quan hệ khăng khít, khơng thể tách rời. Trong đó, tư tưởng chính
trị là nội dung, là yếu tố quan trọng hàng đầu trong tư tưởng.
Tư tưởng bị quy định bởi tính chất của chế độ xã hội, do điều kiện sinh
hoạt vật chất của con người quyết định. Trong xã hội có giai cấp, tư tưởng ln
mang bản chất giai cấp, tư tưởng là biểu hiện lợi ích vật chất của các giai cấp,
cuộc đấu tranh về tư tưởng thực chất là một dạng thức của cuộc đấu tranh giai
cấp.
1.1.1.4. Giáo dục chính trị, tư tưởng
Trong thời gian gần đây có nhiều quan niệm khác nhau về cơng tác giáo
dục chính trị, tư tưởng. Có quan niệm cho rằng đây là lĩnh vực riêng của công
tác tư tưởng, của những người làm công tác tư tưởng. Lại có quan niệm cho rằng
giáo dục chính trị, tư tưởng là một nội dung của giáo dục, chỉ cần thực hiện
giảng dạy những mơn lý luận chính trị theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào
tạo. Tuy nhiên, hiểu như vậy là phiến diện. Con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội
của nước ta dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mọi lĩnh


- 16 vực Đảng đều lãnh đạo nhất quán, trong đó có cơng tác giáo dục chính trị, tư
tưởng. Đó là hoạt động có chủ đích của Đảng nhằm xác lập thế giới quan khoa
học trên cơ sở hệ tư tưởng là Chủ nghĩa Mác-Lênin. Giáo dục chính trị, tư tưởng
là truyền bá Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường

lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, giáo dục truyền thống cách mạng của dân
tộc, lý tưởng xã hội chủ nghĩa tới cán bộ đảng viên và quần chúng nhân dân
thống nhất về tư tưởng, nâng cao nhận thức chính trị, lý tưởng xã hội chủ nghĩa
và năng lực lãnh đạo hoạt động thực tiễn của họ, hướng họ vận dụng những hiểu
biết đó vào đời sống chính trị. Mặt khác cũng cần hiểu rõ hơn về cơng tác tư
tưởng của Đảng là hoạt động có mục đích của một giai cấp, một chính Đảng
nhằm hình thành và phát triển hệ tư tưởng, truyền bá hệ tư tưởng cho quần
chúng, thúc đẩy quần chúng hành động vì lợi ích của chủ thể hệ tư tưởng.
Cơng tác tư tưởng trong chế độ xã hội chủ nghĩa là hoạt động có mục đích
của đảng cộng sản và nhà nước nhằm hình thành phát triển hệ tư tưởng xã hội
chủ nghĩa, biến hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa thành hệ tư tưởng thống trị xã hội,
động viên cổ vũ con người hành động tích cực sáng tạo vì lý tưởng mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội.
Giáo dục chính trị, tư tưởng là sự tác động có mục đích, có hệ thống với
các hình thức, biện pháp khác nhau của một chủ thể đến khách thể nhằm nâng
cao tri thức của khách thể về hệ tư tưởng, đường lối chính trị, thực hiện tập hợp,
tổ chức, định hướng và giác ngộ họ tự giác trong hoạt động thực tiễn theo mục
tiêu đã đề ra.
Như vậy công tác giáo dục chính trị, tư tưởng là một bộ phận của cơng tác
tư tưởng quan trọng của Đảng, mà mọi ngành dưới sự lãnh đạo của Đảng đều
phải thực hiện và tham gia. Ngành giáo dục phải làm tốt công tác tư tưởng cho
đảng viên thơng qua việc giáo dục chính trị tư tưởng mà hình thành nền văn hóa
chính trị cho đội ngũ đảng viên, cổ vũ hành động của họ ngày một tích cực hơn
trên cơ sở nhận thức niềm tin biến thành hành động cụ thể để họ trở thành con
người mới - con người xã hội chủ nghĩa, cống hiến sức lực cho cuộc cách mạng


- 17 xã hội chủ nghĩa, xây dựng đất nước. Bác Hồ đã khẳng định: Muốn xây dựng
chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa, những con người
đó có được khi thực hiện giáo dục tồn diện: chun mơn, đạo đức, tăng cường

giáo dục chính trị - tư tưởng bằng nhiều nội dung, hình thực, phương tiện nhất là
trong các lớp tập huấn cán bộ, đảng viên.
Tóm lại, giáo dục chính trị, tư tưởng là một hoạt động quan trọng của
Đảng ta trong việc hình thành nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa. Giáo
dục chính trị, tư tưởng nhằm xây dựng những con người, những tập thể tha thiết
gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có đạo đức trong sáng,
ln có ý chí kiên cường để xây dựng và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc,
góp phần tăng cường sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.1.2. Giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ giảng viên
1.1.2.1. Giảng viên
Có nhiều quan niệm và cách tiếp cận khác nhau về giảng viên, nhà giáo.
Theo Luật Giáo dục năm 2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2009, tại điều 70,
chương IV quy định: “Nhà giáo là những người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo
dục trong nhà trường, cơ sở giáo dục khác... Nhà giáo dạy ở cơ sở giáo dục mầm
non, giáo dục phổ thơng, giáo dục nghề nghiệp trình độ sơ cấp nghề, trung cấp
chuyên nghiệp gọi là giáo viên. Nhà giáo giảng dạy ở cơ sở giáo dục đại học,
trường cao đẳng nghề gọi là giảng viên” [45]. Trình độ chuẩn được đào tạo của
giảng viên: Có bằng tốt nghiệp đại học trở lên và có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp
vụ sư phạm đối với nhà giáo giảng dạy cao đẳng, đại học; có bằng thạc sĩ trở lên
đối với nhà giáo giảng dạy chuyên đề, hướng dẫn luận văn thạc sĩ; có bằng tiến
sĩ đối với nhà giáo giảng dạy chuyên đề, hướng dẫn luận án tiến sĩ [13].
Nhiệm vụ và quyền hạn của giảng viên: 1. Giảng dạy theo mục tiêu,
chương trình đào tạo và thực hiện đầy đủ, có chất lượng chương trình đào tạo; 2.
Nghiên cứu, phát triển ứng dụng khoa học và chuyển giao công nghệ, bảo đảm
chất lượng đào tạo; 3. Định kỳ học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận
chính trị, chuyên môn nghiệp vụ và phương pháp giảng dạy; 4. Giữ gìn phẩm


- 18 chất, uy tín, danh dự của giảng viên; 5. Tôn trọng nhân cách của người học, đối
xử công bằng với người học, bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của người

học; 6. Tham gia quản lý và giám sát cơ sở giáo dục đại học, tham gia cơng tác
Đảng, đồn thể và các cơng tác khác; 7. Được ký hợp đồng thỉnh giảng và
nghiên cứu khoa học với các cơ sở giáo dục đại học, cơ sở nghiên cứu khoa học
theo quy định của pháp luật; 8. Được bổ nhiệm chức danh của giảng viên, được
phong tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân, Nhà giáo ưu tú và được khen thưởng
theo quy định của pháp luật; 9. Các nhiệm vụ và quyền khác theo quy định của
pháp luật [13].
Giảng viên trường đại học thực hiện nhiệm vụ và quyền theo quy định tại
Điều 55 của Luật Giáo dục đại học và các nhiệm vụ, quyền cụ thể sau đây:
Giảng viên được Nhà nước đảm bảo các quyền: Được bảo đảm trang thiết
bị, phương tiện, điều kiện làm việc để thực hiện nhiệm vụ theo quy định của
pháp luật; được cung cấp thông tin liên quan đến nhiệm vụ và quyền hạn được
giao. Được hưởng lương, phụ cấp, trợ cấp và các chính sách khác theo quy định
của pháp luật; giảng viên trong các trường đại học công lập làm việc ở vùng có
điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được hưởng phụ cấp và chính sách
ưu đãi theo quy định của Chính phủ. Được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ
chun mơn, nghiệp vụ theo kế hoạch và điều kiện của nhà trường; được tham
gia vào việc quản lý và quản trị nhà trường; được tham gia các hoạt động xã hội
theo quy định của pháp luật. Giảng viên tham gia hoạt động khoa học và công
nghệ được hưởng quyền theo quy định tại Luật Khoa học và công nghệ; giảng
viên làm công tác quản lý trong trường đại học nếu tham gia giảng dạy thì được
hưởng các chế độ đối với giảng viên theo quy định của pháp luật và quy định
hợp pháp của trường. Tham gia quản lý người học và đóng góp trách nhiệm với
cộng đồng [13].
Như vậy, giảng viên là nhà giáo làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục ở các
trường đại học, cao đẳng. Là công chức chuyên môn đảm nhiệm việc giảng dạy
và đào tạo ở bậc đại học, cao đẳng thuộc một chuyên ngành đào tạo của trường


- 19 đại học hoặc cao đẳng. Giảng viên chính là cơng chức chun mơn đảm nhiệm

vai trị chủ chốt trong giảng dạy và đào tạo ở bậc đại học, cao đẳng và sau đại
học, thuộc một chuyên ngành đào tạo của trường đại học, cao đẳng. (Ở đây khái
niệm giảng viên trong khái niệm nhà giáo, khác với khái niệm giảng viên theo
tiêu chuẩn ngạch, bậc giảng viên, một chức danh của cao đẳng và đại học ban
hành kèm theo Thông tư liên tịch số 28/2015/TTLT-BGDĐT-BNV về việc
Hướng dẫn thực hiện bổ nhiệm và xếp lương chức danh nghề nghiệp đối với
viên chức giảng dạy trong các cơ sở giáo dục đại học công lập).
Thông qua đội ngũ giảng viên, ngành giáo dục đào tạo thực hiện chức
năng nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Cả ba chức năng
này đều quan trọng, có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Song
chức năng thứ hai là bao trùm và quan trọng nhất. Văn kiện Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XII đã chỉ rõ phương hướng, nhiệm vụ: “Giáo dục là quốc sách
hàng đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị
kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; học đi đôi
với hành, lý luận gắn với thực tiễn... Phấn đấu trong những năm tới tạo sự
chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày
càng tốt hơn công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân
dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm
năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng
bào, sống tốt và làm việc hiệu quả. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt
Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực” [21, tr.114-115].
1.1.2.2. Đội ngũ giảng viên
Khi nói đến đội ngũ giảng viên, chúng ta phải hiểu và xem xét trên quan
điểm tồn diện và hệ thống. Đó không phải là một tập hợp rời rạc, mà các thành
tố trong đó có mối quan hệ, tác động lẫn nhau, chịu sự ràng buộc bởi những cơ
chế, quy ước nhất định nào đó. Vì vậy, mỗi tác động vào các thành tố đơn lẻ của
hệ thống vừa có ý nghĩa cục bộ, vừa có ý nghĩa tồn diện. Nếu xét trên phương



- 20 diện nguồn nhân lực, thì đội ngũ giảng viên là nguồn nhân lực chất lượng cao,
nguồn nhân lực đặc biệt của giáo dục đại học. Và đội ngũ giảng viên có những
đặc điểm như sau:
- Thứ nhất: Những thành viên trong đội ngũ đã được tuyển chọn tương
ứng với một hệ thống các tiêu chí về tư tưởng, phẩm chất đạo đức, năng lực
chuyên môn và năng lực nghề nghiệp.
- Thứ hai: Các thành viên được liên kết với nhau trên cơ sở thực hiện mục
tiêu, nhiệm vụ, chức năng mà Nhà nước đã giao phó đối với hoạt động đào tạo ở
đại học.
- Thứ ba: Mỗi thành viên, mỗi bộ phận của đội ngũ thực hiện những chức
trách và nhiệm vụ chuyên biệt tùy thuộc vào vị trí, đặc điểm của mơi trường
hoạt động, song đều chịu sự quản lý thống nhất về thể chế, về tổ chức, về
chuyên môn theo quy định của Nhà nước.
- Thứ tư: Đội ngũ giảng viên hoạt động trong môi trường đào tạo nhằm
hình thành nhân cách nghề nghiệp cho đối tượng đào tạo (người học), vì thế nó
mang đậm sắc thái văn hóa sư phạm trong các mối quan hệ giữa thầy với thầy,
giữa thầy với trò, giữa nhà trường với xã hội.
Như vậy, đội ngũ giảng viên là tập hợp những nhà giáo, nhà khoa học,
được tổ chức thành một lực lượng cùng chung một nhiệm vụ là thực hiện các
mục tiêu đào tạo đã đề ra ở các trường đại học và cao đẳng. Họ làm việc có kế
hoạch và gắn bó với nhau thơng qua lợi ích về vật chất và tinh thần trong khuôn
khổ quy định của pháp luật, thể chế xã hội.
1.1.2.3. Giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ giảng viên
Giáo dục chính trị, tư tưởng là quá trình truyền bá và tiếp thu những
nguyên lý của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan
điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trong đội ngũ cán bộ, đảng
viên và quần chúng nhân dân.
Về mặt bản chất, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng là q trình tác
động có mục đích, có hệ thống nhằm giác ngộ, nâng cao nhận thức cho cán bộ,



- 21 đảng viên và quần chúng, hướng họ đi theo cuộc đấu tranh cách mạng do Đảng
ta lãnh đạo.
Mục đích cơ bản nhất của cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho giảng
viên là xây dựng cho đội ngũ giảng viên các học viện, trường đại học, cao đẳng
thế giới quan khoa học, phương pháp luận biện chứng, nhân sinh quan cộng sản,
giúp học khắc phục những tư tưởng lạc hậu, những tàn tích của xã hội cũ, nâng
cao trình độ chính trị, tinh thần nhiệt tình cách mạng, tinh thần tự giác và tính
tích cực trong quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Giáo dục chính
trị, tư tưởng cũng chính là sự truyền đạt đối với con người trên các lĩnh vực tư
tưởng, tình cảm nhằm xác lập ở họ bản lĩnh chính trị, tư tưởng vững vàng, tuân
thủ pháp luật, giác ngộ lý tưởng và lòng hăng say làm việc, thực hiện nhiệm vụ
được phân công. Mà trước hết là kiên định lập trường chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội do
Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn.
Đại hội VII của Đảng xác định rõ, cơng tác chính trị, tư tưởng có nhiệm
vụ làm cho thế giới quan Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh thấm nhuần trong
Đảng và giữ vị trí chỉ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, nâng cao ý chí phấn
đấu, xây dựng niềm tin vững chắc của đội ngũ giảng viên vào con đường xã hội
chủ nghĩa, đấu tranh không khoan nhượng với các luận điệu xuyên tạc đường
lối, chính sách của Đảng, xây dựng phương pháp tư duy khoa học, chống chủ
nghĩa giáo điều, chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa cơ hội dưới mọi màu sắc;
khắc phục những biểu hiện bi quan, dao động, giảm sút ý chí phấn đấu, bảo thủ
trì trệ, chủ quan nóng vội.
Từ những nội dung trên có thể khẳng định: Cơng tác giáo dục chính trị, tư
tưởng trong đội ngũ giảng viên là hoạt động nhằm bảo vệ, phát triển, truyền bá
và vận dụng sáng tạo học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn công
tác, hoạt động giảng dạy của đội ngũ giảng viên.



- 22 1.2. Nội dung, phương thức giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ
giảng viên
1.2.1. Nội dung giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ giảng viên
Từ những ngày đầu thành lập Đảng, Đảng ta luôn coi trọng cơng tác giáo
dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, trong đó có đội ngũ giảng
viên, nhằm nâng cao nhận thức chính trị và xây dựng bản lĩnh chính trị, bồi
dưỡng phẩm chất, đạo đức, lối sống; ln tận tâm phục vụ lợi ích của nhân dân,
của Tổ quốc; ln có ý thức chính trị, phẩm chất đạo đức và đạo đức nghề
nghiệp tốt; có tinh thần trách nhiệm, sáng tạo trong công tác chuyên môn.
Ở nước ta hiện nay, đối với đội ngũ giảng viên, cơng tác giáo dục chính
trị, tư tưởng bao gồm các nội dung chủ yếu sau:
1.2.1.1. Giáo dục lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn kiên định lấy
Chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng, làm kim chỉ nam cho mọi hoạt
động. Công tác giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin đối với đội ngũ cán bộ,
đảng viên nói chung, đối với đội ngũ giảng viên nói riêng là nhiệm vụ trọng tâm,
xuyên suốt của Đảng.
Với chức năng giáo dục thế giới quan khoa học, phương pháp luận biện
chứng, trang bị hệ thống tri thức cơ bản về chủ nghĩa Mác-Lênin, những quan
điểm cơ bản về đường lối đổi mới và kiên định con đường xây dựng chủ nghĩa
xã hội, làm cho đội ngũ giảng viên hiểu rõ các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác-Lênin và vận dụng sáng tạo lý luận đó vào thực tiễn, góp phần bổ sung, vận
dụng sáng tạo và phát triển, làm phong phú thêm đường lối chính sách của Đảng
ta. Từ đó củng cố, nâng cao niềm tin vững chắc của đội ngũ giảng viên vào mục
tiêu, lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, vào sự nghiệp cách mạng của Đảng. Kiên
định và trung thành với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Hiểu đúng, bảo vệ và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn
công tác giảng dạy. Đồng thời góp phần nâng cao phẩm chất đạo đức và lối sống
của người giảng viên: cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư, có tinh thần cách



- 23 mạng trong sáng, có ý thức tổ chức và kỷ luật, tinh thần đấu tranh phê bình và tự
phê bình, có quan hệ mật thiết với đồng chí, đồng nghiệp và học sinh, sinh viên.
1.2.1.2. Học tập, làm theo tấm gương tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh
Đội ngũ giảng viên là một tập hợp các nhà giáo làm nhiệm vụ giảng dạy
và nghiên cứu khoa học ở các trường cao đẳng, đại học gắn kết với nhau để thực
hiện hoàn thành nhiệm vụ, theo hệ thống, mục tiêu giáo dục, cùng trực tiếp
giảng dạy và giáo dục học sinh, sinh viên theo sự ràng buộc những nguyên tắc
có tính chất của ngành giáo dục và của nhà nước. Do đó cần chú trọng giáo dục
nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân. Một mặt,
tập trung vào những giá trị cơ bản của văn hóa, truyền thống và đạo lý dân tộc,
tinh hoa văn hóa nhân loại, giá trị cốt lõi và nhân văn của chủ nghĩa MácLênin. Mặt khác, phải đẩy mạnh giáo dục cho đội ngũ giảng viên về nội dung
tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo tinh thần Chỉ thị 03-CT/TW
ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị “về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Nắm vững những quan điểm lý luận
của Người về việc nhận thức và giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn.
Trong muôn vàn vấn đề của cuộc sống và thực tiễn công tác giảng dạy đặt ra,
người giảng viên phải nắm được những nội dung chính yếu của tư tưởng Hồ Chí
Minh để cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
việc xem xét, xử lý, hành động đúng đắn của mình.
Những vấn đề lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh cần tập
trung bồi dưỡng cho giảng viên viên hiện nay gồm: Nhận thức rõ nội dung tư
tưởng Hồ Chí Minh là gì, tư tưởng ấy có nguồn gốc từ đâu, cơ sở khoa học của
nó ở chỗ nào, cái cần tiếp thu là gì, bằng cách nào, vì sao? Những nội dung tư
tưởng Hồ Chí Minh là vơ cùng phong phú, như: Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân
tộc, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa, về kết hợp
sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, về đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế;
người giảng viên phải hiểu sâu những căn cứ khoa học của lý tưởng độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, về đảng cộng sản, đảng cầm quyền và lý luận



×