Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ cơ chế tâm lý xã hội của định hướng dư luận tập thể quân nhân trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (463.96 KB, 118 trang )

MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, dư luận xã hội có vai trị và sức mạnh to lớn. nó
xuất phát từ luận điểm cơ bản: quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử và các yếu
tố tinh thần có vai trị tích cực trong đời sống xã hội. Khi tính tích cực của các tầng lớp
nhân dân được phát huy tất yếu dẫn đến sự phán xét của họ về các hiện tượng, quá trình xã
hội. Dư luận xã hội hình thành và hiệu lực của nó đối với đời sống xã hội càng tăng lên khi
nó được định hướng có ý thức.
Có thể mức độ nhận thức mạnh khác nhau song nhìn chung Đảng ta ln phát huy vai trị
của dư luận xã hội trong sự nghiệp cách mạng. Đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, sự quan tâm
của Đảng đối với dư luận xã hội và công tác nghiên cứu dư luận xã hội có ý nghĩa to lớn.
Nghị quyết Đại hội VI, VIII của Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định "cần phải xây dựng
dư luận xã hội lành mạnh" và "dùng sức mạnh của pháp chế xã hội chủ nghĩa kết hợp với
sức mạnh của dư luận quần chúng để đấu tranh chống hành vi phạm pháp" (63), đồng thời
phải "nâng cao chất lượng thông tin nội bộ, coi trọng biện pháp điều tra dư luận xã hội"
(64).
Chỉ thị cơng tác chính trị về phương hướng nhiệm vụ năm 1994 - 1995 đã xác định: "Phải
nắm vững định hướng và kiên trì lấy xây dựng quân đội về chính trị làm cơ sở, là cốt lõi để
nâng cao sức mạnh chiến đấu của qn đội trong tình hình mới. Nhiệm vụ chính là tập
trung nâng cao sức chiến đấu trên mặt trận chính trị, tư tưởng, mũi nhọn trọng yếu hiện
nay, đảm bảo củng cố vững chắc trận địa lý luận, tư tưởng, thơng tin văn hố …" (55).
Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay đặt ra trong bối cảnh mới: điều kiện thời
bình, tác động mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, âm mưu "diễn biến hồ bình" của các thế lực thù địch. Thực tiễn này địi hỏi
việc phát huy sức mạnh tinh thần nói chung, định hướng dư luận tích cực nói riêng tạo ra
sự thống nhất
cần thiết.

tư tưởng, nhận thức trong toàn quân, toàn dân là vấn đề rất



Trong khi đó, dư luận xã hội nói chung, dư luận trong các tập thể quân nhân nói riêng mặc
dù có vai trị to lớn song chưa được nhận thức đầy đủ, tính định hướng cịn hạn chế. Dư
luận trong tập thể quân nhân góp phần quan trọng vào xây dựng chất lượng tổng hợp của
quân đội cũng như ở từng đơn vị cơ sở nếu được định hướng kịp thời, đúng đắn. Cơng việc
này địi hỏi cán bộ qn đội phải được trang bị kiến thức, có đủ năng lực phẩm chất định
hướng dư luận tập thể quân nhân đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
Về mặt lý luận, đã nhiều cơng trình nghiên cứu về bản chất, đặc điểm, chức năng, quy luật
hình thành của dư luận xã hội và sư luận tập thể song chưa có cơng trình nào nghiên cứu
trực tiếp, có hệ thống về định hướng dư luận, nhất là định hướng dư luận tập thể quân
nhân. Đề tài nghiên cứu cơ chế tâm lý xã hội của định hướng dư luận trong tập thể qn
nhân khơng chỉ nhằm tìm ra phương thức tác động phù hợp vào quá trình xây dựng tập thể
quân nhân vững mạnh mà cịn góp phần phát triển làm phong phú hơn lý luận về tâm lý
học tập thể, vấn đề đang được giới nghiên cứu quan tâm.
II. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
1. Khách thể: Tập thể cơ sở quân nhân.
2. Đối tượng: Cơ chế tâm lý xã hội của định hướng dư luận tập thể quân nhân.
III. Giả thuyết khoa học
Định hướng dư luận tập thể quân nhân là quá trình tác động hợp quy luật vào diễn biến của
dư luận tập thể nhằm hướng dẫn, thúc đẩy sự hình thành dư luận tập thể tích cực. Nếu tìm
ra được cơ chế tâm lý xã hội của định hướng dư luận tập thể quân nhân, tác động kịp thời
vào nó, biến những yêu cầu khách quan của xã hội, quân đội và tập thể thành yêu cầu của
mỗi quân nhân thì sẽ nâng cao hiệu lực của dư luận đối với tập thể quân nhân.
IV. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu và giới hạn của đề tài
1. Mục đích của luận án: Xác định về mặt lí luận và thực tiễn cơ chế tâm lí xã hội của định
hướng dư luận, trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp định hướng dư luận tập thể quân
nhân.
2. Để thực hiện mục đích trên, luận án có nhiệm vụ :
- Nghiên cứu cơ sở lí luận về dư luận từ đó xác định khái niệm định hướng dư luận, cơ chế
tâm lí xã hội của định hướng dư luận tập thể quân nhân.



- Điều tra, thực nghiệm, luận chứng cơ chế tâm lí xã hội định hướng dư luận tập thể quân
nhân.
- Nêu lên những biện pháp tâm lý xã hội để định hướng dư luận tập thể quân nhân trong
giai đoạn hiện nay.
3. Giới hạn nghiên cứu của đề tài:
Luận án nghiên cứu cơ chế định hướng dư luận tập thể quân nhân từ góc độ của tâm lý học
xã hội, tâm lý học tập thể.
V. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
1. Phương pháp luận
Luận án dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết là những
luận điểm về con người, cá nhân và tập thể.
Luận án cũng được dựa trên những quan điểm, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về
các vấn đề tập thể, dư luận xã hội, quan hệ giữa dư luận xã hội và xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, đấu tranh với các hiện tượng tiêu cực xã hội.
Luận án dựa vững chắc trên các nguyên tắc tâm lý học Mácxít đặc biệt là nguyên tắc quyết
định luận duy vật biện chứng về các hiện tượng tâm lý người, nguyên tắc thống nhất giữa
tâm lý ý thức và hoạt động.
2. Phương hướng nghiên cứu
Luận án tiến hành theo một hệ thống các phương pháp sau:
2.1. phương pháp nghiên cứu tài liệu
Nghiên cứu phân tích các tài liệu trong và ngoài nước đặc biệt là các chuyên khảo tâm lý
học, xã hội học về dư luận; từ đó khái qt hố, hệ thống hố nhằm mục đích xây dựng cơ
chế tâm lý xã hội của định hướng dư luận.
Nghiên cứu các văn kiện của Đảng, chỉ thị nghị quyết của Đảng uỷ quân sự Trung ương,
Bộ Quốc phịng, Tổng cục Chính trị đồng thời coi trọng kết quả một số đề tài chương trình
cấp nhà nước, cấp bộ có liên quan đã được cơng bố.
2.2. Phương pháp quan sát đàm thoại



Đối tượng chính của quan sát và đàm thoại là các sỹ quan và cán bộ phân đội, các cá nhân
và đơn vị nịng cốt tính cực, một số thủ lĩnh khơng chính thức ở các đơn vị cơ sở.
Mục đích của quan sát đàm thoại tìm hiểu nhận thức, thái độ, ứng xử của quân nhân với dư
luận, kiểm nghiệm một số vấn đề lý luận.
2.3. Phương pháp điều tra
Mục đích điều tra nhằm khẳng định kết quả nghiên cứu lý luận đánh giá thực trạng.
Nội dung và cấu trúc phiếu điều tra dựa vào cơ sở lý luận trình bày ở mục I.2 chương 1 và
mục II.1 chương 2.
Có bốn mẫu phiếu điều tra (xem phụ lục 6, 7, 8 , 9).
Mẫu phiếu 1: Điều tra sỹ quan nhằm nghiên cứu thực trạng về định hướng dư luận tập thể.
Mẫu phiếu 2 : Điều tra hạ sỹ quan chiến sỹ, nghiên cứu sự đánh giá của khách thể định
hướng dư luận tập thể.
Mẫu phiếu 3 : Điều tra sỹ quan, nghiên cứu tự đánh giá của cán bộ về phẩm chất năng lực,
các biện pháp định hướng dự luận tập thể.
Mẫu phiếu 4 : Điều tra trước và sau thực nghiệm nhằm xác định kết quả thực nghiệm.
2.4. Phương pháp thực nghiệm
Mục đích : Chúng tơi sử dụng thực nghiệm tác động có đối chứng nhằm khẳng định một
phần kết quả nghiên cứu.
Điều kiện : Dựa vào tình huống có thật ngày 10/ 11/ 1994 tồn qn phải thực hiện chỉ thị
234/QĐ về mang mặc thống nhất trong tồn qn.
Nơi thực nghiệm : Hai đơn vị có tính chất hoạt động khác nhau, d4 (Sỹ quan Chính trị
quân sự) là tập thể học viên đang học năm thứ 2; d3 (S6750 là tập thể quân nhân đang huấn
luyện sẵn sàng chiến đấu.
Cách tiến hành (xem mục II.2 chương 2).
2.5. Các phương pháp khác
Chúng tôi đã sử dụng phương pháp tốn thống kê, phép nhân tích, tổng hợp, so sánh, dùng
bảng biểu, sơ đồ trong trình bày kết quả điều tra, thực nghiệm (28).


Các công thức sử dụng trong luận án là :

+ Tính trung bình :
X=

(0.no+ (1.n1 ) + 2.n2 ) + ...
N

+ Tính hệ số sai biệt :

∑ (a− b)

2

Hd +
(50)
Trong đó : a nvà b là các mức độ so sánh; n số đơn vị quan sát; Hoạt động là hệ số khác biệt.
Nếu Hd < 0.03 sự khác biệt mới được coi là khơng đáng kể.
VI. Đóng góp mới của luận án
Đay là lần đầu tiên ở Việt Nam, khái niệm định hướng dư luận và cơ chế tâm lý xã hội của
định hướng dư luận trong tập thể qn nhân được khái qt, phân tích một cách có hệ
thống, có cơ sở lý luận và thực tiễn.
Luận án đã luận giải và phân tích thực trạng của định hướng dư luận trong tập thể quân
nhân trên cơ sở đó đưa ra một số biện pháp tâm lý xã hội cơ bản định hướng dư luận đáp
ứng yêu cầu xây dựng quân đội trong giai đoạn hiện nay.
Bằng kết quả đạt được, luận án có ý nghĩa thực tiễn góp phần nâng cao chất lượng xây
dựng quân đội vững mạnh về chính trị, có thể ứng dụng ở các đơn vị cơ sở, làm tài liệu
giảng dạy tâm lý học quân sự trong các nhà trường quân đội.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
I.1. Tổng quan
Dư luận xuất hiện cùng với sự ra đời của cuộc sống cộng đồng. Trong quá trình phát triển

của xã hội lồi người, dư luận ln là nhân tố điều hoà các quan hệ xã hội và hành vi con
người.
Ngay trong buổi bình minh của lịch sử, dư luận đã có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển
của xã hội loài người. Nghiên cứu về xã hội nguyên thuỷ F. ăngghen đã nhận xét rằng
trong chế độ này khơng có phương tiện ép buộc nào ngồi dư luận xã hội. Khi xã hội phân


chia thành giai cấp, các nhà lãnh đạo, thủ lĩnh của các cộng đồng người đều rất coi trọng
dư luận xã hội. Bao giờ họ cũng tìm cách định hướng và điều chỉnh dư luận để phục vụ cho
mục đích và quyền lợi giai cấp của mình do lập trường giai cấp và động cơ, quyền lợi ích
kỷ chi phối mà giai cấp tư sản đã che dấu hoặc xuyên tác bản chất thực của dư luận xã hội,
không dám thừa nhận định hướng dư luận xã hội trong thực hiện.
Từ nhu cầu của cuộc sống và sự phát triển của khoa học, vấn đề dư luận đã trở thành một
trong những tiêu điểm nghiên cứu của các nhà triết học, xã hội học và tâm lý học nhiều
nước trên thế giới. Nhưng xuất phát từ lập trường giai cấp, phương pháp nghiên cứu và
những điều kiện xã hội lịch sử khác nhau mà các nhà khoa học đã lý giải khác nhau xoay
quanh vấn đề dư luận và định hướng dư luận.
I.1.1. Quan niệm của các tác giả phương tây
Từ thế kỷ thứ 17, Wiliam Tempie (1618 - 1699) người Anh lần đầu tiên đưa ra đề cương
một lý thuyết về nguồn gốc và bản chất của dư luận xã hội. Điều quan trọng là những
nghiên cứu dư luận xã hội khơng chỉ dừng trên lý thuyết mà cịn vận dụng nó trong thực tế.
Theo hướng này, nhà hoạt động xã hội Daniel Defoe (1660 - 1731), người Anh đã xây
dựng một mạng lứi những người làm thông tin cơ sở để nắm bắt dư luận của quần chúng
(40).
G.G Rútxơ, nhà triết học Pháp (1712 - 17780 đã có công trong việc đưa ra những khái
niệm cơ bản về dư luận xã hội ngay từ 1762. Ông nêu luận điểm "hoạt động của nhà nước
phải lệ thuộc vào sự phán xét của nhân dân". Trong "Khế ước xã hội", Rút xô đã vạch ra
nội dung của dư luận xã hội tiến bộ, đó là trí tuệ của nhân dân có thể phán xét điều chỉnh
chính quyền phải thực hiện theo một mệnh lệnh của hội nghị nhân dân. ông cho rằng:
"Muốn cho ý chí trở thành ý chung - không nhất thiết phải lúc nào cũng trăm người như

một, nhưng điều quan trọng là mọi tiếng nói đều được đếm xỉa đến; nếu loại bỏ, dù là hình
thức một số tiếng nói nào đó thì ý chí chung sẽ tan rã" (47). Muốn vậy: "Dân chúng phải
được thông tin một cách đầy đủ khi họ luận giải vấn đề, cho dù khơng ai trao đổi riêng với
ai thì qua rất nhiều sự khác biệt nhỏ, cuộc luận giải vẫn cứ dẫn đến ý chí chung, kết quả sẽ
ln tốt đẹp" (48). Như vậy Rútxơ đã đề cập đến tính quy luật của sự hình thành dư luận
xã hội và cách thức có thể tạo ra dư luận đó. Vấn đề ở chỗ biết tổ chức các cuộc tranh luận


cho các thành viên để họ có chính kiến riêng và để làm điều đó việc cung cấp thơng tin đầy
đủ về sự kiện sẽ có tác dụng định hướng dư luận tới kết quả tốt đẹp.
Hêghen (1770 - 1831) nhà triết học duy tâm Đức cũng có ý kiến xác đáng về dư luận xã
hội khi ông cho rằng "dư luận xã hội đã mở ra cho mỗi người khả năng thổ lộ và bảo vệ ý
kiến chủ quan của mình đối với cái chung", "dư luận đã là một sức mạnh to lớn trong tất cả
các thời đại" (40). Ông rất coi trọng việc cung cấp khả năng hiểu biết tiến trình tranh luận,
bởi vì "bằng cách ấy dư luận mới có được những tư tưởng chân lý, mới thâm nhập vào
được trạng thái công việc của Nhà nước và cũng chính bằng cách ấy dư luận mới trở nên
có khả năng phán xét về chúng (Nhà nước và công việc của Nhà nước) một cách hợp lý"
(40). Dù là nhà triết học duy tâm nhưng những luận điểm trên của ơng có ý nghĩa to lớn là
những hạt nhân hợp lý đối với việc định hướng dư luận xã hội.
Một thành tựu trong nghiên cứu dư luận xã hội là sự ra đời của việc dư luận đầu tiên ở Mỹ
năm 1935 do H.Gallup (1901 -1984) thành lập. Với luận điểm coi "dư luận là công cụ có
ích của nền dân chủ", viện dư luận đã hướng việc nghiên cứu vào các vấn đề thực tiễn của
đời sống chính trị xã hội. Chính H.Gallup đã đưa ra phương pháp thăm dò bằng phiếu hoặc
phỏng vấn qua điện thoại. Phương pháp Gallup đánh dấu một bước tiến bộ mới trong
nghiên cứu về dư luận xã hội. Các viện thăm dị như vậy sau đó cũng được thành lập ở
Anh, Pháp, Đức và một số nước tư bản khác. Nội dung chủ yếu của nó là các cơng trình
nghiên cứu thực tiễn trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá. Đáng chú ý là các tổ chức
ấy không chỉ nghiên cứu dư luận xã hội đang tồn tịa mà cịn có nhiệm vụ can thiệp vào q
trình hình thành nó; uốn nắn, điều chỉnh dư luận xã hội cho phù hợp với lợi ích của giai
cấp thống trị. Cùng với sự ra đời của các tổ chức ấy là sự xuất hiện nhiều tác giả với nhiều

học thuyết nghiên cứu về dư luận xã hội. Một trong những thành tựu nổi bật là những
nghiên cứu về cơ chế hình thành và biến đổi của dư luận xã hội ở góc độ tâm thế. Một số
học thuyết đang được coi là căn cứ lý luận của sự biến đổi tâm thế hình thành dư luận xã
hội là:
- Thuyết khai thác khía cạnh chức năng của tâm thế. Theo thuyết này, tâm thế được phân
biệt với nhau trên cơ sở các chức năng mà nó đảm nhận. Chẳng hạn, có tâm thế đảm nhiệm
chức năng nhận thức, chức năng thoả mãn các nhu cầu vật chất hay nhu cầu tự vệ. Trước
các sự kiện diễn biến xã hội tương tự hoặc có nét tương tự các sự kiện hiện tượng ấy mà
các tâm thế nhất định được hình thành, được đánh thức và dư luận xã hội sẽ bùng lên.


Muốn thay đổi khuynh hướng của dư luận xã hội thì phải thay đổi ngữ cảnh của tâm thế
(77).
- Một nghiên cứu khác của sự biến đổi tâm thế, hình thành dư luận xã hội đó là cách tiếp
cận huấn tập. Thuyết huấn tập khẳng định vai trò của yếu tố thưởng phát đối với sự hình
thành dư luận xã hội. Theo thuyết này, các phản ứng dư luận xã hội được khích lệ sẽ trở
thành tâm thế bền vững cịn nếu khơng nhận được khích lệ nó sẽ tự mất đi (79).
- Cách tiếp cận vấn đề thay đổi tâm thế hình thành dư luận xã hội đang thịnh hành nhất
hiện nay là cách tiếp cận nhận thức và cách tiếp cận tri giác.
Cách tiếp cận nhận thức có các "thuyết cân bằng" của Fritz Heide, các "thuyết tương hợp
tình cảm nhận thức", "thuyết tương hợp" của Osgood và Tanenbaum và "thuyết bất đồng".
Cách tiếp cận nhận thức nhấn mạnh yếu tố niềm tin và tư tưởng qua các nhóm xã hội. Theo
cách này, một trong những nguyên tắc cơ bản mà mọi người theo đuổi là nguyên tắc nhất
quán giữa niềm tin, tâm thế và hành vi. Ý thức về tính thiếu nhất quán tạo sự căng thẳng
bất an mà mọi người nét tránh nó hoặc tự thay đổi để tháo gỡ sự thiếu nhất quán đó (77,
78).
Cách tiếp cận tri giác có "thuyết phán xét xã hội" của Sherif và Hovland và "thuyết quy
kết" của Heider. Theo Sherif và Hovland tâm thế của con người có thể được chia thành 3
tầm: tầm thụ cảm, tầm cự tuyệt và tầm bàng quan. Điểm mốc để phân chia các tầm này là
giá trị tâm thế của chủ thể trên thang do tâm thế. Những nghiên cứu của Heider về các

điều kiện trong đó người ta sẽ quy kết tình trạng hiện có của đối tượng cho các nguyên
nhân xuất phát từ bên trong hay bên ngoài đối tượng. Chẳng hạn nghiên cứu về các yếu tố
quyết định sức mạnh và độ tự tin của các quy kết, các yếu tố cản trở thiên hướng phán xét
quy kết của cá nhân (79).
Ngồi cách tiếp cận tâm thế ra cịn có thuyết "nghiên cứu thông tin và người nhận thông
tin, truyền thơng trong q trình hình thành dư luận". Theo hướng này, đáng chú ý là
nghiên cứu của Noelle Newmann về "ứng xử của những đối tượng tiếp nhận thông tin,
truyền thông tin", "những vận động thuyết phục và thay đổi thái độ con người' đã đi đến ý
tưởng định hướng dư luận xã hội thơng qua vai trị của "thủ lĩnh dư luận" (61).
Tóm lại, cho đến những năm 70, tâm lý học xã hội phương tây đã thu được nhiều thành tựu
trong lĩnh vực nghiên cứu dư luận xã hội, đặc biệt xoay quanh cơ chế hình thành và biến


đổi dư luận xã hội ở nhiều góc cạnh khác nhau. Mỗi góc cạnh được làm rõ bởi một học
thuyết nhất định. Các nghiên cứu đã vận dụng điều tra, thống kê, thực nghiệm với những
phương pháp định lượng và định tính về dư luận xã hội. Các nghiên cứu này được bộ máy
công tác tư tưởng của Nhà nước tư bản chủ nghĩa sử dụng với những mục đích khác nhau.
Với tư cách là kết quả nghiên cứu khoa học các chủ thể có khuynh hướng chính trị khác
nhau đều có thể sử dụng theo những mục đích nhất định.
I.1.2. Quan niệm cả các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin khẳng định dư luận xã hội có vai trị và sức
mạnh to lớn. Với luận điểm quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, dư luận xã
hội bắt nguồn trí tuệ của nhân dân, do đó tăng cường vai trò của các tầng lớp nhân dân sẽ
dẫn đến phát huy hiệu lực của dư luận xã hội. Khi cho rằng dư luận xã hội có sức mạnh to
lớn, điều hoà các quan hệ xã hội, F.Ăng ghen đồng thời cũng lưu ý rằng con người cần
phải nhận thức về dư luận, biết sử dụng nó một cách hợp lý, có ý thức để sao cho các biến
đổi xã hội cụ thể xảy ra thì trước hết cần phải có sự tiến bộ to lớn trong dư luận xã hội.
V.I. Lênin đã gắn vấn đề dư luận xã hội với sinh hoạt dân chủ và giáo dục quần chúng cũng
như vai trị của nó trong xây dựng xã hội nói chung. Người coi việc định hướng dư luận là
sứ mạng của các nhà tư tưởng, các nhà lãnh đạo : "Nhà tư tưởng chỉ xứng với danh hiệu

nhà tư tưởng khi nào họ đi trước phong trào tự phát, chỉ đường cho nó, khi nào họ biết giải
quyết trước người khác tất cả những vấn đề lý luận, chính trị, sách lược và các vấn đề tổ
chức mà "những yếu tố vật chất" của phong trào húc phải một cách tự phát. Muốn thực sự
chú ý đến những yếu tố vật chất của phong trào phải có thái độ phê phán đối với nó, phải
biết rõ sự nguy hiểm và những thiếu sót của phong trào tự phát, phải biết nâng tính tự phát
lên đến tính tự giác" (3). Lênin còn cho rằng việc quản lý của nhà nước chịu ảnh hưởng
mạnh mẽ của dư luận xã hội do đó cần thiết phải làm cho "dư luận xã hội có ý thức, có
kiến thức". Như vậy Lênin đã nêu lên tư tưởng định hướng dư luận ở chỗ phải chuẩn bị
trước cho quần chúng một cách có ý thức về chính trị, tư tưởng và tâm lý, đảm bảo cho sự
phát triển của dư luận xã hội phù hợp với yêu cầu của xã hội xã hội chủ nghĩa.
I.1.3. Quan niệm của các nhà xã hội học và tâm lý học Liên Xô
Trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội đã xuất hiện những tiền đề và điều kiện thuận lợi cho
sự hình thành và biểu hiện của dư luận xã hội tiến bộ. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đảm


bảo cho mọi tầng lớp nhân dân tham gia hoạt động và quản lý xã hội. Sự quan tâm của
Đảng cộng sản và nhà nước đối với dư luận xã hội ngày càng cao cho nên việc nghiên cứu
dư luận xã hội có ý nghĩa to lớn. ở Liên Xơ (cũ), Bungari, Hunggari, Cuba, Việt Nam đều
có những trung tâm nghiên cứu và điều tra dư luận xã hội phục vụ cho sự lãnh đạo của
Đảng và quản lý của nhà nước. Các nhà xã hội học và tâm lý học đã có những đóng góp to
lớn, đặc biệt là ở Liên Xô từ những năm 50 - 80 dư luận xã hội là vấn đề được quan tâm,
có nhiều cơng trình nghiên cứu với những cách tiếp cận khác nhau. Sau đây là những tác
giả với hướng nghiên cứu cơ bản nhất xoay quanh vấn đề dư luận xã hội và định hướng dư
luân xã hội:
Hướng thứ nhất: Nghiên cứu bản chất, đặc trưng và sự hình thành của dư luận xã hội xã
hội chủ nghĩa có các tác giả tiêu biểu như A.K Uledốp. B.A Grusin, P.A Xakharops, V.K
Paderin, V.B Richénhv (81,82).
- A.K Uledốp đưa ra luận điểm "Dư luận xã hội là một trong những trạng thái của ý thức xã
hội". Những tác phẩm "Dư luận xã hội là đối tượng nghiên cứu của xã hội học" (1954),
"Dư luận xã hội và sự hình thành nó một cách có mục đích" (1975) "Dư luận xã hội và

cơng tác tuyên truyền" (1980) hướng vào làm rõ chức năng, tính quy luật của sự hình thành
dư luận xã hội nhằm phục vụ cho mục đích giáo dục cộng sản (40).
- B.A Grusin tiếp cận vấn đề ở góc độ khác, cho rằng trong mọi trường hợp dư luận xã hội
ln ln là sự phản ảnh hiện thực, tính chất phức tạp của sự phản ánh của dư luận xã hội
thơng qua sự có mặt của nội dung tư tưởng và nội dung tâm lý xã hội trong đó. Trong tác
phẩm "Dư luận về thế giới và thế giới dư luận" (1967) ông đã xác định hàng loạt những
đặc điểm của dư luận xã hội, khẳng định quy luật vận hành của nó. Muốn điều khiển dư
luận xã hội phải tính đến những đặc điểm như : tính đại chúng, đám đơng của dư luận xã
hội; tính phản ánh trực tiếp gắn chặt với nhu cầu, và lợi ích của cá nhân và cộng đồng; tính
khơng rõ ràng về mặt quan điểm so với hệ tư tưởng khoa học; dư luận xã hội vận hành như
những nhân tố kích thích và điều chỉnh hoạt động con người (87).
- V.K Paderin trong cơng trình "Dư luận xã hội chủ nghĩa phát triển, bản chất và các tính
quy luật hình thành" (1980) đã đưa ra cách tiếp cận xem xét giá trị đối với dư luận xã hội.
Trên cơ sở lý luận về giá trị, một thành tựu của khoa học hiện đại Paderin cho rằng "Dư
luận xã hội là ý thức đánh giá, nói cách khác là ý thức xã hội nhìn từ góc độ chức năng đáh


giá của nó (40). Cách tiếp cận này càng khám phá sâu bản chất của dư luận xã hội, mở
rộng quan niệm về vị trí của nó trong ý thức xã hội; trong đó tập trung vào thái độ của con
người với đối tượng, đánh giá dưới góc độ của các khả năng có thể đáp ứng nhu cầu của
con người mà đối tượng có được.
- V.B Richenhév tập trung vào tính quy luật của sự toạ thành dư luận xã hội cũng như việc
vận dụng nó vào quản lý. Trong cuốn "Dư luận xã hội và vấn đề quản lý" (1987), tác giả
khẳng định dư luận xã hội vận hành thơng qua sự giao tiếp xã hội. Tính quy luật của sự vận
hành thể hiện ở việc nâng cao tính tích cực của ý thức quần chúng cũng như tăng cường
tính thúc đẩy của bản thân dư luận xã hội. Trên cơ sở chỉ ra tính quy luật của sự vận hành
của dư luận xã hội, tác giả đã xác định những nội dung, yêu cầu của sự vận dụng dư luận
xã hội trong hệ thống thông tin; trong đấu tranh với tiêu cực xã hội; trong công tác cán bộ
cũng như trong xây dựng ý thức hệ xã hội chủ nghĩa. Bằng cách này ông đã chỉ ra vai trò
của các nhà lãnh đạo quản lý, chủ thể của định hướng dư luận xã hội phải biết nắm và

hướng dẫn dư luận xã hội trong quản lý xã hội (82).
Hướng thứ hai là : Tìm kiếm xác định các phương thức định hướng dư luận xã hội ở tầm
vĩ mô. Các tác giả đi theo hướng này đặc biệt nhấn mạnh đến việc xã hội, kiến tạo những
tiền đề khách quan và chủ quan cho dư luận xã hội phát huy tác dụng. Muốn vậy phải thực
hiện các đảm bảo về chính trị, kinh tế, xã hội, tư tưởng và đạo đức cho các chủ thể dư luận
xã hội. Tiêu biểu theo hướng này có Govskop, trong "Dư luận xã hội - lịch sử và tính thời
đại" (1989) ông đã xác định nội dung các đảm bảo nói trên. Ông đặc biệt nhấn mạnh rằng
trong sự thống nhất, sự tương tác lẫn nhau của nó, những đảm bảo tạo nên một hệ thống
các điều kiện và cơ cấu tạo ra khả năng hình thành có định hướng, có ý thức của dư luận xã
hội cũng như sự gia tăng vai trị ý nghĩa của nó trong xã hội (40).
Hướng thứ ba là: Nghiên cứu dư luận xã hội trong phạm vi hẹp như dư luạn trong gia
đình, nhóm, tập thể cơ sở (lớp học, tổ sản xuất, đơn vị quân đội). Các tác giả như A.X
Macarencô, A.G Côvaliốv, A.V Pêtrốpxki, K.K Platơnốv có những đóng góp đáng kể về
nghiên cứu dư luận tập thể. Trong tác phẩm "Giáo dục trong thực tiễn" Macarencô đặc biệt
nhấn mạnh tầm quan trọng của dư luận tập thể, cho rằng các cán bộ lãnh đạo, thủ lĩnh phải
là những người tổ chức dư luận tập thể phục vụ cho nhiệm vụ chung. A.V Pêtrốpxki trong
tác phẩm "Tâm lý xã hội của tập thể" phân tích đặc điẻm của sự hình thành dư luận tập thể,
đồng thời xem dư luận tập thể như một phương tiện trong tay các nhà giáo dục, có thể sử


dụng điều khiển định hướng nó nhằm mục đích xã hội tập thể. Quan niệm coi dư luận tập
thể là những phán đoán biểu thị thái độ của các thành viên trong tập thể với sự kiện có liên
quan đến nhu cầu của cá nhân hoặc tập thể, khi tập thể đạt tới giai đoạn phát triển, dư luận
sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến mọi thành viên (15,80).
Các nghiên cứu ở góc độ tâm lý tập thể đều khẳng định dư luận tập thể hình thành có tính
quy luật, tham gia vào đó có sự chi phối của các nhân tố tự phát và tự giác, khách quan và
chủ quan, cả nhân tố chính trị, kinh tế, tâm lý xã hội. Các nhà quản lý, giáo dục khi can
thiệp, hướng dẫn dư luận tập thể cần phải tính đến các nhân tố như tính chất ý nghĩa sự
kiện xảy ra, số lượng và chất lượng thông tin đưa đến, mức độ chuẩn bị về tư tưởng tâm lý
của các thành viên, trình độ phát triển của tập thể cũng như uy tín của người lãnh đạo (80).

I.1.4. Một số nghiên cứu về dư luận ở Việt Nam
Tuy mới nghiên cứu nhiều từ những năm 1980 lại đây nhưng chúng ta cũng đã có thành
quả đáng ghi nhận. Đảng cộng sản Việt Nam với đường lối đúng đắn, cùng với cơng tác
chính trị tư tưởng nói chung, cơng tác đảng, cơng tác chính trị trong qn đội nói riêng,
bản thân nó đã mang tính định hướng dư luận ở tầm vĩ mô đối với xã hội vf quân đội. Việc
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, phê bình, tự phê bình trong Đảng cũng như việc
tiến hành cơng tác tư tưởng, cơng tác đảng, cơng tác chính trị trong qn đội đã đảm bảo
hình thành có định hướng, có ý thức của dư luận xã hội và sự gia tăng vai trị ý nghĩa của
nó trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với quan điểm "lấy dân làm gốc", Đảng
đã tận dụng sức mạnh to lớn của dư luận quần chúng, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân đấu tranh chống tệ nạn xã hội, mở rộgn dân chủ trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị xã
hội (34,45,64).
Năm 1982 "Viện dư luận xã hội" trực thuộc Ban tuyên huấn Trung ương Đảng ra đời.
Nhiệm vụ của viện là "tổ chức việc nghiên cứu dư luận nhân dân đối với những vấn đề
quan trọng có tính chất thời sự theo quan điểm Mác Lênin; tổng hợp phân tích dư luận xã
hội để báo cáo với các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước; tổ chức bồi dưỡng đội ngũ
thông tin viên, cộng tác viên của viện về lý luận và nghiệp vụ". Thành tựu của viện trong
những năm qua là hiệu quả thực tiễn trên cơ sở nghiên cứu lý luận và phương pháp thăm
dị dư luận xã hội theo quan điểm Mác xít. Các kết quả nghiên cứu và thăm dò dư luận xã
hội đã phục vụ đắc lực cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát huy quyền làm chủ


tập thể của nhân dân lao động, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa; tăng cường mối liên hệ
giữa Đảng, Nhà nước và quần chúng nhân dân; góp phần hồn thiện cơng tác lãnh đạo và
cơng tác quản lý xã hội trên cơ sở khoa học (40).
"Trung tâm tâm lý học xã hội" nay là "Viện tâm lý học" là một trong những cơ sở nghiên
cứu về dư luận xã hội ở nước ta. Các cơng trình, chun khảo như dư luận xã hội trong tập
thể, trong gia đình, dịng họ, làng xã đã đóng góp nhất định về lý luận và thực tiễn (36, 37).
Từ năm 1984 Ban tuyên giáo thành uỷ Hà Nội đã triển khai công tác nghiên cứu, hướng
dẫn dư luận xã hội trên địa bàn thành phố. Tháng 3 năm 1995 đã hội thảo khoa học "nghiên

cứu và hướng dẫn dư luận xã hội, cơng cụ lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và chính quyền
thành phố". Đây là một biểu hiện cụ thể nghiên cứu, vận dụng dư luận xã hội trong thực
tiễn, đặc biệt tập trung vào vai trò hướng dẫn dư luận xã hội của các nhà lãnh đạo, quản lý
xã hội cũng như các tổ chức Đảng và Nhà nước.
Phó giáo sư Hoàng Ngọc Phách đã đề cập đến sự cần thiết phải định hướng dư luận trong
tập thể quân nhân, song tác giả mới dừng lại ở chỗ xem định hướng dư luận tập thể như là
một con đường, biện pháp để xây dựng tập thể quân nhân vững mạnh (51).
Phó tiến sĩ Phạm Chiến Khu đã có cơng trình chuyên về dư luận xã hội. Tác giả tiếp cận ở
góc độ xã hội học và tâm lý học xã hội trong đó tập trung vào mối quan hệ giữa dư luận xã
hội và đặc điểm tâm lý người Việt Nam, đặc trưng của dư luận xã hội và vai trị, ảnh hưởng
của nó đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Một số tác giả khác như Mai
Hữu Khuê, Nguyễn Văn Lê, Nguyễn Hải Khoát, Đỗ Long, Nguyễn Quang Uẩn, Đức Uy,
Hồng Đình Châu đã có nghiên cứu và đề cập đến dư luận ở dạng này hay dạng khác: như
dư luận xã hội và vấn đề quản lý nhà nước và quản lý xã hội, dư luận xã hội của giới thanh
niên, dư luận xã hội trong làng xã Việt Nam, dư luận xã hội và công tác truyền thống, dư
luận xã hội và giao tiếp quân sự (18,32,33,58).
Một vài nhận xét khái quát
Qua việc điểm một cách tóm tắt một số cơng trình nghiên cứu xung quanh về dư luận và
định hướng dư luận của các tác giả trong và ngoài nước nổi lên một số vấn đề đã được
nghiên cứu hoặc đề cập ở mức độ ít nhiều, tập trung vào các hướng chính sau đây:
- Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin, trên cơ sở của phép duy vật biện chứng đã
đưa ra những tư tưởng rất quan trọng về định hướng dư luận. Các ông khẳng định những


vấn đề có tính quy luật khi nghiên cứu dư luận xã hội, đó là một ặmt dư luận xã hội do điều
kiện xã hội lịch sử cụ thể quy định và chế ước nhưng mặt khác có tính độc lập tương đối,
thực hiện các chức năng giáo dục và điều chỉnh hành vi của cá nhân và cộng đồng. Dư luận
xã hội phải chịu sự điều tiết của hoàn cảnh lịch sử, môi trường xã hội và quản lý xã hội.
Cho nên định hướng dư luận xã hội chính là tích cực hố q trình hình thành nó một cách
có ý thức, phải được thực hiện từ phía xã hội, người quản lý xã hội cùng với các thiết chế

đồng bộ của nó trên cơ sở đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân
dân. Phải làm cho dư luận xã hội có tính tích cực phục vụ mục đích định trước, điều đó phụ
thuộc vào vai trò của những nhà quản lý, giáo dục nắm bắt được quy luật hình thành dư
luận xã hội, tác động vào nó để hướng dư luận theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa.
- Những nghiên cứu ở góc độ triết học, xã hội học về bản chất, quy luật hình thành, đặc
trưng của dư luận xã hội là cơ sở của sự tác động xây dựng dư luận xã hội theo yêu cầu của
xã hội cũng như chủ thể giáo dục. Thực hiện những đảm bảo về kinh tế, chính trị, tư tưởng
cho sự vận hành của dư luận teo quỹ đạo xã hội chủ nghĩa là những tư tưởng về định
hướng dư luận ở tầm vĩ mô của Đảng, Nhà nước đối với toàn xã hội.
- Những nghiên cứu ở góc độ tâm lý học xã hội đề cập và lý giải sự hình thành và biến đổi
của dư luận xã hội mà điển hình l à các học thuyết phương Tây. Đây là khuynh hướng của
tâm lý xã hội tư sản hiện đại có cơng lưu ý chúng ta vè những cơ chế hình thành và biến
đổi của dư luận xã hội trên cơ sở thuyết tâm thế, thuyết thông tin. Muốn can thiệp, hướng
dẫn dư luận xã hội các chủ thể phải vận hành theo những cơ chế đã xác định. Mặc dù có
hạn chế ở thế giới quan giai cấp trong luận giải vấn đề song những thành quả của khuynh
hướng này có giá trị cả lý luận và thực tiễn.
- Những nghiên cứu ở góc độ tâm lý học tập thể về dư luận tập thể tập trung vào khai thác
các nhân tố chủ quan và khách quan, tự phát và tự giác của sự tạo thành dư luận tập thể.
Mặc dù chưa vạch ra các cấu trúc tâm lý hoặc cơ chế tâm lý của định hướng dư luận tập
thể, song ở chừng mực nhất định các tác giả đã lưu ý cần thiết phải định hướng dư luận tập
thể, đồng thời khẳng định vai trò, trách nhiệm định hướng dư luận tập thể của những cán
bộ quản lý, lãnh đạo tập thể trong đó cần tính đến sự chi phối tác động của các nhân tố tâm
lý xã hội trong tập thể như uy tín của người lãnh đạo, mức độ chuẩn bị về tư tưởng và tâm
lý của quần chúng, trình độ phát triển của tập thể.


Có thể nói rằng những tư tưởng, ý đồ về định hướng dư luận đã được bàn đến ở dạng này
hay dạng khác cả trên bình diện lý luận và thực tiễn, song cho đến nay chưa có những cơng
trình nghiên cứu trực tiếp, có hệ thống về định hướng dư luận tập thể hoặc đề cập đến cơ
chế định hướng dư luận tập thể ở một đối tượng cụ thể là tập thể quân nhan. Do vậy, tác

giả chọn đề tài "nghiên cứu cơ chế tâm lý xã hội của việc định hướng dư luận tập thể quân
nhân trong giai đoạn hiện nay". Trên cơ sở tiếp thu những thành tựu đã có về định hướng
dư luận, đặc biệt là quan niệm của chủ nghĩa Mác Lênin về dư luận xã hội và sự định
hướng của nó một cách có ý thức, quan niệm của các nhà tâm lý học Mácxít về dư luận xã
hội và các nhân tố của sự tạo thành tư luận tập thể mà xác định mục đích, nội dung, cơ chế
tâm lý xã hội của định hướng dư luận tập thể quân nhân.
I.2. Các khái niệm
I.2.1. Dư luận tập thể
Là một hiện tượng tinh thần xã hội phức tạp, dư luận xã hội có thể được nghiên cứu ở góc
độ triết học, xã hội hay tâm lý học. Tiếp cận góc độ tâm lý học xã hội theo ý kiến của các
nhà nghiên cứu Mác xít thì dư luận xã hội là sự phán xét đánh giá của cộng đồng đông đảo
đối với các sự kiện, quá trình của thực tế xã hội mà họ quan tâm. Sự phán xét đánh giá này
biểu thị thái độ (đồng tình hay phản đối) của họ đối với các sự kiện quá trình ấy (40). Dư
luận xã hội có những đặc điểm nổi bật là tính cơng chúng; liên hệ chặt chẽ với quyền lợi
của cá nhân và nhóm xã hội. Dư luận xã hội có các chức năng điều hồ các quan hệ xã hội,
kiểm sốt, cố vấn và giáo dục.
Cịn có những ý kiến khác nhau về chủ thể của dư luận xã hội. A.G Cơvaliốp đưa ra luận
điểm về sự tích hợp khác nhau của dư luận xã hội. Tích hợp cấp 1 (dư luận cấp cơ sở) là dư
luận xã hội trong gia đình, nhóm bạn bè, tập thể cơ sở. Tích hợp cấp 2 là dư luận của tập
thể lớn hơn (như nhà trường, một đơn vị quân đội), thống nhất quan niệm của hàng ngàn
người. Tích hợp cấp 3 là dư luận xã hội của toàn dân, lúc này nội dung của khái niệm dư
luận xã hội sẽ trùng với quan niệm thực của tồn xã hội. Tích hợp cao nhất là dư luận của
cộng đồng quốc tế, trên phạm vi toàn thế giới (15). Đây là quan niệm hợp lý giúp chúng ta
phân biệt rõ ràng khi nghiên cứu lý luận hay thực tiễn xem đó là dư luận của nhóm, của
một tập thể (dư luận tập thể) hay là dư luận xã hội của một cộng đồng (dân tộc, giai cấp).
Dư luận tập thể.


K.K Platonốv cho rằng : "dư luận tập thể là tồn bộ những phán đốn đánh giá biểu lộ thái
độ của quần chúng đối với những sự kiện khác nhau trong đời sống xã hội, đối với hành vi

cử chỉ hoạt động của tập thể cũng như của mỗi cá nhân trong tập thể" (44). Sách tâm lý học
quan sự xem dư luận tập thể là sự thống nhất đánh giá, nhận xét đối với sự kiện xảy ra
trong và ngồi đơn vị có liên quan đến tình cảm, đạo đức, hoạt động và lợi ích của các
thành viên (51).
Đây là hai quan niệm tương đối điển hình về dư luận tập thể mà ở đó có điểm chung, xem
xét dư luận tập thể là sự đánh giá của đa số thành viên trong tập thể đối với vấn đề có liên
quan đến nhu cầu của họ.
Nhưng điều quan trọng khơng chỉ là sự đánh giá mà cịn là sự phán xét của tập thể (đúng
sai, nên chăng, yêu ghét). Tất nhiên, thực tế còn tồn tại cả sự phán xét đánh giá, phán xét
quy chế, phán xét tiêu chuẩn, nhưng chỉ có sự phán xét đánh giá mới tạo nên dư luận. Từ
đây, có thể nói rằng dư luận tập thể là sự phán xét đánh giá biểu thị thái độ của quần
chúng đối với những sự kiện hiện tượng xảy ra có liên quan đến nhu cầu, lợi ích của các
thành viên trong tập thể. Khách thể của dư luận tập thể là những sự kiện có thực xảy ra
liên quan đến nhu cầu, quyền lợi của đa số thành viên trong tập thể. Chủ thể của dư luận
tập thể là các thành viên, tập thể nói chung, tổ chức Đảng đoàn cũng như các đoàn thể xã
hội trong tập thể. Căn cứ vào tính chất và mức độ phù hợp với mục đích hoạt động chung,
yêu cầu giáo dục trong tập thể mà chia thành hai loại dư luận tập thể tích cực và dư luận
tập thể tiêu cực. Dư luận tập thể tích cực là dư luận phù hợp với mục đích hoạt động
chung nhằm phục vụ lợi ích tập thể, giáo dục con người mới xã hội chủ nghĩa và đạt trình
độ thống nhất cao. Dư luận tập thể tích cực là dư luận bảo đảm tính tư tưởng, tính khách
quan chân thực, tính tập trung thống nhất và có tác dụng giáo dục. Định hướng dư luận tập
thể là tác động vào nó để hình thành các nhân tố đảm bảo dư luận tập thể có tính tư tưởng
cao, khách quan chân thực, tập trung thống nhất và có tác dụng giáo dục trong tập thể (68).
Dư luận tập thể tiêu cực là dư luận khơng phù hợp với mục đích chung, thiếu tính khách
quan chân thực, kém thống nhất, trái với yêu cầu giáo dục xã hội chủ nghĩa. Định hướng
dư luận tập thể chính là để ngăn ngừa các dư luận tập thể tiêu cực. Dư luận tập thể tích cực
có vai trò to lớn đối với sự phát triển của mỗi nhân cách và tập thể. Dư luận tập thể đánh
giá các thành viên trên cơ sở các chuẩn mực xã hội, yêu cầu nhiệm vụ tập thể từ đó mà
định hướng điều chỉnh thái độ hành vi cả mỗi cá nhân và tập thể. Sức mạnh của dư luận tập



thể có khi đạt tới mức buộc mọi người phải tuân theo, phải kiểm tra đánh giá, điều chỉnh
hành vi theo đòi hỏi của tập thể. Dư luận tập thể tích cực có tác dụng khích lệ cổ vũ cá
nhân, tập thể bằng sự đồng tình hay phản đối, khen chê, thuyết phục hay ám thị… qua đó
tạo sự thống nhất, tăng cường đoàn kết, củng cố kỷ luật theo yêu cầu của xã hội và tập thể.
Các thành tố của dư luận tập thể. Cho đến nay vẫn chưa có quan niệm thống nhất về các
thành tố tâm lý của dư luận tập thể, nhưng theo phần đông các nhà nghiên cứu cho rằng
trong dư luận tập thể có sự kết hợp hài hoà các thành tố nhận thức, cảm xúc, ý chí (15,21).
Ở đây cần có sự phân tích sâu sắc hơn để làm sáng tỏ vấn đề này.
Dư luận tập thể không phải là một hiện tượng phi lý tính, chỉ thuần tuý cảm tính mà là hỗn
hợp của cả yếu tố "cảm tính lý tính", về thực chất nó là phán xét đánh giá biểu thị thái độ
của tập thể đối với sự kiện xảy ra. Cho nên nói rằng dư luận chỉ bao hàm trong đó nhận
thức, cảm xúc và ý chí là chưa thoả đáng. Từ quan niệm trên chúng tôi cho rằng dư luận
tập thể có ba thành tố nhận thức, thái độ và ý chí nằm trong một chỉnh thể thống nhất.
Thành tố nhận thức được cấu thành bởi những quan niệm, nhận định của chủ thể đối với
sự kiện trong đó bao gồm cả những yếu tố của nhận thức cảm tính (những cảm nhận, ấn
tượng, biểu tượng) và những yếu tố của nhận thức lý tính (những phán đốn, đánh giá).
Nhận thức là thành tố cơ sở, nền tảng vì dư luận tập thể là các phán đốn trí tuệ của tập thể
không dựa trên cơ sở nhận thức, hiểu biết về sự kiện thì sẽ khơng có phán xét nào cả. Nhận
thức là cái "lý" của sự tạo thành dư luận tập thể, của sự "trao đổi", "bàn bạc" về sự kiện
nhất định.
Thái độ trong dư luận được xem là sự tổng hợp độc đáo những yếu tố cảm xúc và nhận
thức về sự kiện. Thái độ là sự phản ứng cơ bản đầu tiên đối với tác động của sự kiện mà
trong đó chủ thể phải bộc lộ quan điểm của mình; nó như một tâm thế sẵn sàng phản ứng,
tiếp nhận dễ dàng hay khó khăn, đồng tình hay phản đối sự kiện hiện tượng xảy ra. Vì vậy
trong thái độ có cả cảm xúc, hiểu biết và những đặc trưng về nhu cầu và đông cơ cá nhân
trong tập thể. Những nhu cầu lợi ích, định kiến, khuôn mẫu được xem là những kiểu thái
độ nhất định.
Như vậy thái độ là phức hợp "lý và tình", thành tố phản ánh nội dung, ý nghĩa xã hội của
dư luận tập thể. Thành tố thái độ có nội hàm phong phú hơn so với khái niệm "cảm xúc

trong dư luận" mà một số người quan niệm. Đây cũng là điều thể hiện đặc trưng dư luận


phản ánh tâm lý người Việt Nam "thấu lý đạt tình" nhưng lại coi trọng tình cảm nặng về
tình trong ứng xử.
Thành tố ý chí trong dư luận tập thể biểu hiện khuynh hướng hành động của chủ thể đối
với sự kiện xảy ra. Đó cũng là mặt hiện thực của thái độ và hiểu biết, là hành vi phát ngơn
thể hiện tính ép buộc, kìm hãm hay thúc đẩy hành động của nhóm người hay tập thể, làm
cho dư luận tập thể khơng chỉ là "lời nói sng" của quần chúng mà trái lại luôn gắn liền
với hành động thực tiễn của quần chúng, do đó sức mạnh của dư luận là một thực tế không
thể bỏ qua được. Việc xác định rõ các thành tố của dư luận tập thể có ý nghĩa lý luận ở chỗ
con người muốn tác động vào dư luận tập thể, định hướng dư luận tập thể theo một mục
đích nhất định thì phải hình thành cho được các thành tố cơ bản của dư luận tập thể (phải
nhận thức đúng, thái độ phù hợp và hành vi phát ngôn hợp lý dối với sự kiện) trong một
chỉnh thể thống nhất.
Dư luận tập thể có q trình nảy sinh, diễn biến và kết thúc. Tham gia vào sự hình thành
dư luận tập thể có cả yếu tố tự phát và tự giác, tác động trực tiếp và gián tiếp của các nhân
tố chính trị, kinh tế, xã hội và tâm lý. Mặc dù sự hình thành là một q trình phức tạp
nhưng nó diễn ra có tính quy luật. Nắm được quy luật người ta có thể định hướng điều
khiển theo mục tiêu nhất định.
Sự hình thành dư luận thường trải qua ba giai đoạn.
Giai đoạn 1: Khi có sự kiện xảy ra, con người trực tiếp phản ánh, cảm nhận, rung động và
suy đốn về nó.
Giai đoạn 2: Có sự trao đổi giữa các cá nhân cảm xúc, biểu tượng, ý kiến đánh giá về sự
kiện hiện tượng đó. Trong thời gian này ý kiến cá nhân chuyển từ ý thức cá nhân sang ý
thức tập thể. Kể từ khi có sự trao đổi quan niệm, tranh luận là bắt đầu hình thành dư luận
tập thể. Tuy nhiên lúc này dư luận ban đầu, cịn chưa thống nhất, có khi các ý kiến đánh giá
còn mâu thuẫn trái ngược nhau; còn một số phân vân chưa tỏ rõ chính kiến cụ thể. Như vậy
có thể tác động vào giai đoạn bắt đầu hình thành, vào diễn biến của tiến trình tranh luận mà
định hướng dư luận theo một muc tiêu và phương hướng nhất định.

Giai đoạn 3: Những ý kiến khác nhau được thống nhất lại xung quanh một số quan điểm
cơ bản về sự kiện để hình thành sự phán xét đánh giá, tỏ thái độ giống nhau đối với sự kiện
ấy.


Các nhân tố tham gia vào sự hình thành dư luận tập thể: Dư luận tập thể là một hình
thức biểu hiện đặc thù của ý thức tập thể, phản ánh điều kiện xã hội lịch sử của tập thể
cũng như nhu cầu lợi ích của các thành viên, vì vậy có nhiều yếu tố chi phối, tham gia vào
sự hình thành dư luận tập thể.
Dư luận tập thể được hình thành phụ thuộc vào tính chất của sự kiện tượng xảy ra, trong
đó lợi ích và tính chất cơng chúng là quan trọng nhất. Nếu sự kiện xảy ra có tính chất quan
trọng liên quan đến lợi ích thiết thân của tập thể và các thành viên thì dư luận hình thành
nhanh chóng; ngược lại sự kiện bình thường liên quan ít hoặc khơng liên quan đến lợi ích
của các thành viên thì dư luận hình thành chậm chạp hoặc không xuất hiện dư luận (15,80).
Số lượng và chất lượng thông tin đưa đến cho các thành viên về sự kiện có ảnh hưởng
nhất định đến sự hình thành dư luận tập thể và mức độ đúng đắn của nó. Nếu thơng tin đầy
đủ và nguồn thơn tin có độ chính xác, tính kịp thời thì dư luận hình thành nhanh chóng và
thống nhất; ngược lại thơng tin phiến diện, nguồn tin khơng rõ ràng thì trong một số trường
hợp chỉ tạo ra tin đồn.
Sự hình thành dư luận còn phụ thuộc vào mức độ chuẩn bị của các thành viên đối với sự
kiện. Nếu quần chúng được chuẩn bị trước về tâm thế, thái độ, tư tưởng dư luận dễ hình
thành, tính tập trung cao. Những sự kiện xảy ra đột ngột, thiếu sự chuẩn bị đón nhận thì có
thể sẽ xuất hiện nhiều luồng dư luận, tính thống nhất kém. Dự kiến trước các sự kiện có thể
xảy ra, chuẩn bị tâm thế tích cực cho quần chúng là một yêu cầu của định hướng dư luận
tập thể (80). Sự hình thành dư luận tập thể cịn tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của tập thể
như thế nào. Tập thể mới hình thành khó có dư luận vì các thành viên cịn chưa hiểu biết
nhau khơng thể đi đến đánh giá và tỏ thái độ chung được. Khi tập thể thống nhất về mục
đích và đồng bộ động cơ trong hoạt động sẽ cho phép nhanh chóng đi đến các phán xét
đánh giá chung về sự kiện xảy ra. Tập thể phát triển có những thói quen tốt, truyền thống
tích cực, mối quan hệ lành mạnh sẽ tạo thuận lợi cho sự hình thành dư luận tập thể.

Vai trò của người lãnh đạo, các thủ lĩnh khơng chính thức cũng có ảnh hưởng rất lớn đến
sự hình thành dư luận tập thể. Trên thực tế người lãnh đạo, các thủ lĩnh, nịng cốt tích cực
là những người có trình độ chính trị và chun mơn cao, nhận thức rõ mục đích yêu cầu
của tập thể, họ cũng là đối tượng nắm được nhiều thông tin nhất. Do đó ý kiến của họ
thường được tập thể tiếp nhận, lấy làm ý kiến chung. Tuy nhiên điều đó phụ thuộc vào uy


tín của họ. Người lãnh đạo là chủ thể định hướng dư luận, nếu có uy tín sẽ tác động vào
diễn biến của dư luận làm cho dư luận xảy ra nhanh chóng, có tính tư tưởng và tập trung
cao.
I.2.2. Đặc trưng của dư luận tập thể cơ sở quân nhân
Tập thể cơ sở quân nhân (tập thể quân nhân) là tập thể cấp phân đội trong đó có sự tiếp
xúc, liên hệ, thường xuyên giữa các quân nhân trong học tập công tác và chiến đấu (51).
Tập thể quân nhân là nơi xã hội hoá sự phát triển nhân cách qn nhân đồng thời đóng vai
trị to lớn trong việc đảm bảo chất lượng hoạt động của tập thể. Các đơn vị của qn đội có
hồn thành được nhiệm vụ hay không đều phải dựa vào sự vững mạnh của tập thể cơ sở
quân nhân, các phân đội, nơi trực tiếp thực hiện mọi nhiệm vụ xây dựng và tác chiến của
quân đội, môi trường xã hội trực tiếp để rèn luyện phát triển nhân cách quân nhân.
Tập thể quân nhân (trong luận án dùng với tính cách là tập thể cơ sở quân nhân) có những
đặc điểm chung vốn có của các tập thể trong xã hội (như tập thể cơng nhân, tập thể sinh
viên): vai trị lãnh đạo của Đảng, sự thống nhất về tư tưởng trên cơ sở thế giới quan Mác
Lênin, sự nhất trí vè quyền lợi giai cấp chính trị, quyền bình đẳng của mọi thành viên trước
pháp luật… Bên cạnh đó tập thể qn nhân cịn có những đặc điểm riêng của tập thể hoạt
động trong lĩnh vực quân sự quy định, đó là:
- Mục đích hoạt động của tập thể quân nhân có ý nghĩa xã hội đặc biệt là sẵn sàng chiến
đấu và chiến đấu thắng lợi bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Dù là đơn vị học tập, huấn
luyện, cơng tác nhưng mục đích cuối cùng là chiến đấu thắng lợi khi tình huống chiến
tranh xảy ra. Cho nên động cơ hoạt động cũng có đặc trưng riêng, động cơ tinh thần tư
tưởng (lòng trung thành, tinh thần quyết chiến quyết thắng) là chủ đạo chứ không phải
động cơ lợi ích vật chất.

- Tập thể hồn thành các nhiệm vụ chiến đấu bằng sức mạnh của vũ khí, trang bị kỹ thuật
hiện đại. Đặc điểm này đòi hỏi mỗi qn nhân phải có kiến thức chun mơn nghiệp vụ
quân sự, các kỹ năng kỹ xảo sử dụng vũ khí trang bị mới có thể hồn thành nhiệm vụ được
giao.
- Hoạt động của quân nhân và tập thể quân nhân diễn ra trong điều kiện gian khổ, khó
khăn, căng thẳng về tâm lý và thể lực. Những đặc điểm riêng của tập thể quân nhân nêu
trên có ảnh hưởng to lớn đến sự hình thành và phát triển của các hiện tượng tâm lý xã hội


trong tập thể nói chung cũng như dư luận tập thể nói riêng. Nó chi phối vai trị, tính chất và
nội dung của dư luận tập thể, làm cho dư luận tập thể quân nhân có những đặc trưng khác
biệt so với dư luận tập thể nói chung. Kết quả điều tra cho thấy quân nhân đánh giá cao
những đặc điểm đặc trưng của dư luận tập thể quân nhân: 86,17% ý kiến cho rằng dư luận
có tính tư tưởng cao (thứ bậc 1); 83,82% cho rằng dư luận có tính tập trung thống nhất
tương đối với nhiệm vụ tập thể (thứ bậc 2) và 83,52% cho rằng dư luận có tính mạnh mẽ
trong biểu dương ca ngợi tích cực, phê phán tiêu cực (69).
Một là: Dư luận trong tập thể qn nhân có tính tư tưởng cao.
Tập thể qn nhân có chất liệu con người tốt, các thành viên được kế thừa những nét bản
chất, truyền thống tốt đẹp của "bộ đội cụ Hồ": trung thành, dũng cảm, quyết chiến quyết
thắng, đoàn kết, kỷ luật tự giác nghiêm minh (56). Tập thể quân nhân gồm những con
người cùng chung xu hướng lý tưởng chiến đấu, được giác ngộ về nghĩa vụ trách nhiệm
quân nhân đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân tạo những tiền đề làm cho dư luận tập thể
qn nhân có tính tư tưởng cao.
Những phán xét đánh giá tỏ thái độ với động cơ đúng đắn vì tập thể biểu thị rung động có
ý nghĩa xã hội như vị tha, chân thực trong ca ngợi biểu dương cái tốt, tích cực cũng như
phê phán tiêu cực lạc hậu.
Những phán xét đánh giá thể hiện thái độ tích cực đối với các mối quan hệ như lịng trung
thành, thiện chí, tình đồng đội đã làm nảy nở tinh thần tự trọng, tính cách kiên cường dũng
cảm, tinh thần trách nhiệm và ý thức vì tập thể.
Dư luận trong tập thể quân nhân bảo tồn và tích hợp trong nó thơng tin về mọi mặt của tập

thể. Mỗi một đơn vị đều gắn với một truyền thống anh hùng của các thế hệ cha anh, đều có
lịch sử về những người chỉ huy, lãnh đạo có uy tín lập được chiến cơng trong hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống mỹ (29). Thông qua trao đổi, kể chuyện mà lớp chiến sĩ
trẻ biết được lịch sử của đơn vị mình, những giai thoại tốt đẹp về người chỉ huy tiền bối.
Như vậy, bằng con đường dư luận tập thể mà những truyền thống tốt đẹp của quân đội ln
ln được tích cực hố, phát huy trong điều kiện hiện nay.
Hai là: Dư luận trong tập thể quân nhân có tính tập trung và thống nhất tương đối cao
đối với mục đích, nhiệm vụ của tập thể.


Nét độc đáo trong tập thể quân nhân là có sự nhất trí cao và thống nhất về chính trị và tư
tưởng của các thành viên trong thực hiện mục tiêu chiến đấu bảo vệ Tổ quốc; bảo vệ Đảng,
thành quả và lao động hồ bình của nhân dân lao động. Tính chất này quy định thái độ và
quan điểm của quân nhân trong đánh giá các sự kiện chính trị xã hội. Do đó mỗi thành viên
đều ứng xử dựa trên cơ sở yêu cầu chung, làm cho sự phán xét luôn bao hàm nét đạo đức
và nghề nghiệp quân sự chi phối, phản ánh sự thống nhất về chính trị tinh thần của quân
đội.
Kỷ luật và điều lệnh của quân đội là cơ sở pháp lý của những phán xét tập trung thống
nhất. Khác với tập thể bình thường (cơng nhân, trí thức) trong tập thể qn nhân kỷ luật
quân sự đặc biệt quan trọng do mục tiêu của hoạt động qn sự địi hỏi. Qn nhân phải
ln ý thức rằng kỷ luật tạo ra sức mạnh, là pháp luật đối với cá nhân đòi hỏi mọi người tự
giác chấp hành nghiêm túc trên cơ sở tin tưởng vào quy chế bắt buộc đó. Tính đặc trưng
của kỷ luật quân sự là cơ sở thống nhất trong nhận thức và hành vi của quân nhân, do đó
quy định tính tập trung thống nhất của dư luận xã hội. Mọi sự phán xét đánh giá đều dự
trên cơ sở pháp lý là điều lệnh và kỷ luật; những gì ngược lại với điều lệnh sẽ bị lên án,
những thói quen, hành vi đúng sẽ được ca ngợi biểu dương. Kỷ luật quân sự không làm
cho dư luận tập thể mất đi dân chủ mà đảm bảo cho các phán xét có chỗ dựa, được bảo vệ,
sự vững tin hồn tồn vào quyền phát ngơn của mỗi người.
Tính chất hoạt động cùng nhau, hiệp đồng trong hoạt động quân sự cũng là yếu tố qui định
tính tập trung thống nhất của dư luận tập thể quân nhân. Hoạt động quân sự có trình độ

hiệp đồng phối hợp cao giữa các cá nhân, nhóm cũng như giữa người và phương tiện kỹ
thuật trong một thời gian xác định để thực hiện mục đích quân sự. Chính trong sự phối
hợp, hoạt động cùng nhau này một mặt dựa trên cơ sở nguyên tắc, điều lệnh mặt khác phải
có sự thống nhất các điều kiện tâm lý bên trong là mục đích, động cơ, ý chí, phương thức
hành động của chủ thể. Quá trình hoạt động cùng nhau như vậy địi hỏi sự hợp tác chặt
chẽ, có biểu tượng và phán đốn đúng về những cái "cần phải làm", cái "đúng" và cái "sai"
theo chuẩn mực chung. Các biểu hiện tinh thần nói chung hay dư luận tập thể nói riêng đều
xoay quanh đặc điểm này làm cho những phản ứng, nhận xét đánh giá có sự tập trung
thống nhất cao.
Ba là: Tính mạnh mẽ của dư luận tập thể quân nhân.


Khơng ở đâu có sự đồng nhất tương đối về đối tượng như tập thể quần chúng, chủ yếu là
những thanh niên trai tráng (hơn 80% tuổi đời dưới 25), đảm bảo những tiêu chuẩn về
chính trị, văn hố và sức khoẻ theo yêu cầu của hoạt động quân sự. Đặc điểm này chi phối
rất lớn đến nội dung, tính chất của dư luận tập thể. Tuổi trẻ có ưu thế chưa bị những thói
quen, khn mẫu thành kiến tiêu cực trói buộc cho nên thường thể hiện sự nhạy bén, năng
động, biết thích nghi với hồn cảnh (66). Điều đó quy định thái độ ứng xử của họ trước các
vấn đề của cuộc sống mà đặc trưng của nó là sự mạnh mẽ, thẳng thắn, ngắn gọn và thực tế.
Nếu lớp cha anh có nhược điểm trong quan hệ và giao tiếp hay "vịng vo tam quốc", ít
thơng tin, khơng dám bộc lộ rõ ràng thái độ thì lớp trẻ có ưu tế coi trọng thơng tin ,đi thẳng
vào vấn đề, sẵn sàng phản ứng và bộc lộ chính kiến cá nhân. Họ ln thể hiện sự đồng tình
hay phản đối rõ ràng, ít có thái độ bàng quan, dửng dưng với những vấn đề có liên quan
đến lợi ích cá nhân hoặc tập thể. Trong tập thể quân nhân, dựa trên điều lệnh, có sự phân
định rõ ràng về nhiệm vụ, vai trò, chức năng, quyền hạn theo cấp bậc và chức vụ đến từng
người và từng nhóm là cơ sở thuận lợi cho tự khẳng định và đánh giá phê bình người khác,
làm cho sự phán xét đánh giá của tập thể trở nên nhanh chóng (về thời gian) và mạnh mẽ
(về cường độ). Do ln có sự đối chiếu so sánh theo quyền hạn, trách nhiệm và nghĩa vụ
theo điều lệnh cho nên sự phán xét vừa kích thích mạnh mẽ sự đánh giá của cá nhân vừa
gây khơng khí tâm lý tự tin hoặc khắc phục thái độ tự ti, mặc cảm của quân nhân trong bộc

lộ chính kiến của mình.
Tập thể qn nhân thực hiện dân chủ về chính trị, kinh tế và quân sự, do vậy đảm bảo cho
cơ chế phê bình và tự phê bình phát huy tác dụng mạnh mẽ. Coi trọng sự phê bình, khơng
tranh cơng đổ lỗi, dám nhận khuyết điểm đã trở thành những nét đẹp truyền thống cả bao
lớp cha anh trong quân đội. Tự phê bình là một hình thức quân nhân nhận thức, tự đánh giá
bản thân mình được dựa trên cơ sở của nhận thức về vai trò, trách nhiệmcủa bản thân cũng
như các yêu cầu quy định của tập thể. Khi quân nhân tự phê bình đúng là quá trình đánh
giá phù hợp trong đó tự đánh giá riêng của anh ta phù hợp với đánh giá khách quan của tập
thể, với yêu cầu chuẩn mực quân đội và xã hội cho phép. Phê bình là một hình thức ý kién
tập thể lên án, phê phán sai phạm của quân nhân trong quá trình thực hiện mục tiêu, nhiệm
vụ. Thực chất của phê bình là những phán xét, đánh giá của tập thể đối với cá nhân về thái
độ và hành vi của họ nhằm xác định và làm rõ mức độ phù hợp giữa cái địi hỏi và cái hiện
có, tìm ra sự sai lệch so với tiêu chuẩn yêu cầu của tập thể. Trong tập thể quân nhân, sự phê


bình là một "sức ép của dư luận tập thể" nhưng ln dựa trên tình đồng đội; tinh thần xây
dựng và thiện chí đấu tranh với tiêu cực nhằm "uốn nắn những quan điểm lệch lạc, những
nhận thức mơ hồ dao động về tư tưởng, đấu tranh chống biểu hiện cơ hội, hữu khuynh và
giáo điều bảo thủ" (55).
Bên cạnh những đặc trưng nổi bật thể hiện mặt tích cực, dương tính của dư luận tập thể
quân nhân cũng phải thấy mặt tiêu cực, âm tính của nó. Kết quả quan sát, điều tra cho
thấy dư luận tập thể quân nhân cịn nặng về máy móc, cứng nhắc một chiều mà nhẹ về tính
linh hoạt mềm dẻo; cịn thiên về sự nghèo nàn đơn điệu trong các ý kiến mà ít sự đa dạng,
sự độc đáo trong các phán xét, tranh luận (69). Sở dĩ có đặc điểm này là do qn nhân chủ
yếu tiếp thu nguồn thơng tin chính thức theo định hướng của Đảng và quân đội (qua báo,
đài, chỉ thị, mệnh lệnh) các kênh thông tin khác của xã hội đến với họ rất hạn chế. Hơn
nữa, do tính chất hoạt động qn sự ln có sự độc lập tương đối với các nhóm xã hội và
cộng đồng; tính nghiêm ngặt của kỷ luật quân sự chi phối; tập thể thiếu đồn kết; các nhóm
có xu hướng xấu hình thành tự phát trong tập thể là các nguyên nhân chủ yếu. Đây là vấn
đề mà cán bộ phải tính đến trong định hướng dư luận tập thể quân nhân.

I.2.3. Định hướng dư luận tập thể quân nhân
Trước hết cần phân biệt khái niệm "điều chỉnh", "điều khiển" và "định hướng". Điều chỉnh
là quá trình sửa đổi, sắp xếp lại cho hợp lý, cân đối và đúng đắn hơn.
Điều khiển là quá tình hoạt động diễn ra đúng quy luật, đúng quy tắc và tối ưu.
Định hướng là sự xác định phương hướng vận động phát triển của một q trình, một hoạt
động. Định hướng có thể xem là sự hướng dẫn quá trình phát triển theo mục tiêu xác định
(54).
Như vậy mặc dù có điểm chung là chủ thể của sự điều chỉnh, điều khiển định hướng là con
người song bản thân mỗi khái niệm có nội hàm khác nhau. Tất nhiên điều chỉnh, điều
khiển và định hướng có quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo tiền đề cho nhau. Trong quá trình
điều khiển diễn ra đúng quy luật, việc định hướng từ trước, xác định phương hướng vận
động và phát triển là cần thiết.
Từ đó đi đến khái niệm định hướng dư luận tập thể quân nhân là một quá trình tác động
hợp quy luật vào diễn biến của dư luận nhằm xác định phương hướng đúng của dư


luận tập thể đồng thời hướng dẫn, thúc đẩy sự hình thành dư luận tập thể tích cực: có
tính tư tưởng cao, khách quan chân thực, tập trung thống nhất và có tác dụng giáo dục.
Sự hình thành và diễn biến của dư luận rất phức tạp cả về nội dung và khuynh hướng tư
tưởng (đúng sai, tích cực hay tiêu cực), tính chất (mức độ tập trung hay phân tán). Dư luận
là một hiện tượng tâm lý xã hội rất khó kiểm sốt và điều khiển. Song cũng phải thừa nhận
sức mạnh của tập thể tựu trung rất lớn ở dư luận. Là một kết cấu đặc thù của ý thức tập thể
dư luận đồng thời phơi bày những giá trị, chuẩn mực đạo đức mà tập thể ấy đang dựa vào
để sống và hoạt động. Định hướng dư luận tập thể phải hướng vào phát huy vai trò nhân tố
chủ quan, tác động hợp quy luật vào diễn biến của dư luận nhằm thực hiện những mục
đích, theo những nội dung nhất định.
I.2.3.1. Mục đích của định hướng dư luận tập thể quân nhân
Dư luận tập thể thường diễn biến phức tạp, nó có thể tích cực hay tiêu cực, có tác dụng
giáo dục hay phản giáo dục là do khuynh hướng cả nó thế nào, có đúng đắn, tiến bộ khơng.
Do vậy, mục đích của định hướng dư luận tập thể trước hết nhằm xác định phương

hướng đúng cho dư luận tập thể quân nhân được xác định trên cơ sở hệ thống các chuẩn
mực xã hội chủ nghĩa, yêu cầu điều lệnh quân đội cũng như mục đích và nhiệm vụ của tập
thể đặt ra lúc đó cho các thành viên. Phải làm cho sự phán xét, đánh giá của tập thể đối với
sự kiện dựa trên cơ sở là:
- Các chuẩn mực xã hội chủ nghĩa, đường lối quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, các chuẩn mực đạo đức, những giá trị và truyền thống tốt đẹp của dân tộc và quân
đội.
- Yêu cầu của quân đội về thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới, các điều lệnh và kỷ luật quân đội.
- Mục đích và nhiệm vụ của tập thể đặt ra lúc đó. Mỗi quân nhân phải hiểu rõ mục đích và
nhiệm vụ của tập thể, có sự thống nhất mục đích và đồng bộ động cơ trong hoạt động.
Những ý kiến nhận xét đánh giá phải góp phần thực hiện mục đích và nhiệm vụ, khơng trái
với mục đích, nhiệm vụ mà tập thể đặt ra.
Định hướng dư luận cịn là q trình hướng dẫn thúc đẩy dư luận tập thể theo định hướng
đã xác định.


×