Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự trên địa bàn huyện konplong thực trạng và kiến nghị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (631.63 KB, 27 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
PHÂN HIỆU TẠI KON TUM

QUÁCH THỊ THÚY TOÀN

BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP

ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN
KON PLÔNG – THỰC TRẠNG VÀ
KIẾN NGHỊ

Kon Tum, tháng 12 năm 2016


ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
PHÂN HIỆU TẠI KON TUM

BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP

ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN
KON PLÔNG – THỰC TRẠNG VÀ
KIẾN NGHỊ

GIẢNG VIÊN HƢỚNG DẪN : THS. TÔ QUANG ĐƠ
SINH VIÊN THỰC HIỆN

: QCH THỊ THÚY TỒN

MSSV



: 122501058

LỚP

: K612LHV

Kon Tum, tháng 12 năm 2016


MỤC LỤC
MỤC LỤC............................................................................................................................i
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................................ 1
2. Mục tiêu nghiên cứu ......................................................................................................1
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................1
4. Phƣơng pháp nghiên cứu .............................................................................................. 2
5. Bố cục đề tài .................................................................................................................... 2
CHƢƠNG 1. GIỚI THIỆU VỀ CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
HUYỆN KON PLÔNG ......................................................................................................3
1.1. TỔNG QUAN VỀ CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ HUYỆN KON PLƠNG 3
1.1.1. Vị trí địa lý .............................................................................................................3
1.1.2. Cơ cấu tổ chức .......................................................................................................3
1.2. CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ HUYỆN
KON PLÔNG ..................................................................................................................... 3
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ..................................................................................................4
CHƢƠNG 2. ÁP DỤNG BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI
CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ HUYỆN KON PLÔNG – THỰC TRẠNG VÀ
KIẾN NGHỊ ........................................................................................................................ 5
2.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THI HÀNH ÁN DÂN SỰ .......5

2.1.1. Khái niệm biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự .................................................5
2.1.2. Các bên đương sự trong thi hành án dân sự .......................................................... 7
2.1.3. Chủ thể có thẩm quyền áp dụng hoặc theo yêu cầu áp dụng biện pháp bảo đảm
thi hành án dân sự ................................................................................................................9
2.1.4. Các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự ........................................................... 9
2.2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BIỆN PHÁP PHONG TỎA TÀI KHOẢN VÀ MỘT
SỐ KIẾN NGHỊ ...............................................................................................................12
2.2.1. Thực trạng............................................................................................................12
2.2.2. Một số kiến nghị nhằm đảm bảo thực hiện biện pháp phong tỏa tài khoản tại Chi
cục Thi hành án dân sự huyện Kon Plông .........................................................................17
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ................................................................................................ 18
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƢỚNG DẪN
NHẬN XÉT CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP

i


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án dân sự là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp. Là
khâu cuối cùng để các quyết định dân sự trong bản án hình sự, dân sự; quyết định hành
chính; quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh...được thực hiện, bảo đảm hiệu lực của bản án,
quyết định. Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan. Hiến pháp năm 2013 khẳng định “Bản án, quyết định của Tồ án nhân dân
có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức,
cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”.
Trong những năm qua, công tác thi hành án dân sự tại tỉnh Kon Tum đã đạt được
thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh đó, cơng tác thi hành án dân sự vẫn đang đứng

trước những khó khăn, thách thức lớn với nhiều vấn đề tồn tại, bất cập dẫn đến hiệu quả
chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu và sự mong mỏi của nhân dân, hoạt động thi hành
án dân sự chưa thực sự đảm bảo được tính cơng bằng và nghiêm minh của pháp luật.
Thực trạng này là do một số văn bản còn quy định chồng chéo, chung chung, chưa
có sự thống nhất, chặt chẽ giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật cũng như các cơ quan hữu
quan trong quá trình tổ chức thi hành án, chưa có chế tài nghiêm khắc trong việc không
tuân thủ pháp luật. Một bộ phận không nhỏ cán bộ công chức thực hiện công việc không
hết trách nhiệm, cịn thụ động, cả nể, trong khi đó ý thức tuân thủ pháp luật của một số
người dân còn chây ỳ, khơng hợp tác, có những hành vi như tẩu tán, hủy hoại tài sản
nhằm trốn tránh việc thi hành án.
Để hạn chế tình trạng trên, bên cạnh việc địi hỏi phải có sự phấn đấu nỗ lực của cơ
quan thi hành án dân sự và sự phối hợp của các cấp chính quyền địa phương, các ban,
ngành hữu quan thì cần thiết phải tăng cường các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự
trong việc thực thi pháp luật.
Vì vậy, tơi đã mạnh dạn chọn đề tài “Áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án
dân sự trên địa bàn huyện Kon Plông – Thực trạng và kiến nghị” để làm báo cáo thực
tập tốt nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về phần lý luận và thực tiễn thực hiện các biện pháp bảo
đảm thi hành án dân sự. Trên cơ sở đó, đưa ra một số kiến nghị nhằm thực hiện có hiệu
quả các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự trong thời gian tới.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài này chỉ đi sâu vào nghiên cứu các biện pháp bảo đảm
thi hành án dân sự.
Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi về nội dung: Luận văn chỉ nghiên cứu về các biện pháp bảo đảm thi hành
án dân sự.
Phạm vi thời gian nghiên cứu các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự quy định
chủ yếu trong Luật Thi hành án dân sự hiện hành.
1



Phạm vi không gian nghiên cứu thực tiễn áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành
án dân sự tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Bài báo cáo được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lê
nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về chiến lược cải cách tư pháp trong thời gian tới.
Đồng thời, bài báo cáo kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu trong lĩnh vực
luật học cụ thể như:
Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp để nhận thức một cách khái quát và chi
tiết, cụ thể về các vấn đề được nghiên cứu tại mục 2.1 chương 2 của bài báo cáo.
Phương pháp thống kê, tổng kết kinh nghiệm được sử dụng để làm rõ thực tiễn thực
hiện các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kon
Plông thể hiện tại mục 2.2.1 chương 2 của bài báo cáo.
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, bài báo cáo gồm hai
chương:
Chương 1: Giới thiệu về Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kon Plông.
Chương 2: Áp dụng các biện pháp bảo đảm Thi hành án dân sự tại Chi cục Thi hành
án dân sự huyện Kon Plông – Thực trạng và kiến nghị.

2


CHƢƠNG 1
GIỚI THIỆU VỀ CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
HUYỆN KON PLÔNG
1.1. TỔNG QUAN VỀ CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ HUYỆN KON PLƠNG
1.1.1. Vị trí địa lý

Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kon plông được thành lập năm 2002 theo quyết
định số: 139/QĐ-BTP, ngày 08/4/2002 của Bộ Trưởng Bộ Tư Pháp, lúc đó có tên gọi là
Đội thi hành án huyện Kon Plông, với tổng số 5 biên chế hoạt động dưới sự chỉ đạo của
Thi hành án tỉnh Kon Tum. Đứng đầu cơ quan là đội trưởng và các bộ giúp việc, qua một
thời gian dài hoạt động đổi tên thành Thi hành án dân sự huyện Kon Plông, đứng đầu đơn
vị là Trưởng thi hành án. Đến năm 2008 Pháp lệnh thi hành án năm 2004 được thay thế
bởi Luật thi hành án dân sự, Cơ quan thi hành án Kon Plông đã được đổi tên thành Chi
cục thi hành án dân sự huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum là đơn vị trực thuộc Cục thi hành
án dân sự tỉnh Kon Tum. Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kon Plông được tổ chức và
hoạt động theo Luật thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) và các văn
bản hướng dẫn thi hành. Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kon Plơng, có trụ sở tại trung
tâm huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum.
Kon Plông là một huyện thuộc khu du lịch đang trên đà phát triển, huyện Kon Plông
thu hút nhiều nhà đầu tư, thu hút nhiều khách du lịch. Điều này dẫn đến nhiều tranh chấp
xảy ra, tình trạng tội phạm cũng gia tăng. Khơng những tăng về số lượng án mà tính chất
phức tạp của các vụ án cũng ngày càng rõ nét. Có nhiều trường hợp khơng thể giải quyết
được vì người phải thi hành khơng có đủ điều kiện để thi hành án.
1.1.2. Cơ cấu tổ chức
Cơ cấu tổ chức bộ máy thuộc thẩm quyền quản lý của Chi cục gồm: Chi cục trưởng,
và các bộ giúp việc chuyên môn như Chấp hành viên,Thẩm tra viên, Thư ký, Kế toán,
Thủ kho, Văn thư, Bảo vệ,... mỗi đồng chí được giao và đảm nhiệm một công việc cụ thể
dưới sự chỉ đạo và quản lý chung của Chi cục trưởng.
Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kon Plông là cơ quan cấp dưới hoạt động chịu sự
chỉ đạo trực tiếp Cục thi hành án dân sự tỉnh Kon Tum. Biên chế của Chi cục hiện nay là
06 biên chế, 03 cán bộ hợp đồng và được cơ cấu tổ chức theo quy định, đứng đầu là Chi
cục trưởng.
1.2. CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ HUYỆN
KON PLÔNG
Chức năng, nhiệm vụ của cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện được quy định tại
Điều 16 Luật Thi hành án dân sự (được sửa đổi, bổ sung năm 2014). Cụ thể như sau:

“1. Trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định theo quy định tại Điều 35 của
Luật này.
2. Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự thuộc thẩm quyền theo quy
định của Luật này.

3


3. Thực hiện quản lý công chức, cơ sở vật chất, kinh phí và phương tiện hoạt động
được giao theo hướng dẫn, chỉ đạo của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh.
4. Thực hiện chế độ thống kê, báo cáo công tác tổ chức, hoạt động thi hành án theo
quy định của pháp luật và hướng dẫn của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh.
5. Lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án dân sự.
6. Giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại
khoản 1 và khoản 2 Điều 174 của Luật này.
7. Báo cáo công tác Thi hành án dân sự trước Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân
dân theo quy định của pháp luật; báo cáo Tòa án về kết quả thi hành bản án, quyết định
khi có yêu cầu”.

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Kon Plông là một huyện mới thành lập, điều kiện kinh tế, xã hội cịn nhiều khó
khăn, các xã cách xa trung tâm huyện, địa bàn sinh sống của các dân tộc ít người tập
trung chủ yếu ở các vùng có điều kiện kinh tế, giao thơng đi lại khó khăn, do đó trình độ
học vấn và năng lực hiểu biết pháp luật trong các cộng đồng dân tộc là khơng giống nhau
điều này gây khó khăn khơng nhỏ cho cơng tác tun truyền phổ biến pháp luật nói
chung và cơng tác thi hành án dân sự nói riêng.
Đội ngũ cán bộ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kon Plông trẻ, năng động,
nhiệt huyết trong công tác, ln đảm bảo hồn thành tốt nhiệm vụ chun mơn cũng như
nhiệm vụ chính trị của địa phương.


4


CHƢƠNG 2
ÁP DỤNG BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI CHI CỤC
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ HUYỆN KON PLÔNG –
THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ
2.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
2.1.1. Khái niệm biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự
Thi hành án dân sự là hoạt động do Cơ quan thi hành án dân sự tiến hành theo
những thủ tục, trình tự nhất định, nhằm đưa các bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực
thi hành của Tòa án ra để thi hành.
Thi hành án dân sự là quá trình đưa bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp
luật của Tịa án thành giá trị hiện thực. Hay nói cách khác là q trình mà bản án, quyết
định dân sự của Tòa án đi vào đời sống.
Các bản án, quyết định dân sự của Tịa án khơng phải chỉ bao gồm các bản án,
quyết định do Tòa án dân sự tuyên về những vấn đề hồn tồn dân sự như trả nợ, địi nhà
cho th, ... mà cịn về ly hơn, cấp dưỡng ni con (án hơn nhân và gia đình), trả tiền lao
động... (án lao động), phạt tiền do vi phạm hợp đồng... (án kinh tế), thanh tốn cho các
chủ nợ có đảm bảo... (án phá sản), bồi thường thiệt hại và các nghĩa vụ khác (phần dân sự
trong các bản án, quyết định hình sự, hành chính). Các bản án, quyết định dân sự không
chỉ bao gồm các bản án, quyết định của Tòa án, Trọng tài Việt Nam mà cả các bản án,
quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi, quyết định của Trọng tài nước ngồi được
cơng nhận và cho thi hành tại Việt Nam.
Tại Điều 2, Luật thi hành án dân sự năm 2008 quy định các bản án, quyết định được
thi hành như sau:
“Bản án, quyết định quy định tại Điều 1 của Luật này đã có hiệu lực pháp luật:
a) Bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm không
bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm;
b) Bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm;

c) Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Toà án;
d) Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước
ngoài đã được Tồ án Việt Nam cơng nhận và cho thi hành tại Việt Nam;
đ) Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh mà
sau 30 ngày, kể từ ngày có hiệu lực pháp luật đương sự không tự nguyện thi hành, không
khởi kiện tại Toà án;
e) Phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại.
g) Quyết định của Tòa án giải quyết phá sản.
2. Những bản án, quyết định sau đây của Toà án cấp sơ thẩm được thi hành ngay,
mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị:
a) Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc,
trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng,
sức khoẻ, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc;
5


b) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.”
Như vậy, thi hành án dân sự là một hoạt động có phạm vi rất rộng, bên cạnh hoạt
động thi hành án hình sự là hoạt động gắn liền với việc thi hành các phán quyết của Tịa
án hình sự.
Biện pháp bảo đảm là cách thức, phương thức tác động vào một sự vật, sự việc,
hiện tượng xã hội nhằm đảm bảo cho sự vật, sự việc và hiện tượng đó phát triển theo
đúng quy luật tự nhiên và quy luật xã hội.
Trong bất kỳ một quan hệ nghĩa vụ nào cũng thường được xác lập bởi hai bên chủ
thể, đó là bên có quyền và bên có nghĩa vụ. Khi tham gia vào các quan hệ nghĩa vụ,
quyền và nghĩa vụ của các bên luôn tương ứng với nhau. Tuy nhiên, có những quan hệ
nghĩa vụ mà trong đó, một bên chỉ có quyền u cầu nhưng khơng phải gánh vác nghĩa
vụ nào, cịn một bên có nghĩa vụ thực hiện cho bên kia một công việc nhất định mà
khơng có quyền u cầu.
Trong thực tế, các biện pháp bảo đảm có vai trị rất quan trọng. Bởi vì, chỉ khi nào

bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ như khơng thực hiện nghĩa vụ, có thực hiện nhưng
khơng thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, lợi ích của bên có quyền bị vi phạm thì bên có quyền
mới u cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết và khi đó biện pháp cưỡng chế có thể
được áp dụng. Tuy nhiên, việc u cầu đó địi hỏi một khoảng thời gian dài, trải qua
nhiều giai đoạn và có thể trong thời gian đó nảy sinh nhiều vấn đề ảnh hưởng trực tiếp
đến quyền lợi của bên có quyền như người vi phạm khơng cịn tài sản để thực hiện nghĩa
vụ hoặc cố tình bán, tẩu tán hết tài sản vào thời điểm áp dụng biện pháp cưỡng chế, khi
đó quyền lợi của bên có quyền khơng được bảo đảm. Vì vậy, việc áp dụng các biện pháp
bảo đảm là rất cần thiết, khi có sự vi phạm nghĩa vụ, người có quyền sẽ bảo vệ được lợi
ích của mình bằng cách tác động trực tiếp lên tài sản bảo đảm nếu bên có nghĩa vụ bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ của mình bằng một tài sản nào đó.
Theo nghĩa khách quan, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là tổng hợp các quy
định pháp luật do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện trong đó quy định điều kiện,
trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ.
Còn theo nghĩa chủ quan, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là sự thoả thuận giữa
các bên, theo đó bên có nghĩa vụ sẽ dùng tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của mình hoặc
của người khác nếu người đó đồng ý, để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trước bên có quyền.
Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự có thể do pháp luật quy định hoặc do các
bên thoả thuận áp dụng trong phạm vi pháp luật cho phép.
Về mặt bản chất, biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là biện pháp mang
tính chất dự phịng để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ. Ngoài ra, các biện pháp bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự do pháp luật quy định hay do các bên thoả thuận cịn có
tính chất bắt buộc đối với các bên trong giao dịch.
Trong hoạt động thi hành án cũng vậy, khi một bản án, quyết định của Tịa án được
ban hành và có hiệu lực pháp lý đồng thời cũng xác định các nghĩa vụ dân sự của hai bên
6


trong vụ án đó. Tức là khi bản án, quyết định cuả Tịa án đã có hiệu lực pháp luật cũng là

lúc mà hai bên đương sự của vụ án đó phải thực hiện những nghĩa vụ dân sự với nhau
theo quyết định của bản án, quyết định đã tuyên. Tuy nhiên, quá trình hai bên thực hiện
các nghĩa vụ đó hay nói cách khác q trình thi hành án gặp khơng ít khó khăn. Vì vậy,
việc áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án là điều cần thiết.
Như vậy, biện pháp bảo đảm thi hành án ở đây chính là việc cơ quan nhà nước có
thẩm quyền áp dụng một số biện pháp nhằm ngăn chặn những hành vi làm cho q trình
thi hành án gặp khó khăn, phức tạp như: hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hay những hành
vi khác nhằm trốn tránh việc thi hành án của người phải thi hành án.
Điều 66 Luật thi hành án dân sự 2008 quy định về biện pháp bảo đảm thi hành án
dân sự như sau:
“1. Chấp hành viên có quyền tự mình hoặc theo u cầu bằng văn bản của đương
sự áp dụng ngay biện pháp bảo đảm thi hành án nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, huỷ hoại
tài sản, trốn tránh việc thi hành án. Khi áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, Chấp
hành viên không phải thông báo trước cho đương sự.
2. Người yêu cầu Chấp hành viên áp dụng biện pháp bảo đảm phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật về yêu cầu của mình. Trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp bảo
đảm không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp bảo đảm hoặc cho
người thứ ba thì phải bồi thường.
3. Các biện pháp bảo đảm thi hành án bao gồm:
a) Phong toả tài khoản;
b) Tạm giữ tài sản, giấy tờ;
c) Tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản.”
Tóm lại, biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự là các biện pháp do Chấp hành viên
chủ động hoặc theo yêu cầu của đương sự áp dụng nhằm ngăn chặn người phải thi hành
án có những hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án .
2.1.2. Các bên đƣơng sự trong thi hành án dân sự
Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự thì Đương sự là người có quyền lợi, nghĩa
vụ trong việc dân sự, án dân sự, tham gia tố tụng với mục đích bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình hoặc trong một số trường hợp họ tham gia tố tụng chỉ để bảo vệ lợi
ích cơng cộng, lợi ích của Nhà nước, lợi ích của người khác. Họ có thể là cá nhân, cơ

quan, tổ chức (có tư cách pháp nhân hoặc khơng có tư cách pháp nhân). Hoạt động tố
tụng của họ có thể dẫn đến việc làm phát sinh, thay đổi hoặc đình chỉ tố tụng, họ là một
thành phần không thể thiếu của vụ việc dân sự, nếu khơng có đương sự thì sẽ khơng có
vụ việc dân sự tại Tịa án. Khi tham gia vào quá trình tố tụng dân sự, đương sự có quyền
tự định đoạt quyền lợi của mình.
Trong q trình thi hành án có nhiều người tham gia với nhiều tư cách khác nhau.
Tuy nhiên, có hai chủ thể quan trọng, đó là: Một bên là Chấp hành viên, là cơ quan thi
hành án đại diện cho Nhà Nước, thay mặt Nhà nước áp dụng biện pháp mang tính cưỡng
chế để thi hành các bản án, quyết định của Tòa án; Một bên là Người được thi hành án,
7


Người phải thi hành án, Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, kể cả các cơ quan tổ
chức cá nhân khác có liên quan đến việc thi hành án. Trong nhiều trường hợp, nghĩa vụ
của người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền và lợi ích liên quan
đến việc thi hành án tương đối giống nhau.
Do đó, để có thể ngắn gọn trong một số trường hợp cần thiết, pháp luật thi hành án
dân sự gọi chung Người phải thi hành án, Người được thi hành án và Người có quyền và
nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án là đương sự.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 17, Luật thi hành án dân sự năm 2008 quy định
“Chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định
theo quy định tại Điều 2 của Luật này. Chấp hành viên có ba ngạch là Chấp hành viên sơ
cấp, Chấp hành viên trung cấp và Chấp hành viên cao cấp”
Chấp hành viên là chủ thể được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết
định đã có hiệu lực (theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự năm 2008). Với
tư cách là chủ thể được Nhà nước giao nhiệm vụ và chịu trách nhiệm thi hành các bản án,
quyết định của Tịa án, Chấp hành viên có thẩm quyền áp dụng các biện pháp bảo đảm thi
hành án dân sự nhằm giúp cho quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình được thuận lợi.
Tại Khoản 2 Điều 3 Luật thi hành án dân sự năm 2008 quy định về Người được thi
hành án như sau:

“Người được thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng quyền, lợi ích
trong bản án, quyết định được thi hành”.
Như vậy, nói Người được thi hành án khơng chỉ là người với tư cách cá nhân mà cơ
quan tổ chức cũng là người được thi hành án. Trong nhiều trường hợp người được gọi là
được thi hành án cũng chính là người có tư cách là nguyên đơn, người có quyền và nghĩa
vụ liên quan, người bị hại, người thắng kiện trong q trình tố tụng trước đó.
Tại Khoản 3, Điều 3 Luật thi hành án dân sự năm 2008 quy định:
“Người phải thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện nghĩa vụ
trong bản án, quyết định được thi hành”.
Người phải thi hành án được hiểu là cá nhân, cơ quan, tổ chức, phải thực hiện các
nghĩa vụ mà Tòa án đã tuyên trong bản án, quyết định của Tịa án theo trình tự, thủ tục
quy định tại Luật thi hành án dân sự. Trong nhiều trường hợp, người được gọi là Người
phải thi hành án trong giai đoạn thi hành án cũng chính là người có tư cách bị đơn, bị can,
bị cáo, người thua kiện trong q trình tố tụng trước đó.
Theo Khoản 4, Điều 3 Luật thi hành án dân sự 2008 quy định:
“Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền
lợi và nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ thi hành án của
đương sự”
Người có quyền và nghĩa vụ liên quan có thể là người đã tham gia tố tụng với tư
cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ kiện. Họ có thể có yêu cầu độc
lập hoặc tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc với bên bị đơn.

8


Ví dụ: Nguyên đơn A kiện bị đơn B ra Tòa án nhân dân để đòi lại quyền sử dụng
đất đối với một mảnh đất thổ cư. Trên mảnh đất đó có 1 ngơi nhà do B xây. Trong ngơi
nhà đó có C đang ở theo hợp đồng thuê nhà với B. C có thể đã bỏ cơng sức cải tạo, sửa
sang lại ngơi nhà đó. Do đó, khi xét xử vụ kiện này Tòa án phải đưa C vào tham gia tố
tụng để C có điều kiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Vậy trong trường hợp

này, C tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.
Người có quyền và nghĩa vụ liên quan cũng có thể là người do có hoạt động thi
hành án dân sự mà tham gia vào q trình thi hành án .
Ví dụ: A là người được thi hành án, B là người phải thi hành án. C là chồng của B.
B khơng có tài sản riêng để thi hành án, do đó tài sản chung giữa B và C là ngơi nhà đã bị
Cơ quan thi hành án kê biên để đảm bảo thi hành án. Do đây là tài sản chung của vợ
chồng B và C nên khi xử lý tài sản đó Cơ quan thi hành án cần đảm bảo cho C có điều
kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Vậy, trong trường hợp này, C là
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án.
2.1.3. Chủ thể có thẩm quyền áp dụng hoặc theo yêu cầu áp dụng biện pháp bảo
đảm thi hành án dân sự
Khoản 1 Điều 66, Luật thi hành án dân sự 2008 quy định:
“Chấp hành viên có quyền tự mình hoặc theo u cầu bằng văn bản của đương sự
áp dụng ngay biện pháp bảo đảm thi hành án nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, huỷ hoại tài
sản, trốn tránh việc thi hành án. Khi áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, Chấp hành
viên không phải thông báo trước cho đương sự”.
Như vậy chủ thể có thẩm quyền áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự
hoặc theo yêu cầu áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự là Chấp hành viên.
Chấp hành viên có quyền tự mình hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của đương sự áp dụng
ngay biện pháp bảo đảm thi hành án để hạn chế được những tình huống khó khăn có thể
có trong việc tổ chức thi hành án. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ
quyền và lợi ích của các đương sự trong các vụ, việc dân sự.
Từ đó, chúng ta có thể hiểu rằng, hầu như chỉ có đương sự là Người được thi hành
án, tức là cá nhân, cơ quan, tổ chức, được hưởng quyền và lợi ích trong bản án, quyết
định được thi hành mới có thể đưa ra yêu cầu áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án
đối với Người phải thi hành án.
2.1.4. Các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự
a. Biện pháp phong tỏa tài khoản
Phong tỏa tài khoản là một trong những biện pháp bảo đảm cơ bản được sử dụng
phổ biến trong công tác đảm bảo thi hành án dân sự. Biện pháp này được áp dụng trong

trường hợp cần ngăn chặn việc tẩu tán tiền trong tài khoản của người phải thi hành án.
Điều 67 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định:
“1. Việc phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ được thực hiện trong trường
hợp người phải thi hành án có tài khoản, tài sản gửi giữ.

9


2. Quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ phải xác định rõ số tiền, tài
sản bị phong tỏa. Chấp hành viên phải giao quyết định phong tỏa cho cơ quan, tổ chức,
cá nhân đang quản lý tài khoản, tài sản của người phải thi hành án.
Trường hợp cần phong tỏa ngay tài khoản, tài sản của người phải thi hành án ở nơi
gửi giữ mà chưa ban hành quyết định phong tỏa thì Chấp hành viên lập biên bản yêu cầu
cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý tài khoản, tài sản của người phải thi hành án
phong tỏa tài khoản, tài sản đó. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi lập biên bản, Chấp hành
viên phải ra quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý tài khoản, tài sản phải thực hiện ngay yêu
cầu của Chấp hành viên về phong tỏa tài khoản, tài sản. Biên bản, quyết định phong tỏa
tài khoản, tài sản trong trường hợp này phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát nhân dân
cùng cấp.
3. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày ra quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản ở
nơi gửi giữ, Chấp hành viên phải áp dụng biện pháp cưỡng chế hoặc ra quyết định chấm
dứt việc phong tỏa theo quy định của Luật này”.
Theo quy định này, khi phát hiện thấy Người phải thi hành án có những dấu hiệu
tẩu tán tiền trong tài khoản của mình nhằm gây khó khăn hoặc trốn tránh việc thi hành án
thì Chấp hành viên có quyền áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản của người đó ngay.
Việc áp dụng biện pháp này cần phải tuân theo những điều kiện và thủ tục nhất định như
khi tiến hành phong tỏa tài khoản, Chấp hành viên phải giao quyết định phong tỏa tài
khoản cho cơ quan, tổ chức đang quản lý tài khoản của người đó.
b. Tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự

Biện pháp này được áp dụng trong trường hợp cần thiết để tránh những trường hợp
người phải thi hành án có những hành vi như tẩu tán tài sản, chuyển quyền sở hữu, hay
thay đổi hiện trạng của tài sản ...gây khó khăn cho việc thi hành án.
Người có thẩm quyền đưa ra quyết định tạm giữ và có quyền tạm giữ là Chấp hành
viên đang thực hiện nhiệm vụ thi hành án hoặc Chấp hành viên cũng có thể yêu cầu cơ
quan, tổ chức, cá nhân hỗ trợ để tạm giữ tài sản, giấy tờ mà đương sự đang quản lý, sử
dụng. Nội dung này được quy định cụ thể tại Khoản 1, Điều 68 của Luật thi hành án dân
sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 “Chấp hành viên đang thực hiện nhiệm vụ thi hành án có
quyền tạm giữ tài sản, giấy tờ liên quan đến việc thi hành án mà đương sự, tổ chức, cá
nhân khác đang quản lý, sử dụng. Cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan có trách nhiệm
phối hợp, hỗ trợ, thực hiện yêu cầu của Chấp hành viên trong việc tạm giữ tài sản, giấy
tờ”.
Tài sản tạm giữ là tiền mặt, cũng có thể là kim khí q, đá q hay là những giấy tờ
có giá, vật có giá... Nhưng với mỗi loại tài sản khác nhau thì có thủ tục tạm giữ khác
nhau.
Như vậy, tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự là một biện pháp bảo đảm thi hành
án dân sự cần thiết. Biện pháp này sẽ giúp cho công tác thi hành án được diễn ra thuận
lợi,đảm bảo được tính nhanh chóng, hiệu quả của việc thi hành các bản án, quyết định
10


của Tòa án, đảm bảo được quyền lợi của người được thi hành án. Đây cũng là biện pháp
giúp làm giảm thiểu tình trạng án tồn đọng, khơng thể thi hành án được do người phải thi
hành án đã có những hành vi tẩu tán, chuyền quyền sở hữu hay thay đổi hiện trạng tài sản
phải thi hành án của mình từ trước.
c. Biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi
hiện trạng tài sản
Đây cũng là một trong những biện pháp bảo đảm cơ bản, cần thiết được áp dụng
trong công tác thi hành án dân sự.
Nội dung này được quy định tại Điều 69 của Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ

sung năm 2014.
“1. Trường hợp cần ngăn chặn hoặc phát hiện đương sự có hành vi chuyển quyền
sở hữu, sử dụng, tẩu tán, hủy hoại, thay đổi hiện trạng tài sản, trốn tránh việc thi hành
án, Chấp hành viên ra quyết định tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng,
thay đổi hiện trạng tài sản của người phải thi hành án, tài sản chung của người phải thi
hành án với người khác.
2. Quyết định tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện
trạng tài sản phải được gửi ngay cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để tạm dừng
việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản đó.
3. Chấp hành viên yêu cầu đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung
cấp các giấy tờ, tài liệu cần thiết để chứng minh quyền sở hữu, sử dụng; thông báo cho
đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan về quyền khởi kiện yêu cầu xác định
quyền sở hữu, sử dụng đối với tài sản.
Trường hợp cần thiết, Chấp hành viên phải xác minh, làm rõ hoặc yêu cầu Tịa án,
cơ quan có thẩm quyền xác định quyền sở hữu, sử dụng tài sản để thi hành án, giải quyết
tranh chấp tài sản; yêu cầu hủy giấy tờ, giao dịch liên quan đến tài sản theo quy định của
pháp luật.
4. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày có căn cứ xác định tài sản thuộc quyền sở
hữu, sử dụng của người phải thi hành án, Chấp hành viên phải ra quyết định áp dụng
biện pháp cưỡng chế theo quy định tại Chương IV của Luật này; trường hợp có căn cứ
xác định tài sản khơng thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án thì Chấp
hành viên phải ra quyết định chấm dứt việc tạm dừng đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử
dụng, thay đổi hiện trạng tài sản”.
Theo quy định tại điều này, trong trường hợp cần ngăn chặn hoặc phát hiện đương
sự có hành vi chuyển quyền sở hữu, sử dụng, tẩu tán, hủy hoại, thay đổi hiện trạng tài
sản, Chấp hành viên ra quyết định tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử
dụng, thay đổi hiện trạng tài sản đó.
Thực tế cho thấy, trong rất nhiều trường hợp án tồn đọng và không thể thi hành là
do đương sự đã có hành vi như đăng ký, chuyển quyền sở hữu tài sản của mình cho người
khác để trốn tránh việc phải thi hành án của mình, hay thay đổi hiện trạng của tài sản

nhằm gây khó khăn cho cơ quan thi hành án. Do đó, việc áp dụng biện pháp này là điều
11


rất cần thiết nhằm đảm bảo cho quá trình thi hành án diễn ra nhanh chóng và có hiệu quả
cao.
Biện pháp bảm đảm thi hành án gồm nhiều loại nhưng trong phạm vi đề tài này, tôi
chọn biện pháp bảo đảm thi hành án “Phong tỏa tài khoản” để làm rõ về mặt thực tiễn
thực hiện biện pháp này, từ đó đưa ra một số đề xuất, kiến nghị nhằm đảm bảo thực hiện
tốt biện pháp này trong thực tiễn. Ngoài ra, đây là biện pháp thường gặp trong thực tế
hiện nay và tại Chi cục Thi hành án dân sự Huyện Kon Kplong cũng thường xuyên áp
dụng để ngăn chặn việc tẩu tán tiền trong tài khoản của người phải thi hành án.
2.2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BIỆN PHÁP PHONG TỎA TÀI KHOẢN VÀ MỘT
SỐ KIẾN NGHỊ
2.2.1. Thực trạng
Có thể thấy rằng, việc áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự là một
điều hết sức cần thiết. Bởi nó có vai trị quan trọng trong việc tăng cường tính hiệu quả và
kịp thời trong cơng tác thi hành án dân sự. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là làm thế nào để áp
dụng các biện pháp này một cách có hiệu quả và đúng với quy định của pháp luật? Vì
thực tế hiện nay cho thấy, có rất nhiều trường hợp đã áp dụng sai hoặc chưa đầy đủ, chưa
đúng với tinh thần của các biện pháp bảo đảm thi hành án dẫn đến tình trạng mặc dù án
có điều kiện thi hành nhưng vẫn không thể thi hành được. Và kết quả là án tồn đọng
trong nhiều năm mà Cơ quan thi hành án vẫn chưa tìm ra được giải pháp khắc phục.
Trong những năm qua công tác thi hành án trên địa bàn huyện Kon Plơng được triển
khai thực hiện một cách tích cực, có nhiều tiến bộ rõ rệt. Chính quyền địa phương đã
quan tâm đúng mức nên hiệu quả thi hành án án dân sự đạt được là rất cao. Các bản án,
quyết định của Tịa án có hiệu lực pháp luật đã được quyết định xử lý kịp thời. Việc phân
loại vụ việc có điều kiện thi hành, chưa có điều kiện thi hành được Chi cục Thi hành án
dân sự huyện Kon Plông quan tâm, chú trọng. Kết quả công tác Thi hành án dân sự tại
Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kon Plông trong năm 2014, 2015, 2016 cụ thể như

sau:
Năm 2014: Kết quả công tác thi hành án dân sự (từ ngày 01/10/2013 đến ngày
30/9/2014)
Về việc: Tổng số việc đã thụ lý: 60 việc (Trong đó: Số cũ chuyển qua 05 việc; Số
mới thụ lý 55 việc).
Kết quả xác minh, phân loại, có: 57 việc có điều kiện giải quyết (chiếm tỷ lệ 95%),
tăng 3,33% so với cùng kỳ năm 2013; 03 việc chưa có điều kiện giải quyết (chiếm tỷ lệ
5%).
Đã giải quyết xong 56 việc, đạt tỷ lệ 98,25%, giảm 1,75% so với cùng kỳ năm 2013
(so với chỉ tiêu được giao năm 2014, vượt 1,25%).
Tổng số việc chuyển kỳ sau là 04 việc, giảm 20% so với số việc năm 2013 chuyển
sang.

12


Về tiền: Tổng số tiền đã thụ lý 311.804.000 đồng (Trong đó: số cũ chuyển sang là
66.000.000 đồng; số thụ lý mới là 245.804.000 đồng) giảm 109.228.000 đồng (25,94%)
so với cùng kỳ năm 2013.
Kết quả xác minh, phân loại, có: 267.825.000 đồng có điều kiện giải quyết (chiếm
tỷ lệ 85,9%); 43.979.000đồng chưa có điều kiện giải quyết (chiếm tỷ lệ 14,1%).
Trong số có điều kiện giải quyết, đã giải quyết xong 267.825.000 đồng, đạt tỷ lệ
100%, tương đương so với cùng kỳ năm 2013 (so với chỉ tiêu được giao năm 2014, vượt
10%).
Tổng số tiền còn phải giải quyết chuyển kỳ sau là 43.979.000 đồng, giảm
22.021.000 đồng (33,36%) so với số tiền năm 2013 chuyển sang.
Năm 2015: Kết quả thi hành án dân sự về việc và về tiền năm 2015 (từ ngày
01/10/2014 đến ngày 30/9/2015)
Về việc: Tổng số việc đã thụ lý: 33 việc (trong đó: số cũ chuyển qua 04 việc; số mới
thụ lý 29 việc).

Số việc phải thi hành: 33 việc (giảm 45% so với cùng kỳ).
Trong đó:
- Số việc có điều kiện thi hành: 33 việc (chiếm 100% so với số việc phải thi hành)
- Số việc chưa có điều kiện thi hành: 0 việc (chiếm 0% so với số việc phải thi hành).
Đã thi hành xong hoàn toàn 32 việc, chiếm 96,97% so với số có điều kiện thi hành
(Vượt 0,97% so với chỉ tiêu được giao).
Số việc chuyển kỳ sau là: 01 việc (Giảm 03 việc, 75% số việc chuyển sang năm
2016 so với năm 2014 chuyển sang năm 2015).
Về tiền: Tổng số tiền đã thụ lý 501.220.000đồng (trong đó: số cũ chuyển sang
43.979.000đồng, số mới thụ lý 457.241.000đồng).
Số tiền phải thi hành 501.220.000đồng (tăng 60,74 so với cùng kỳ), trong đó: số có
điều kiện thi hành 501.220.000đồng (chiếm 100% so với số tiền phải thi hành), số chưa
có điều kiện thi hành 0đồng (chiếm 0% so với số tiền phải thi hành).
Đã giải quyết xong 497.220.000đồng, chiếm 99,2% so với số tiền có điều kiện thi
hành (Vượt 11,2% so với chỉ tiêu được giao).
Số tiền chuyển kỳ sau là: 4.000.000đồng
Năm 2016: Kết quả thi hành án dân sự về việc và về tiền năm 2016 (từ ngày
01/10/2015 đến ngày 30/9/2016.)
Về việc: Tổng số việc đã thụ lý: 32 việc (trong đó: số cũ chuyển qua 01 việc; số mới
thụ lý 31 việc).
Số việc phải thi hành: 32 việc (giảm 3% so với cùng kỳ)
Kết quả xác minh, phân loại có 31 việc có điều kiện giải quyết (chiếm tỷ lệ
96,87%), và 01 việc chưa có điều kiện giải quyết (chiếm tỷ lệ 3,13%).
Trong số có điều kiện, đã giải quyết xong 30 việc, đạt tỷ lệ 96,15% (so với chỉ tiêu
được Quốc hội giao, vượt 20,15%).

13


Số việc chuyển kỳ sau là 02 việc, trong đó số việc có điều kiện nhưng chưa thi hành

xong là 01 việc, tương đương so với số việc có điều kiện thi hành năm 2015 chuyển sang
năm 2016 (01 việc).
Về tiền: Tổng số tiền đã thụ lý 501.220.000đồng (trong đó: số cũ chuyển sang
43.979.000đồng, số mới thụ lý 457.241.000đồng).
Số tiền phải thi hành 1.471.854.000 đồng (tăng 193,65% so với cùng kỳ). Kết quả
xác minh, phân loại: 1.431.274..000 đồng có điều kiện giải quyết (chiếm tỷ lệ 97,24 và
40.580.000đồng chưa có điều kiện giải quyết (chiếm tỷ lệ 2,76%).
Trong số có điều kiện, đã giải quyết xong 1.429.324.000 đồng, đạt tỷ lệ 99,67% (so
với chỉ tiêu Quốc hội giao, vượt 64,67%).
Số tiền chuyển kỳ sau là 42.530.000 đồng, trong đó số tiền có điều kiện nhưng chưa
thi hành xong là 1.950.000 đồng, so với số tiền có điều kiện thi hành năm 2015 chuyển
sang năm 2016 (4.000.000 đồng) giảm 2.050.000 đồng (48,75%).
Trong nhiều trường hợp, nếu có nhiều biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự khác
nhau để lựa chọn thì Chấp hành viên vẫn ln lựa chọn áp dụng biện pháp phong tỏa tài
khoản của người phải thi hành án. Sở dĩ Chấp hành viên luôn lựa chọn áp dụng biện pháp
phong tỏa tài khoản của người phải thi hành án là bởi vì trình tự, thủ tục áp dụng đơn
giản, nhanh chóng, thuận lợi và đưa đến kết quả tốt nhất so với các biện pháp khác. Tuy
nhiên, việc áp dụng biện pháp này trong thực tiễn cũng đã phát sinh một số hạn chế, bất
cập sau:
Thứ nhất, Luật thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành mới chỉ quy
định một cách chung chung về căn cứ để áp dụng biện pháp này là để "ngăn chặn việc
tẩu tán tiền trong tài khoản" mà chưa có quy định cụ thể về các hành vi như thế nào là
hành vi tẩu tán tiền trong tài khoản và hành vi nào là hành vi thực hiện giao dịch bình
thường thơng qua tài khoản trong q trình sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng... của người
phải thi hành án. Từ đó nảy sinh các quan điểm xử lý khác nhau giữa Chấp hành viên,
đương sự và tổ chức tín dụng về các hành vi này.
Thứ hai, việc áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản của Chấp hành viên nhiều khi
thiếu sự hợp tác từ Kho bạc, ngân hàng, tổ chức tín dụng và chưa có chế tài áp dụng đối
với tổ chức đang nắm giữ thông tin về tài khoản của người phải thi hành án từ chối cung
cấp thông tin theo yêu cầu.

Thứ ba, vấn đề đang được đặt ra hiện nay chính là giá trị pháp lý và hiệu lực của
biên bản xác minh tài khoản do Chấp hành viên lập khi thực hiện việc xác minh tài khoản
tại Ngân hàng thương mại, Kho bạc nhà nước và tổ chức tín dụng khác.
Ví dụ 1:
Theo Bản án số 10/2013/DS-ST, ngày 27 tháng 3 năm 2013 của Tòa án nhân dân
huyện K tỉnh KT tuyên bà Nguyễn Thị A phải trả cho ông Ngô Xuân B số tiền
300.000.000 đồng (ba trăm triệu đồng) và lãi suất chậm thi hành án.
Ngày 12/4/2013 ông Ngô Xuân B nộp đơn yêu cầu thi hành án tại Chi cục Thi hành
án dân sự huyện K, ông B cung cấp thơng tin bà Nguyễn Thị A có mở một sổ tiết kiệm
14


tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nơng thơn huyện K và có đơn u
cầu cơ quan Thi hành án dân sự huyện K áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự
phong tỏa tài khoản tiết kiệm của bà A
Ngày 15/4/2013 Chi cục Thi hành án dân sự huyện K thụ lý đơn yêu cầu thi hành án
của ông B, Chấp hành viên phụ trách vụ án tiến hành xác minh thông tin về tài sản của bà
A mà ông B cung cấp, tuy nhiên trong q trình xác minh khơng nhận được sự phối hợp
của Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nơng thơn huyện K.
Ngày 17/4/2016 Chấp hành viên có công văn gửi Chi nhánh Ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn huyện K yêu cầu cung cấp thông tin liên quan đến sổ tiết
kiệm của bà Nguyễn Thị A, tuy nhiên Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển
nơng thơn huyện K đã có cơng văn trả lời, trong đó nêu: Ngày 16/4/2013 bà Nguyễn Thị
A đã làm thủ tục rút toàn bộ số tiền tiết kiệm trên trước kỳ hạn.
Như vậy, trong vụ án trên rõ ràng nhận thấy sự phối hợp giữa ngân hàng và cơ quan
thi hành án dân sự chỉ mang tính hình thức, chứ thực chất cơ quan thi hành án không
nhận được sự phối hợp của ngân hàng trong việc trao đổi, cung cấp thông tin về tài
khoản, tài sản thi hành án của người phải thi hành án dẫn đến việc đương sự kịp thời tẩu
tán tài sản, gây khó khăn cho cơng tác tổ chức thi hành án.
Ví dụ 2:

Theo quyết định số 16/2016/DSST ngày 16/3/2015 của Tòa án nhân dân huyện
huyện K, tỉnh KT tuyên ông Nguyễn V và bà Phùng T phải thanh toán trả nợ cho chị
Nguyễn Thị L số tiền: 390.000.000đ (ba trăm chín mươi triệu đồng) và lãi suất chậm thi
hành án.
Quá trình xác minh cho thấy, ơng V bà T có tài sản là 01 mảnh đất diện tích 342m2
tại thơn M, xã L, huyện K. Tuy nhiên ngày 06/3/2015 ông Nguyễn V và bà Phùng T lập
hợp đồng công chứng tặng cho con trai là Nguyễn C, đến ngày 14/3/2015 mảnh đất trên
hồn tất việc sang tên tại Văn phịng đăng ký quyền sử dụng đất, trước thời điểm có bản
án đúng 2 ngày!
Theo khoản 1, Điều 168 Bộ luật Dân sự thì “Việc chuyển quyền sở hữu đối với bất
động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sở hữu”, tại khoản 2 Điều 439 Bộ
luật Dân sự “đối với tài sản mua bán mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu
thì quyền sở hữu được chuyển cho bên mua kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký
quyền sở hữu đối với tài sản đó”, đồng thời tại Điều 692 Bộ Luật dân sự thì “việc
chuyển quyền sử dụng đất có hiệu lực từ thời điểm đăng ký quyền sử dụng đất theo quy
định về đất đai”.
Theo quy định tại điều 24 Nghị định 62/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày
18/7/2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân
sự:
“Kể từ thời điểm bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, nếu người phải thi hành
án chuyển đổi, tặng cho, bán, chuyển nhượng, thế chấp, cầm cố tài sản cho người khác
mà không sử dụng khoản tiền thu được để thi hành án và không còn tài sản khác hoặc tài
15


sản khác không đủ để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án thì tài sản đó vẫn bị kê biên, xử lý để
thi hành án, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Khi kê biên tài sản, nếu có người
khác tranh chấp thì Chấp hành viên thơng báo cho đương sự, người có tranh chấp thực
hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự.
Trường hợp đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp khẩn cấp tạm thời, biện

pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án mà tài sản bị chuyển đổi,
tặng cho, bán, chuyển nhượng, thế chấp, cầm cố cho người khác thì tài sản đó bị kê biên,
xử lý để thi hành án; Chấp hành viên có văn bản u cầu Tịa án tun bố giao dịch đối
với tài sản đó vơ hiệu hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ liên quan đến
giao dịch đối với tài sản đó”.
Vận dụng quy định trên thì cơ quan thi hành án khơng thể xử lý tài sản của ông V,
bà T được vì tài sản đã hồn tất việc chuyển quyền sở hữu tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền trước khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Có thể thấy rõ ràng rằng việc ông V, bà T chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho con
trai là nhằm mục đích tẩu tán tài sản, né tránh việc thi hành án – đây là một phương án
mà hiện nay khá nhiều người đã áp dụng để trốn tránh thi hành án. Xét về mặt pháp lý, do
việc chuyển giao này thông qua hình thức là “hợp đồng dân sự” nên người được thi hành
án không thể tố cáo ông V, bà T có dấu hiệu phạm tội hình sự như “lừa đảo” hay “lạm
dụng tín nhiệm” để chiếm đoạt tài sản. Cịn nếu tố cáo ơng V, bà T về tội “không chấp
hành án” – theo quy định tại Bộ luật hình sự thì cũng khơng được. Vì theo điều luật, để
khởi tố vụ án thì phải có yếu tố “đã cưỡng chế mà vẫn cố tình khơng thi hành án”, trong
khi ở đây cơ quan Thi hành án chưa có căn cứ để thi hành án.
Thực tế Người được thi hành án có thể nộp đơn khởi kiện ơng V, bà T ra tòa dân sự,
yêu cầu tòa án tuyên hủy hợp đồng tặng cho tài sản giữa ông V bà T và con trai vì lý do:
Đây là hợp đồng có nội dung trái pháp luật, nhằm mục đích tẩu tán tài sản, né tránh trách
nhiệm thi hành án. Cụ thể là nội dung của hợp đồng vi phạm vào điều cấm là “làm ảnh
hưởng đến quyền lợi của cá nhân, tổ chức khác” – theo quy định tại Bộ luật Dân sự. Tuy
nhiên đây thực sự là một hành trình rất gian nan.
Ví dụ 3:
Theo quyết định số 10/2015/DSST ngày 16/7/2015 của Tòa án nhân dân huyện
huyện K, tỉnh KT tuyên anh Nguyễn C phải thanh toán trả nợ cho chị Nguyễn L, chị
Nguyễn Q số tiền: 200.000.000đ (Hai trăm triệu đồng) và lãi suất chậm thi hành án. Ngay
sau đó, ngày 26/7/2015 lại có một quyết định của Tịa án tun anh Nguyễn C phải thanh
tốn trả chị Nguyễn B (là chị gái ruột của anh C) số tiền 800.000.000 (Tám trăm triệu
đồng) Đến khi cơ quan Thi hành án xử lý tài sản của Nguyễn C thì chị Nguyễn B được

nhận lại số tiền được chia theo tỷ lệ cao hơn rất nhiều so với chị L và chị Q mặc dù là
người khởi kiện trước.
Chị L, chị Q rất bức xúc với việc chị Nguyễn B được nhận phần lớn tài sản nhưng
thực sự không có căn cứ để khiếu nại, do trước đó chị L và chị Q khơng u cầu Tịa án

16


áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với tài sản của anh C để đảm bảo thi hành phần
trả hết nợ cho mình.
Hiện nay có nhiều giao dịch rất đáng nghi ngờ về việc thỏa thuận với người thân
làm hợp đồng vay nợ để chia tài sản theo tỉ lệ. Tuy nhiên cơ quan thi hành án không có
chứng cứ nào để chứng minh các hợp đồng vay trên là giả tạo.
Theo quy định của pháp luật, tại thời điểm khởi kiện pháp luật cho phép đương sự
làm đơn đề nghị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để yêu cầu Tòa án áp dụng các
biện pháp khẩn cấp như: kê biên tài sản đang tranh chấp, cấm thay đổi hiện trạng tài sản
đang tranh chấp, phong toả tài khoản……. Tuy nhiên rào cản lớn nhất khiến người yêu
cầu không thực hiện được quyền này là pháp luật quy định phải nộp khoản tiền tương
ứng với nghĩa vụ mà người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải chịu. Theo
khoản 1 Điều 120 Bộ luật Tố tụng Dân sự thì người u cầu Tồ án áp dụng một trong
các biện pháp khẩn cấp tạm thời như kê biên, cấm chuyển dịch, cấm thay đổi hiện trạng
tài sản đang tranh chấp; phong toả tài khoản, tài sản của người có nghĩa vụ sẽ phải gửi
một khoản tiền, kim khí q, đá q hoặc giấy tờ có giá “do Toà án ấn định tương đương
với nghĩa vụ tài sản mà người có nghĩa vụ phải thực hiện” để bảo vệ lợi ích của người bị
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và ngăn ngừa sự lạm dụng quyền yêu cầu áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời từ phía người có quyền u cầu. Chính vì thế mà những
người khơng có điều kiện kinh tế khơng thể nào áp dụng được biện pháp này.
Theo quy định tại khoản 2 điều 75 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm
2014:
“Trường hợp có căn cứ xác định giao dịch liên quan đến tài sản thi hành án nhằm

trốn tránh nghĩa vụ thi hành án thì Chấp hành viên thông báo cho người được thi hành
án để u cầu Tịa án tun bố giao dịch đó vơ hiệu hoặc u cầu cơ quan có thẩm quyền
hủy giấy tờ liên quan đến giao dịch đó. Hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được thông báo
mà người được thi hành án khơng u cầu thì Chấp hành viên u cầu Tịa án tun bố
giao dịch đó vơ hiệu hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ liên quan đến giao
dịch đó.”
Như vậy, để áp dụng được quy định trên yêu cầu phải “có căn cứ xác định giao
dịch liên quan đến tài sản thi hành án nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án”. Vậy “căn
cứ xác định” ở đây được hiểu như thế nào? Chính vì vậy mà quy định trên vẫn chưa được
áp dụng một cách triệt để.
Do đó, đề nghị cần đưa ra những quy định chặt chẽ hơn nữa để ngăn chặn việc các
đương sự tẩu tán tài sản ngay từ giai đoạn xét xử tại Tòa án. Đặc biệt cần quy định các
chế tài pháp lý đủ mạnh để ràng buộc trách nhiệm trong trường hợp đương sự có những
hành vi gian dối nhằm tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án… đảm bảo quyền
và lợi ích hợp pháp cho đương sự.
2.2.2. Một số kiến nghị nhằm đảm bảo thực hiện biện pháp phong tỏa tài khoản
tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kon Plông
Đối với các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự nói chung
17


- Bên cạnh việc quy định về thời hạn áp dụng biện pháp bảo đảm như hiện nay thì
cần có quy định linh hoạt về thời hạn áp dụng các biện pháp bảo đảm trong một số trường
hợp ngoại lệ.
- Cần có quy định cụ thể về căn cứ chấm dứt việc áp dụng biện pháp bảo đảm thi
hành án dân sự.
- Cần có quy định cụ thể về thẩm quyền xử phạt, tăng mức tiền phạt mà Chấp hành
viên, Thủ trưởng Cơ quan thi hành án dân sự được thực hiện đối với người có hành vi vi
phạm các yêu cầu của Chấp hành viên trong khi áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành
án dân sự.

- Cần bổ sung quy định về thẩm quyền xem xét lại quyết định giải quyết khiếu nại
của Chi cục trưởng Chi cục thi hành án dân sự đối với quyết định áp dụng biện pháp bảo
đảm thi hành án dân sự của Chấp hành viên thuộc đơn vị.
Đối với biện pháp phong tỏa tài khoản
- Cần có quy định cụ thể để nhận biết các hành vi tẩu tán tiền trong tài khoản của
người phải thi hành án.
- Cần có quy định tạo cơ sở pháp lý để đương sự tự mình có thể xác minh, thu thập
thơng tin về tài khoản của người phải thi hành án.
- Cần quy định rõ về quy trình, thủ tục từ khi xác minh cho đến khi ra quyết định
phong tỏa tài khoản và thực hiện quyết định.
- Cần bổ sung vào Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 các quy định cụ thể về trách
nhiệm phối hợp kịp thời với Chấp hành viên, Cơ quan thi hành án dân sự để cung cấp
đúng, đầy đủ và kịp thời các thông tin, số liệu về tài khoản của người phải thi hành án và
các chế tài đặt ra nếu có vi phạm.
- Cần hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản, thu nhập cá nhân theo hướng chuyển phần
lớn các giao dịch liên quan đến thu nhập, chi tiêu, thương mại của các cá nhân, cơ quan,
tổ chức phải được thực hiện thông qua hệ thống tài khoản được đăng ký tại các tổ chức
tín dụng.

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
Khi Tịa án đưa ra các phán quyết về một vụ kiện hay một vụ án cụ thể thì quyền và
lợi ích cũng như nghĩa vụ của các bên đương sự vấn là những điều cịn nằm trên trang
giấy. Để các phán quyết đó trở thành hiện thực đòi hỏi sự tự nguyện của bên có nghĩa vụ.
Trong trường hợp họ khơng tự nguyện thi hành thì cần có quyền lực nhà nước để buộc họ
phải thi hành các phán quyết đó.
Hoạt động thi hành án dân sự có vai trị quan trọng là làm cho các quyết định của
Tòa án trở thành hiện thực. Thông qua hoạt động thi hành án, quyền và lợi ích hợp pháp
của Nhà nước, của các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và công dân được bảo vệ, pháp chế
xã hội chủ nghĩa được tăng cường, góp phần vào sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp
quyền của dân, do dân và vì dân.

Từ sự phân tích cơ sở lý luận về các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự trên cho
thấy sự phong phú và đa dạng của các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự. Pháp luật
18


quy định rất cụ thể và rõ ràng về các biện pháp này. Đây cũng là điều kiện rất quan trọng,
tạo thuận lợi trong quá trình áp dụng các biện pháp bảo đảm nhằm giúp cho công tác thi
hành án dân sự diễn ra nhanh chóng và đạt hiệu quả cao.
Cũng từ sự phân tích trên, chúng ta thấy được vai trò, ý nghĩa của thi hành án dân
sự, hiểu biết về các chủ thể trong thi hành án dân sự và việc áp dụng các biện pháp bảo
đảm thi hành án trong công tác thi hành án dân sự.

19


KẾT LUẬN
Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự là biện pháp pháp lý được Chấp hành viên áp
dụng theo một trình tự, thủ tục luật định trong quá trình tổ chức thực hiện việc thi hành
án, đặt tài sản của người phải thi hành án trong tình trạng bị hạn chế hoặc tạm thời bị cấm
sử dụng, định đoạt, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng nhằm bảo toàn điều kiện thi hành án,
ngăn chặn người phải thi hành án thực hiện việc tẩu tán, hủy hoại, thay đổi hiện trạng về
tài sản trốn tránh việc thi hành án, làm cơ sở cho việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi
hành án dân sự trong trường hợp người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án.
Đối tượng bị áp dụng biện pháp bảo thi hành án dân sự là tài sản, tài khoản của
người phải thi hành án. Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự được áp dụng linh hoạt, tại
nhiều thời điểm, nhiều địa điểm khác nhau trong quá trình thi hành án nhằm ngăn chặn
việc tẩu tán, hủy hoại, trốn tránh việc thi hành án. Việc áp dụng biện pháp bảo đảm thi
hành án dân sự chưa làm thay đổi, chuyển dịch về quyền sở hữu, sử dụng tài sản của chủ
sở hữu, chủ sử dụng. Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự có thể được Chấp hành viên
tự mình ra quyết định áp dụng hoặc theo yêu cầu của đương sự và người yêu cầu phải

chịu trách nhiệm về việc áp dụng. Khi áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự,
Chấp hành viên không bắt buộc phải thực hiện việc xác minh và thông báo trước cho
đương sự. Khiếu nại đối với quyết định áp dụng biện pháp bảo thi hành án dân sự được
giải quyết một lần và có hiệu lực thi hành.
Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự giữ vai trò hỗ trợ cho việc thi hành các bản
án, quyết định nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh nghĩa vụ thi hành
án, là cơ sở cho việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự trong trường
hợp người phải thi hành án không tự nguyện thi hành. Việc quyết định áp dụng biện pháp
bảo đảm thi hành án dân sự có ý nghĩa góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan; góp phần đẩy nhanh quá trình thi hành án,
làm giảm thiểu các chi phí khơng đáng có và góp phần nâng cao ý thức của đương sự,
người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án.
Việc pháp luật quy định về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự xuất phát từ việc
áp dụng kết hợp giữa biện pháp tự nguyện thi hành án dân sự và cưỡng chế thi hành án
dân sự; từ yêu cầu của việc đa dạng hóa các biện pháp tổ chức thi hành án dân sự; sự
khác nhau giữa biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự và biện pháp cưỡng chế thi hành án
dân sự và từ thực tiễn thi hành án dân sự đòi hỏi khi chưa thực hiện ngay được biện pháp
cưỡng chế thi hành án dân sự thì cần có cơ chế ngăn chặn việc tẩu tán, định đoạt tài sản
của người phải thi hành án để thơng qua đó có thể bảo tồn điều kiện thi hành án của
đương sự.
Các quy định về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự của Luật thi hành án dân sự
và các văn bản hướng dẫn thi hành tương đối đầy đủ giúp cho Chấp hành viên có thêm
nhiều giải pháp để tổ chức thi hành án có hiệu quả, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự. Việc quy định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự của Luật thi
hành án dân sự theo hướng mở rộng quyền chủ động yêu cầu của đương sự và quyền tự
20


quyết định của Chấp hành viên đã giúp cho đương sự bảo vệ được quyền và lợi ích hợp
pháp của mình trong thi hành án và giúp cho Chấp hành viên xử lý nhanh chóng những

tình huống phát sinh trong quá trình tổ chức thi hành án. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp
dụng các quy định của pháp luật về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự đã cho thấy
nhiều hạn chế, bất cập trong cả quy định của pháp luật và việc thực hiện.
Để phát huy được vai trò, tác dụng của các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự
phải tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về biện pháp bảo đảm thi hành án dân
sự và nâng cao hiệu quả thực hiện các biện pháp này trong thực tiễn. Về hoàn thiện pháp
luật, cần bổ sung quy định căn cứ chấm dứt việc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án
dân sự; quy định tăng mức tiền phạt mà Chấp hành viên, Thủ trưởng Cơ quan thi hành án
dân sự được thực hiện đối với người có hành vi vi phạm các yêu cầu của Chấp hành viên
trong khi áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự và thủ tục tạm giữ tài sản,
giấy tờ.
Về thực hiện pháp luật, cần nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ và đạo đức
nghề nghiệp của Chấp hành viên; thực hiện tốt việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp
luật về thi hành án dân sự, để các tổ chức tín dụng và các cơ quan, tổ chức có liên quan
để họ nhận thức nghĩa vụ cung cấp thông tin về tài khoản của khách hàng và nghĩa vụ
thực hiện quyết định phong tỏa tài khoản, quyết định khấu trừ tiền trong tài khoản của
người phải thi hành án để thi hành án.
Chế định về các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự có vai trị quan trọng trong
việc bảo đảm hiệu quả thi hành án dân sự. Vì vậy, để phát huy được hiệu quả của chúng
thì phải nghiên cứu một cách tồn diện, bổ sung, sửa đổi và khắc phục những bất cập của
Luật thi hành án dân sự và thực tiễn thực hiện chúng trong thời gian tới.

21


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ Luật dân sự 2015;
[2] Bộ Luật hình sự 2015;
[3] Cơng văn 2423/BTP-THADS ngày 07/7/2015 hướng dẫn thực hiện Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự trong giai đoạn chuyển tiếp;

[4] Công văn 3823/BTP-TCTHADS ngày 19/10/2015 của Bộ Tư pháp hướng dẫn
thực hiện Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự;
[5] Giáo trình Kỹ năng thi hành án dân sự - Học viện Tư pháp;
[6] Hiến pháp 2013;
[7] Luật Thi hành án dân sự năm 2008;
[8] Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2008;
[9] Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành Luật Thi hành án dân sự;


×