Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Lý luận về giá trị thặng dư tương đối của c mác và việc vận dụng vào thực tiễn ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.95 KB, 19 trang )

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
“ Sau khi nhận thấy rằng chế độ kinh tế là cơ sở trên đó kiến trúc thượng
tầng chính trị được xây dựnglên thì C.Mác chú ý nhiều đến việc nghiên cứu chế
độ kinh tế ấy”. Tác phẩm chính là bộ” Tư Bản” được đàn riêng để nghiên cứu
chế độ kinh tế của xã hội hiện đại, nghĩa là xã hội tư bản chủ nghĩa- “ Là kết
quả vận dụng thế giới quan duy vật và phương pháp luận biẹn chứng duy vật
vào quá trình nghiên cứu phương pháp sản xuất tư bản chủ nghĩa”. Bộ “Tư
Bản” là cơng trình khoa học vi đại nhất của C.Mác “ Mục đích cuối cùng của
bộ sách này là phát hiện ra quy luật kinh tế của sự vận động của xã hội hiện
đại”.
Toàn bộ bộ Tư Bản- trừ quyển IV là quyển phê phán những sai lầm của
các học thuyết kinh tế trước Mác và cùng thời Mác- nghiên cứu sự vận động
của xã hội tư bản. Mỗi quyển có đối tượng nghiên cứu riêng của nó và trong
quyển I: Q trình sản xuất của tư bản, Mác nghiên cứu giá trị thặng dư- đây là
vấn đề trung tâm. Mục đích chung của nhà tư bản chính là tạo ra nhiều lợi
nhuận, tạo giá trị thặng dư. Hai phương pháp để sản xuất ra giá trị thặng dư chủ
yếu đó là giá trị thặng dư tuyệt đối và giá trị thặng dư tương đối. Qua việc
nghiên cứu sự sản xuất ra giá trị thặng dư tuyệt đối và giá trị thặng dư tương
đối, thấy rõ bản chất của các nhà tư bản cũng như việc nâng cao trình độ bóc lột
của tư bản qua các giai đoạn phát triển của nó.
Tơi chọn đề tài “Lý luận về giá trị thặng dư tương đối của C.Mác và việc
vận dụng vào thực tiễn ở Việt Nam” nhằm nghiên cứu sâu hơn giá trị thặng dư
tương đối- là phương pháp sản xuất mới do nhiều nhà tư bản áp dụng, là kết
quả chung của sự phát triển tư bản, là sự biểu hiện của sự phát triển lực lượng
sản xuất, của xã hội hoá lao động. Qua đây liên hệ thực tiễn ở Việt Nam- là
nước trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội thì việc tạo ra giá tị thặng dư
có gì khác với ngun lý mà Mác đã nêu? và những kết qủa kinh tế mà Việt

1



Nam đạt được trong thời gian qua qua việc áp dụng sản xuất giá trị thặng dư
tương đối.

2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài đi sâu nghiên cứu giá trị thặng dư, quá trình làm tăng giá trị thặng
dư cũng như lí luận giá trị thặng dư tương đối của C.Mác. Sự sản xuất ra giá trị
thặng dư tương đối là nghiên cứu sự vận động và phát triển của quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa trong mối liên hệ với sự phát triển của lực lượng sản xuất
biểu hiện ở q trình bóc lột giá trị thặng dư tương đối bằng tăng năng suất lao
động.
Đề tài phân tích, sự vận dụng sáng tạo lí luận về giá trị thặng dư tương
đối của C.Mác trong điều kiện Việt Nam hiện nay.

2


NỘI DUNG

1. LÝ LUẬN VỀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TƯƠNG ĐỐI CỦA C.MÁC.
a, Giá trị thặng dư.
Giá trị thặng dư được C.Mác xem là phần chênh lệch giữa giá trị hàng
hoá và số tiền nhà tư bản bỏ ra. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, nhà tư bản
bỏ ra tư bản dưới hình thức tư liệu sản xuất gọi là tư bản bất biến và bỏ ra tư
bản để thuê lao động gọi là tư bản khả biến. Tuy nhiên người lao động đã đưa
vào hàng hoá một lượng giá trị lớn hơn số tư bản khả biến mà nhà tư bản bỏ ra.
Vậy phần dư đó gọi là giá trị thặng dư.
Để tìm ra cơ sở, điều kiện, nguồn gốc của giá trị thặng dư, C.Mác bắt
đầu nghiên cứu sự chuyển hoá của tiền thành tư bản. đầu chương Mác nêu: lưu
thơng hàng hố là khởi điểm của tư bản, tiền tệ là sản vật cuối cùng của lưu

thơng hàng hố, nhưng lại là hình thái xuất hiện đầu tiên của tư bản. như vậy, tư
bản xuất phát từ lưu thơng. tiền đóng vai trị là tư bản khác với tiền đóng vai trị
là lưư thơng, nó có một sự vận động mới “ Hình thái trực tiếp của lưu thơng
hàng hố là H- T- H; tức là sự chuyển hoá của hàng hoá thành tiền và sự
chuyển hoá ngược lại của tiền thành hàng hoá tức là bán để mà mua. Nhưng
bên cạnh hình thái đó, chúng ta cịn thấy một hình thái khác nữa đặc biệt khác
với hình thái ấy, đó là hình thái T- H- T; tức là chuyển hoá của tiền thành hàng
hoá và sự chuyển hoá ngược lại của hàng hoá thành tiền ( T222, “ C.Mác và
Ănggen toàn tập 23{1}).

C.Mác đã vạch ra mâu thuẫn trong sự vận động của tư bản, sự vận động
của công thức T-H- T là sự vận động lưu thông của tư bản. Mác nghiên cứu và
3


rút ra kết luận rằng giá trị và giá trị thặng dư không thể sinh ra trong lưu thông
được. Giá trị là tiền đề của lưu thông chứ không phải là kết quả của lưu thơng
Qua phân tích thì cơng thức chung của tư bản chứa đựng mâu thuẫn: sự
chuyển hoá của tiền thành tư bản diễn ra trong lưu thông, đồng thời lại không
diẽn ra trong lưu thông”. Và C.Mác đã tìm ra chìa khố để giải quyết mâu
thuẫn của cơng thức chung của tư bản: hàng hố sức lao động.
Lý luận hàng hố sức lao động chính là chìa khố để giải quyết mâu
thuẫn trong cơng thức chung của tư bản. Trong những thứ hàng hoá mà nhà tư
bản chỉ có thể mua được là những hàng hố mà giá trị sử dụng của nó khi tiêu
dùng nó sẽ tạo ra giá trị đó là năng lực lao động hay sức lao động (T250-251{1}).
Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh
thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống và được người đó
đem ra vận dụng mối khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó ( T251{1}), và
việc nghiên cứu, phân tích sự chuyển hố của tiền thành tư bản trong lĩnh vực
lưu thông kết thúc và chuyển sang sự sản xuất giá trị thặng dư trong lĩnh vực

sản xuất. C.Mác nêu lên điều kiện để sức lao động trở thành hàng hố đó là:
Người lao động phải có khả năng chi phối được sức lao động của bản thân
mình, do đó họ phải là những người tự do, sở hữu năng lực lao động của mình,
thân thể của mình và chỉ bán sức lao động đó trong một thời gian nhất định.
Thứ hai, người lao động khơng có khả năng bán những thứ hàng hố trong đó
lao động của anh ta được vật hố do khơng có tư liệu sản xuất, buộc phải bán
sức lao động chỉ tồn tại trong cơ thể sống của anh ta (T251- 253{1}).
Tiếp đến C.Mác nghiên cứu hai thuộc tính của hàng hố sức lao động
là giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị của hàng hoá sức lao động được xác định
bởi thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra sức lao động đó. Vì vậy
sức lao động tồn tại trong một cơ thể sống nên cần một số tư liệu tiêu dùng hay
thời gian cần thiết để sản xuất ra tiêu dùng đó. Giá trị sử dụng của sức lao động
là thực hành sức lao động trong quá trình sản xuất- chính là lao động. Giá trị sử

4


dụng hàng hố sức lao động có đặc điểm là trong quá trình tiêu dùng, tức bắt
phải lao động sản xuất thì đó là nguồn sinh ra giá trị có thể lớn hơn giá trị của
bản thân nó. Phần giá trị dơi ra đó là giá trị thặng dư. Ở đây, chúng ta nêu đặc
điểm của việc mua bán hàng hố sức lao động đó là: Khi bán trên thị trường thì
giá trị sử dụng của nó vẫn chưa thật sự trao tay cho người mua mà chỉ thực sự
được tiêu dùng trong lĩnh vực sản xuất diễn ra bên ngồi lưu thơng. Giá trị của
sức lao động chỉ được trả sau khi nó đã hoạt động trong một thời gian nhất định
theo hợp đồng mua sức lao động quy định. Như vậy là người công nhân đã cho
nhà tư bản ứng trước giá trị sử dụng của mình. Lý luận hàng hoá sức lao động
đã vạch rõ nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư là lao động của người cơng nhân
làm th.
Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa là giá trị thặng dư, muốn có giá
trị thặng dư thì phải sản xuất ra giá trị sử dụng vì giá trị sử dụng là giá đỡ vật

chất chứa đựng giá trị thặng dư. Vì vậy quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa vừa
là quá trình lao động vừa là quá trình làm tăng giá trị- tạo ra giá trị thặng dư.
Để nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư, C.Mác đã nêu ba giả
định và lấy ví dụ sản xuất sợi để chứng minh. Từ đó, C.Mác khẳng định: Cái có
ý nghĩa quyết định trong q trình làm tăng giá trị là hàng hố sức lao động có
một giá trị sử dụng đặc biệt: sản sinh ra một giá trị lớn hơn giá trị bản thân nó.
Mác đi đến kết luận: Tiền biến thành tư bản khi có giá trị thặng dư. Mác viết
“...quá trình làm tăng giá trị chẳng qua cũng chỉ là quá trình tạo ra giá trị được
kéo dài quá một điểm nào đó là thơi. Nếu q trình tạo ra giá trị chỉ kéo dài đến
cái điểm ở đó giá trị sức lao động do nhà tư bản trả được hồn lại bằng một vật
ngang giá mới thì đó chỉ là một quá trình giản đơn tạo ra giá trị. Cịn nếu như
q trình tạo ra giá trị vẫn tiếp diễn q điểm đó, thì nó trở thành một q trình
làm tăng giá trị ( T291{1}).

5


Như vậy, phương pháp sản xuất giá trị thặng dư dựa trên cơ sở giá trị
sức lao động và thời gian lao động tất yếu khơng đổi, cịn ngày lao động và thời
gian lao động thặng dư là những lượng khả biến( là giá trị thặng dư tuyệt đối).
Tóm lại, ta thấy để sản xuất ra giá trị thặng dư thì nhà tư bản phải ứng tư
bản ra mua tư liệu sản xuất và sức lao động. Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình
thức tư liệu sản xuất gồm: máy móc, thiết bị, nhà xưởng và các tư liệu lao động
khác. Bộ phận này có đặc tính được sử dụng tồn bộ nhưng chỉ hao mịn dần
giá trị và chuyển từng phần giá trị sang sản phẩm. Nguyên vật liệu và các đối
tượng lao động khác có đặc điểm là khi sử dụng thì được tiêu dùng tồn bộ và
giá trị của chúng chuyển hết sang sản phẩm một lần.
Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức sức lao động, một mặt chúng
chuyển vào tay công nhân để họ mua tư liệu sinh hoạt, mặt khác trong quá trình
sản xuất, bằng lao động trừu tượng người cơng nhân tạo ra một giá trị mới

không những bù đắp giá trị- tư bản đã ứng ra để mua hàng hoá sức lao động mà
cịn có thêm giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
Trên cơ sở phân tích Mác viết “ Bộ phận tư bản biến thành sức lao động lại
thay đổi giá trị của nó trong q trình sản xuất. Nó tái sản xuất ra một vật
ngang giá với bản thân nó, và ngồi ra lại cịn sản xuất một số dư, tức là giá trị
thặng dư, giá trị thặng dư này có thể thay đổi, có thể lớn hơn hoặc có thể nhỏ
hơn. Từ một đại lượng bất biến, bộ phận tư bản này khơng ngừng chuyển hố
thành một lượng tư bản khả biến (T311{1})”.
Vai trò của tư bản khả biến- lao động sống là nhân tố quyết định trong việc tạo
ra nhưng giá trị sử dụng. Còn trong q trình làm tăng giá trị thì nó là nhân tố
cơ bản là nguồn gốc duy nhất tạo ra giá trị thặng dư.
b, Gía trị thặng dư tương đối
Mục đích của nhà tư bản là giá trị thặng dư nên họ tìm mọi phương pháp
để tăng giá trị thặng dư. Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối được thực hiện bằng
cách tăng năng thời gian lao động thặng dư và ngày lao động khi giá trị sức lao
6


động và thời gian lao động tất yếu không đổi. Nhưng vì ngày lao động chỉ có
thể kéo dài trong giới hạn lao động cho phép nên nhà tư bản đã thực hiện
phương pháp sản xuất giá trị thặng dư theo con đường riêng biệt của nó: tăng
thêm thời gian lao động thặng dư bằng cách rút ngắn thời gian lao động tất yếu
chứ không phải là cắt xén tiền công của công nhân. Theo C.Mác, việc cắt xén
tiền công của cơng nhân là phương pháp bóc lột phi kinh tế, mặc dầu trên thực
tế là việc làm có thực.
C.Mác viết: “ Giá trị thặng dư được sản xuất ra bằng cách kéo dài ngày
lao động, thì tơi gọi đó là giá trị thặng dư tuyệt đối, trái lại giá trị thặng dư có
được do rút ngắn thời gian lao động cần thiết và do có sự thay đổi tương ứng
trong tỷ lệ các đại lượng của hai bộ phận cấu thành ngày lao động, thì tơi gọi đó
là giá trị thặng dư tương đối (T458{1})”.

Các nhà tư bản dùng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối tạo
ra giá trị thặng dư tức là kéo dài ngày lao động, thế nhưng việc kéo dài ngày lao
động bị giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động và vấp phải cuộc
đấu tranh mạnh mẽ của giai cấp công nhân. Mặt khác, khi sản xuất tư bản chủ
nghĩa phát triển đến giai đoạn đại công nghiệp cơ khí, kĩ thuật tiến bộ làm cho
năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, thì các nhà tư bản chuyển sang
phương thức mới dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động.
Có thể nói, sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối là phương pháp bóc lột
gọi là “ văn minh và tinh vi”, dựa trên cơ sở áp dụng những thành tựu khoa học
kĩ thuật vào sản xuất và vào tổ chức, quản lý làm tăng năng suất lao động. Giá
trị thặng dư tương đối ra đời trên cơ sở giá trị thặng dư siêu ngạch. Do chạy
theo giá trị thặng dư mà các nhà tư bản luôn cải tiến kĩ thuật và phương pháp
sản xuất. Trong điều kiện bình thường của xã hội, nếu một xí nghiệp cải tiến
được kỹ thuật sẽ có giá trị thặng dư siêu ngạch. Khi nhiều nhà tư bản áp dụng
được phương pháp sản xuất mới thì giá trị xã hội của hàng hoá sẽ giảm xuống,
giá trị thặng dư siêu ngạch sẽ chuyển thành giá trị thặng dư tương đối.

7


Ví dụ: Người lao động làm việc 10 giờ, trong đó 5 giờ là lao động tất
yếu, 5 giờ lao động thặng dư. Nếu giá trị sức lao động giảm 1 giờ thì thời gian
lao động tất yếu rút xuống 4 giờ. Do đó thời gian lao động thặng dư tăng từ
100%- 150%.
Làm thế nào để có thể rút ngắn được thời gian lao động tất yếu? Thời
gian lao động tất yếu có quan hệ với giá trị sức lao động. Muốn rút ngắn thời
gian lao động tất yếu phải giảm giá trị sức lao động. Muốn hạ thấp giá trị sức
lao động phải giảm giá trị những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của
công nhân. Điều đó chỉ có thể thực hiện được bằng cách tăng năng suất lao
động trong các ngành sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu

dùng của công nhân hay tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất tư
liệu sản xuất để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt đó.
Trên cơ sở đó, C.Mác đưa ra phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
tương đối là được thực hiện tự phát do tác động của cạnh tranh buộc phải giảm
giá trị cá biệt thấp hơn giá trị xã hội để khi bán thu được giá trị thặng dư siêu
ngạch. Như vậy, giá trị thặng dư tương đối là kết quả chung của các hoạt động
riêng biệt của từng nhà tư bản.
C.Mác nghiên cứu những nhân tố làm tăng năng suất lao động dể tăng
giá trị thặng dư tương đối là: Hiệp tác; sự phân công lao động và cơng tường
thủ cơng; máy móc và đại công nghiệp. Đây cũng là ba giai đoạn phát triển của
CNTB. Mỗi phương pháp đều có những đặc trưng riêng của nó.
- C.Mác phân tích hiệp tác trên các khía cạnh:
Hiệp tác giản đơn ra đời trong buổi đầu của CNTB, đối lập với lao động
cá thể, thủ công của nơng dân. Nó là điểm xuất phát của phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa: “ nền sản xuất tư bản chủ nghĩa chỉ thực tế bắt đầu ở nơi nào
mà cũng một tư bản cá biệt ấy thuê được nhiều cơng nhân trong cùng một lúc,
do đó q trình lao động mở rộng qui mơ của nó và cung cấp sản phẩm với một
số lượng lớn”(T468{1}).

8


C.Mác so sánh xí nghiệp hiệp tác với sản xuất nhỏ, trên cơ sở đó rút ra
ưu thế của hợp tác, mặc dầu ở đây vẫn là lao động thủ công nhưng hơn hẳn lao
động cá thể trên một số mặt: Tiết kiệm được chi phí sản xúât; sự tiếp xúc của xã
hội sinh ra có sự thi đua; nhiều người cùng lao động có thể tác động cùng một
lúc do đó rút ngắn thời gian gián đoạn của đối tượng lao động; làm kịp thời vụ,
có thể thu hẹp hay mở rộng khơng gian, tránh được những lãng phí vơ ích.
Trong các tính ưu việt của hợp tác nổi bật là nó tạo ra một sức sản xuất tập thể
được Mác ví “ như sức tấn cơng của một đội kỵ binh hay sức chống cự của một

trung đoàn kỵ binh”(T473{1}). Nhờ đó mà nâng cao năng suất lao động lên rất
nhiều. Để đạt được ưu thế như vậy thì phải có những điều kịên sau:
+ Trong sự hợp tác phải có kế hoạch
+ Tích tụ được một khối lượng lớn tư liệu sản xuất vào tay
các nhà sản xuất riêng lẻ. Đây là điều kiện vật chất cho sự hợp tác của công
nhân lao động làm thuê (T479{1}).
+ Phải có sự chỉ huy như sự điều khiển của người nhạc
trưởng (T480- 482{1}).
Như vậy, hiệp tác giản đơn là quá trình biến lao động riêng lẻ thành lao
động xã hội, là bước tiến của q trình xã hội hố lao động. Thực chất của hiệp
tác giản đơn tư bản chủ nghĩa là cuộc cách mạng về tổ chức lao động. Quá trình
hiệp tác ngắn liền với quá trình tập trung tư liệu sản xuất. Đó cũng là q trình
chuyển từ tư hữu nhỏ thành tư hữu lớn,là sự cần thiết cho sự tồn tại và phát
triển của kinh tế thị trường hiệp tác giản đơn tạo ra được một sức sản xuất mới
có năng suất lao động cao hơn, việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ổn định hơn,
giá trị thặng dư tương đối ngày càng nhiều.
- C.Mác nghiên cứu hiệp tác trong sự phân công lao động ở trong từng xí
nghiệp tư bản, để thấy cơng trường thủ cơng khơng những là hình thức đặc biệt
của việc tổ chức q trình lao động mà cịn là hình thức đặc biệt của sản xuất ra
giá trị thặng dư tương đối.

9


C.Mác chỉ ra hai nguồn gốc của công trường thủ công là: Tập hợp thủ công
của nhiều nghề khác nhau và tập hợp thợ thủ công cùng một nghề. Đặc điểm kĩ
thuật của công trường thủ công là lao động vẫn dựa trên cơ sở công cụ lao động
thủ công, sự khoé léo của công nhân. Đặc điểm về mặt tổ chức người lao động
chỉ là bộ phận của quá trình lao động cùng với cơng cụ chun mơn của họ.
Phân công công trường thủ công là sự chuyên môn hoá lao động, là cuộc

cách mạng về sức lao động. Do có sự phân cơng làm cho người lao động lành
nghề hơn, tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trong sản xuất; hợp lý hoá các thao
tác nên giảm bớt được thời gian không cần thiết đồng thời tăng cường độ lao
động; tạo ra khả năng và điều kiện để cải tiến cơng cụ sản xuất từ đó làm tăng
năng suất lao động.
Hai hình thức cơ bản của cơng trường thủ cơng gồm có cơng trường thủ
cơng hỗn tạp và cơng trường thủ cơng hữu cơ.
C.Mác phân tích:
+ Cơng trường thủ công hỗn tạp là công trường thủ công mà trong đó sản
phẩm được làm ra thơng qua sự kết hợp một cách thuần tuý những bộ phận độc
lập của sản phẩm do những người thợ thủ công phân tán sản xuất.
+ Cơng trường thủ cơng hữu cơ “ là hình thức hồn bị của cơng trường
thủ cơng, thì sản xuất những sản phẩm đi qua nhiều giai đoạn phát triển liên
quan chặt chẽ với nhau, một chuỗi những quá trình nối tiếp nhau”( T499{1}).
Trong công trường thủ công hữu cơ do phân cơng lao động mà nó tạo một ưu
thế về sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Sự phân công làm cho người lao động
phiến diện về nghề nghiệp, làm cho chi phí đào tạo giảm, giá trị sức lao động
giảm từ đób nhà tư bản thu được nhiều giá trị thặng dư tương đối hơn.
Tóm lại, C.Mác nghiên cứu sự phân công trong công trường thủ công
để thấy được do sự phân công lao động dẫn sự chuyên mơn hố sản xuất, người
cơng nhân tích luỹ được nhiều kinh nghiệm, nâng cao nghề, tiết kiệm những
thời gian chết trong sản xuất tạo ra năng suất lao động cao, làm cho giá trị
10


thặng dư tương đối ngày càng cao. Đồng thời, phân công lao động trong công
trường thủ công đã biến người công nhân thành công nhân bộ phận, phụ thuộc
vào nhà tư bản, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ngày càng được củng cố và
phát triển.
- Nhân tố tiếp theo để làm tăng giá trị thặng dư tương đối là máy móc và

đại cơng nghiệp. Mác nghiên cứu cuộc cách mạng công nghiệp, một giai đoạn
phát triển mới rất quan trọng, làm thay đổi quả trình lao động, được biểu hiện ở
việc tăng sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối. C.Mác nêu lại sự phát triển của
máy móc tứ máy cơng tác, máy phát lực và máy chuyền lực, từ những chiếc
đơn lẻ đến một hệ thống máy móc. Từ chỗ sản xuất từng chiếc đến khi có máy
làm ra máy, làm cho năng suất lao động tăng cao. “ Trước hết, cần chú ý rằng
máy móc bao giờ cũng tham gia tồn bộ vào q trình lao động và bao giờ cũng
chỉ tham gia từng phần vào q trình hình thành giá trị. Nó khơng bao giờ nhập
thêm một giá trị nhiều hơn là số giá trị mà trung bình nó mất đi do việc hao
mịn của nó”(T558{1}). Do đó, có sự chênh lệch giữa giá trị của máy móc và
phần giá trị của nó chuyển vào sản phẩm, có sự khác nhau lớn giữa máy móc
với tư cách là yếu tố hình thành giá trị và yếu tố hình thành sản phẩm. Xét về
mặt xã hội, máy móc là phương tiện để tăng năng suất lao động, tạo ra nhiều
của cải cho xã hội và là phương tiện để giảm nhẹ lao động của con người.
Trong điều kiện chủ nghĩa tư bản, các nhà tư bản đã sử dụng máy móc như là
một thủ đoạn để bóc lột giá trị thặng tương đối. “ Nhà tư bản sử dụng máy móc
khi giá trị thặng dư của sức lao động được máy thay thế lớn hơn giá trị của máy
móc chuyển vào sản phẩm”( T563- 566{1}).
Khi máy móc và hệ thống máy móc được đưa vào sử dụng trong q trình
sản xuất thì hình thức xí nghiệp tư bản chủ nghĩa là cơng xưởng. Nó là xí
nghiệp đại cơng nghiệp xây dựng trên cơ sở bóc lột công nhân làm thuê và sử
dụng hệ thống máy móc để sản xuất ra hàng hố. Sự phát triển của công xưởng
càng làm cho người lao động lệ thuộc vào máy móc, trở thành cơng nhân bộ

11


phận, tạo điều kiện để nhà tư bản sử dụng lao động phụ nữ và trẻ em, kéo dài
ngày lao động, tăng cường lao động nhằm tạo ra giá trị thặng dư nhiều hơn.
Như vậy hiệp tác giản đơn là cuộc cách mạng về tổ chức lao động, phân

công lao động và công trường thủ công là cuộc cách mạng chính bản thân sức
lao động. Máy móc đại cơng nghiệp là cuộc cách mạng công cụ sản xuất. Ba
phương pháp cơ bản làm tăng năng suất lao động cũng là những giai đoạn phát
triển của lực lượng sản xuất.

2. VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM.
Trong bất kỳ một xã hội nào cũng cần phải tìm cách tăng giá trị thặng dư,
nếu áp dụng được các công nghệ sản xuất tiên tiến, sử dụng tri thức trí tuệ vào
trong quá trình sản xuất sẽ làm tăng giá trị thặng dư mà không cần phải kéo dài
thời gian lao động hay cường độ lao động.
Sản xuất giá trị thặng dư được trình bày ở mục 1 phải đặt gọn trong nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa. Khi nghiên cứu về lí luận giá trị thặng sư cần đặt
trong bối cảnh lịch sử nhất định, khơng nên máy móc quy kết tất cả những
người được hưởng giá trị thặng dư đều là kẻ bóc lột.
Việt nam tiến lên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa khi đất nước chưa có tiền đề về cơ sở vật chất- kĩ thuật của chủ
nghĩa tư bản tạo ra nên phát triển lực lượng sản xuất nói chung, cơngnghiệp hố
hiện đại hố nói riêng trở thành nhiệm vụ trung tâm của đất nước.
Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta tồn tại ba hình thức sở
hữu cơ bản về tư liệu sản xuất, đó chính là ba chế độ sở hữu: tồn dân, tập thể
và tư nhân. Đó cũng là cơ sở mà Đảng ta xác định nền kinh tế nước ta có năm
thành phần( kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản
nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi).
Lý luận về giá trị thặng dư tương đối của C.Mác được vận dụng sáng
tạo vào thực tiễn ở Việt Nam. Việt Nam vận động theo cơ chế thị trường có sự
12


quản lí của Nhà nước, nền kinh tế có nhiều thành phần. Mục đích chung của
nhà sản xuất là tạo ra nhiều lợi nhuận, nhằm một mục đích phát triển kinh tế.

Muốn tạo ra nhiều lợi nhuận tức là tăng giá trị thặng dư. Chúng ta phải vận
dụng lý luận về giá trị thặng dư tương đối của C.Mác bởi lẽ một mặt đất nước
phát triển nền kinh tế thị trường, mặt khác tạo ra cơ sở kĩ thuật vật chất xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Nếu như ở các nước tư bản thì việc sản xuất
chính là làm giàu cho nhà tư bản, họ tìm mọi cách bóc lột sức lao động, tìm các
phương pháp để tạo ra nhiều giá trị thặng dư. Ở Việt Nam việc sản xuất ra hàng
hố có giá trị kinh tế cao, thu nhiều lãi lớn cũng là cách nâng cao giá trị thặng
dư đáp ứng lợi ích cá nhân. thế nhưng, khi con người có dư thừa thì nhu cầu vật
chất lại rất cần thiết, là cơ bản cho sự tồn tại và phát triển của con người, của xã
hội. Đất nước đang từng bước xây dựng cơ sở xã hội chủ nghĩa cũng nhờ việc
phân phối thông qua phúc lợi tập thể, phúc lợi xã hội. Trong xã hội luôn có
những người khơng có thu nhập hoặc thu nhập thấp, đời sống hết sức khó khăn
do khơng có khả năng lao động, khơng có tài sản để đư vào sản xuất kinh
doanh, việc đòi hỏi sự hỗ trợ của tập thể, của xã hội tư các quỹ phúc lợi công
cộng( quỹ xố đói giảm nghèo, quỹ hỗ trợ người nghèo học tập, chữa bệnh...).
Đồng thời, mọi cá nhân trong xã hội với tư cách là thành viên của xã hội đều
được hưởng phúc lợi từ quỹ phúc lợi xã hội dưới hình thức các trường học và
bệnh viện cơng,nhà văn hố, cơng viên...từ quỹ phúc lợi của doanh nghiệp, hợp
tác xã...Xã hội càng phát triển thì các quỹ phúc lợi tập thể, xã hội ngày càng
tăng, điều đó thể hiện được tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Việc hình thành
quỹ phúc lợi xã hội là sự đóng góp của mọi người dân, các doanh nghiệp, các tổ
chức xã hội...vì thế nó là lý do khách quan để nhà sản xuất, kinh tế tạo nhiều
giá trị thặng dư tương đối.
Việc vận dụng lý luận giá trị thặng dư tương đối của C.Mác vào Việt
Nam chính là việc tạo ra nhiều giá trị thặng dư tức là việc đầu tư khoa học kĩ
thuật, cơng nghệ, máy móc vào sản xuất tạo ra lợi nhuận. Đầu tư vào việc cải
tiến kĩ thuật làm tăng năng suất lao động tạo ra nhiều giá trị thặng dư tương đối.
13



Đó là việc vận dụng vào phương pháp sản xuất, quản lý, chun mơn hố cao.
Ở Việt Nam phát triển nền kinh tế thị trường nhằm tạo ra sự phong phú hàng
hố, kinh doanh và kích thích sản xuất tạo ra giá trị thặng dư tương đối đóng
góp một phần cho xã hội.
Ở Việt Nam, sản xuất ra nhiều giá trị thặng dư tương đối đồng nghĩa với
việc nâng cao trình độ lao động tất yếu phải phân cơng lao động xã hội. Phân
công lao động xã hội là sự chun mơn hố lao động, tức là chun mơn hố
sản xuất giữa các ngành, trong nội bộ từng ngành và giữa các vùng trong nền
kinh tế quốc dân. Phân công lao động xã hội có tác dụng rất to lớn. Nó là địn
bẩy của sự phát triển cơng nghệ và năng suất lao động, cùng với cuộc cách
mạng khoa học và cơng nghệ, nó góp phần hình thành và phát triển cơ cấu
kinh tế hợp lý. Phân công lao động xã hội tạo điều kiện phát triển nền sản xuất
hàng hoá cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. sự phát triển của phân công lao động
xã hội thể hịên ở chỗ các ngành nghề ở nước ta ngày càng đa dạng, phong phú.
điều đó góp phần phá vỡ tính tự cung tự cấp của nền kinh tế tự nhiên trước đây
và thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ hơn trước. Hơn nữa, phân
công lao động xã hội là cơ sở nâng cao năng suất lao động xã hội, nghĩa là làm
cho nền kinh tế ngày càng có nhiều sản phẩm đem ra trao đổi mua bán. Để đẩy
mạnh phân công lao động xã hội cần xác định phân bố lại lao động, dân cư
trong phạm vi cả nước cũng như từng địa phương, từng vùng theo hướng
chuyên mơn hố, hợp tác hố nhằm khai thác mọi nguồn lực, phát triển nhiều
ngành nghề, sử dụng có hiệu quả cơ sở kĩ thuật vật chất hiện đại và tạo việc
làm cho người lao động. Cùng với việc mở rộng phân công lao động xã hội
trong nước, phải tiếp tục mở rộng mối quan hệ kinh tế với nước ngoài nhằm
phân công lao động trong nước với phân công lao động nước ngoài, gắn thị
trường trong nước với thị trường thế giới. Nhờ đó mà thị trường trong nước
từng bước được mở rộng, tiềm năng về lao động, tài nguyên, cơ sở vật chất
hiện đại hiện có khái thác có hiệu quả.

14



Việc tăng năng suất lao động tạo ra giá trị thặng dư tương đối còn kể đến
việc tổ chức quản lý sản xuất. ở việt nam việc tổ chức quản lý còn yếu kém;
còn nhiều hạn chế về năng lực quản lý cũng như trong tổ chức sản xuất, quản lý
cịn mang tính cục bộ. chính điều này làm hạn chế sự phát triển trong việc sản
xuất hàng hoá. Kỷ luật, tác phong công nghiệp làm việc của cán bộ, cơng nhân
cịn rất nhiều hạn chế và chưa cao; kỷ luật lao động chính là chế độ làm việc đã
được quy định và sự chấp hành nghiêm túc và đúng đắn của mỗi cấp; mỗi
nhóm người, mỗi người trong quá trình lao động. Kỷ luật lao động tạo ra sự hài
hoà trong hoạt động của tất cả các yếu tố sản xuất, liên kết mọi người vào một
quá trình thống nhất. Nước ta, kỷ luật dựa trên ý thức tự giác của mỗi người lao
động, trong giai đoạn quá độ xã hội chủ nghĩa do có nhiều tàn dư kinh tế, văn
hoá tư tưởng của xã hội cũ cho nên có nhiều hành vi vơ kỷ luật, khơng tự giác.
Vì vậy, Việt Nam cần có tổ chức quản lý chặt chẽ, phù hợp điều
kiện trong nước và phù hợp lợi ích của người lao động. Trong tình hình nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải có sự quản lý chặt chẽ của
nhà nước. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, kế hoạch,
chính sách đồng thời sử dụng cơ chế thị trường, các hình thức kinh tế và
phương pháp quản lý kinh tế thị trường kích thích sản xuất. Hệ thống pháp luật
đồng bộ tạo hành lang pháp lí cho tất cả mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh
của các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế. Với hệ thống đồng bộ và pháp
chế nghiêm ngặt, các doanh nghiệp làm giàu trên cơ sở tuân theo pháp luật. Đổi
mới chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả nhằm mục tiêu thúc đẩy sản xuất phát
triển, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, bảo đảm thống nhất nền tài
chính quốc gia.
Mỗi cơ chế quản lý kinh tế có đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế tương ứng.
Việc đẩy mạnh sự nghiệp đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, cán bộ kinh
doanh phù hợp mục tiêu phát triển kinh tế trong thời kỳ mới có ý nghĩa to lớn.
Đội ngũ cán bộ quản lý phải có năng lực chun mơn giỏi, có trách nhiệm, bản

lĩnh quản lý, có tài năng kinh doanh. Muốn thu được lợi nhuận, họ cần phải vận
15


dụng nhiều biện pháp đẻ quản lý kinh tế, thúc đẩy tiến bộ kỹ thật, hạ giá cả sản
phẩm, làm sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường, nâng cao hiệu quả kinh tế.
Thay đổi cải cách quản lý là phải biết vận dụng tối ưu máy móc vào sản
xuất. Khoa học công nghệ được xác định là động lực của sự phát triển kinh tế
thị trường. Nước ta có tiềm lực về khoa học và cơng nghệ cịn yếu kém. Trên
thế giới đã trải qua hai cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, đó là sự thay thế lao
động thủ cơng bằng lao động sử dụng máy móc ở Anh và cuộc cách mạng koa
học công nghệ hiện đại vào những năm 50 của thế kỷ XX. Với cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật làm nên sự thay đổi to lớn trên lĩnh vực kinh tế- xã hội. Ở
Việt Nam cũng bị ảnh hưởng bởi 2 cuộc cách mạng đó, máy móc từ nước ngồi
vào Việt Nam ngày càng nhiều; lĩnh vực về điện tử, tin học ứng dụng rộng rãi,
các dạng năng lượng phục vụ cho công nghiệp; công nghệ sinh học được ứng
dụng trong nông nghiệp, hoá chất...
Trong kinh tế thị trường, các doanh nghiệp chỉ có thể đứng vững trong
cạnh tranh nếu thường xuyên đổi mới cơng nghệ để hạ chi phí, nâng cao chất
lượng sản phẩm. Muốn vậy, phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu và ứng dụng
vào thành tựu mới của cuộc cách mạng khoa học và cơng nghệ vào q trình
sản xuất và lưu thơng hàng hố. So với thế giới, trình độ cơng nghệ sản xuất
của Việt Nam cịn thấp kém, không đồng bộ, vốn chi cho nghiên cứu khoa học
chưa nhiều, phương tiện vật chất cịn thiếu thốn, máy móc hiện đại cịn thơ sơ
cũ kỹ.
Việc đưa máy móc vào sản xuất ở Việt Nam đã có từ lâu, và có nhiều
thành tựu trong nền sản xuất. Đưa máy móc vào chuyên sâu sản xuất công
nghiệp, thực hiện các nhiệm vụ trực tiếp hỗ trợ hoạt động sản xuất công nghiệp
góp phần tăng trưởng kinh tế. Vào năm 1996 các khu công nghiệp- khu chế
xuất cả nước xuất khẩu 400tr USD chiếm 8,75%, năm 1998 con số này tăng lên

1300tr USD và chiếm 14% tổng kim ngạch xuất khẩu. Khu cơng nghiệp Đồng
Nai có 6- 22tr USD chiếm 60% tổng thu của cả khu và đóng góp vào ngân sách

16


nhà nước là 28%. Kết quả này càng làm củng cố niềm tin và kì vọng của chúng
ta về máy móc đại cơng nghiệp trong sự phát triển kinh tế.
Sự tăng trưởng của công nghiệp từ năm 1986- 1995 cho thấy vai trị của
máy móc đại cơng nghiệp khi áp dụng đúng lúc. Bức tranh công nghiệp được
cải thiện, tỉ lệ tăng bình qn là 10,2% gấp đơi năm 1979- 1985, tiếp theo là sự
tăng trưởng về cơ cấu của giai đoạn 1996- 2000 đạt mức tăng trưởng cao và
duy trì trong năm 2000( thiết bị máy móc, máy tính tăng 17,9%; thiết bị diện tử
tăng 28,3%; phương tiện vận tải tăng 24,7%...).
Để nâng cao năng suất lao động, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất
là điều tất yếu. Sử dụng maý móc trong dây chuyền sản xuất, tự động hoá sản
xuất, nâng cấp chất lượng kỹ thuật. Ngồi việc mua máy móc và sử dụng cơng
nghệ ngoại nhập thì đất nước cần đẩy mạnh nghiên cứu sáng tạo trong công
nghệ kỹ thuật: Chúng ta tổ chức nghiên cứu, phổ biến những thánh tựu khoa
học kỹ thuật vào sản xuất, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học.
Tăng đầu tư ngân sách và phát huy nguồn lực khác cho khoa học và công nghệ.
Biện pháp chủ yếu được đặt ra trong phát triển khoa học là:
+ Tạo lập thị trường cơng nghệ, chính sách với cán bộ công nghệ, tăng
đầu tư phát triển khoa học công nghê.
+ Hợp tác quốc tế khoa học và công nghệ
+ Tăng cường kiểm sốt và giám định cơng nghệ, chất lượng sản phẩm.
Đổi mới hệ thống tổ chức quản lý hoạt động khoa học, đẩy mạnh hoạt động
thông tin tuyên truyền, phổ các kiến thức khoa học và công nghệ.
Bên cạnh đó, hệ thống kết cấu hạ tầng cơ sở và dịch vụ hiện đại, đồng bộ
đóng góp vai trò quan trọng cho sự phát triển kinh tế. Hệ thống đó nước ta quá

lạc hậu cản trở đến sự đầu tư trong nước lẫn nước ngồi. Vì thế, cần gấp rút xây
dựng và củng cố các yếu tố của hệ thống đó. Nhà nước tập trung ưu tiên xây
dựng, nâng cấp đường xá, cầu cống, bến cảng, sân bay, điện, nước, hệ thống
thông tin liên lạc...
17


Một biện pháp nữa nhằm tăng giá trị thặng dư tương đối đã đặt ra đó là
vốn. Tích luỹ vốn từ nội bộ nền kinh tế được thực hiện trên cơ sở hiệu quả sản
xuất, nguồn của nó là lao động thặng dư của người lao động làm thuộc tất cả
các thành phần kinh tế.
Để tích luỹ vốn đầu tư trong nước chỉ có con đường là tăng năng suất lao
động xã hội trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học và cơng nghệ, hợp lí hố sản
xuất, khai thác và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực đất nước, thực hiện tiết
kiệm...Ngoài ra chúng ta thu hút vốn ở bên ngồi dưới nhiều hình thức khác
nhau và biện pháp cơ bản để tận dụng thu hút vốn bên ngồi là đẩy mạnh mở
rộng các hình thức hợp tác quốc tế, tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho các nhà
sản xuất kinh doanh nước ngoài, tranh thủ mọi sự giúp đỡ của các tổ chức quốc
tế...
Như vậy đất nước ta đã vận dụng đúng đắn và sáng tạo lý luận giá trị thặng
dư tương đối cua C.Mác vào thực trạng đất nước nhằm phát triển nền kinh tế.
Các biện pháp đưa ra nhằm tăng giá trị thặng dư đã được con người áp dụng
vào sản xuất ra hàng hoá và đã đạt được kết quả cao.

KẾT LUẬN
Nếu quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hố là quy luật giá trị thì
quy luật kinh tế cơ bản của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là quy luật giá trị
thặng dư. Để sản xuất ngày càng nhiều giá trị thặng dư các nhà tư bản đã ra sức
áp dụng khoa học kĩ thuật, cải tiến sản xuất. Từ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển mạnh mẽ, nền sản xuất có tính chất xã hội hố ngày càng cao, mâu

thuẫn giữ tính chất xã hội của sản xuất với hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa ngày càng gay gắt.

18


Sản xuất giá trị thặng dư tương đối là một trong những phương pháp làm
tăng giá trị thặng dư của nhà tư bản. Đây là phương pháp sản xuất tiên tiến,
được phổ biến rộng rãi ở các quốc gia. C.Mác nghiên cứu sản xuất giá trị thặng
dư nằm gọn trong tư bản chủ nghĩa.
Việt Nam- một đất nước xã hội chủ nghĩa đang đứng trước những thời cơ
và thách thức. Nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng hội nhập với kinh tế quốc
tế; từ một nền kinh tế bao cấp chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, đa dạng hoá sản xuất. Để nâng cao năng suất cũng như đưa nền kinh tế đi
lên, Việt Nam đã có những biện pháp, cách thức tổ chức, phương pháp nâng
cao sức mạnh của lực lượng sản xuất và áp dụng cơng nghệ, khoa học kĩ thuật,
máy móc trong sản xuất. Nâng cao cách thức trình độ quản lí, sức sáng tạo của
người lao động việt nam trong những năm tới nhằm mục đích xây dựng đất
nước theo mục tiêu cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.

19



×