Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên trường cao đẳng sư phạm kiên giang trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (998.55 KB, 116 trang )

3
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHẠM THỊ NGỌC NGÃI

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
CHO SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG
SƯ PHẠM KIÊN GIANG TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

ĐỒNG THÁP, 2016


3
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHẠM THỊ NGỌC NGÃI

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
CHO SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG
SƯ PHẠM KIÊN GIANG TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên nghành: CHÍNH TRỊ HỌC
Mã số: 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN THÁI SƠN

ĐỒNG THÁP, 2016


3

LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành Luận văn Thạc sĩ, tơi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến:
Phòng Sau Đại học, Khoa Giáo dục Chính trị Trường Đại học Vinh và Trường
Đại học Đồng Tháp đã tạo điều kiện thuận lợi trong thời gian tơi học Cao học.
Bên cạnh đó, tôi cũng xin cảm ơn thầy, cô trường Đại học Vinh đã nhiệt tình
giảng dạy và cung cấp cho tơi nhiều kiến thức q báu trong suốt q trình tơi học
tập Chuyên ngành Chính trị học tại Trường Đại học Đồng Tháp.
Tơi xin bày tỏ lịng tri ân sâu sắc đến PGS. TS. Nguyễn Thái Sơn, Phó
Trưởng khoa Giáo dục Chính trị, trường Đại học Vinh đã tận tình hướng dẫn và
giúp đỡ tơi trong suốt q trình nghiên cứu và thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Ban lãnh đạo các phòng, ban,
khoa, tổ trường Cao đẳng Sư phạm Kiên Giang, đặc biệt là các thầy cơ trong
trường đã tạo điều kiện, nhiệt tình giúp đỡ tôi trong thời gian qua.
Tôi xin cảm ơn những người thân trong gia đình và bạn bè gần xa đã nhiệt
tình hỗ trợ tạo điều kiện thuận lợi trong việc khảo sát, thu thập dữ liệu, hình ảnh,
đóng góp nhiều ý kiến và những kinh nghiệm quý báu để giúp tơi thực hiện cơng
trình nghiên cứu đề tài của mình.
Trong q trình hồn thành cơng trình bản thân đã có nhiều có gắng, song
luận văn chắc chắn sẽ không tránh khỏi những khuyết điểm, rất mong được sự chỉ
bảo, góp ý của các thầy cơ và các bạn.
Kiên Giang, tháng 5 năm 2016.


Phạm Thị Ngọc Ngãi


4

A

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU…………………………………………………....... 7

B

NỘI DUNG………………………………………………....... 6

Chương 1 Cơ sở lý luận của giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh
viên sư phạm…………………………………………………

16

1.1

Một số khái niệm trong đề tài………………………………... 16

1.2

Nội dung, u cầu, hình thức của cơng tác giáo dục đạo đức
nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm trong giai đoạn hiện nay….. 25

1.3


Tầm quan trọng của giáo dục đạo đức nghề nghiệp đối với
sinh viên sư phạm…………………………………………….. 39
Kết luận chương 1………………………………………………….

44

Chương 2 Thực trạng nhận thức đạo đức nghề nghiệp và giáo dục
đạo đức nghề nghiệp của sinh viên trường Cao đẳng Sư
phạm Kiên Giang hiện nay…………………………………. 45
2.1

Vài nét về trường Cao đẳng Sư phạm Kiên Giang…………… 45

2.2

Tình hình giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên trường
Cao đẳng Sư phạm Kiên Giang hiện nay……………………..

2.3

48

Những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân trong công tác giáo
dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên trường Cao đẳng Sư
phạm Kiên Giang ……………………….

70

Kết luận chương 2………………………………………………….


79

Chương 3 Phương hướng và giải pháp giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho
sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Kiên Giang hiện nay……... 80
3.1

Phương hướng giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên
trường Cao đẳng Sư phạm Kiên Giang……………………..

3.2

Những giải pháp nhằm nâng cao đạo đức nghề nghiệp cho

80


5
sinh viên trường Cao đẳng sư phạm Kiên Giang trong giai
đoạn hiện nay…………………………………………………

85

Kết luận chương 3………..………………………………………… 101
C

KẾT LUẬN ………………………………………………….

D

TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………... 106


E

PHỤ LỤC.................................................................................

102

110


6
BẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1

CĐSP

Cao đẳng sư phạm

2

CNH

Công nghiệp hóa

3

CNXH

Chử nghĩa xã hội


4

ĐĐ

Đạo đức

5

ĐĐNN

Đạo đức nghề nghiệp

6

HĐH

Hiện đại hóa

7

HSSV

Học sinh sinh viên

8

KTTT

Kinh tế thị trường


9

SV

Sinh viên

10

TH – MN

Tiểu học – Mần non

11

TN- TH

Tự nhiên – Tin học

12

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


7
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đạo đức và giáo dục đạo đức là vấn đề quan trọng đối với mọi cá nhân nói

riêng và đối với sự phát triển của mỗi quốc gia dân tộc nói chung. Đạo đức trước
hết phải xuất phát từ tình người, tấm lịng nhân ái, yêu thương con người. Người
Việt Nam ta sống thiên về tình cảm, coi trọng tình cảm con người và chính điều
đó đã tạo nên một dân tộc kiên cường, bất khuất. Tinh thần tương thân tương ái, lá
lành đùm lá rách đã được dân tộc ta vun đúc, giữ gìn hàng nghìn năm nay, những
câu chuyện mà chúng ta đã từng nghe về tinh thần đoàn kết của dân tộc ta trong
đấu tranh chống giặc ngoại xâm đầy tính nhân văn sâu sắc người Việt Nam chúng
ta khơng ai là không được học về đạo đức từ khi đi học vỡ lòng cho tới lúc trưởng
thành. Đạo đức với một em bé có khi chỉ là gặp người lớn phải chào, phải lễ phép.
Đạo đức với người khác là phải có hiếu với cha mẹ. Đạo đức của một người thầy
thuốc là lương y như từ mẫu. Đạo đức của người cán bộ phải biết lấy dân làm
gốc…có thể nói rằng bất cứ ai, ở mỗi lĩnh vực, ngành nghề có lẽ chuẩn mực đạo
đức là khác nhau ở mức độ cũng như cách thể hiện. Nhưng dù có là ai đi nữa,
muốn người khác tơn trọng thì bản thân mỗi cá nhân đó phải ln rèn luyện và
giữ gìn đạo đức cá nhân cũng như đạo đức nghề nghiệp. Đúng như Hồ Chí Minh
đã khẳng định đạo đức là nguồn nuôi dưỡng con người, như gốc của cây, ngọn
nguồn của sơng suối. Người nói: “ Cũng như sơng có nguồn thì mới có nước,
khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo” [42,
tr.252]. Đối với những người làm nghề giáo, việc tu dưỡng và rèn luyện đạo đức là
vấn đề vô cùng quan trọng. Họ không chỉ là những người mang trọng trách lớn lao
“trồng người” - những người miệt mài với bảng đen, phấn trắng; là những người
đã tiếp bước, đã thắp và giữ ngọn lửa niềm tin, ngọn lửa tri thức, mà còn là những
tấm gương, là thần tượng của các em học sinh, là người ươm mầm cho tương lai.
Khi đề cập về nghề giáo, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng đã từng nói: Nghề


8
dạy học là nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý, nghề sáng tạo nhất trong
các nghề sáng tạo. Các thầy cơ giáo khơng những dạy chữ mà cịn dạy người, họ
cứ như cây thông trên sườn núi, cây quế giữa rừng sâu thầm lặng toả hương dâng

hiến trí tuệ, sức lực cho đời.
Nhận thức được vai trò của giáo dục, ngay từ những ngày đầu xây dựng
nền dân chủ Đảng và Nhà nước giành sự quan tâm đặc biệt cho nền giáo dục nước
nhà. Mới đây nhất, tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: Phát
triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục
Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hố và hội
nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo
viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt”. Để phát triển giáo dục và đào tạo đạt
hiệu quả cao, trước tiên phải nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, nhất là nâng
cao phẩm chất đạo đức nghề nghiệp. Vì vậy, việc giáo dục những phẩm chất đạo
đức của người thầy giáo cho sinh viên là một trong những nhiệm vụ rất quan
trọng của các trường sư phạm, giúp các em sớm hình thành những phẩm chất đạo
đức, năng lực cần thiết đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của người giáo viên trong giai
đoạn cách mạng mới.
Những ảnh hưởng tiêu cực của nền kinh tế thị trường hiện nay đã tác động
khơng tốt đến q trình tư dưỡng rèn luyện đạo đức nghề nghiệp của một bộ phận
những người làm công tác giáo dục. Đồng thời để lại những ảnh hưởng xấu, thậm
chí có phần lệch lạc trong nhận thức về đạo đức nghề nghiệp của một bộ phận
khơng nhỏ sinh viên các trường sư phạm. Điều đó đã gây ảnh hưởng lớn đến kết
quả của ngành giáo dục Việt Nam trong thời gian vừa qua.
Trường Cao đẳng Sư phạm Kiên Giang là một trường chuyên về đào tạo và
bồi dưỡng đội ngũ giáo viên đáp ứng nhu cầu của tình nhà và cac vùng lân cận.
Nhận thức được vai trị của mình, trường cũng đã nỗ lực trong công tác giáo dục
và đào tao. Tuy nhiên, những mặt trái của nền kinh tế thị trường đã len lỏi trong


9
sinh viên và ảnh hưởng không nhỏ đến nhận thức đạo đức nghề nghiệp của các
em. Do đó, để gúp sinh viên sớm hình thành và rèn luyện đạo đức nghề nghiêp
đáp ứng nhu cầu đổi mới nâng cao chất lượng ngành giáo dục, góp phần xây dựng

quê hương đất nước giàu mạnh. Với ý nghĩa đó, chúng tơi chọn vấn đề “Giáo dục
đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Kiên Giang
trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài luận văn Thạc sỹ.
Xung quanh vấn đề giáo dục đạo đức và đạo đức nghề nghiệp đã có nhiều
cơng trình nghiên cứu đề cập. Đặc biệt là từ khi đất nước ta tiến hành công cuộc
đổi mới, vấn đề đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, nâng cao ý thức đạo đức
nghề nghiệp cho thế hệ trẻ luôn được quan tâm. Các nghiên cứu này được các tác
giả trình bày dưới dạng các đề tài khoa học, các luận văn, luận án, sách, báo, tạp
chí… Có thể kể đến các cơng trình sau:
Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ suất sắc của cách mạng Việt Nam. Là người
khai sáng nền giáo dục Việt Nam và hết sức chăm lo cho sự nghiệp giáo dục và
đào tạo đã có nhiều bài nói chuyện, bài viết về giáo dục chứa đựng những quan
điểm, tư tưởng giáo dục hết sức vĩ đại mà lại cụ thể và sâu sắc. Tư tưởng của
Người về giáo dục là những quan điểm tiên tiến với nhiều quan điểm tiến bộ
không chỉ đối với nền giáo dục đương thời mà còn đối với cả thời đại hiện nay.
Bác đặt vai trò, giá trị của giáo dục lên hàng đầu. Bác dạy: “Vì ích mười năm thì
phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” [46, tr.228]. Cũng theo
Hồ Chí Minh, người thầy giáo có vai trị rất quan trọng trong sự nghiệp cách
mạng: “Tôi mong rằng trong một thời kì rất ngắn lịng hăng hái và sự nỗ lực của
anh chị em sẽ có kết quả vẻ vang. Đồng bào ta ai cũng biết đọc, biết viết. cái vinh
dự đó thì tượng đồng, bia đá nào cũng khơng bằng” [41, tr. 220] hay “Thầy giáo
tốt - thầy giáo xứng đáng là thầy giáo là người vẻ vang nhất. Dù là tên tuổi không
đăng báo, không được thưởng huân chương, song người thầy giáo tốt là người anh
hùng vô danh” [41, tr.492]. Những quan điểm, tư tưởng về giáo dục của Bác Hồ


10
thật phong phú, đa dạng, thể hiện đây đó trong nhiều bài viết, bài nói chuyện, bài
thơ, bài văn của Người. Suốt mấy chục năm qua, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục – đào tạo nói chung và phương pháp giáo dục nói riêng ln soi sáng sự

nghiệp trồng người ở nước ta.
Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ
sung, phát triển năm 2011) được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng
thơng qua, phần nói về GDĐT đã chỉ rõ: Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng
cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng
phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam. Phát triển giáo
dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu;
đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển. Đổi mới căn bản và toàn diện
giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo
yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế,
phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh xây dựng xã
hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời.
Những phẩm chất đạo đức mà giáo viên phải có cũng được thể hiện rõ trong
Quyết định của Bộ Giáo dục và Đào tạo “Quy định về đạo đức nhà giáo” (2008).
Quy định ghi rõ: “Phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, lối sống, tác phong,
giữ gìn, bảo vệ truyền thống đạo đức nhà giáo”. Qua đó cho thấy Đảng và Nhà
nước ta luôn coi giáo dục là quốc sách hàng đầu.
Trong cuốn “Tâm lý học” do Nhà xuất bản Giáo dục xuất bản năm 1995, tác
giả Phạm Minh Hạc đã giành toàn bộ chương VIII để đề cập đến người thầy giáo.
Ở chương này tác giả chỉ ra các thành tố tạo nên nhân cách của người thầy giáo
đó là năng lực và đạo đức.
Tác giả Lê Văn Hồng, trong công trình nghiên cứu “Tâm lý học lứa tuổi và
tâm lý học sư phạm” đã đi sâu phân tích những đặc điểm của lao động sư phạm
trên cơ sở đó chỉ ra các phẩm chất của người thầy giáo, đó là thế giới quan khoa


11
học, lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ, lòng yêu trẻ, lòng yêu nghề và những phẩm chất
đạo đức và ý chí của người thầy giáo. Bên cạnh đó, tác giả cũng nhấn mạnh
“người thầy giáo phải trau dồi nhân cách” [35, tr.169].

Tác giả Nguyễn Văn Phúc trong Tạp chí Triết học, số 7 tháng 10/2001 cũng
có đề cập đến vấn đề: “Xây dựng đạo đức nghề nghiệp trong nền kinh tế thị
trường ở nước ta hiện nay”. Tuy nhiên, tác giả chỉ đề cập đến các nghề nghiệp
nói chung chứ chưa làm rõ vấn đề xây dựng ĐĐNN cho sinh viên sư phạm hiện
nay như thế nào.
Giáo sư - Viện sĩ Phạm Minh Hạc với đề tài khoa học cấp nhà nước “Về
phát triển toàn diện con người thời kì CNH-HĐH ”, mã số KHXH 04-04(2001) đã
đề cập đến vấn đề đạo đức. Trong đó dành hẳn một chương (chương7) nói về định
hướng chiến lược xây dựng đạo đức con người Việt Nam, các tác giả trình bày
thực trạng đạo đức, nêu rõ mục tiêu giáo dục đạo đức trong giai đoạn hiện nay
cũng như việc đề ra các giải pháp giáo dục đạo đức cho con người Việt Nam thời
kì CNH-HĐH.
Đề tài Luận án Tiến sỹ Những biện pháp giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho
sinh viên sư phạm trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam của Tiến sỹ Nguyễn
Anh Tuấn, Trường Đại học Hùng Vương – Tỉnh Phú Thọ, tác giả nghiên cứu
những nội dung cơ bản của đạo đức nghề nghiệp nghề dạy học và đề xuất những
biện pháp giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm trong nền kinh tế
thị trường ở Việt Nam, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên cho các
trường sư phạm.
Tác giả Nguyễn Thị Hoàng Anh, Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà
Nẵng đăng trên Tạp chí Khoa học và Cơng nghệ, Đại học Đà Nẵng - số 2(43),
2011 với bài viết “Một số biện pháp giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên
sư phạm trong giai đoạn hiện nay của”. Tác giả đã đề xuất những biện pháp giáo
dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên nhằm tạo ra sự định hướng tác động thống


12
nhất, hạn chế được những ảnh hưởng tiêu cực và phát huy được những mặt tích
cực giúp sinh viên rèn luyện những phẩm chất đạo đức nói chung và phẩm chất
đạo đức nghề nghiệp nói riêng để họ vững bước vào cuộc sống lao động nghề

nghiệp sau khi tốt nghiệp ra trường.
PGS. TS. Bùi Minh Hiền, giảng viên Trường Đại học Quốc gia Hà Nội trong
cơng trình: “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh
viên Đại học Quốc gia Hà Nội” đã nêu ra thực trạng đạo đức và đề xuất một số
giải pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên Đại
học Quốc gia Hà Nội nói riêng và sinh viên các trường bạn nói chung.
Đề tài luận văn thạc sỹ “Biện pháp quản lý giáo dục đạo đức học sinh ở
Trường Trung học phổ thơng Bình Sơn tỉnh Vĩnh Phú” của Thạc sỹ Lê Gia Thanh.
Tác giả nghiên cứu lý luận và khảo sát thực trạng công tác giáo dục đạo đức học
sinh ở Trường Trung học phổ thơng Bình Sơn - Tỉnh Vĩnh Phúc, đề xuất những
biện pháp quản lý giáo dục đạo đức, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện cho học sinh của nhà trường.
PGS, TS Nguyến Thái Sơn có bài viết “ Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
thanh niên” đăng trên tạp chí Triết học, số 8 (2007), bài viết phân tích một số nội
dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên. Đó là các tư
tưởng: vai trị của thanh niên, vai trò của giáo dục thanh niên, giáo dục toàn diện
và đặc biệt là giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho thanh niên, vai trò của nhà trường
và tổ chức Đoàn đối với việc giáo dục thanh niên... Trên cơ sở khẳng định ý nghĩa
và giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên, tác giả cho rằng,
trong điều kiện hiện nay, cần quán triệt sâu sắc và thực hiện tốt những lời dạy của
Người về vấn đề này; rằng, để phát huy vai trò người chủ tương lai của đất nước,
thanh niên cần phải "sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại.
Nội dung chủ yếu của các cơng trình trên là đi sâu phân tích nghiên cứu về
vấn đề giáo dục và nâng cao đạo đức cho thanh niên nói chung và đạo đức nhà


13
giáo cho sinh viên trường sư phạm nói riêng. Khơng chỉ dừng ở đó, các cơng trình
trên đã chỉ ra tính cấp thiết của việc đẩy mạnh hoạt động giáo dục đạo đức trong
các trường sư phạm hiện nay, đồng thời nêu lên một số giải pháp nhằm thực hiện

hiệu quả công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên trong hệ thống các
trường sư phạm.
Mặc dù có khá nhiều cơng trình và bài viết về vần đề đạo đức và giáo dục
đạo đức cho sinh viên sư phạm, thế nhưng chưa có bất kỳ một cơng trình nào
nghiên cứu về vấn đề giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên trường CĐSP
Kiên Giang trong giai đoạn hiện nay. Vì đây đề tài đầu tiên viết về vấn đề giáo
dục đạo đức trong trường CĐSP Kiên Giang nên trong quá trình thực hiện nghiên
cứu đề tài này gặp khơng ít khó khăn, nhất là vấn đề thu thập và sử lý tài liệu có
liên quan… Bên cạnh những khó khăn thì thuận lợi mang lại từ luận văn của các
anh, chị cao học các khóa trước, những luận văn mà nội dung liên quan đến giáo
dục đạo đức cho thanh niên, học sinh sinh viên, những công trình, bài viết, luận
văn đó là vơ cùng bổ ích và quý giá, là tài liệu, luận cứ chắc chắn cho cơng trình
nghiên cứu của chúng tơi.
2. Mục đích nghiên cứu
Thơng qua việc tìm hiểu, phân tích các vấn đề lý luận và thực tiễn của vấn
đề giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm, từ đó đề tài được nghiên
cứu nhằm mục đích đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên trường CĐSP Kiên Giang trong giai đoạn hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích làm rõ cơ sở lý luận về khái niệm đạo đức, đạo đức nghề nghiệp và
tầm quan trọng của vấn đề giáo dục đạo đức nghề nghiêp cho sinh viên sư phạm.
Khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng giáo dục đạo đức nghề nghiệp
cho sinh viên trường CĐSP Kiên Giang.


14
Đề xuất quan điểm và những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao việc giáo dục
đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên trường CĐSP Kiên Giang trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu.

Tập trung nghiên cứu vấn đề đạo đức nhà giáo và giáo dục đạo đức nhà giáo
cho sinh viên trường CĐSP Kiên Giang trong giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Đề tài nghiên cứu về lý luận đạo đức và đạo đức nhà giáo.
+ Phân tích và đánh giá thực trạng nhận thức về đạo đức nghề nghiệp trong
sinh viên trường CĐSP Kiên Giang thông qua điều tra khảo sát tình hình thực tiễn
của sinh viên sư phạm hệ chính quy khoa TH-MN, khoa Xã Hội và khoa TN-TH
năm thứ hai và năm thứ 3, trong giai đoạn 2014 – 2016.
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh
viên trường Cao đẳng Sư phạm Kiên Giang trong giai đoạn hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin là phép biện
chứng duy vật và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Ngoài ra, để hoàn thành luận
văn chúng tôi sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học mang tính
đặc thù như:
- Các phương pháp lý luận gồm: phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái
quát hóa các tài liệu liên quan đến đề tài.
- Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn gồm:
+ Phương pháp quan sát.
+ Phương pháp điều tra xã hội học.
+ Phương pháp thống kê.


15
6. Những đóng góp mới của đề tài
- Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực trạng nhận thức đạo đức nghề
nghiệp trong sinh viên trường CĐSP Kiên Giang hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho
sinh viên trường CĐSP Kiên Giang hiện nay.

- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc giáo dục đạo đức và đạo
đức nghề nghiệp cho sinh viên của các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn tỉnh
Kiên Giang. Đồng thời, có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu,
giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin nói chung và học phần Đạo đức học nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn gồm 03 chương, 08 tiết.


16
B. NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
CHO SINH VIÊN SƯ PHẠM
1.1. Một số khái niệm trong đề tài
1.1.1. Đạo đức và giáo dục đạo đức
1.1.1.1. Khái miệm đạo đức
Đạo đức là một trong ngững vấn đề quan trọng trong đời sống của con
người và được đề cập đến từ rất sớm. Những tư tưởng đạo đức sơ khai sớm xuất
hiện trong các học thuyết triết học Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp cổ đại.
Danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng La tinh là mos (moris) - lề thói,
(moralis nghĩa là có liên quan đến lề thói, đạo nghĩa). Cịn “ln lí” thường xem
như đồng nghĩa với “đạo đức” thì gốc ở chữ Hy Lạp là Êthicos nghĩa là lề thói;
tập tục. Hai danh từ đó chứng tỏ rằng, khi ta nói đến đạo đức, tức là nói đến
những lề thói tập tục và biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người và người
trong sự giao tiếp với nhau hàng ngày. Sau này người ta thường phân biệt hai khái
niệm, moral là đạo đức, còn Ethicos là đạo đức học.
Ở phương Đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ đại
bắt nguồn từ cách hiểu về đạo và đức của họ. Đạo là một trong những phạm trù
quan trọng nhất của triết học trung Quốc cổ đại. Đạo có nghĩa là con đường,
đường đi, về sau khái niệm đạo được vận dụng trong triết học để chỉ con đường

của tự nhiên. Đạo cịn có nghĩa là con đường sống của con người trong xã hội.
Đức dùng để nói đến nhân đức, đức tính và nhìn chung đức là biểu hiện của đạo,
là đạo nghĩa, là nguyên tắc luân lý.
Khổng Tử (551- 479) là người sáng lập ra thuyết đạo đức của Nho giáo. Theo
ông Nhân- Nghĩa là giường cột của đạo đức, nhân nghĩa được đánh giá theo hành
vi. Bàn về vấn đề vai trò của Nho giáo đối với đời sống xã hội và giáo dục, tác giả


17
Quang Đạm đã viết: “Nho giáo đã có những cố gắng to lớn bền bỉ, có những cống
hiến tích cực trong việc khuyên bảo dạy dỗ cho con người yêu thương đồng loại,
cho con người có quan hệ tốt với nhau: Đạo đức Nhân - Nghĩa- Lễ- Trí - Tín và
Hiếu đễ tuy có phần mơ hồ do hạn chế của những điều kiện lịch sử đương thời, đều
biểu thị rõ tinh thần và ý chí tốt lành thiết tha mong muốn làm cho con người tránh
được, bớt được đau khổ”.[22, 106]. Như vậy có thể nói đạo đức của người Trung
Quốc cổ đại chính là những yêu cầu, nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi
người phải tuân theo.
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác–Lênin, đạo đức xét đến cùng là
sự phản ánh của các quan hệ xã hội. Giá trị đạo đức được xác định ở chỗ nó phục
vụ cho tiến bộ xã hội vì hạnh phúc của con người. “Đạo đức giúp cho xã hội lồi
người tiến lên trình độ cao hơn, thốt khỏi ách bóc lột lao động” [38, tr.371]. Bàn
về đạo đức cộng sản chủ nghĩa, Lênin cho rằng: “Đó là những gì góp phần phá
hủy xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đồn kết tất cả những người lao động
chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của những người cộng
sản” [39, tr. 214]. Đây là một quan niệm mang tính cách mạng và khoa học về đạo
đức mà quan niệm của các tôn giáo và các nền đạo đức khác không thể đạt tới.
Lênin cho rằng “đạo đức là hệ thống các quy tắc, chuẩn mực hành vi của con
người và đánh giá cách ứng xử trong quan hệ của người này với người khác, việc
thực hiện nghĩa vụ của con người đối với xã hội” [38; 11]. Điều đó có nghĩa là,
bất luận trong mối quan hệ xã hội nào thì đạo đức cũng là quan hệ thực sự giữa

người với người, là sự phản ánh tồn tại xã hội cho nên mỗi hình thái kinh tế - xã
hội hay mỗi giai đoạn lịch sử đều định hình những nguyên tắc, chuẩn mực đạo
đức tương ứng. Vì vậy đạo đức cũng mang tính giai cấp và có tính lịch sử xã hội.
Đạo đức theo nghĩa hẹp là luân lí, là những chuẩn mực ứng xử trong quan hệ của
con người. Theo nghĩa rộng, khái niệm đạo đức liên quan chặt chẽ với phạm trù
chính trị , pháp luật, lối sống.


18
Vấn đề đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh là đạo đức mới, đạo đức cách
mạng là trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do
của Tổ quốc, vì CNXH, nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó khăn nào cũng vượt
qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng; là cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư; ln
u thương, q trọng con người, sống có tình, có nghĩa và tinh thần quốc tế trong
sáng… Đạo đức mới, đạo đức cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra là kết
quả của sự kết hợp giữa truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc với đạo đức
mang bản chất giai cấp công nhân và tinh hoa đạo đức của nhân loại. Hồ Chí
Minh đã làm cuộc cách mạng trong lĩnh vực đạo đức. Người nói: “Đạo đức cũ
như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai
chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời” [43, tr.320-321]. Đạo đức cũ đạo đức thực dân, phong kiến, là thứ đạo đức ích kỷ, nó kìm hãm trói buộc con
người, tàn phá con người. Cịn đạo đức mới là vì nước, vì dân; là “dĩ cơng vi
thượng”. Đây là đạo đức vĩ đại. Bởi lẽ, đạo đức đó “khơng vì danh vọng của cá
nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của lồi người” [42, tr.252].
Như vậy, đạo đức trong quan niệm của Hồ Chí Minh được hiểu là tồn bộ những
chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh hành vi của con người trong quan hệ với
người khác và với cộng đồng.
Theo Trần Hậu Kiểm cho rằng: “Đạo đức là tổng hợp những nguyên tắc, quy
tắc, chuẩn mực xã hội nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình vì lợi
ích xã hội, hạnh phúc của con người trong mối quan hệ giữa con người và con
người, giữa cá nhân và tập thể hay toàn xã hội” [36, tr.7]

Trong cuốn “ Về phát triển toàn diện con người trong thời kỳ CNH – HĐH”
các tá giả cũng đưa ra khái niệm đạo đức theo nghĩa rộng: “Đạo đức là thành phần
cơ bản trong nhân cách, phản ánh bộ mặt nhân cách của mỗi cá nhân đã được xxa
hội hóa” [30, tr.153].


19
Theo tác giả Phạm Khắc Chương và Hà Nhật Tăng thì cho rằng: “Đạo đức là
một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhờ đó
con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích, hạnh
phúc của con người và tiến bộ xã hội trong quan hệ giữa con người với con người,
giữa cá nhân và xã hội” [17, tr.4].
Từ những quan điểm và định nghĩa khác nhau về đạo đức có thể nhận ra các
vấn đề nổi bật về đạo đức mà các tác giả đề cập gồm những vấn đề cơ bản:
- Là hệ thống các quy tắc, chuẩn mực của xã hội.
- Phản ánh mối quan hệ giữa con người với con người, con người với tự
nhiên và xã hội.
- Là phương thức điều chỉnh hành vi của con người.
- Là hình thái ý thức xã hội luôn phản ánh tồn tại xã hội và biến đổi theo sự
thay đổi của tồn tại xã hội.
Tóm lại, đạo đức là các giá trị, quy tắc, chuẩn mực xã hội; nó là một hình
thái ý thức xã hội. Cùng với pháp luật đạo đức đóng vai trị quan rọng trong điều
chỉnh hành vi của con người. Hành vi đạo đức thường biểu hiện dưới hình thức
khẳng định, hoặc là phủ định một hình thức chính đáng, hoặc khơng chính đáng
nào đó. Nghĩa là nó bày tỏ sự tán thành hay phản đối trước thái độ hoặc hành vi
ứng xử của các cá nhân, giữa cá nhân với cộng đồng trong một xã hội nhất định.
Sự hình thành phát triển và hồn thiện hệ thống trị đạo đức khơng tách rời sự phát
triển và hồn thiện của ý thức đạo đức và sự điều chỉnh đạo đức. Nếu hệ thống giá
trị đạo đức phù hợp với sự phát triển, tiến bộ, thì hệ thống ấy có tính tích cực,
mang tính nhân đạo. Ngược lại, thì hệ thống ấy mang tính tiêu cực, phản động,

phản nhân đạo.
1.1.1.2. Khái niệm giáo dục đạo đức
Theo PGS. TS Phạm Viết Vượng: “Giáo dục là q trình tác động có mục
đích, có hệ thống của nhà giáo dục đến các đối tượng giáo dục, thông qua việc tổ


20
chức các hoạt động đa dạng, với những nội dung, những hình thức và các phương
pháp giáo dục phù hợp với đặc điểm tâm lý lứa tuổi, để họ hình thành những
phẩm chất của người công dân theo yêu cầu của xã hội và thời đại” [56, tr.11].
Theo Từ điển Giáo dục học, “Giáo dục là hoạt động hướng tới con người thông
qua một hệ thống tác động nhằm truyền thụ những tri thức và kinh nghiệm, rèn luyện
kỹ năng và lối sống, bồi dưỡng tư tưởng và đạo đức cần thiết cho đối tượng, giúp hình
thành và phát triển năng lực, phẩm chất, nhân cách phù hợp với mục đích chuẩn bị cho
đối tượng tham gia lao động sản xuất và đời sống xã hội” [31, tr.105].
Theo tác giả Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt: “Giáo dục đạo đức là quá trình
biến đổi hệ thống các chuẩn mực đạo đức từ những địi hỏi bên ngồi, bên trong
của cá nhân thành niềm tin, nhu cầu, thói quen của người được giáo dục” [47,
tr.128]. Đạo đức bao giờ cũng gồm ý thức đạo đức, tình cảm và niềm tin đạo đức,
hành vi đạo đức. Do đó việc giáo dục đạo đức đều phải bao gồm cả ba mặt nhằm
hình thành những con người có bộ mặt đạo đức phù hợp với yêu cầu của xã hội.
Trong quá trình xây dựng xã hội mới, Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh đến
vai trị của giáo dục, đó là nhiệm vụ quan trọng và vẻ vang là “Phục vụ đường lối
chính trị của Đảng và Chính phủ, gắn liền với sản xuất và đời sống của nhân dân”
[44, tr.190]. Hồ Chí Minh chủ trương bồi dưỡng giáo dục thế hệ trẻ một cách tồn
diện: đức, trí, thể, mỹ. Người u cầu: “Trong việc giáo dục và học tập, phải chú
trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ
thuật, lao động và sản xuất” [44, tr.190].
Như vậy giáo dục đạo đức được hiểu là:
- Giáo dục đạo đức là nhiệm vụ quan trọng trong cơng cuộc xây dựng và bảo

vệ tổ quốc
- Q trình chăm sóc, bồi dưỡng, dào tạo cho thế hệ trẻ hoàn thiện về phẩm
chất, nhân cách cá nhân hướng con người tới chân, thiện, mỹ.


21
- Giúp thế hệ trẻ hình thành lý tưởng, ý tưởng và tình cảm đạo đức, tạo thành
những thói quen đạo đức của con người mới.
Tóm lại, giáo dục đạo đức là một bộ phận của nội dung giáo dục tồn diện
con người, là q trình kết hợp nâng cao nhận thức với hình thành thái độ, xúc
cảm, tình cảm, niềm tin và hành vi thói quen đạo đức. Giáo dục đạo đức phải gắn
với giáo dục tư tưởng chính trị. Giáo dục tư tưởng chính trị có tác dụng xây dựng
cơ sở thế giới quan Mác – Lênin và định hướng chính trị xã hơi theo quan điểm và
đường lối của Đảng cộng sản cho ý thức và hành động đạo đức. Ngồi ra, giáo
dục đạo đức cịn phải kết hợp với giaos dục pháp luật. Giáo dục pháp luật có tác
dụng củng cố và thúc đẩy việc thực hiện các yêu cầu đạo đức.
1.1.2. Khái niệm đạo đức nghề nghiệp và đạo đức nhà giáo
1.1.2.1. Khái niệm đạo đức nghề nghiệp
Nếu như đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc được xã hội thừa nhận,
quy định hành vi, quan hệ của con người với nhau và đối với xã hội nhằm khắc
phục những mâu thuẫn làm cho xã hội ổn định, phát triển, thì đạo đức nghề
nghiệp lại là những phẩm chất cần có của mối người theo đúng những quy tắc,
chuẩn mực của một nghề nhất định được cộng đồng và xã hội thừa nhận, nhằm
điều chỉnh hành vi, thái độ của con người trong quan hệ với con người, tự nhiên
và xã hội khi hành nghề.
Tuy nhiên, vấn đề đạo đức nhề nghiệp không phải đến lúc này mới được bàn
bạc, định nghĩa mà từ thời cổ đại ở cả phương Tây lẫn phương Đông các nhà tư
tưởng, hiền triết, các nhà lập thuyết đều giành sự quan tâm đặc biệt nghiên cứu
vấn đề đạo đức con người, đạo đức xã hội vì đó là mấu chốt, nền tảng tạo ra sự
dồng thuận xã hội. Từ những vấn đề đạo đức, chuẩn mực chung của xã hội, mỗi

ngành nghề lại xây dựng cho mình những quy tắc, chuẩn mực riêng trong ứng sử,
hành động và việc làm.


22
Ở nước ta, do đặc thù cơng việc và địi hỏi của mỗi ngành nghề khác nhau vì
vậy quy tắc, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của từng ngành nghề cũng khác
nhau. Nhiệm vụ đặc thù của ngành y là hành nghề chữa bệnh cứu người, đem lại
sự sống và hạnh phúc cho mọi người vì thế mỗi y bác sĩ phải luôn tâm niệm “thầy
thuốc như mẹ hiền”, “lương y như từ mẫu”. Đó chính là đạo đức cơ bản của
những người làm nghề y, hay còn gọi là y đức. Đó khơng phải là một quy chuẩn
của luật pháp, hay nghĩa vụ pháp lý, mà là những phẩm chất tốt đẹp, là chuẩn mực
nghề nghiệp của ngành y, kim chỉ nam trong hoạt động nghề nghiệp để mỗi thầy
thuốc tự giác điều chỉnh hành vi của mình phù hợp với lợi ích, tiến bộ của ngành
y để đem lại sức khỏe và sự an lành cho con người.
Tóm lại, từ nội hàm của khái niệm đạo đức và thông qua một số đặc trưng về
đạo đức của một số nghề nghiệp, ta có thể hiểu: Đạo đức nghề nghiệp là những
yêu cầu đạo đức đặc biệt, có liên quan đến việc tiến hành một hoạt động nghề
nghiệp nào đó. Là tổng hợp của các quy tắc, các nguyên tắc chuẩn mực của một
lĩnh vực nghề nghiệp trong đời sống, nhờ đó mà mọi thành viên của lĩnh vực nghề
nghiệp đó tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích và sự tiến
bộ của nó trong mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với tập thể với xã
hội,... Tuân theo các tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp sẽ tạo điều kiện cho việc
nâng cao chất lượng lao động trong lĩnh vực nghề nghiệp. Phẩm chất đạo đức cá
nhân trong xã hội đều có nét chung, nhưng đạo đức trong lĩnh vực nghề nghiệp có
những đặc thù và yêu cầu riêng biệt. Như vậy, đạo đức nghề nghiệp được xem
như là một nội dung quan trọng của công tác giáo dục đạo đức nói chung và cơng
tác giáo dục đạo đức cho sinh viên các trường sư phạm nói riêng.
1.1.2.2. Đạo đức nhà giáo
Nhà giáo trong bất kể thể chế xã hội nào cũng ln có vai trị, vị trí hết sức

quan trọng. Họ là những người sau cùng thể hiện, khẳng định năng lực tập thể của
cả xã hội trong việc khám phá, phát minh và tìm ra giải pháp cho thế hệ tương lai.


23
Tự cổ chí kim, vai trị, vị trí ấy khơng hề thay đổi. Từ xưa đến nay, nhân dân ta
luôn luôn tôn vinh người thầy giáo và quý trọng nghề dạy học. Khơng phải ai
cũng có thể làm được cơng việc đó bởi nó u cầu cao khơng chỉ về tri thức mà
còn cả đạo đức, phẩm hạnh.
Nghề sư phạm ra đời từ rất sớm trong lịch sử xã hội và lịch sử giáo dục. cung
như các lĩnh vực nghề nghiệp khác , nghề sư phạm đòi hỏi những người hành
nghề phải có đạo đức nghề nghiệp. Khi đề cập đến vấn đề đạo đức nhà giáo có rất
nhiều quan điểm với các cách thức tiếp cận khác nhau như:
Mác và Ănggen là những người đầu tiên đặt nền móng cho sự hình thành,
phát triển của đạo đức mới – đạo đức cộng sản nói chung và phẩm chất, nhân cách
của nhà giáo dục nói riêng. Các Mác từng nhấn mạnh rằng bản thân nhà giáo dục
cũng cần phải được giáo dục. Giáo dục ở đây không chỉ là giáo dục về chuyên
môn nghiệp vụ mà phải giáo dục cả nhân cách đạo đức.
Là người thầy của nền giáo dục hiện đại Việt Nam, Hồ Chí Minh đánh giá
cao cơng lao của các thầy cô giáo, nhất là trong công cuộc xây dựng CNXH. Vì
vậy, Người ln nhắc nhở các thầy cô giáo: “Dạy cũng như học phải biết chú
trọng cả đức lẫn tài. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc, rất là quan trọng.
Nếu khơng có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vơ dụng. Đạo đức cách mạng là
triệt để trung thành với cách mạng, một lòng một dạ phục vụ nhân dân” [46,
tr.329]. Đề cao vai trò của đạo đức, coi đạo đức là linh hồn của người thầy giáo,
vì thế Người căn dặn: “Muốn cho học sinh có đạo đức thì giáo viên phải có
đức…Cho nên thầy giáo, cơ giáo phải gương mẫu…” [45, tr.492]. Đây là phẩm
chất đạo đức quan trọng, là yếu tố căn bản cần đòi hỏi mỗi người giáo viên cần phải có.
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng là người luôn giành sự quan tâm đặc biệt cho
sự nghiệp giáo dục của dân tộc ta. Đối với người thầy giáo và nghề dạy học ông

luôn cho rằng: Nghề thầy giáo là nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý, là
nhân tố quyết định chất lượng giáo dục; đóng vai trị chủ đạo, tổ chức, điều khiển


24
quá trình hình thành nhân cách con người ở học sinh, giúp học sinh lĩnh hội kiến
thức, kỹ năng; hình thành thái độ, rèn luyện hành vi thói quen đạo đức, phát triển
hoạt động trí tuệ. Vì thế, Ơng địi hỏi thầy phải ra thầy, phải “sẵn sàng cống hiến
cuộc đời, tâm hồn, trí tuệ, tài năng của mình, phong cách làm việc và những thành
quả của mình vào sự nghiệp giáo dục cao quý, coi đó là lẽ sống” [28, tr.88]. Theo
hướng này, nhà giáo phải luôn phấn đấu trau dồi kiến thức, rèn luyện đạo đức,
không ngừng vươn lên.
Theo nghiên cứu của tác giả Hà Nhật Thăng về đạo đức nhà giáo, tác giả đã
nêu lên những đặc trưng của đạo đức nhà giáo như sau: có lịng nhân ái, vị tha, có
tình cảm dân tộc sâu sắc và tự trọng cao; trung thực, thẳng thắn, lao động hết
mình vì sự tiến bộ của xã hội, vì sự nghiệp giáo dục cho thế hệ trẻ mai sau; ít
tham vọng chính trị, ít địi hỏi đãi ngộ về vật chất; sống lạc quan, giàu hoài bão
ước mơ, giàu nghị lực; thông minh, sáng tạo trong hoạt động nghề nghiệp, trong
cuộc sống; lao động trí óc là dạng lao động đặc trưng của nhà giáo, mong muốn
hoàn thiện nhân cách.
Trong một cơng trình nghiên cứu có hệ thống về Triết học giáo dục Việt
Nam, tác giả Thái Duy Tuyên đưa ra khẳng định hết sức quan trọng: “Người thầy
giáo quyết định chất lượng giáo dục, thậm chí khơng thầy thì khơng có lớp, khơng
có giáo dục” [52, tr.96]; vì thế người thầy giáo cần phải có “đạo đức nghề nghiệp
tốt”. Đạo đức tốt mà tác giả đề cập đến ở đây là phải u q học sinh, hết lịng vì
sự nghiệp giáo dục của nhân dân, nghiêm khắc với bản thân, luôn luôn gương
mẫu trong công việc và đời sống cá nhân. Đó là những chuẩn mực đạo đức cơ bản
hết sức cần thiết đối với mỗi nhà giáo.
Mặc dù có nhiều quan điểm với các cách thức tiếp cận khác nhau, nhưng các
quan điểm trên đều thừa nhận đạo đức nhà giáo là một bộ phận quan trọng trong

cấu trúc nhân cách của người thầy, đó là những quy tắc, chuẩn mực mà mỗi người
giáo viên cần phải có. Đó là: lịng nhân ái, trung thực, u q học sinh, gương


25
mẫu,…Có đạo đức nghề nghiệp sẽ giúp các thầy cơ giáo hồn thành tốt các chức,
năng nhiệm của mình trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của xã hội.
Tóm lại, đạo đức nhà giáo hay đạo đức nghề dạy học là hệ thống những quy
tắc, chuẩn mực quy định thái độ, hành vi ứng xử của nhà giáo trong lao động và
trong cuộc sống. Đạo đức nhà giáo có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giáo
dục và đào tạo.
1.2. Nội dung, yêu cầu, hình thức của công tác giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho sinh viên sư phạm trong giai đoạn hiện nay
1.2.1. Nội dung, yêu cầu của công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho
sinh viên sư phạm
1.2.1.1. Nội dung của công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên
sư phạm
Nói về đạo đức nhà giáo, Hồ Chí Minh nêu lên những phẩm chất rất cơ bản,
đó là: hết lịng phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân; thương yêu học trò và yêu
nghề; yêu lao động và quý trọng người lao động chân tay; có tinh thần đồn kết,
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Người căn dặn những người làm cơng tác giáo dục
rằng: “Thầy cũng như trị, cán bộ cũng như nhân viên phải thật thà yêu nghề
mình” [47, tr.333]. Trong bài phát biểu tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
(10/1964) Người nói: “Có gì vẻ vang hơn là nghề đào tạo những thế hệ sau này
tích cực góp phần xây dựng Chủ nghĩa xã hội và Chủ nghĩa cộng sản? Người thầy
giáo tốt – thầy giáo xứng đáng là thầy giáo - là người vẻ vang nhất. Dù tên tuổi
không đăng trên báo, không được thưởng huân chương, song những người thầy
giáo tốt là những người anh hùng vô danh. Đây là một điều rất vẻ vang. Nếu
khơng có thầy giáo dạy dỗ cho con em nhân dân thì làm sao mà xây dựng Chủ
nghĩa xã hội được? Vì vậy, nghề thầy giáo rất quan trọng, rất vẻ vang; ai có ý kiến

khơng đúng về nghề thầy giáo thì phải sửa chữa” [46, tr.333].


×