Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Tài liệu Những vấn đề chung về giao tiếp sư phạm pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.52 KB, 13 trang )

Phần I: Những vấn đề chung về giao tiếp sư phạm
CHƯƠNG I: KHÁI NIỆM CHUNG VỀ GIAO TIẾP
Cách đây không lâu, vào những năm 80 của thế kỷ XX, đài
truyền hình thành phố Hồ Chí Minh có truyền hình trực tiếp buổi giao
lưu giữa Việt kiều yêu nước về quê ăn tết với khán gỉa của đài truyền
hình. Có một chị Việt kiều ở Cộng hòa liên bang Đức (lúc đó còn hai
nước Đức) tâm sự rằng : “Chị có một người bạn Việt Nam lấy một
người chồng ở Cộng hòa liên bang Đức, chị ấy không biết tiếng Đức,
chồng lại chỉ biết bập bõm tiếng Việt, chồng là công nhân đi làm suốt
ngày. Cả ngày chị ở nhà không biết nói chuyện với ai, dịch vụ viễn
thông lúc đó lại khó khăn. Mặc dù cuộc sống về vật chất đầy đủ, nhưng
quá buồn nên chị sinh bệnh...rồi chết”. Giao tiếp không phải chỉ là hình
thức trò chuyện với nhau, nhưng giao tiếp bằng ngôn ngữ là một hình
thức giao tiếp quan trọng nhất. Qua ví dụ trên cho thấy giao tiếp có vai
trò rất quan trọng trong đời sống và hoạt động của con người.
• Ngay từ trong bụng mẹ đứa trẻ đã có sự giao tiếp. Cái bào thai
sống và hoạt động cùng với nhịp sống và hoạt động của người mẹ.
Quan hệ giữa người mẹ với thai nhi không chỉ đơn giản về mặt sinh
học. Không chỉ đơn thuần là người mẹ truyền dinh dưỡng cho đứa con
qua rau thai mà còn có những ảnh hưởng về mặt tâm lý của trẻ sau này
do những biến động tâm lý của người mẹ khi mang thai. Cho nên khi
mang thai, người mẹ phải kiêng nói và làm những việc không tốt,
không được xúc động mạnh. Chẳng hạn, phong tục lúc người vợ có
mang, người chồng phải kiêng sát sinh “ Không được cắt cổ gà, thiến
cổ chó”. Thậm chí lúc có thai, người mẹ còn phải đi đứng nói năng nhẹ
nhàng. Có như vậy sau này đứa trẻ ra đời và lớn lên mới phát triển bình
thường về thể chất và tinh thần.
• Khi đứa trẻ ra đời, giao tiếp của nó được đặc biệt quan tâm. Có
nhiều tập quán truyền thống ảnh hưởng đến việc tiếp xúc của người mẹ
với đứa trẻ. Có địa phương và gia đình rất cẩn thận như : Không nói
lớn, không để người lạ vào phòng trẻ sơ sinh nhất là đứa trẻ dưới một


tháng tuổi, sợ trẻ bị vía, bị đẹn. Thậm chí khi cần phải bế bé đi xa, các
bà già còn cẩn thận bôi nhọ vào mặt trẻ, cầm dao, cầm kéo... đi theo để
tránh hơi độc, vía lạ. Như vậy, từ xa xưa, trong vốn kinh nghiệm của
các dân tộc, việc giao tiếp với đứa trẻ được coi trọng để cơ thể và đời
sống tinh thần của đứa trẻ được phát triển bình thường.
1
• Suốt quãng đời thơ ấu, đứa trẻ không chỉ có nhu cầu ăn, nhu
cầu dinh dưỡng mà còn có những nhu cầu khác như : nhu cầu được
cưng chiều, nâng niu, bế ẳm, vỗ về... Mới sinh ra đứa trẻ đã biết nhiều
lắm, đòi hỏi nhiều thứ, trước hết là đòi hỏi trao đổi, giao tiếp. Chúng
gọi ra, phát ra có kẻ khác đáp lại. Người mẹ không chỉ là bao che, làm
cái lá chắn, ngăn chặn , không để quá nhiều kích thích từ bên ngoài tấn
công vào các giác quan, vào cơ thể non nớt của con. Mẹ còn đáp ứng
lại những tín hiệu của con phát ra. Con đưa mắt mẹ cũng nhìn lại, con
líu lo mẹ cũng bi bô nói lại, con vặn mình mẹ cũng đổi tư thế ngồi nằm
cho hai cơ thể thoải mái, ôm ấp lấy nhau. Con nắm đồ vật gì ném ra,
mẹ lượm trả lại..Rồi con chập chững biết đi, mẹ dang hai tay ra đón, bé
cố đứng dậy bước năm, bảy bước rỗi ngã vào lòng mẹ...
Có thể nói rằng : “ Được áp vào lòng mẹ để bú, được mẹ bế
bồng, địu lên lưng là có dịp trao đổi, giao tiếp với mẹ. Mẹ hiểu con, con
hiểu mẹ, không phải thông qua lời nói, chữ viết như thường lệ mà qua
những mối quan hệ phi ngôn ngữ, đúng hơn là tiền ngôn ngữ qua “xác
thịt”. Đó là quan hệ “ruột thịt” nền tảng đầu tiên của mối quan hệ giữa
người và người. Mối quan hệ thân thiết nhất, cơ bản nhất. Không được
bú mớm, bế bồng, ôm ấp, hú hí, chơi đùa với mẹ, đứa trẻ không thể
thành người.
Vì vậy, toàn bộ nội dung tiếp xúc với đứa trẻ của người mẹ,
người thân trong gia đình từ khi lọt lòng đến toàn bộ thời thơ ấu và sau
này trẻ đến trường học là tiến trình xã hội hóa của một cá nhân thành
nhân cách. Trong quá trình xã hội hóa của một cá nhân, giao tiếp là hạt

nhân, là điều kiện cần thiết để phát triển tâm lý, nhân cách của mỗi
người.
• Đời sống tâm lý của mỗi người, của mỗi nhóm xã hội phải lấy
giao tiếp làm cơ sở. Không có giao tiếp đứa trẻ sẽ không thành người,
không có giao tiếp nhiều chức năng tâm lý người, nhiều phẩm chất tâm
lý cá nhân không được hình thành và phát triển. Trong quá trình lao
động, cải tạo tự nhiên, xã hội bản thân con người luôn luôn lấy sự tiếp
xúc tâm lý giữa con người và con người, con người với quan hệ xã hội
làm trung tâm. Cho đến nay, trong phong tục của một số ít bộ lạc Châu
Phi vẫn còn tồn tại một hình phạt cao nhất cho những ai vi phạm “ Luật
lệ của bộ lạc là đuổi ra khỏi cộng đồng không cho tiếp xúc với con
người, phạm nhân phải sống trong rừng với thiên nhiên và hoang thú.
2
• Sự giao tiếp giữa con người được phát triển cùng với sự phát
triển nền kinh tế xã hội. Ngày nay do sự phát triển của khoa học, kỹ
thuật. Dịch vụ viễn thông, mạng Internet phát triển làm cho chúng ta có
thể giao tiếp được với nhau một cách dễ dàng. Tuy nhiên, trong khi
nghiên cứu, các nhà khoa học xã hội cũng đã khái quát các sự kiện giao
tiếp của con người qua hai xu thế chung nhất :
• Nhìn chung, các loại hình giao tiếp của con người tăng lên, đặc
biệt là giao tiếp không chính thức, đó là những kiểu giao tiếp diễn ra
trong những hoàn cảnh cụ thể như : đi tàu xe, cùng nhau xem phim,
xem biểu diễn văn nghệ, thực hiện một nhiệm vụ cùng nhau, một công
việc cùng nhau trong một thời gian nhất định... mà các đối tượng giao
tiếp không nhất thiết phải cùng một cơ quan hoặc hiểu biết nhau, thậm
chí cũng không cần nhớ tên, tuổi, địa chỉ của nhau. Loại giao tiếp này
có đặc điểm :
• Giao tiếp theo vụ việc.
• Nhất thời, không liên tục.
• Giao tiếp cá nhân mỗi người có chiều hướng co hẹp lại về

phạm vi và mức độ, con người ít cởi mở với nhau, người ta giải thích
rằng những hoạt động “cộng đồng”, “tập thể”, dường như giảm đi, cuộc
sống thu vào các căn hộ gia đình. Gia đình cũng có xu hướng thu nhỏ
lại (hai thế hệ thay vì ba, bốn thế hệ như gia đình trước đây.
Giao tiếp là gì?
Hiện nay tồn tại nhiều khái niệm giao tiếp khác nhau, đứng trên
các quan điểm khoa học xã hội, kinh tế , tâm lý học...thậm chí ngay
trong khoa học tâm lý cũng tồn tại nhiều khái niệm giao tiếp. Để hiểu
giao tiếp là gì, chúng ta có thể xem xét giao tiếp qua các đặc trưng như
sau :
1. Giao tiếp là một quá trình con người ý thức được mục đích, nội
dung và những phương tiện cần đạt được khi tiếp xúc với người khác.
Trong quá trình giao tiếp thì cả đối tượng và chủ thể giao tiếp đều ý
thức được những nội dung và diễn biến tâm lý của mình trong giao tiếp.
Nhờ đặc trưng này, chúng ta dễ dàng nhận ra được mục đích của quá
trình giao tiếp, giao tiếp để làm gì ? nhằm mục đích gì ?
2. Giao tiếp diễn ra nhằm trao đổi thông tin, tư tưởng, tình cảm,
thế giới quan, nhân sinh quan, nhu cầu ... của những người tham gia
3
vào quá trình giao tiếp. Đặc trưng này có vai trò rất lớn trong sự hình
thành và phát triển nhân cách con người.
• Giúp cho mỗi người tự hoàn thiện mình theo yêu cầu đòi hỏi
của nghề nghiệp, của các quan hệ xã hội mà họ là thành viên.
• Nếu giáo viên không tự học, tự bồi dưỡng mà chỉ bằng lòng với
kiến thức học 4 năm ở trường Đại học thì sẽ không đáp ứng được yêu
cầu đòi hỏi của nghề nghiệp.
• Qua giao tiếp mà những phẩm chất tâm lý của con người,
những hành vi ứng xử của con người được nảy sinh và phát triển.
• Nhờ giao tiếp mà quá trình xã hội hóa mới thực chất hòa nhập
mỗi cá nhân vào các hoạt động của nhóm, cộng đồng, dân tộc, địa

phương.
3. Qua giao tiếp giúp con người nhận thức, hiểu biết lẫn nhau. Sự
nhận thức, hiểu biết lẫn nhau vừa là nguyên nhân, vừa là kết quả, phải
nhận thức dù là ít ỏi về đối tượng giao tiếp của mình. Có như vậy kết
quả giao tiếp mới thành công. Có nhận thức được nhau mới hiểu biết
lẫn nhau. Nếu thầy giáo không hiểu học sinh thì việc xử lý học sinh sẽ
gặp nhiều khó khăn. Thầy giáo không hiểu học sinh thì việc xử lý học
sinh sẽ gặp nhiều khó khăn. Quan hệ xã hội chỉ được thực hiện trong
giao tiếp giữa con người với con người. Con người vừa là một thành
viên tích cực của các quan hệ xã hội với tư cách tạo lập nên các quan
hệ xã hội như pháp quyền, kinh tế, văn hóa... với tư cách vừa là hoạt
động tích cực cho nên tồn tại và phát triển của chính các quan hệ xã hội
đó.
Chẳng hạn, trong dạy học và giáo dục quan hệ giữa thầy giáo và
học sinh là một quan hệ xã hội đích thực, một tồn tại xã hội khách quan
do cả hai phía thầy và trò tạo dựng. Thiếu vắng thầy, học trò sẽ không
có quá trình dạy học và giáo dục. Quá trình này được tiến hành trong
hoạt động giao tiếp giữa thầy giáo và học sinh được quy định rõ ràng
qua nội quy học sinh, qua những quy định, quyền hạn và trách nhiệm
của thầy giáo.
5. Giao tiếp được tiến hành trong một thời gian, không gian và
các điều kiện cụ thể. Nói cách khác, giao tiếp cá nhân mang tính chất
lịch sử phát triển lịch sử xã hội loài người.
6. Cá nhân trong giao tiếp vừa là chủ thể vừa là khách thể của
giao tiếp. Trong quá trình dạy học, học sinh vừa là khách thể, vừa là
chủ thể. Qua phân tích trên, ta có thể hiểu : Giao tiếp là một quá trình
4
tiếp xúc giữa con người với con người nhằm mục đích trao đổi tư
tưởng, tình cảm, vốn kinh nghiệm sống, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp.
Giao tiếp là một phương thức tồn tại của con người

Khi nghiên cứu học phần tâm lý học đại cương, chúng ta đã gặp
khái niệm cá nhân. Cá nhân là một con người cụ thể với tư cách là một
thành viên của một xã hội nhất định, sống và hoạt động trong những
điều kiện xã hội và lịch sử nhất định, có nghĩa vụ và quyền lợi nhất
định. Rõ ràng, khi nói đến con người cụ thể, họ phải có tên gọi, nghề
nghiệp, giới tính, gia đình. Sống và hoạt động ở trong một nhóm xã hội
nhất định có quyền lợi và nghĩa vụ nhất định. Họ có những giá trị vật
chất (nhà cửa, ruộng vườn, xí nghiệp...) và giá trị tinh thần (dòng họ, vị
trí xã hội, trình độ văn hóa, chuyên môn...)
Về đời sống tâm lý, họ có ý thức, ngôn ngữ, tư duy trừu tượng,
niềm tin cá nhân. Cũng ở phần tâm lý học đại cương đã khẳng định con
người không thể tồn tại và phát triển được nếu con người bị tách khỏi
xã hội loài người. Điều này đã được xã hội loài người thử nghiệm với
mục đích khác nhau :
Ví dụ : Từ thế kỷ XII một quốc vương gần chân núi Hymalaya
(vùng Aán Độ) nhà vua cho rằng tín ngưỡng là bẩm sinh đối với con
người. Quần thần không tin vào lời phán truyền của vua, để chứng
minh niềm tin của mình, nhà vua đã bắt 4 đứa trẻ sơ sinh cho vào một
tu viện nuôi, cắt đứt mọi quan hệ xã hội. Mười hai mùa xuân trôi qua, 4
đứa trẻ được nuôi sống không được tiếp xúc với mọi người. Kết quả
chúng đi bằng 4 chân, hú, gào, nhìn thấy nhà sư những đứa trẻ này
cũng phản ứng như đối với với mọi người – mắt nhìn sợ hãi, cùng với
tiếng hú dài... Thế là niềm tin vào tôn gíao ( đạo Phật ) không bẩm sinh
mà ra rồi trường hợp bé nia và Kamala ở Ấn Độ không may vừa sinh ra
bị rơi ngay vào bầy chó sói. Những đứa trẻ này không biết nói, đi bằng
4 chân, ăn, ngũ như sói con vậy.
Hàng chục thử nghiệm đã chứng minh nếu không giao tiếp với
con người, với các quan hệ xã hội, đứa trẻ sẽ không trở thành người.
Dù muốn hay không muốn, mỗi cá nhân đều phải sống trong một
hoàn cảnh thiên nhiên, ở một địa phương nhất định, một xã hội nhất

định, một giai cấp, một tầng lớp, một gia đình nhất định. Cá nhân
5

×