LỜI MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nhiều năm trở lại đây, thị trường bán lẻ Việt Nam ngày một phát triển và là một
“sân chơi” thu hút được rất nhiều các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Theo số liệu
của Tổng cục thống kê (Bộ kế hoạch và Đầu tư), quy mô ngành bán lẻ của Việt Nam
những năm trở lại đây đang tăng lên nhanh chóng, sau gần 10 năm từ năm 2010 đã
lên tới con số 140 tỷ USD, dự báo sang năm 2020 con số này sẽ đạt ngưỡng 180 tỷ
USD. Theo khảo sát của Nielsen, Việt Nam hiện nay là một trong ba thị trường bán
lẻ hấp dẫn nhất tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, chỉ sau Trung Quốc và
Indonesia. Bên cạnh đó, Việt Nam đang ở tại thời kỳ cơ cấu dân số vàng, đây là cơ
sở thuận tiện để phát triển các cửa hàng tiện lợi. Ảnh hưởng của cuộc cách mạng 4.0
đang lan toả vô cùng mạnh vào lĩnh vực thương mại bán lẻ và tiêu dùng ở các nước,
Việt Nam cũng khơng ngoại lệ, vì vậy đây chính là cơ hội cho các doanh nghiệp nội
và ngoại địa. Đe mở rộng thị trường kinh doanh, các công ty cần phải có những chiến
lược riêng, sắp xếp chuỗi cung ứng một cách họp lý, đặc biệt là những công ty đa
quốc gia có mặt ở nhiều nơi như Circle K. Chuỗi cung ứng đóng góp vơ cùng lớn
trong việc tạo nên thành công của nhiều doanh nghiệp, là lợi thế cạnh tranh so với
các đối thủ khác. Vậy làm thế nào để quản trị chuỗi cung ứng phù họp tại những thị
trường này, với hơn 10 năm hoạt động tại Việt Nam, chuỗi cung ứng quốc tế Circle
K cần làm gì để tiếp tục phát triển tại thị trường vô cùng tiềm năng nhung cũng nhiều
thách thức như Việt Nam. Đó chính là lý do em chọn đề tài “ Đánh giá chuỗi cung
ứng quốc tế của cửa hàng tiện lợi Circle K tại thị trường Việt Nam”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đe tài nghiên cứu nhằm làm rõ những vấn đề sau:
-
Nghiên cứu các nguyên lý về các vấn đề xoay quanh chuỗi cung ứng và
quản trị chuỗi cung ứng toàn cầu.
-
Đánh giá thực trạng chuỗi cung ứng quốc tế Cữcle K tại thị trường Việt Nam.
-
Đe xuất một số giải pháp để hoàn thiện chuỗi cung ứng cửa hàng tiện lợi này.
3. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp được sử dụng trong bài luận văn :
Luận văn được viết dựa vào việc phân tích, so sánh, tổng họp, từ nhiều nguồn tài
liệu, nghiên cứu được thu thập thêm từ các nguồn tài liệu từ nhân viên và khảo sát,
đánh giá sự hài lòng của khách hàng nhằm đánh giá khách quan trong các hoạt động
liên quan đến chuỗi cung ứng của chuỗi cung ứng.
4. Cấu trúc khóa luận
Ngồi lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu than khảo và phụ lục, luận văn gồm
có 3 chương chính :
Chương 1 : Tổng quan cơ sở lý luận.
Chương 2 : Thực trạng chuỗi cung ứng của cửa hàng tiện lợi Circle K tại Việt
Nam.
Chương 3 : Đánh giá và đề xuất hoàn thiện chuỗi cung ứng của Circle K tại
thị trường Việt Nam.
Chương 1. TỔNG QUAN cơ SỞ LÝ LUẬN
1.1.
Khái quát chung về chuỗi cung ứng và quản trị chuỗi cung ứng toàn cầu
1.1.1.
Lịch sử phát triển của chuỗi cung ứng toàn cầu
Tiền thân của chuỗi cung ứng được bắt đầu vào thế kỷ 20, khi việc thiết kế và
phát triển sản phẩm trên thế giới diễn ra vô cùng chậm chạp và bị lệ thuộc gần như
hoàn toàn vào hai yếu tố : nguồn lực nội bộ và công suất làm việc. Khi đó khái niệm
“tồn kho” chỉ được biết tới là bước đệm trong quá trình sản xuất nhằm mục đích làm
cho máy móc vận hành thơng suốt và góp phần vào quy trình cân đối dịng ngun
vật liệu, điều này dẫn đến tồn kho trong sản xuất tăng cao. Vào những năm 1950,
Forrester và nhiều cộng sự tại viện Massachusets đã nghiên cứu về dịng chảy hàng
hố từ nhà cung cấp đến người tiêu dùng và các mối quan hệ liên quan trong quy trình
này. Cho đến thập niên 60 của thế kỷ 20, các công ty lớn trên thế giới phát hiện ra
“công nghệ sản xuất hàng loạt”, bước đầu đã cắt giảm được chi phí và cải thiện năng
suất lao động, tiếp sau đó phần mềm quản lý kho ra đời vì vậy cơng tác quản lý đã
phần nào giảm bớt những cách thức thủ công, nhung họ lại không chú ý đến các mối
quan hệ của tồn bộ q trình nên vẫn chưa cải thiện việc thiết kế tổng quát cũng như
tính linh hoạt, hay chất lượng của sản phẩm.
Trong thập niên 70, khi các nhà sản xuất nhận thức được tác động của mức độ
tồn kho cao sẽ ảnh hưởng đến chi phí sản xuất và chi phí lun giữ tồn kho, hệ thống
hoạch định nhu cầu nguyên vật liệu (MRP) và hệ thống hoạch định nguồn lực sản
xuất (MRPII) ra đời, giải quyết được vấn đề trên. Theo đó, cũng trong thập niên này,
các kỹ sư điện toán trên khắp nước Mỹ đã liên kết máy tính của họ với nhau, mở rộng
mạng máy tính và được biết đến như là Internet, các chuyên gia đã áp dụng sử dụng
công nghệ này làm gia tăng tính tinh vi của các phần mềm kiểm sốt tồn kho đã làm
giảm đáng kể chi phí tồn kho, cải thiện truyền thông nội bộ về nhu cầu của các chi
tiết cần mua cũng như trong việc tìm nguồn cung cấp. Những hệ thống này giúp các
doanh nghiệp nhận thấy được tầm quan trọng của quản trị nguyên vật liệu thông qua
các phần mềm công nghệ.
Thập niên 1980 được xem như là thời kỳ đánh dấu sự ra đời của quản trị chuỗi
cung ứng. Thuật ngữ quản trị chuỗi cung ứng lần đầu tiên được sử dụng một cách
rộng rãi trên nhiều tờ báo (O.R.Keith and M.D.Webber, “Supply-Chain Management:
Logistics Catches Up with Strategy,” Outlook - 1982). Từ khi “quản trị chuỗi cung
ứng” xuất hiện trên toàn cầu, thị truờng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trở nên
khốc liệt hơn bao giờ, điều này vơ tình gây áp lục đến các nhà sản xuất, buộc họ phải
cắt giảm chi phí, nhung chất luợng sản phẩm vẫn phải đuợc nâng cao, và chú trọng
vào việc gia tăng mức độ phục vụ khách hàng. Các thuật ngữ trong quản trị chuỗi
cung ứng lần luợt ra đời. Các hãng sản xuất trên toàn cầu bắt đầu vận dụng JIT (đúng
sản phẩm-đúng nơi-đúng số luợng-đứng thời điểm) và chiến luợc quản trị chất luợng
toàn diện (TQM) nhằm cải tiến chất luợng, nâng cao hiệu quả sản xuất và thời gian
giao hàng. Trong môi truờng sản xuất JIT với việc sử dụng ít tồn kho làm đệm cho
lịch trình sản xuất, các doanh nghiệp bắt đầu nhận thấy lợi ích tiềm năng và tầm quan
trọng của mối quan hệ chiến luợc giữa sụ họp tác của nhà cung cấp - nguời mua khách hàng.
Bắt đầu từ thập niên 90 của thế kỷ 20, sụ phát triển của mạng luới internet
phát triển không ngừng và bùng nổ mạnh mẽ, tạo nên khuynh huớng toàn cầu hóa
nền kinh tế, tạo ra nhiều thách thức dẫn đến việc phải cải thiện chất luợng, hiệu quả
sản xuất, chất luợng dịch vụ khách hàng, hay ngay cả trong việc thiết kế và phát triển
sản phẩm mới liên tục. Đe giải quyết những thách thức này, các nhà sản xuất bắt đầu
mua sản phẩm đuợc lụa chọn từ nhà cung cấp có chất luợng cao, có danh tiếng và đã
đuợc chứng thục trên thị truờng. Mặt khác, các doanh nghiệp nhận thấy rằng nếu họ
cam kết mua hàng từ những nhà cung cấp tốt nhất cho để phục vụ cho hoạt động kinh
doanh của mình thì đổi lại họ sẽ huởng những lợi ích từ việc gia tăng doanh số thông
qua sụ cải thiện chất luợng, phân phối và thiết kế sản phẩm cũng nhu cắt giảm chi
phí nhờ vào việc quan tâm nhiều hơn đến tiến trình, nguyên vật liệu và các linh kiện
đuợc sử dụng trong hoạt động sản xuất. Từ đây, nhiều liên minh giữa nhà cung cấp
và nguời mua đã đuợc thành lập, chứng tỏ sụ thành cơng của mình trên thế giới. Khái
niệm “Tái thiết kế quy trình kinh doanh (BPR)” xuất hiện tác động đến doanh nghiệp
phải suy nghĩ một cách triệt để và tái thiết kế quy trình kinh doanh nhằm giảm các
lãng phí và gia tăng thành tích đuợc giới thiệu vào đầu thập niên 1990, là kết quả của
những nghiên cứu to lớn trong suốt giai đoạn này với mục đích cắt giảm chi phí và
nhấn mạnh đến những năng lục then chốt của doanh nghiệp nhằm đạt đuợc lợi thế
cạnh tranh dài hạn. Khi xu huớng này mất dần vào giữa cuối thập niên 1990 (thuậtngữ trở
nên đồng nghĩa với việc thu hẹp quy mô), quản trị chuỗi cung cấp trở nên phổ
quát hon nhu là nguồn lục tạo ra lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Cũng trong
thời gian này, các nhà quản trị, nhà tu vấn, các học giả hàn lâm, và doanh nghiệp bắt
đầu nhận thức sâu sắc hon sụ khác biệt giữa hậu cần và quản trị chuỗi cung ứng. Mãi
cho đến thời điểm đó thì quản trị chuỗi cung cấp mới đuợc nhìn nhận nhu là một hoạt
động hậu cần bên ngoài doanh nghiệp. Khi các doanh nghiệp bắt đầu ứng dụng các
sáng kiến của quản trị chuỗi cung ứng vào thục tế, họ bắt đầu hiểu đuợc sụ cần thiết
phải tích họp tất cả các quy trình kinh doanh then chốt có liên quan giữa các bên tham
gia trong chuỗi cung ứng, cho phép chuỗi cung ứng vận hành và phản ứng nhu một
thể thống nhất. Ngày nay, hoạt động hậu cần hay phân phối đuợc xem nhu là một
thành tố quan trọng của khái niệm quản trị chuỗi cung ứng. Cùng thời điểm đó, các
doanh nghiệp cũng nhận thấy lợi ích trong việc tạo ra các liên minh hoặc sụ cộng tác
với khách hàng của mình, việc phát triển mối quan hệ mật thiết và dài hạn với khách
hàng sẽ cho phép doanh nghiệp giữ ít tồn kho, cắt giảm đuợc chi phí. Doanh nghiệp
sẽ tập trung nguồn lục vào hoạt động cung ứng các sản phẩm hoặc dịch vụ tốt hon
cho khách hàng. Điều này sẽ giúp thị phần đối với sản phẩm/dịch vụ đuợc cải thiện
và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Ngày nay, theo thục
tế của nhiều doanh nghiệp, quản trị chuỗi cung ứng đuợc chia thành 2 cấp : quản trị
chuỗi cung ứng và thu mua nhấn mạnh đến khách hàng công nghiệp hoặc khách hàng
tổ chức; và vận tải và hậu cần nhấn mạnh vào hoạt động phân phối bán sỉ hoặc bán
lẻ.
Mức độ phổ biến của các liên minh với nhà cung cấp và khách hàng (nhà cung
cấp của nhà cung cấp và khách hàng của khách hàng) vào cuối thập niên 1990 và tiếp
tục đuợc phát triển cho đến ngày nay. Việc xây dụng mối quan hệ đối với nhiều nhà
cung cấp dịch vụ thứ ba hoặc các doanh nghiệp sử dụng doanh nghiệp trung gian để
đảm bảo việc cung ứng liên tục và không bị gián đoạn hàng hóa ngày một nhiều. Sụ
cần thiết phải đánh giá hiệu suất và thành tích của mối quan hệ này theo từng giai
đoạn cũng đồng hành với sụ phát triển của quản trị chuỗi cung cấp. Một trong những
thách thức mà nhiều doanh nghiệp đối diện hiện nay liên quan đến quản trị chuỗi
cung cấp chính là cách thức đánh giá đầy đủ hiệu suất toàn diện trong một chuỗi cung
cấp toàn cầu.
1.1.2.
Khái niệm chuỗi cung ứng
Chuỗi cung ứng xuất hiện vào những năm đầu của thế kỷ 20, bởi vậy có rất nhiều
tài liệu viết về khái niệm này. Một khái niệm về chuỗi cung ứng của Christopher
(1992) đuợc phát biểu nhu sau: “Một mạng luới các tổ chức có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau thông qua các liên kết trên và liên kết duới, bao gồm các quá trình và hoạt
động khác nhau để tạo giá trị gia tăng cho sản phẩm hoặc dịch vụ đến tay nguời tiêu
dùng cuối cùng”
Duới góc độ D.M.Lambert, M.C.Cooper và J.D.Pagh (1998), “Chuỗi cung ứng
không chỉ là một chuỗi của các doanh nghiệp với nhau mà nó cịn là mối quan hệ
thuơng mại giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp hay quan hệ giữa các doanh nghiệp
với nhau”.
Theo Beamon (1999), chuỗi cung ứng là q trình tích họp trong đó ngun vật
liệu đuợc sản xuất thành sản phẩm cuối cùng và giao cho khách hàng thông qua các
hệ thống phân phối, bán lẻ hoặc cả hai.
“Chuỗi cung ứng bao gồm mọi cơng đoạn có liên quan, trục tiếp hay gián tiếp,
đến việc đáp ứng nhu cầu khách hàng. Chuỗi cung ứng gồm nhà sản xuất, nhà cung
cấp, ngồi ra cịn có nhà vận chuyển, công tác hru kho, nguời bán lẻ và cả khách
hàng.” - Chopra Sunil và Peter Meindl, 2001
Từ những khái niệm trên, có thể hiểu “Chuỗi cung ứng” là hệ thống bao gồm nhà
cung cấp, nhà phân phối sản phẩm hệ thống kho vận/ trung tâm phân phối, hệ thống
bán lẻ và khách hàng của chuỗi. Chuỗi cung ứng ngày nay dần trở thành một nhân tố
cốt lõi để doanh nghiệp vận hành tốt và phát triển.
Chuỗi cung ứng luôn hàm chứa những tính năng nhất định và nó liên quan đến
những dịng thơng tin về sản phẩm và tài chính của doanh nghiệp trong các giai đoạn
khác nhau. Mục đích then chốt của bất kỳ chuỗi cung ứng nào là nhằm thỏa mãn nhu
cầu khách hàng, trong quá trình tạo ra lợi nhuận cho chính doanh nghiệp. Theo các
nhà nghiên cứu, một chuỗi cung ứng bao gồm chuỗi cung ứng đầu vào và chuỗi cung
ứng đầu ra:
- Chuỗi cung ứng đầu vào hay còn gọi là hoạt động cung ứng là q trình đảm bảo
ngun vật liệu, máy móc thiết bị, dịch vụ...cho hoạt động của tổ chức/doanh nghiệp
đuợc tiến hành liên tục, nhịp nhàng và đem lại hiệu quả tốt.
- Chuỗi cung ứng đầu ra là quá trình đảm bảo sản phẩm của tổ chức/doanh nghiệp
đến tay nguời tiêu dùng, mục đích làm nguời tiêu dùng hài lịng với mức giá họp lý
và các dịch vụ đi kèm, đảm bảo lợi nhuận cao cho tổ chức/doanh nghiệp.
Chuỗi cung ứng là chuỗi gồm nhiều thành phần tham gia trục tiếp hoặc gián tiếp,
đuợc xây dụng để thoả mãn nhu cầu khách hàng song song với mục đích lợi nhuận.
Những thành phần đó bao gồm : nhà sản xuất, nhà cung cấp, đại lý bán lẻ, khách
hàng, kho bãi, vận tải, trung tâm phân phối,...Ngồi dịng ngun vật liệu và sản
phẩm, chuỗi cung ứng cịn có sụ tham gia của dịng thơng tin và dịng vốn giữa các
thành phần.
Dịng sán phẩm và đích vụ
Thu hồi và tái chề
Nhá cung cấp
nguyên vật I lêu
Nhà sán xuãt sân
phâm cuối cung
Khách háng
Hình 1.1 : Chuỗi cung ứng điến hình trong các doanh nghiệp
Nguồn : Vỉetnam Logistic and Aviation Schooỉ
Chuỗi cung ứng điển hình nhu trong hình giúp chúng ta có thể hình dung các
doanh nghiệp nằm ở khu vục giữa nhu doanh nghiệp trung tâm. Thục tế, doanh
nghiệp trung tâm không chỉ là doanh nghiệp lắp ráp sản phẩm cuối cùng, nó cũng có
thể là bất cứ doanh nghiệp nào tham gia trong chuỗi cung ứng, tùy thuộc vào phạm
vi tham chiếu và mục tiêu của nhà quản trị khi xem xét mơ hình. Trong một chuỗi
cung ứng điển hình, nguyên vật liệu đuợc mua ở một hoặc nhiều nhà cung cấp; các
bộ phận đuợc sản xuất ở một nhà máy hoặc nhiều hơn, sau đó đuợc vận chuyển đến
nhà kho để lun trữ ở giai đoạn trung gian và cuối cùng đến nhà bán lẻ và khách hàng.
Vì vậy, để giảm thiểu chi phí và cải tiến mức phục vụ, các chiến luợc chuỗi cung ứnghiệu
quả phải xem xét đến sụ tuơng tác ở các cấp độ khác nhau trong chuỗi cung ứng.
Chuỗi cung ứng cũng đuợc xem nhu mạng luới hậu cần, bao gồm các nhà cung cấp,
các trung tâm sản xuất, nhà kho, các trung tâm phân phối, và các cửa hàng bán lẻ,
cũng nhu nguyên vật liệu, tồn kho trong quá trình sản xuất và sản phẩm hoàn thành
dịch chuyển giữa các cơ sở. Các sản phẩm sẽ đến tay nguời tiêu dùng theo một số
hình thức của chuỗi cung ứng. Chuỗi cung ứng đơn giản sẽ chỉ có ít thục thể tham
gia, trong khi với các chuỗi phức tạp số các thục thể tham gia sẽ rất lớn bao gồm các
cấp trung gian khác nhau nhu đại lý, kho trung tâm, siêu thị, cửa hàng bán lẻ,...Nhu
thế, sẽ dễ dàng nhận thấy rằng chỉ có một nguồn tạo ra lợi nhuận duy nhất cho tồn
chuỗi đó là khách hàng cuối cùng. Khi các doanh nghiệp riêng lẻ trong chuỗi cung
ứng ra các quyết định kinh doanh mà không quan tâm đến các thành viên khác trong
chuỗi, rốt cuộc dẫn đến giá bán cho khách hàng cuối cùng sẽ rất cao, mức phục vụ
của chuỗi cung ứng thấp và nhu cầu khách hàng tiêu dùng cuối cùng có thể sẽ giảm
xuống. Cùng với các thục thể chính, có rất nhiều doanh nghiệp khác liên quan một
cách gián tiếp đến hầu hết các chuỗi cung ứng, và họ đóng vai trị quan trọng trong
việc phân phối sản phẩm cuối cùng cho khách hàng. Đó là các nhà cung cấp dịch vụ,
chẳng hạn nhu các công ty vận tải đuờng không và đuờng bộ, các nhà cung cấp hệ
thống thông tin, các công ty kinh doanh kho bãi, các hãng môi giới vận tải, các đại lý
và các nhà tu vấn. Trong đa số các chuỗi cung ứng, các doanh nghiệp cung cấp dịch
vụ này đặc biệt hữu ích đối với các doanh nghiệp trung tâm, vì nhờ thế họ có thể mua
sản phẩm ở nơi họ cần, hoặc cho phép nguời mua và nguời bán giao tiếp một cách
hiệu quả, cho phép doanh nghiệp phục vụ các thị truờng xa xôi, giúp các doanh nghiệp
tiết kiệm chi phí vận tải nội địa và quốc tế, và nói chung cho phép doanh nghiệp phục
vụ tốt khách hàng với chi phí thấp nhất có thể.
Xét duới góc độ của một cơng ty, chuỗi cung ứng của một cơng ty bao gồm tất
cả các phịng ban của cơng ty đó : phịng phát triển sản phẩm, phịng marketing, phịng
kinh doanh, phịng tài chính, phịng nhân sụ, phòng hậu cần, phòng dịch vụ khách
hàng. Các phòng ban liên kết với nhau nhằm mục đích đáp ứng yêu cầu khách hàng.
Một chuỗi cung ứng điển hình bao gồm các thành phần: Khách hàng; Đại lý bán lẻ;
Nhà phân phối; Nhà sản xuất; Nhà cung cấp nguyên liệu thô,...
Xét về mặt cấu trúc, chuỗi cung ứng là một mạng luới các tổ chức tham gia vàocác giai
đoạn, các hoạt động khác nhau xuôi chiều chuỗi liên kết hoặc nguợc chiều
chuỗi liên kết đó, nhằm tạo ra giá trị cho sản phẩm, dịch vụ thoả mãn nhu cầu nhu
cầu khách hàng (theo Hartmut Stadtler, Christoph (2000), Supply Chain management
and advanced planning, Springerscience-business media). Thuật ngữ chuỗi ung ứng
gợi nên hình ảnh sản phẩm hoặc cung cấp dịch chuyển từ nhà cung cấp đến nhà sản
xuất đến nhà phân phối đến nhà bán lẻ và cuối cùng đến khách hàng dọc theo chuỗi
cung ứng. Các hoạt động nguợc dòng đuợc dành cho các các nhà cung cấp. Một nhà
cung cấp dịch chuyển nguyên vật liệu trục tiếp đến nhà sản xuất là nhà cung cấp cấp
một; nhà cung cấp đảm nhiệm việc dịch chuyển nguyên vật liệu cho nhà cung cấp
cấp một đuợc gọi là nhà cung ứng cấp hai, cứ nguợc dòng nhu vậy sẽ đến nhà cung
cấp cấp ba rồi đến tận cùng sẽ là nhà cung cấp gốc. Theo q trình cung cấp xi
dịng, khách hàng nhận sản phẩm một cách trục tiếp từ nhà sản xuất là khách hàng
cấp một, khách hàng nhận sản phẩm từ khách hàng cấp một chính là khách hàng cấp
hai, tuơng tụ chúng ta sẽ có khách hàng cấp ba và tận cùng của dòng dịch chuyển này
sẽ đến khách hàng cuối cùng.
1.1.3.
Khái niệm quản trị chuỗi cung ứng toàn cầu
Cỏ rất nhiều định nghĩa về quản trị chuỗi cung ứng:
Handtield và Nichols (1999) đã phát biểu: “Quản trị chuỗi cung ứng là sụ tích
họp của tất cả các hoạt động bao gồm sản xuất một sản phẩm, và nó đuợc sử dụng để
tạo ra lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp bằng cách tăng cuờng mối quan hệ giữa
các thành viên trong chuỗi cung ứng”.
“Quản lý chuỗi cung ứng còn là một hệ thống thục hiện chiến luợc kết nối các
chức năng kinh doanh của doanh nghiệp kết họp các chiến thuật quản lý dọc của các
doanh nghiệp nhằm mục đích cải tiến năng lục lâu dài của doanh nghiệp và toàn
chuỗi”, theo Mentzer, 2001.
Theo Hiệp hội các nhà chuyên nghiệp về quản trị chuỗi cung ứng (CSCMP),
“Quản trị chuỗi cung ứng bao gồm lập kế hoạch và quản lý tất cả các hoạt động liên
quan đến việc tìm nguồn cung cấp, mua sản phẩm/dich vụ, sản xuất và tất cả các hoạt
động quản trị hậu cần khác.
Theo Viện quản trị cung ứng mô tả quản trị chuỗi cung ứng là việc thiết kế và
quản lý các tiến trình xuyên suốt của một quy trình, tạo ra giá trị cho các tổ chức đểđáp ứng
nhu cầu thục sụ của khách hàng cuối cùng. Sụ phát triển và tích họp nguồn
lục con nguời và cơng nghệ là then chốt cho việc tích họp chuỗi cung ứng thành cơng.
Theo Hội đồng chuỗi cung ứng thì quản trị chuỗi cung ứng là việc quản lý cung
và cầu, xác định nguồn nguyên vật liệu và chi tiết, sản xuất và lắp ráp, kiểm tra kho
hàng và tồn kho, tiếp nhận đơn hàng và quản lý đơn hàng, phân phối qua các kênh và
phân phối đến khách hàng cuối cùng.
Theo TS. Hau Lee và đồng tác giả Corey Billington trong bài báo nghiên cứu thì
quản trị chuỗi cung ứng nhu là việc tích hợp các hoạt động xảy ra ở tất cả các cơ sở
của mạng luới nhằm tạo ra nguyên vật liệu, dịch chuyển chúng vào sản phẩm trung
gian và sau đó đến sản phẩm hồn thành cuối cùng, và phân phối sản phẩm đến khách
hàng thông qua hệ thống phân phối.
Vậy, quản trị chuỗi cung ứng là tập họp những phuơng thức sử dụng một
cách tích họp và hiệu quả giữa nhà cung cấp, nguời sản xuất, hệ thống kho bãi và các
cửa hàng nhằm phân phối hàng hóa đuợc sản xuất đến đúng địa điểm, đúng lúc với
đúng yêu cầu về chất luợng, với mục đích giảm thiểu chi phí tồn hệ thống trong khi
vẫn thỏa mãn những u cầu về mức độ phục vụ.
Ngày nay, trong thuơng mại, với quy mô kinh doanh toàn cầu, xuất hiện khái
niệm quản trị chuỗi cung ứng toàn cầu (GSCM) .Theo Wikipedia, GSCM đuợc định
nghĩa là : “ phân phối hàng hoá và dịch vụ trên mạng luới tồn cầu của các cơng ty
xun quốc gia nhằm tối đa hố lợi nhuận và giảm thiểu lãng phí” Thục chất quản trị
chuỗi cung ứng toàn cầu giống nhu quản lý chuỗi cung ứng thơng thuờng tuy nhiên
nó bị ảnh huởng bởi một số các chính sách và điều khoản của các nuớc mà doanh
nghiệp mở rộng thị truờng kinh doanh, nhung điều này cũng đi kèm những rủi ro nhất
định. Nó liên quan đến sụ họp tác của các đối tác thuơng mại trong toàn bộ chuỗi
cung ứng để nâng cao giá trị cho nguời tiêu dùng với chi phí thấp nhất có thể. Trong
chuỗi cung ứng tồn cầu này, các đối tác thuơng mại này sẽ bao gồm các nhà cung
cấp nguyên liệu, nhà sản xuất, nhà phân phối, nhà bán lẻ, nhà cung cấp dịch vụ và
các cơ quan chính phủ. Nguời tiêu dùng vẫn là tâm điểm của mọi hoạt động. Các đối
tác thuơng mại họp tác với nhau để loại bỏ tất cả sụ thiếu hiệu quả và các hoạt động
không phải là giá trị gia tăng và các công nghệ tiên tiến hàng đầu. Vì vậy quản trị
chuỗi cung ứng tồn cầu là sụ kết hợp sản xuất, tồn kho, địa điểm và vận tải giữa cácđối
tượng tham gia trong chuỗi cung ứng nhằm đạt được kết quả tốt nhất đáp ứng tính
hiệu quả và tính kịp thời trong thị trường phục vụ.
Nhà cung cáp
PHÒNG SUPPI.Y CHAIN
Đội lập ké hoạch và
Nhà cung cáp
Độỉ làm vifc VỚÍNCC
Độilàmviộc với cửa hàng
quản lý lãn kho cửa
hàng
cửa hàng 1
Nhà cung cẵp
Cừahàng 2
Tổng kho
Lng thịng tin
Cửa hàng 3
l .ng háng hóa
Hình 1.2 : Chuỗi cung ứng điến hình của ngành bán lẻ
Nguồn : (Vietnam Logistic and Aviation Schooỉ)
Đối với ngành bán lẻ, trọng tâm của quản trị chuỗi cung cấp là những vấn đề về
vị trí hậu cầu, phân phối hơn là quan tâm tới vấn đề sản xuất. Quản trị chuỗi cung
ứng trong những ngành này thường liên quan đến việc đáp ứng nhanh chóng hoặc
hậu cần tích họp. Thành tựu của hệ thống chuyển đổi dữ liệu điện tử nội bộ (EDI), hệ
thống mã vạch, internet và hệ thống nhận dạng bằng sóng radio (radio trequency
identiíication) trong hai thập kỷ qua được hỗ trợ cho sự phát triển của khái niệm chuỗi
cung ứng tích họp. Các doanh nghiệp trong ngành bán lẻ đã sử dụng quản trị chuỗi
cung ứng nhằm đương đầu với tính phức tạp và khơng chắc chắn chưa từng có của
thị trường và để giảm thiểu tồn kho xuyên suốt chuỗi cung ứng. Việc phát triển nhanh
chóng phần mềm quản trị chuỗi cung ứng khách hàng/máy chủ mà điển hình bao gồm
việc tích họp quản trị chuỗi cung ứng và các cấu thành của thương mại điện tử đã hỗ
trợ đắc lực cho sự phát triển và ứng dụng quản trị chuỗi cung ứng. Chia sẻ thông tin
với các đối tác chuỗi cung ứng thông qua EDI và Internet cho phép doanh nghiệp tích
họp chức năng tồn kho, hậu cần, mua nguyên vật liệu, vận chuyển và các chức năng
khác nhằm tạo ra phương thức quản trị tiên phong và hiệu quả hơn. Các doanh nghiệp
trong ngành bán lẻ sử dụng quản trị chuỗi cung ứng nhằm đương đầu với tính phức
tạp và khơng chắc chắn chưa từng có của thị trường nhằm giảm thiếu tồn kho trongsuốt
chuỗi cung ứng. Việc phát triển nhanh chóng các phần mềm quản trị chuỗi cung
ứng khách hàng/máy chủ mà điển hình bao gồm việc tích họp quản trị chuỗi cung
ứng với các cấu thành của thuong mại điện tử đã hỗ trợ đắc lục cho sụ phát triển và
ứng dụng quản trị chuỗi cung ứng. Chia sẻ thông tin với các đối tác chuỗi cung ứng
thơng qua EDI và Internet cho phép doanh nghiệp tích họp chức năng tồn kho, hậu
cần, mua nguyên vật liệu, vận chuyển và các chức năng khác nhằm tạo ra phuơng
thức quản trị tiên phong và hiệu quả hơn. Trong tuơng lai, chúng ta sẽ hy vọng rằng
quản trị chuỗi cung ứng nhấn mạnh đến việc mở rộng chuỗi cung cấp, gia tăng trách
nhiệm của chuỗi và nhấn mạnh hơn nữa vào chuỗi cung cấp “xanh” cũng nhu cắt
giảm đáng kể chi phí của chuỗi.
1.2.
Đặc điểm các cấp, phân loại thành phần trong chuỗi cung ứng và quản
trị
chuỗi cung ứng
1.2.1. Các cấp và thành phần trong chuỗi cung ứng
Trong chuỗi cung ứng hiện nay có sụ kết họp của của các bên liên quan, nhằm
phối họp, thục hiện các hoạt động trong chuỗi. Đó là các cấp trong chuỗi cung ứng
bao gồm nhà sản xuất, nhà phân phối, nhà bán sỉ, nhà cung cấp, nhà bán lẻ và khách
hàng cá nhân hay khách hàng là tổ chức. Những cấp này sẽ liên kết với nhau qua các
hoạt động về hậu cần, tài chính, tiếp thị và công nghệ thông tin.
-Nhà sản xuất:
Đuợc định nghĩa là các tổ chức sản xuất ra sản phẩm, bao gồm những công ty/các
bên trung gian sản xuất nguyên vật liệu và sản xuất bán sản phẩm/ dịch vụ và sản
phẩm/ dịch vụ. Một số ví dụ về các nhà sản xuất nguyên vật liệu bao gồm : khai thác
khoáng sản, khoan tìm dầu khí, cua gỗ, những tổ chức trồng trọt, chăn nuôi hay đánh
bắt thuỷ hải sản,.... Các nhà sản xuất thành phẩm sử dụng nguyên vật liệu và các bộ
phận lắp ráp đuợc sản xuất ra từ các công ty khác. Hoạt động này đuợc quyết định
bởi nhu cầu tiêu thụ sản phẩm của thị truờng, số luợng và thời điểm sản xuất hàng
hoá.
-Nhà phân phối:
Nhà phân phối là những công ty tồn trữ hàng với số luợng lớn từ nhà sản xuất và
phân phối sản phẩm đến khách hàng. Nó là đơn vị trung gian kết nối giữa hãng và
các đại lý, hay hiểu đơn giản là họ lấy hàng từ nhà cung cấp (là các hãng) và sau đóbán
bn với số lượng lớn hon nhà bán lẻ cho các đại lý. Do sự biến động nhu cầu về
sản phẩm, nhà phân phối tồn trữ hàng hóa vào kho, thực hiện bán hàng và phục vụ
khách hàng bằng cách cung cấp thông tin kĩ thuật, hay dịch vụ bảo hành nếu có cho
các mặt hàng này.
-Nhà bán lẻ :
Nhà bán lẻ tồn trữ sản phẩm và bán cho khách hàng với số lượng nhỏ hon. Nhà
bán lẻ trong khi bán hàng cũng nắm bắt ý kiến và nhu cầu của khách hàng rất chi tiết.
Do nỗ lực chính là thu hút khách hàng đối với những sản phẩm mình bán, nhà bán lẻ
thường quảng cáo và sử dụng một số kĩ thuật kết họp về giá cả, sự lựa chọn và sự tiện
dụng của sản phẩm.
-Nhà cung cấp dịch vụ :
Nhà cung cấp dịch vụ là những tổ chức cung cấp dịch vụ cho nhà sản xuất, nhà
phân phối, nhà bán lẻ và khách hàng. Nhà cung cấp dịch vụ có những chun mơn và
kĩ năng đặc biệt ở một hoạt động riêng biệt trong chuỗi cung ứng bao gồm hậu cần,
tài chính, nghiên cứu thị trường, thiết kế sản phẩm và công nghệ thơng tin. Chính vì
thế, họ có thể thực hiện những dịch vụ này hiệu quả hon và với mức giá tốt hon so
với chính các nhà sản xuất, nhà phân phối, nhà bán lẻ hay người tiêu dùng làm điều
này. Trong bất kỳ chuỗi cung ứng nào, nhà cung cấp phổ biến nhất là cung cấp dịch
vụ vận tải và dịch vụ nhà kho. Đây là các công ty xe tải và công ty kho hàng và thường
được biết đến là nhà cung cấp hậu cần.
-Khách hàng :
Khách hàng hay người tiêu dùng là bất kỳ cá nhân, tổ chức nào mua và sử dụng
sản phẩm. Khách hàng là tổ chức có thể mua một sản phẩm để kết họp với sản phẩm
khác rồi bán chúng cho khách hàng khác là người sử dụng sản phẩm sau/ mua sản
phẩm về tiêu dùng.
1.2.2.
Các cấp và thành phần trong quản trị chuỗi cung ứng
Theo David Simchi-Levi (Designing and Managing the Supply Chain , nhà
xuất bản McGraw-Hill Companies (2008) trang 15 đã viết, quản trị chuỗi cung ứng
có thể chia là 3 cấp : cấp chiến lược, cấp chiến thuật, cấp tác nghiệp.
-Cấp chiến lược (Strategic level) :
cấp này giải quyết các quyết định có ảnh huởng lâu dài đến doanh nghiệp, cấp
độ này bao gồm các quyết định liên quan tới các thiết kế sản phẩm, các quyết định tụ
sản xuất hay mua nguyên vật liệu bên ngoài, lụa chọn về nhà cung cấp, đối tác chiến
luợc, về số luợng, vị trí cũng nhu sức chứa các nhà kho nhà máy và luồng nguyên vật
liệu qua mạng luới quản trị chuỗi.
-Cấp chiến thuật (Tactical level) :
Bao gồm các quyết định tiêu biểu đuợc cập nhật theo từng quý hoặc theo từng
năm. Cấp này bao gồm các quyết định về mua sắm và sản xuất, chính sách dụ trữ,
chiến luợc vận tải, và cả luợng khách hàng.
-Cấp tác nghiệp (Operational level) :
Cấp này liên quan đến các quyết định hằng ngày về việc lên lịch trình thời gian
để sản xuất, lộ trình và chất luợng của hàng hố.
1.3.
Vai trị, mục tiêu của chuỗi cung ứng trong bối cảnh toàn cầu
-Mục tiêu
Trong cuốn The Triple A - Supply Chain, tác giả Dr. Hau Lee định nghĩa rằng
“Chuỗi cung ứng gồm các nhà cung cấp, các, nhà sản xuất, các nhà phân phối, nguời
bán lẻ và nguời tiêu dùng trong mối quan hệ đa chiều thông qua việc vận chuyển,
cung cấp thơng tin và cấu trúc tài chính. Mục tiêu của chuỗi cung ứng là đem lại giá
trị về sản phẩm, dịch vụ cho nguời sử dụng cuối cùng cũng nhu lợi nhuận cho mỗi
thành phần tham gia vào chuỗi cung ứng”. Vậy mục tiêu của một chuỗi cung ứng là
tối đa tổng giá trị (value) của chuỗi tạo ra. Giá trị của chuỗi đuợc tạo ra từ sụ chêch
lệch giữa giá trị sản phẩm mà khách hàng mua (giá trị của khách hàng - customer
value) với tổng chi phí phát sinh trong chuỗi để đáp ứng nhu cầu khách hàng.
GIÁ TRỊ CỦA CHUỎI CUNG ỨNG = GIÁ TRỊ CỦA KHÁCH HÀNG - TỒNG CHI PHÍ CHUỎI CỨNG
Đối với hầu hết các chuỗi cung ứng với mục đích thuơng mại, giá trị của chuỗi tạo ra
có liên quan mật thiết đến lợi nhuận chuỗi cung ứng. Lợi nhuận này là hiệu số giữa
doanh thu từ khách hàng và chi phí sản xuất sản phẩm.
Ngày nay, trong bối cảnh tồn cầu hố, mục tiêu ngồi lợi nhuận ra, chuỗi cung
ứng còn huớng đến những mục tiêu khác. Trong thục tế, khi các doanh nghiệp mở
rộng thị truờng, họ hiếm khi xây một chuỗi cung ứng mới mà họ sẽ tái thiết chuỗi
cung ứng mới để vừa tạo đuợc tính mới vừa phù họp với nhiều môi truờng hoạt động.
Sự hợp tác vượt ranh giới giữa các bên cũng là một trong những mục tiêu của chuỗi
cung ứng khi điều này mang lại lợi ích quan trọng góp phần làm hoạt động của chuỗi
cung ứng thêm nhuần nhuyễn hơn.
-Vai trị
Việc thiết kế, hoạch định chiến lược đóng vai trị cực kì quan trọng, mang tính
quyết định thành cơng của công ty. Đe tạo nên ưu thế cạnh tranh, chuỗi cung ứng
phải ln chủ động thích nghi với sự thay đổi của khoa học công nghệ và yêu cầu của
khách hàng. Ngày nay để cạnh tranh thành công trong bất kỳ môi trường kinh doanh
nào, các doanh nghiệp không chỉ tập trung vào hoạt động của riêng mình mà phải tích
họp vào cơng việc của nhà cung cấp cũng như khách hàng của nó. Bởi lẽ khi doanh
nghiệp muốn đáp ứng sản phẩm hay dịch vụ cho khách hàng họ buộc phải quan tâm
sâu sắc hơn đến dòng dịch chuyển nguyên vật liệu, cách thức thiết kế, đóng gói và
dịch vụ của nhà cung cấp hay cách vận chuyển, bảo quản hàng hóa, phục vụ khách
hàng của nhà bán lẻ.........Hơn nữa, ngày nay, cạnh tranh mang tính tồn cầu nên ngày
càng khốc liệt, mức độ kỳ vọng của khách hàng ngày càng cao hơn, buộc các doanh
nghiệp phải đầu tư và tập trung nhiều hơn vào chuỗi cung ứng của nó. Thêm vào đó,
những tiến bộ liên tục và đổi mới trong công nghệ truyền thông và vận tải điển hình
như truyền thơng di động, internet và phân phối hàng qua đêm đã thúc đẩy sự phát
triển không ngừng của chuỗi cung ứng và kỹ thuật quản lý nó.
Hệ thống cung ứng phải nhất qn, có thể chia sẻ thơng tin giũa các thành viên
trong chuỗi về những điều liên quan chẳng hạn như dự báo nhu cầu các kế hoạch Hệ
thống đảm bảo các doanh nghiệp có thể tự do quyết định tham gia hay rởi bỏ chuỗi,
nếu không đem lại lợi ích cho họ. Hệ thống giúp doanh nghiệp giảm được chi phí
,nâng cao năng lực cạnh tranh, dáp ứng các yêu cầu kỹ thuật, thông tin phải trung
thực và chính xác giữa các thành viên. Các thành viên trong chuỗi cung ứng, đặc biệt
là các đơn vị phụ trách thu mua, sản xuất hậu cần ,vân tải không chỉ được trang bị
những kiến thức quan trọng cần thiết về các chức năng của chuỗi cung ứng mà phải
biết đánh giá am hiểu về múc độ tương tác cũng như ảnh hưởng của chức năng này
đến toàn chuỗi cung ứng. Dòng dịch chuyển của nguyên liệu vật liệu hay sản phẩm
giữa các thành viên phải suôn sẻ và không gặp trở ngại.
Đối với các doanh nghiệp, quản trị chuỗi đóng vai trị rất lớn, bởi nó quyết địnhhiệu quả
năng suất của cả đầu ra và đầu vào. Nhờ vào việc thay đổi cung ứng đầu vào
hay tối un hoá các buớc luân chuyển nguyên vật liệu, hàng hoá, dịch vụ mà quản trị
chuỗi có thể tiết kiệm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp, đem lại
lợi nhuận theo mong muốn. Việc lập trình những chiến luợc, đua ra các giải pháp
thích họp trong việc chọn nguồn cung ứng, dụ trữ luợng hàng , vị trí kho bãi, phân
phối,... sẽ quyết định chuỗi cung ứng của công ty thành cơng hay thất bại.
1.4.
Quy trình hoạt động của một chuỗi cung ứng
Chuỗi cung ứng quyết định mang tính lâu dài nhu: Địa điểm xây dụng, năng
lục sản xuất của các nhà xuởng, nhà máy, kho bãi và trung tâm phân phối; số luợng
và chủng loại các sản phẩm sẽ sản xuất, hru trữ, phân phối và thành phần thục thi;
Các loại phuơng tiện vận chuyển; Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu; Việc thiết kế
cấu trúc chuỗi cung ứng phải phù họp với thị truờng và hỗ trợ chiến luợc phát triển
của doanh nghiệp, mang tính chất lâu dài và rất tốn kém. Vì vậy cơng việc thiết kế
cấu trúc chuỗi cung ứng phải ln tính đến yếu tố biến động của thị truờng.
Bảng 1.1 : Quy trình chuỗi cung ứng điến hình
Nguồn : Lý thuyết chuỗi cung ứng
1.4.1. Xây dựng kế hoạch (hoạch định)
Dụ đoán nhu cầu
Xác định rõ lượng nhu cầu của người tiêu dùng trên thị trường để tổ chức sản xuất
cho phù họp, tránh trường họp dư thừa và tồn kho quá mức . Mục đích của hoạt động
này là xác định số lượng sản phẩm yêu cầu, cần sản xuất bao nhiêu sản phẩm hay thời
gian nào cần những sản phẩm này,... để xây dựng kế hoạch phù họp. Trong hoạt động
này, doanh nghiệp cần phối họp một số biến số với nhau để quyết định diễn biến của
thị trường : nguồn cung (số lượng và thời gian sản xuất sản phẩm); lượng cầu (toàn
bộ nhu cầu của thị trường đối với một/một nhóm sản phẩm hay các dịch vụ liên quan);
đặc điểm của sản phẩm (những đặc trưng của sản phẩm tác động đến nhu cầu của
khách hàng); môi trường cạnh tranh (nhận diện đối thủ trên thị trường và xác định
chiến lược riêng)
Một số phương pháp để dự báo trong hoạt động này bao gồm : định tính (mơ
phỏng theo cá nhân doanh nghiệp); theo nhu cầu (giả sử rằng các nhu cầu liên quan
đến các yếu tố thị trường là chủ yếu); chuỗi thời gian (dựa vào các kết quả dữ liệu
quá khứ để lên kế hoạch hiện tại và dự báo tương lai); mô phỏng (kết họp hai phương
pháp theo nhu cầu và chuỗi thời gian). Đe đánh giá được kết quả dự đoán như cầu
cần đánh giá theo 3 tiêu chí: tính chính xác trong thời gian dự đốn ngắn hạn và dài
hạn; tính chính xác trong dự đoán tổng họp và theo những sản phẩm riêng lẻ; tính sai
số khi dự đốn.
Có một số yếu tố quyết định việc dự đoán nhu cầu. Thứ nhất phải kể đến chính là
lượng cầu, đó là nhu cầu của thị trường về sản phẩm/dịch vụ mà doanh nghiệp kinh
doanh, công tác trong việc dự báo lượng cầu luôn luôn gặp nhiều khó khăn vì thị
trường biến động rất nhiều. Thứ hai là “cung ứng”, định lượng cung ứng bị ảnh hưởng
từ số lượng nhà cung ứng và thời gian để sản xuất một sản phẩm. Cuối cùng đó chính
là môi trường cạnh tranh của doanh nghiệp. Việc dự báo ở mục này sẽ trả lời cho
nhiều câu hỏi: đối thủ của doanh nghiệp là những ai, thị phần cạnh tranh là bao nhiêu,
cần có chiến lược gì để tạo được lợi thế cạnh tranh,...
• Định giá sản phẩm
Giá cả là một nhân tố quan trọng đối với doanh nghiệp nói chung và người tiêu
dùng nói riêng, sản phẩm có mang tính cạnh tranh cao hay khơng tùy thuộc vào yếu
tố này nên doanh nghiệp cần xem xét và quyết định cho phù họp. Các hoạt động về
giá nhằm mục đích tối đa hố lợi nhuận trong mùa có nhu cầu cao và kiểm sốt chiphí trong
mùa có nhu cầu thấp. Việc định giá sản phẩm (trong hoạt động khuyến mãi)
sẽ ảnh huởng đến cơ cấu chi phí: tại thời điểm nhu cầu cao công ty cần phân bố linh
hoạt để đa dạng nhân viên để tăng công suất sản xuất; tại thời điểm nhu cầu thị truờng
ở mức thấp khi khuyến mãi, tác động của giảm giá nhằm tăng truởng thị truờng, tăng
thị phần, và kích cầu.
•
Quản lý hàng tồn kho
Việc này nhằm mục địch quản lý mức độ quản lý mức độ và số luơng hàng tồn
kho của doanh nghiệp. Mục tiêu chính của hoạt động này là làm giảm chi phí cho vệc
hru kho xuống mức tối thiểu, loại bỏ chi phí thừa trong giá thành sản phẩm cuối cùng.
Hoạch định trong hoạt động tồn kho sẽ liên quan trục tiếp đến 3 yếu tố : công suất,
dịch vụ và tồn kho; trong 3 yếu tốt này, khi giảm cái này sẽ tăng cái khác. Vai trò của
tồn kho đuợc thể hiện rất rõ qua : sụ chệch lệch giữa cung và cầu; nguồn giá và sụ
ảnh huởng đối với phản hồi mua bán. Những lý do dẫn đến việc tồn kho là do sụ thay
đổi không mong muốn trong nhu cầu của khách hàng, sai số trong quá trình dụ báo
số luợng và chất luợng của nguồn cung cấp,... Quản lý hru kho gồm có : hru kho
theo chu kỳ, hru kho theo mùa, hru kho an toàn, tuỳ vào hoạch định của từng cơng ty
mà có những cách quản lý hàng tồn kho họp lý.
1.4.2.
Cung ứng nguyên vật liệu (tìm nguồn cung ứng)
Trong yếu tố này bao gồm những hoạt động cần thiết để có đuợc các yếu tố
đầu vào để tạo ra các sản phẩm/dịch vụ. Hai hoạt động chính cần quan tâm là hoạt
động cung ứng và hoạt động tín dụng.
•
Cung ứng (thu mua)
Thu mua là quy trình tìm nguồn hàng cung cấp hàng hoá và dịch vụ cần thiết cho
một doanh nghiệp gồm các hoạt động : mua hàng, quản lý mức tiêu dùng, lụa chọn
nhà cung ứng, thuơng luợng họp đồng và quản lý họp đồng.
-Mua hàng ngoài việc mua nguyên vật liệu trục tiếp, doanh nghiệp còn mua những
dịch vụ về sửa chữa, bảo duỡng hay vận hành, trong quá trình thu mua phải chú ý
đến danh mục sản phẩm, số luợng đặt hàng, phuơng thức vận chuyển và thanh toán.
-Quá trình thu mua bắt đầu từ việc doanh nghiệp sẽ quyết định mua loại mặt hàng
nào với số luợng bao nhiêu, xác định mức tiêu thụ dụ kiến của từng sản phẩm ở từng
địa điểm khác nhau và so sánh với luợng tiêu thụ thục tế.
-Lựa chọn nhà cung ứng : nhà cung cấp đuợc lụa chọn cần phải đáp ứng đuợc mức
phục vụ, thời gian giao hàng đúng thời hạn và hoạt động hỗ trợ kỹ thuật cần thiết đối
với doanh nghiệp. Bản thân doanh nghiệp cần phải hiểu rõ tình hình mua hàng hiện
tại để có những đề xuất phù họp trong lúc thảo họp đồng với nhà cung cấp.
-Thuơng luợng và quản lý họp đồng : đây là hoạt động cần thiết và cần đuợc kiểm
soát nghiêm ngặt theo các danh mục về sản phẩm, giá cả, điều khoản,... và việc theo
dõi, đánh giá hiệu quả hoạt động của nhà cung cấp.
•
Hoạt động tín dụng
Hoạt động tín dụng là quy trình cung ứng mà công ty dùng để thu hồi các khoản
tiền bao gồm : thiết lập chính sách tín dụng, thục hiện hoạt động bán chịu và thu nợ
và quản lý rủi ro tín dụng. Việc thiết lập chính sách tín dụng sẽ có một đội ngũ cấp
cáo của doanh nghiệp đảm nhiệm, xem xét các khoản nợ, xu huớng, vấn đề rồi từ đó
thiết lập hay thay đổi mức độ chấp nhận rủi ro đối với các khoản phải thu.
1.4.3.
•
Sản xuẩt
Thiết kế sản phẩm
Việc thiết kế sản phẩm đáp ứng mong muốn về đặc tính, tính chất (lý tính, hóa
tính)...
của sản phẩm đối với nhu cầu cảu khách hàng. Thiết kế sản phẩm đuợc dựa vào những
thông tin từ hoạt động hoạch định. Công việc thiết kế sản phẩm/dịch vụ cần sụ phối
họp của nhiều bộ phận, đuợc tiến trình theo quy trình nhất định. Trong một chuỗi
cung ứng, khi thiết kế sản phẩm, doanh nghiệp ngày nay đa phần huớng đến sụ tối
giản, cấu thành gọn nhẹ và công nghệ phù họp. Có rất nhiều tiêu chí để đánh giá một
thiết kế : chất luợng, chi phí sản xuất, chi phí thiết kế, tốc độ thục hiện,...
•
Quản lý dây truyền
Quản lý sản xuất là một hoạt động trong khâu sản xuất, tham gia trục tiếp vào quá
trình giám sát tiến độ sản xuất để đảm bảo hàng hoá đạt yêu cầu về chất luợng, thời
gian tiêu chuẩn đuợc đề ra ở hoạt động hoạch định. Thơng thuờng có 3 phuơng pháp
để quản lý dây truyền đuợc thống kê :
-
Phuơng pháp tổ chức dây truyền : đặc tính của phuơng pháp này là tính liên
tục, từng cơng đoạn đuợc chia nhỏ, sắp xếp nhất định theo từng khâu họp lý.
-
Phuơng pháp sản xuất nhóm : phuơng pháp này khơng thiết kế theo quy trìnhnhất
định mà tất cả các thành viên sẽ cùng làm chung.
- Phương pháp sản xuất chiếc : tổ chức làm việc theo từng đơn vị nhỏ, phương
pháp này cũng khơng có quy trình mặc định mà chỉ có những quy định chung của
cơng việc.
1.4.4.
Phân phối
Là hoạt động tổng họp bao gồm nhận đơn đặt hàng từ khách hàng; phân phối
các sản phẩm/dịch vụ cho khách hàng đã đặt hàng.
•
Quản lý giao hàng :
Đây là q trình duyệt những thơng tin có trong họp đồng giữa các bên liên quan.
Nhà cung cấp sẽ thực hiện giao hàng hoá cho doanh nghiệp tại kho hàng, trung tâm
phân phối , hay tại chính các chuỗi cửa hàng của doanh nghiệp,... Việc thực hiện
giao hàng sẽ được giám sát và kiểm tra nghiêm ngặt, đây là một hoạt động vô cùng
quan trọng trong chuỗi cung ứng.
•
Lịch giao hàng : Lập lịch giao hàng sao cho thuận tiện nhất có thể, đáp ứng nhu
cầu khách hàng theo đúng thời gian qui định trong họp đồng. Lịch giao hàng sẽ chịu
quyết định từ phương thức vận tải : phân phối trực tiếp và phân phối theo lịch trình
được hoạch định.
•
Quy trình trả hàng: Đối với những sản phẩm bị hư hỏng, công ty phải bố trí để
chun chở những loại hàng đó về để tiến hành sửa chữa hoặc tiêu hủy nếu cần
(Quay
lại bước Hoạch định). Đây là hoạt động mà các doanh nghiệp không mong muốn
xảy
ra nhất nên cần phải hạn chế bằng cách quản lý thực hiện phân phối quản lý một
cách
chặt chẽ.
1.4.5.
Xu hưởng chuỗi cung ứng ngày nay