Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

Trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi trong luật hình sự việt nam lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (756.77 KB, 42 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
PHÂN HIỆU ĐHĐN TẠI KON TUM

NGUYỄN NGỌC VỊNH

BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP

TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰCỦA NGƯỜI DƯỚI 18
TUỔI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Kon Tum, tháng 6 năm 2019


ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
PHÂN HIỆU ĐHĐN TẠI KON TUM

BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP

TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰCỦA NGƯỜI DƯỚI 18
TUỔI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN : NGUYỄN THỊ ANH THƯ
SINH VIÊN THỰC HIỆN
: NGUYỄN NGỌC VỊNH
LỚP
: K915LK2
MSSV
: 15152380107115


Kon Tum, tháng 6 năm 2019


MỤC LỤC
CHƯƠNG 1. PHẦN MỞ ĐẦU .........................................................................................1
1.1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài .........................................................................1
1.2. Những vấn đề được xác lập và tuyên bố trong đề tài ..............................................1
1.3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài ..................................................................................1
1.4. Những câu hỏi đặt ra trong nghiên cứu ....................................................................2
1.5. Phương pháp nghiên cứu ...........................................................................................2
1.6. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................................2
1.7. Ý nghĩa của nghiên cứu ..............................................................................................2
1.8. Kết cấu báo cáo của nghiên cứu ................................................................................3
CHƯƠNG 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH
SỰ CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN ........................................................................4
2.1. Khái niệm trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên ..................................4
2.1.1. Khái niệm trách nhiệm hình sự .............................................................................4
2.1.2. Khái niệm người chưa thành niên .........................................................................7
2.1.3. Khái niệm trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên ................................10
2.2. Miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên ....................10
2.2.1. Khái niệm miễn trách nhiệm hình sự ..................................................................10
2.2.2. Điều kiện miễn trách nhiệm hình sự ....................................................................10
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG VỀ VIỆC TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI ...............................................12
3.1. Một số quy định của pháp luật về việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người chưa thành niên phạm tội.....................................................................................12
3.1.1. Nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội .............................................12
3.1.2. Các biện pháp tư pháp được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội ..14
3.1.3. Hệ thống hình phạt được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội .......16
3.2. Thực trạng tình hình truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành

niên phạm tội ở nước ta ...................................................................................................17
3.3 .Một số nhận xét về việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành
niên phạm tội ở nước ta ...................................................................................................20
3.4. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về trách nhiệm hình
sự của người chưa thành niên phạm tội.........................................................................23
3.5 . Một số giải pháp nhằm giảm việc vi phạm pháp luật hình sự của người chưa
thành niên. ........................................................................................................................28
3.5.1. Từ phía gia đình ...................................................................................................29
3.5.2. Từ phía nhà trường. .............................................................................................31
3.5.3. Từ phía xã hội. .....................................................................................................31
3.5.4. Từ chính bản thân người chưa thành niên ...........................................................32
3.5.5. Từ phía cơ quan bảo vệ pháp luật........................................................................33
KẾT LUẬN .......................................................................................................................34
i


TÀI LIỆU THAM KHẢO
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN

ii


GIỚI THIỆU VỀ ĐƠN VỊ THỰC TẬP
I. TỔNG QUAN VỀ ĐƠN VỊ THỰC TẬP
1.1.Lịch sử hình thành và phát triển của đơn vị
- Văn phòng luật Sài Gòn An Nghiệp mở cửa chính thức vào năm 2016, tại số nhà
52 Bà Triệu, Tp Kon Tum, tỉnh Kon Tum
1.2. Đặc điểm hoạt động:
- Văn phòng chuyên tư vấn pháp lý về hơn nhân gia đình, tranh chấp đất đai, đại
diện ủy quyền, soạn thảo đơn từ khởi kiện, tham gia tố tụng tại tòa án nhân dân các cấp,

các vụ án từ dân sự tới hình sự.
1.3. Sơ đồ tổ chức:
- Trưởng Văn phòng: Luật sư Tạ Văn Nghiệp
- Chuyên viên tư vấn pháp lý: Nguyễn Văn Hiến
1.4. Nội quy của đơn vị:
- Thời gian làm việc : Từ thứ 2 đến thứ 6, sáng: 7h30 – 11h, chiều : 13h30 – 17h
- Đồng phục quần tây áo sơ mi trắng
- Ln thân tiện cởi mở, hịa nhã chăm sóc khách hàng tận tình
- Mọi cơng việc đều phải được sự đồng ý của Trưởng Văn Phòng
II. NỘI DUNG THỰC TẬP
2.1.Nhiệm vụ công việc:
- Photo, in các tài liệu văn bản tại văn phòng.
- Nghiên cứu hồ sơ tại văn phòng, đọc các bản án tại văn phòng.
- Soạn thảo văn bản (đơn ly hôn, đơn khởi kiện, đơn tố cáo, khiếu nại, kháng cáo)
- Tư vấn pháp luật về đất dân sự, hình sự…
- Nhận ủy quyền, bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp cho đương sự trong các vụ
án dân sự
2.2.Q trình thực hiện cơng việc:
- Ngồi trực văn phịng có khách vào thì tư vấn, nhận hồ sơ nghiện cứu hồ sơ, nhận
ủy quyền từ đương sư, soạn đơn (được trưởng phòng duyệt), tập hợp các chứng cứ tài
liệu liên quan nộp đơn lên cơ quan có thẩm quyền
2.3. Kết quả cơng việc:
- Ln cố gắng hồn thành cơng việc được giao.
- Hiểu được quy cách để soạn thảo các văn bản, đơn từ
- Biết được các quy trình tố tụng dân sự.
2.4.Kết Luận:
*Thuận Lợi:
- Qua 3 tháng thực tập tại văn phịng luật thì các công việc trở nên thuận lợi và dễ
dàng hơn.
- Được tiếp xúc và làm việc trong một môi trường năng động, kỷ luật và thân thiện.

- Ln được trưởng phịng Tạ Văn Nghiệp hướng dẫn nhiệt tình, quan tâm chỉ dẫn
và tạo điều kiện tốt nhất để chúng em hoàn thành công việc.


- Mọi người trong văn phịng ln hịa đồng nhiệt tình và ln giúp đỡ nhau trong
cơng việc
*Khó Khăn:
- Tiếp xúc với nhiều công việc khác nhau nên cũng gặp khơng ít khó khăn vì trình
độ chun mơn cịn yếu, thiếu kinh nghiệm thực tế.
III. Một số kiến nghị về chương trình học:
- Nên tăng thêm thời gian thực tập để sinh viên tiếp xúc với công việc thực tế trước
khi ra trường
- Nên có nhiều buổi ngoại khóa nói chuyện trao đổi với sinh viên về ngành học mà
họ đang theo đuổi
- Mời các khách mời có thâm niên cơng tác vê nói chuyện với sinh viên.


CHƯƠNG 1
PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài
Pháp luật với tư cách là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội. Nó ln tác động và
ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến các quan hệ xã hội nói chung và tới các đối tượng mà nó
điều chỉnh nói riêng, vì vậy để pháp luật phát huy được vai trò, tác dụng và giá trị to lớn
của nó thì cần phải xây dựng một hệ thống pháp luật có tính khoa học, đảm bảo tác động
có hiệu quả đến các đối tượng mà pháp luật cần điều chỉnh.
Trong những năm gần đây, tình trạng người chưa thành niên vi phạm pháp luật xảy
ra khá phổ biến, điều cần lưu ý là hành vi vi phạm pháp luật hình sự của người chưa
thành niên ngày cành gia tăng. Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội là một việc
khá phức tạp bởi người chưa thành niên còn yếu về nhận thức, hành vi của họ thường
mang tính bột phát do bị lơi kéo hoặc kích động, họ chưa đủ khả năng làm chủ hành động

của mình hơn nữa họ cịn có một tương lai dài phía trước. Do đó, khơng thể áp dụng các
biện pháp xử lý người chưa thành niên phạm tội giống với những người đã thành niên.
Hiện nay, trong hệ thống pháp luật của nước ta đã có những quy định xử lý riêng
đối với người chưa thành niên phạm tội, những quy định này đã đem lại lợi ích cho
những người chưa thành niên phạm tội nhưng trong những năm gần đây số lượng người
chưa thành niên vi phạm hình sự khơng có dấu hiệu giảm đi, vì thế cần nghiên cứu, đánh
giá chính xác hiệu quả của pháp luật trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự của người
chưa thành niên để đề ra những quy định phù hợp vừa giúp nâng cao hiệu quả của pháp
luật, vừa làm giảm được vi phạm của người chưa thành niên.
Do đó, việc nghiên cứu đề tài “Trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi trong
luật hình sự Việt Nam. Lý luận và thực tiễn” là vấn đề mang tính thời sự và cấp thiết.
1.2. Những vấn đề được xác lập và tuyên bố trong đề tài
Nghiên cứu tập trung làm sang tỏ những vấn đề cơ bản sau đây:
- Những vấn đề lý luận cơ bản về trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên
- Pháp luật hiện hành về việc truy cứu trách nhiệm hình sự của người chưa thành
niên
- Thực trạng về việc vi phạm hình sự của người chưa thành niên
- Thực trạng về việc truy cứu trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm
tội
- Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về việc truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người chưa thành niên phạm tội
- Một số giải pháp nhằm làm giảm vi phạm hình sự của người chưa thành niên
1.3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu có một số mục tiêu sau đây:
- Nắm được và hiểu rõ được một số vấn đề lý luận cơ bản về trách nhiệm hình sự
của người chưa thành niên
1


- Hiểu rõ một số quy định của pháp luật về việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối

với người chưa thành niên phạm tội
- Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của người chưa thành niên
- Nắm được thực trạng về việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa
thành niên phạm tội
- Tăng thêm tài liệu để tìm hiểu về lý luận và thực tiễn về việc truy cứu trách nhiệm
hình sự của người chưa thành niên
- Đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về việc xử lý
người chưa thành niên phạm tội
- Đề xuất những giải pháp làm giảm vi phạm hình sự của người chưa thành niên
1.4. Những câu hỏi đặt ra trong nghiên cứu
Để có thể đạt được những mục tiêu nêu trên, nghiên cứu cần làm sang tỏ những vấn
đề lý luận và thực tiễn, để làm sáng tỏ những câu hỏi sau đây:
- Thế nào là người chưa thành niên?
- Hành vi như thế nào là vi phạm hình sự?
- Nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng vi phạm hình sự của người chưa thành niên
ngày càng gia tăng
- Tình hình truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội ở
nước ta trong thời gian qua như thế nào?
- Các biện pháp xử lý hình sự đối với người chưa thành niên trong hệ thống pháp
luật nước ta có phù hợp và hiệu quả không?
- Để làm giảm hành vi vi phạm hình sự của người chưa thành niên, cần tiến hành
những giải pháp nào?
1.5. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành bằng nhiều phương pháp khác nhau như: phương pháp
thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh, điều tra xã hội học; bằng phương pháp đánh giá
thực trạng nghiên cứu, khảo cứu các tài liệu có lien quan đến việc nghiên cứu.
1.6. Phạm vi nghiên cứu
Do việc nghiên cứu trách nhiệm hình sự của người chưa thành là vấn đề được đặc
biệt quan tâm trong thời gian gần đây, nên để phục vụ cho mục tiêu đã đạt ra, nghiên cứu
được giới hạn trong khoảng thời gian từ năm 2005 tới nay..

1.7. Ý nghĩa của nghiên cứu
Nghiên cứu đã góp phần làm hồn thiện một số vấn đề lý luận cơ bản về trách
nhiệm hình sự của người chưa thành niên, từ đó tạo cơ sở cho việc nhận thức một cách
đúng đắn nhất về trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên và việc miễn truy cứu
trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên, góp phần nâng cao trách nhiệm của
người chưa thành niên vi phạm hình sự, áp dụng những vấn đề lý luận cơ bản này nhằm
nâng cao tính khả thi, hiệu quả của pháp luật, bồi dưỡng nâng cao nhận thức của các cán
bộ thuộc các cơ quan chức năng, đặc biệt là của những người chưa thành niên, nâng cao
năng lực quản lý của nhà nước.
2


Kết quả của nghiên cứu có thể được sử dụng trong các đề tài nghiên cứu khoa học
về các vấn đề liên quan tới trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên.
Kết quả của q trình nghiên cứu có thể được dùng làm tài liệu trong các buổi tuyên
truyền, tư vấn nhằm nâng cao nhận thức cho người chưa thành niên, qua đó góp phần làm
giảm số lượng vụ án vi phạm hình sự do lứa tuổi này gây ra.
Nghiên cứu giúp cơ quan chức năng có cái nhìn chính xác, sâu sắc về động cơ dẫn
tới hành vi vi pham hình sự của người chưa thành niên từ đó đưa ra hướng giải quyết
nhanh, hợp lý và hiệu quả.
1.8. Kết cấu báo cáo của nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục và phụ lục nghiên cứu cịn có cấu trúc 4
chương.

3


CHƯƠNG 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN

2.1. Khái niệm trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên
2.1.1. Khái niệm trách nhiệm hình sự
a. Trách nhiệm hình sự
Trách nhiệm hình sự (TNHS) là một trong những vấn đề lý luận phức tạp, là một
thuật ngữ pháp lý được sử dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật hình sự (
PLHS). Từ trước đến nay xung quanh khái niệm TNHS vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm
khác nhau. Hiện nay, trong khoa học Luật hình sự Việt Nam vẫn cịn tồn tại nhiều quan
điểm khác nhau, ví dụ như:
- PGS.TSKH. Lê Cảm định nghĩa : “TNHS là hậu quả pháp lý của việc thực hiện
tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng đối với người phạm tội một hoặc nhiều biện
pháp cưỡng chế của Nhà nước do Luật hình sự quy định” [5, tr.122];
- GS.TSKH. Đào Trí Úc viết: “TNHS là hậu quả pháp lý của việc phạm tội, thể
hiện ở chỗ người đã gây ra tội phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình trước Nhà
nước” [6, tr.41];
- GS.TS. Đỗ Ngọc Quang quan niệm: “TNHS là một dạng trách nhiệm pháp lý, là
trách nhiệm của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
PLHS bằng một hậu quả bất lợi do Tòa án áp dụng tùy thuộc vào tính chất và mức độ
nguy hiểm của hành vi mà người đó thực hiệm” [7 tr.14];
- GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa và PGS.TS. Lê Thị Sơn cho rằng: “TNHS là trách
nhiệm của người phạm tội phải chịu những hậu quả bất lợi về hành vi của mình. TNHS là
một dạng của trách nhiệm pháp lý bao gồm: nghĩa vụ phải chịu sự tác động của hoạt
động truy cứu TNHS, chịu vị kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của TNHS (hình phạt,
biện pháp tư pháp) và chịu mang án tích”[8, tr.281-282]…
Như vậy, dưới góc độ khái quát và chung nhất, trách nhiệm hình sự là một dạng của
trách nhiệm pháp lý và là hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm và được
thể hiện bằng việc áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do Luật
hình sự quy định đối với người phạm tội. Là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm,
TNHS chỉ phát sinh (xuất hiện) khi có sự việc phạm tội. Cho nên, TNHS là dạng trách
nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất so với bất kỳ dạng trách nhiệm pháp lý nào khác. Nó chỉ
được thực hiện trong phạm vi của quan hệ PLHS giữa hai bên với tính chất là hai chủ thể

có các quyền và nghĩa vụ nhất định- một bên là Nhà nước còn bên kia là người phạm tội.
Cụ thể, Nhà nước (mà đại diện là cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền) thì có quyền
truy cứu người phạm tội, nhưng phải có nghĩa vụ chỉ được xử lý dựa trên các căn cứ và
trong các giới hạn xê dịch do pháp luật quy định, cịn người phạm tội thì có nghĩa vụ phải
chịu tước bỏ hoặc hạn chế quyền, tự do nhất định, nhưng đồng thời cũng có quyền yêu
cầu sự tuân thủ từ phía Nhà nước (các cơ quan tư pháp hình sự đã nêu) đối với các quyền
và lợi ích của con người và cơng dân theo đúng hành lang pháp lý mà pháp luật cho phép.
4


Từ các khái niệm và phân tích khái niệm TNHS ở trên ta có thể rút ra một số đặc
điểm của TNHS:
- TNHS là hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi phạm tội. Hậu quả này chỉ
phát sinh khi có người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật hình sự cấm
hoặc khơng thực hiện những nghĩa vụ mà pháp luật hình sự yêu cầu phải thực hiện.
- TNHS chỉ có thể được xác định bằng trình tự đặc biệt theo quy định của pháp luật
mà các cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ phải thực hiện.
- TNHS được biểu hiện cụ thể ở việc người phạm tội phải chịu biện pháp cưỡng chế
nghiêm khắc nhất của Nhà nước là hình phạt, biện pháp tước bỏ hoặc hạn chế ở họ một
số quyền hoặc lợi ích hợp pháp.
- TNHS mà người phạm tội phải gánh chịu là trách nhiệm đối với Nhà nước chứ
không phải đối với người mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị hành vi phạm tội trực
tiếp xâm hại
- TNHS phải được phản ánh trong bản án hay quyết định có hiệu lực pháp luật của
tịa án
b. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự
Khơng phải từ khi sinh ra con người đã có năng lực TNHS. Năng lực TNHS là năng
lực của tự ý thức được hình thành trong quá trình phát triển của cá thể về mặt tự nhiên và
mặt xã hội. “Chỉ trong tự ý thức, con người (mới) tách mình và độc lập với thế giới xung
quanh, xác định vị trí của mình trong những quan hệ tự nhiên và xã hội. Từ đó hình

thành nên những cá nhân, những chủ thể có ý thức đầy đủ về hoạt động của mình, chịu
trách nhiệm về hành vi của mình.”
Ở mỗi con người bình thường đều có khả năng hình thành và phát triển ý thức và tự
ý thức. Nhưng phải qua quá trình hoạt động và giáo dục trong điều kiện xã hội, khả năng
đó mới có thể trở thành hiện thực. “Ý thức ngay từ đầu đã là một sản phẩm xã hội và vẫn
là một sản phẩm xã hội chừng nào nói chung con người vẫn tồn tại”.
Như vậy năng lực TNHS chỉ hình thành khi con người đã đạt đến một độ tuổi nhất
định và năng lực đó sẽ tiếp tục hoàn thiện và phát triển trong những giai đoạn nhất định
tiếp theo. Khi đạt độ tuổi đó, con người nói chung sẽ có năng lực TNHS, trừ những
trường hợp cá biệt – những trường hợp mà luật hình sự coi là trong tình trạng khơng có
năng lực TNHS (Điều 13 BLHS)
Luật hình sự các nước dựa trên cơ sở kết quả các cơng trình nghiên cứu, khảo sát
về tâm lí cũng như căn cứ vào chính sách hình sự của mình mà đã quy định tuổi bắt đầu
có năng lực TNHS và tuổi có năng lực TNHS đầy đủ. Mức tuổi cụ thể của tuổi bắt đầu có
năng lực TNHS và tuổi có năng lực TNHS đầy đủ được xác định ở mỗi nước và có thể ở
mỗi thời gian nhất định trong mỗi nước khơng hồn tồn giống nhau.
Theo quy định này, người chưa đạt độ tuổi bắt đầu có năng lực TNHS sẽ ln ln
được coi là khơng có lỗi. Trong độ tuổi từ bắt đầu có năng lực TNHS đến độ tuổi có năng
lực TNHS đầy đủ, năng lực TNHS còn hạn chế, do vậy người trong độ tuổi này chỉ bị coi
là có năng lực TNHS trong những trường hợp nhất định. Ở Việt Nam, căn cứ vào thực
5


tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm và trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm các nước
khác, Nhà nước ta đã xác định trong BLHS tuổi 14 là tuổi bắt đầu có năng lực TNHS và
tuổi 16 là tuổi năng lực TNHS đầy đủ.
Điều 12 BLHS 2015 quy định:
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ
những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm

rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123,
134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252,
265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.
Quy định trên đây là xuất phát từ đường lối của Nhà nước ta về xử lí đối với người
chưa thành niên phạm tội cũng như xuất phát từ cơ sở cho rằng người trong độ tuổi năng
lực TNHS chưa đầy đủ ln ln có thể nhận thức được tính chất xã hội của một số hành
vi nguy hiểm cho xã hội nhất định.
Một vấn đề khác cũng liên quan đên vấn đề tuổi chịu trách nhiệm hình sự đó là việc
xác định tuổi của người phạm tội. Việc xác định chính xác tuổi của họ có ý nghĩa rất
quan trọng trong việc xác định tội phạm và TNHS của họ. Trong nhiều trường hợp nó có
ý nghĩa quyết định trong việc khẳng định có phạm tội hay khơng phạm tội cũng như có
phải chịu TNHS hay khơng phải chịu TNHS.
Để xác định tuổi của người phạm tội ta căn cứ vào ngày tháng năm sinh được ghi
trên giấy khai sinh, tuy nhiên trên thực tế có rất nhiều trường hợp khơng có căn cứ gì để
ngày tháng năm sinh, xác định độ tuổi của người có hành vi gây nguy hiểm cho xã hội.
Để xác định được tuổi của người phạm tội trong mọi trường hợp và đảm bảo
nguyên tắc có lợi cho người phạm tội, tại cơng văn số 81 ngày 10 tháng 6 năm 2002, tòa
án nhân dân tối cao cụ thể hóa cách xác định tuổi trong từng trường hợp cụ thể.
Nếu xác định được tháng cụ thể, nhưng không xác định được ngày nào trong tháng
thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh của bị can, bị cáo.
Nếu xác định được quý cụ thể của năm, nhưng không xác định được cụ thể ngày
nào, tháng nào của q đó thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng của quý đó làm
ngày sinh của bị can, bị cáo để xem xét TNHS đối với bị can, bị cáo.
Nếu xác định được cụ thể nửa đầu hay nửa cuối năm, nhưng không xác định được
ngày tháng nào trong nửa đầu hay nửa cuối năm thì lấy ngày 30 tháng 6 hoặc 31 tháng
12 tương ứng của năm đó làm ngày sinh của bị can, bị cáo để xem xét TNHS đối với bị
can, bị cáo.
Nếu không xác định được nửa năm nào, quý nào, tháng nào trong năm thì lấy ngày
31 tháng 12 của năm đó làm ngày sinh của bị can, bị cáo để xem xét TNHS đối với bị
can, bị cáo.

Trong văn bản này mới chỉ có cách tính tuổi khi khơng có đủ điều kiên xác định
chính xác ngày tháng sinh. Nếu có sự tranh chấp về năm sinh thì văn bản trên chưa đưa ra

6


cách thức để xác định. Trong trường hợp đó người ta thường căn cứ vào kết quả giám
định.
Nhìn chung, các quy định của pháp luật nước ta trong việc xác định tuổi của người
phạm tội đều mang tính có lợi cho bị cáo, điều đó thể hiện tinh thần nhân đạo của Nhà
nước ta cũng như thái độ của Nhà nước đối với những người chưa thành niên phạm tội.
2.1.2. Khái niệm người chưa thành niên
a. Người chưa thành niên
Người chưa thành niên là những người chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ về nhân
cách, chưa có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân. Pháp luật ở mỗi quốc gia
quy định độ tuổi cụ thể của người chưa thành niên.
Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp quốc thơng
qua ngày 20/11/1989 có ghi: “Trong phạm vi Cơng ước này, trẻ em có nghĩa là người
dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi thành niên
sớm hơn”.
Ở Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác định thống nhất trong Hiến
Pháp năm 1992, Bộ luật Hình sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Bộ luật
Lao động, Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và một số văn bản quy
phạm pháp luật khác. Tất cả các văn bản pháp luật đó đều quy định tuổi của người chưa
thành niên là dưới 18 tuổi và quy định riêng những chế định pháp luật đối với người chưa
thành niên trong từng lĩnh vực cụ thể.
Khái niệm người chưa thành niên khác với khái niệm trẻ em. Theo Điều 1 Luật Bảo
vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004: “Trẻ em là cơng dân Việt Nam dưới 16
tuổi”.
Tóm lại, khái niệm người chưa thành niên được xây dựng dựa trên sự phát triển về

mặt thể chất và tinh thần của con người và được cụ thể hoá bằng giới hạn độ tuổi trong
các văn bản pháp luật của từng quốc gia. Theo đó, người ta quy định những quyền và
nghĩa vụ cụ thể của người chưa thành niên.
Như vậy, có thể khái niệm: Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi, chưa phát
triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý
như người đã thành niên.
Tham khảo thêm các văn bản pháp luật quốc tế liên quan đến người chưa thành niên
gồm: Công ước về Quyền trẻ em (United Nations Convention on the Rights of the Child)
được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 20-11-1989; Quy tắc tiêu chuẩn tối
thiểu của Liên hợp quốc về áp dụng pháp luật với người chưa thành niên (United Nations
Standard Minimum Rules for the Administration of Juvenile Justice /Beijing Rules) ngày
29-11-1985; Hướng dẫn của Liên hợp quốc về phòng ngừa phạm pháp ở người chưa
thành niên (United Nations Guidelines for the Prevention of Juvenile delinquency/
Riyadh Guidelines) ngày 14-12-1990. Theo quan niệm quốc tế thì trẻ em (Child) là người
dưới 18 tuổi, người chưa thành niên (Juvenile) là người từ 15 đến 18 tuổi, thanh niên

7


(Youth) là người từ 15 đến 24 tuổi, người trẻ tuổi (Young persons) bao gồm trẻ em,
người chưa thành niên và thanh niên.
Ở Việt Nam, tuổi kết nạp Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh là từ 10 đến 15
tuổi, tuổi kết nạp Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là từ 15 đến 30 tuổi. Trong tuổi
Đồn gọi là thanh niên, trong tuổi Đội là thiếu niên, dưới tuổi Đội gọi là nhi đồng. Ở mỗi
lứa tuổi, người chưa thành niên được Nhà nước và xã hội quan tâm bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục để phát triển tốt nhất về thể chất và nhân cách, trở thành người khỏe mạnh, có
ích cho xã hội.
b. Đặc điểm tâm lí của người chưa thành niên
Đặc trưng cơ bản của nhóm người chưa thành niên (vị thành niên) biểu hiện trước
hết ở vị trí vai trị của nó trong đời sống xã hội cũng như trong chính cuộc đời của mỗi

người. Nếu trong cuộc đời, tuổi vị thành niên là giai đoạn quan trọng, giai đoạn bản lề có
thể quyết định toàn bộ cuộc sống sau này của mỗi người thì trong xã hội, thế hệ vị thành
niên bao giờ cũng đại diện cho một sự chuyển tiếp vào các thế hệ mới, hướng tới tương
lai. Nguồn nhân lực cho sự phát triển được nảy sinh, bảo vệ, nuôi dưỡng từ tuổi trẻ em,
bổ sung và hoàn thiện dần về thể chất, tri thức và nhân cách từ vị thành niên và bắt đầu
thực sự đóng góp cho xã hội ở những giai đoạn sau đó.
Thực tế cho thấy, lối sống, đạo đức và nhân cách của mỗi người được hình thành từ
tuổi ấu thơ và định hình rõ nét từ tuổi vị thành niên. Tuổi vị thành niên hàm chứa trong
mình nó rất nhiều những yếu tố vừa ghi nhận, vừa loại bỏ, vừa định dạng vừa biến động
trong nhận thức, tâm lý, tình cảm, suy nghĩ của con người trong giai đoạn này rồi trở
thành khuôn mẫu nhân cách của chính con người đó trong cuộc đời sau này. Đặc trưng cơ
bản của nhóm vị thành niên có thể được xác định bởi những biến đổi thường xuyên ,liên
tục của ba mặt cơ bản: mặt thể chất, mặt tâm lý, tình cảm, nhận thức và sau đó là mặt
hành vi, cụ thể là :
Thứ nhất, vị thành niên là nhóm tuổi có những sự thay đổi mạnh mẽ nhất về thể
chất trong cuộc đời của mỗi người. Trên bình diện y sinh học, nó là giai đoạn chuyển
biến từ một đứa trẻ non nớt thành một người lớn khoẻ mạnh. Sự trưởng thành nhanh
chóng gần như đột biến ấy không chỉ gây sự ngạc nhiên cho những người xung quanh mà
cịn cho chính cả những đứa trẻ ở vào lứa tuổi này. “Tuổi mười bảy bẻ gãy sừng trâu” là
câu tục ngữ hoàn toàn đúng mà người xưa đã dùng để nói về tuổi vị thành niên.
Thứ hai, vị thành niên cũng là giai đoạn thay đổi nhanh chóng nhất về tâm lý, tình
cảm, nhận thức, mà trong nhiều trường hợp, chính sự thay đổi cịn có thể gây “sốc” cho
bản thân lứa tuổi này. Các nhà tâm lý học đều đã viết và nói nhiều về sự đa dạng và phức
tạp trong tình cảm, tâm lý trầm tư, u uất, sự khép mình vào thế giới nội tâm của nhiều bạn
gái trẻ, hoặc thái độ ngang bướng thậm chí phá phách, muốn khẳng định mình ở các bạn
trai, khi ở vào tuổi vị thành niên. Do vậy, có thể nói rằng, tuổi vị thành nien cũng là giai
đoạn có nhiều biến động nhất trong sự hình thành các giá trị đạo đức, lối sống và nhân
cách của mỗi người. Để rồi, sau khi vuợt qua lứa tuổi này, con người có thể bước vào đời
như những cơng dân tương lai với tất cả những gì được tạo dựng từ đó, những tốt và xấu,
8



trắng và đen, những đúng đắn và sai lệch đan xen nhau, đấu tranh với nhau trong suốt
quãng đường còn lại của đời người.
Thứ ba, từ sự thay đổi về thể chất và nhận thức, vị thành niên cũng là nhóm nhân
khẩu xã hội có những biến đổi mạnh mẽ nhất trong hành vi. Nó khiến cho bao giờ cũng
vậy, rất nhiều hành vi của nhóm tuổi này ln là khó hiểu và khó lường trước được đối
với những thế hệ khác, đặc biệt là những người lớn tuổi. Ở vào tuổi vị thành niên, người
ta dễ dàng hành động mà khơng cần có sự cân nhắc, tính tốn chín chắn. Trẻ vị thành
niên có thể là những người vị tha, độ lượng có thể hy sinh thân mình để làm những điều
tốt đẹp, nhưng cũng có thể ngay sau đó lại bị lơi kéo vào những hành vi xấu mà không
nhận biết được. Người ta cũng rất dễ bị lây nhiễm những tệ nạn xã hội như cờ bạc, rượu
chè, trộm cắp, đánh nhau khi ở vào tuổi vị thành niên để rôi khi trưởng thành đã không
thể dễ dàng từ bỏ những tệ nạn này.
Ở nước ta, thực tế những năm thực hiện công cuộc đổi mới cho thấy, sự nâng cao
bước đầu về đời sống kinh tế xã hội, đặc biệt là về mức sống đã khiến cho vị thành niên ở
nước ta có những sự phát triển mạnh về thể chất. Nhìn chung, sức khoẻ, chiều cao, cân
nặng của thế hệ vị thành niên những năm gần đây đã tăng lên so với những thế hệ trước
đó. Bên cạnh sự phát triển về thể chất, việc mở rộng các điều kiện học tập sinh hoạt, vui
chơi giải trí, giao lưu văn hố...cũng khiến cho các thế hệ vị thành niên hiện nay đã có
được những sự phát triển mạnh mẽ về nhận thức, tình cảm, suy nghĩ và sức sáng tạo. Vị
thành niên nước ta ngày càng chứng minh được trên thực tế tiềm năng to lớn, vị trí, vai
trị của họ đối với sự phát triển của đất nước trong tương lai
Tuy nhiên, lớn lên trong hồn cảnh xố bỏ bao cấp về nhiều mặt, cuộc sống của cha
mẹ, những người lớn tuổi trong gia đình và xã hội phần nhiều đều tập trung vào những lo
toan hàng ngày về kinh tế và đời sống, lại luôn phải sống và chứng kiến những mặt trái
của cơ chế thị trường, những tệ nạn xã hội, nhóm vị thành niên đã sinh trưởng và lớn lên
cùng với rất nhiều tâm tư, suy nghĩ.
Lực lượng bỏ học hoặc khơng được học hành đến nơi đến chốn trong nhóm tuổi vị
thành niên chiếm tỷ lệ khá cao. Theo các cuộc khảo sát về mức sống dân cư của Tổng cục

thống kê trong những năm gần đây thì số lượng vị thành niên mù chữ ở nước ta hiện nay
đã ở mức đáng lo ngại. Số vị thành niên bỏ học hoặc không thể thi đỗ vào trung học hoặc
đại học cũng đã khiến cho tỷ lệ những người không đi học ở nhóm vị thành nien cao hơn
hẳn ở nhóm học sinh trẻ em. Khơng có điều kiện để tiếp tục học tập ở tuổi chưa thành
niên, lại không thể kiếm được việc làm đã khiến cho các em dễ rơi vào các tệ nạn xã hội.
Ở nước ta, việc sử dụng lao động trẻ em trong đó có lao động của vị thành niên là
khá phổ biến. Ở nơng thơn ,có tới trên 90% số vị thành niên phải tham gia lao động kiếm
sống cùng với gia đình, trong đó nhiều em đã trở thành lực lượng lao động chính. Nhiều
em đã phải bán sức lao động, đi làm thuê, làm những công việc nặng nhọc như đập đá,
làm phu nề, kéo xe... để kiếm sống. Nhiều em gái phải ra thành phố làm trong các quán
ăn, nhà trọ, bị buộc phải trở thành gái mãi dâm. Thực tế những năm gần đây cũng đã cho
thấy, trong sự di chuyển dân cư và lao động mạnh mẽ dưói tác động của cơ chế thị
9


trường, số lao động vị thành niên đã chiếm một tỷ lệ khá cao. Trong điều kiện xa gia
đình, xa người thân quen, khơng được chăm sóc, quản lý, giáo dục đầy đủ, phải tự lập
quá sớm lại thiếu kinh nghiệm sống, chưa đủ kiến thức và bản lĩnh để ứng xử , các em rất
dễ bị bóc lột, lừa gạt, lôi kéo, ép buộc, rơi vào cạm bẫy của các tệ nạn xã hội hoặc vi
phạm pháp luật
2.1.3. Khái niệm trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên
Qua phân tích khái niệm trách nhiệm hình sự, khái niệm người chưa thành niên ta
có thể rút ra khái niệm trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên như sau:
Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên là trách nhiệm mà người chưa
thành niên phạm tội phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi về hành vi phạm tội của
mình
2.2. Miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên
2.2.1. Khái niệm miễn trách nhiệm hình sự
Cũng là một trong những chế định quan trọng trong Luật hình sự Việt Nam, miễn
TNHS thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước ta đối với người phạm

tội, đồng thời qua đó nhằm động viên, khuyến khích người phạm tội lập cơng chuộc tội,
chứng tỏ khả năng giáo dục, cải tạo nhanh chóng hịa nhập với cộng đồng và giúp họ trở
thành người có ích cho xã hội
Ta có thể định nghĩa khái niệm miễn trách nhiệm hình sự như sau:
Miễn trách nhiệm hình sự là một chế định nhân đạo của Luật hình sự Việt Nam, do
cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền tùy thuộc vào giai đoạn tố tụng hình sự tương
ứng áp dụng và được thể hiện bằng nội dung không buộc một người phải gánh chịu hậu
quả pháp lí bất lợi của việc thực hiện tội phạm, nếu xét thấy khơng cần thiết phải truy
cứu trách nhiệm hình sự người đó và đáp ứng những điều kiện nhất định.
2.2.2. Điều kiện miễn trách nhiệm hình sự
Theo BLHS 2015thì việc miễn TNHS được thực hiện trong các điều kiện sau đây:
“ Điều 20. Sự kiện bất ngờ
Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội trong trường hợp không
thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó, thì khơng phải
chịu trách nhiệm hình sự.
Điều 21. Tình trạng khơng có năng lực trách nhiệm hình sự
Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần,
một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình,
thì khơng phải chịu trách nhiệm hình sự.
Điều 22. Phịng vệ chính đáng
1. Phịng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính
đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà
chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.
Phịng vệ chính đáng khơng phải là tội phạm.
Điều 23. Tình thế cấp thiết
10


1. Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh gây thiệt hại cho quyền, lợi
ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức

mà khơng cịn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.
Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết khơng phải là tội phạm.
Điều 24. Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội
1. Hành vi của người để bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội mà khơng cịn
cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ thì
khơng phải là tội phạm.
Điều 25. Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ
thuật và công nghệ
Hành vi gây ra thiệt hại trong khi thực hiện việc nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng
tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới mặc dù đã tuân thủ đúng quy trình, quy
phạm, áp dụng đầy đủ biện pháp phịng ngừa thì khơng phải là tội phạm.
Điều 26. Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên
Người thực hiện hành vi gây thiệt hại trong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ
huy hoặc của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh nếu đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng
người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó, thì khơng phải chịu trách
nhiệm hình sự. Trong trường hợp này người ra mệnh lệnh phải chịu trách nhiệm hình sự.”

11


CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG VỀ VIỆC TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
3.1. Một số quy định của pháp luật về việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người chưa thành niên phạm tội
3.1.1. Nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Xuất phát từ đặc điểm tâm lý và yêu cầu của cơng cuộc đấu tranh phịng chống tơi
phạm của người chưa thành niên, BLHS quy định những nguyên tắc đặc thù về việc xử lý
người chưa thành niên phạm tội bao gồm nội dung như sau:

Thứ nhất là mục đích của việc xử lý người chưa thành niên phạm tội. Khoản 1 Điều
91 BLHS 2015 khẳng định:
Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người
dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển
lành mạnh, trở thành cơng dân có ích cho xã hội.
Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức
của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện
gây ra tội phạm
Như vậy mục đích của việc xử lý người chưa thành niên phạm tội đã được xác định
một cách trực tiếp trong BLHS, ta có thể thấy rằng việc xử lý người chưa thành niên
phạm tội là để giáo dục, giúp họ sửa chữa lỗi lầm, trở thành công dân có ích cho xã hội
chứ khơng đề cập trực tiếp đến mục đích trừng trị. Do đó ta cần hiểu rằng, đối với người
chưa thành niên , nếu như hành vi mà họ thực hiện bị BLHS coi là tội phạm nhưng việc
có đưa ra truy tố xét xử hay không là việc mà các cơ quan chức năng có thẩm quyền phải
xem xét, cân nhắc và ngay trong giai đoạn này mục tiêu giáo dục, giúp đỡ người chưa
thành niên cũng phải được đặt lên hàng đầu.
Để thực hiện được nguyên tắc này, khi người chưa thành niên phạm tội các cơ quan
tư pháp phải xác định tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Việc làm này
sẽ giúp người chưa thành niên phạm tội nhận thức một cách đầy đủ và sâu sắc về hành vi
của mình có như vậy mới có thể giúp họ sửa chữa lỗi lầm và trở thành người có ích cho
xã hội. Bên cạnh đó các cơ quan chức năng còn phải làm rõ nguyên nhân và điều kiện
gây ra tội phạm, như vậy sẽ đủ cơ sở đưa ra quyết định truy tố hay khơng? Nếu có thì
phải áp dụng các biện pháp cụ thể làm triệt tiêu nguyên nhân và điều kiện của tội phạm
nhằm hạn chế mức thấp nhất tội phạm do người chưa thành niên gây ra.
Thứ hai là điều kiện miễn trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên chưa
thành niên phạm tội thấp hơn so với những người thành niên phạm tội. Khoản 2 Điều 91
BLHS 2015 quy định:
Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây và có nhiều
tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp
quy định tại Điều 29 của Bộ luật này, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp

dụng một trong các biện pháp quy định tại Mục 2 Chương này:
12


a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm
trọng, trừ tội phạm quy định tại các điều 134, 141, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của
Bộ luật này;
b) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng quy định tại
khoản 2 Điều 12 của Bộ luật này, trừ tội phạm quy định tại các điều 123, 134, 141, 142,
144, 150, 151, 168, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật này;
c) Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm có vai trị khơng đáng kể trong vụ án.
Như đã nói ở trên, các điều kiện mà BLHS quy định cho phép miễn TNHS đối với
người chưa thành niên phạm tội có tính chất mở rộng hơn so với người phạm tội nói
chung. Người chưa thành niên được miễn TNHS khi thỏa mãn bốn điều kiện sau:
- Tội phạm thực hiện là tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng;
- Chưa gây thiệt hại hoặc thiệt hại khơng lớn;
- Có nhiều tình tiết giảm nhẹ;
- Được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục.
Thứ ba là điều kiện truy cứu TNHS và áp dụng hình phạt đối với người chưa thành
niên phạm tội được quy định trong Khoản 3, 4 Điều 91 BLHS 2015:
-Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ trong trường
hợp cần thiết và phải căn cứ vào những đặc điểm về nhân thân của họ, tính chất nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và yêu cầu cầu việc phòng ngừa tội phạm.
- Khi xét xử, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu
xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp quy định tại
Mục 2 hoặc việc áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng quy định tại Mục 3
Chương này khơng bảo đảm hiệu quả giáo dục, phịng ngừa.
Ngun tắc thứ ba của việc xử lý người chưa thành niên phạm tội thể hiện tính nhân
đạo sâu sắc. Khơng phải mọi trường hợp người chưa thành niên phạm tôi đều bị truy cứu
TNHS. Việc đưa ra truy cứu TNHS chỉ đặt ra khi nó thực sự cần thiết và xuất phát từ yêu

cầu phòng ngừa tội phạm. Ngay cả khi người chưa thành niên phạm tội bị truy cứu TNHS
thì họ vẫn có khả năng khơng bị áp dụng hình phạt. Thay vào đó là các biện pháp tư pháp
nếu các biện pháp này đủ tác dụng cải tạo họ thành cơng dân có ích. Như vậy có thể nói
rằng việc truy cứu TNHS và áp dụng hình phạt đối với người thành niên phạm tội là biện
pháp cuối cùng.
Nguyên tắc thứ tư đối với người chưa thành niên phạm tội là nguyên tắc giảm nhẹ
TNHS. Tính chất giảm nhẹ được thể hiện ở những quy định về loại và mức phạt tù có
thể áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội. Khoản 5,6 Điều 91 BLHS 2015quy
định:
Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi
xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác khơng có tác dụng răn đe, phòng
ngừa.

13


Khi xử phạt tù có thời hạn, Tịa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng
mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và
với thời hạn thích hợp ngắn nhất.
Khơng áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Tử hình và tù chung thân là hai biện pháp nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình
phạt được quy định trong BLHS, người phạm tội chỉ bị áp dụng hình phạt này trong
trường hợp đặc biệt nghiêm trọng và khi khả năng giáo dục khơng cịn nữa. Chính vì vậy
đối với người chưa thành niên phạm tội, khi mục đích của việc truy cứu TNHS chủ yếu là
nhằm giáo dục cải tạo họ, thì khơng thể áp dụng hai hình phạt này.
Ngun tắc cuối cùng đối với người chưa thành niên phạm tội được quy định tại
Khoản 7 Điều 91 BLHS 2015:
Án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi, thì khơng
tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.

3.1.2. Các biện pháp tư pháp được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm
tội
BLHS có các quy định về các biện pháp tư pháp theo hướng giảm nhẹ TNHS cho
người chưa thành niên phạm tội.
BLHS 2015 quy định những biện pháp tư pháp được áp dụng đối với người chưa
thành niên phạm tội bao gồm: giáo dục tại phường, xã, thị trấn và đưa vào trại giáo
dưỡng.
a. Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn
Theo điều 95 BLHS 2015, biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn là biện pháp
tư pháp được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội
nghiệm trọng trong thời hạn từ 1 năm đến 2 năm. Người chưa thành niên phạm tội được
áp dụng biện pháp giáo dục tại phường, xã, thị trấn không bị cách ly khỏi cuộc sống xã
hội, nhưng phải chấp hành đầy đủ các nghĩa vụ sau:
- Chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước; tích cực thực hiện nghĩa vụ
cơng dân và quy ước của thơn, làng, ấp. bản, cụm dân cư nơi mình cư trú;
- Làm cam kết với ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc tổ chức xã hội được
giao giám sát, giáo dục, trong đó nêu rõ các biện pháp tích cực sửa chữa lỗi lầm của
mình. Bản cam kết phải có ý kiến của người được phân cơng trực tiếp giám sát, giáo dục;
- Thực hiện nghiêm chỉnh bản cam kết của mình, tích cực sửa chữa lỗi lầm, học tập,
làm ăn lương thiện và tham gia các hoạt động chung tại cộng đồng dân cư nơi mình cư
trú;
- Làm bản tự kiểm điểm về quá trình rèn luyện, tu dưỡng của mình gửi Chủ tịch ủy
ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc người đứng đầu tổ chức được giao giám sát, giáo
dục khi đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách. Bản tự kiểm điểm phải có
nhận xét của người trực tiếp giám sát, giáo dục hoặc cảnh sát khu vực, công an xã, trưởng
thơn, làng, ấp, bản nơi người đó cư trú

14



- Hàng tháng phải báo cáo bằng văn bản với người được giao giám sát, giáo dục về
kết quả rèn luyện, tu dưỡng của mình; trong trường hợp đi khỏi nơi cư trú trên 30 ngày
thì báo cáo và trong thời gian tạm trú phải có nhận xét của cảnh sát khu vực hoặc công an
xã nơi người chưa thành niên phạm tội cư trú
Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và tổ chức xã hội được giao giám sát, giáo
dục có trách nhiệm:
- Phân cơng người trực tiếp giám sát, giáo dục người chưa thành niên phạm tội;
- Tạo điều kiện giúp đỡ người chưa thành niên phạm tội học nghề, tìm việc làm để
ổn định cuộc sống;
- Phối hợp với cơ quan, tổ chức hữu quan khác và gia đình người chưa thành niên
phạm tội trong việc giáo dục, cảm hóa giúp họ sửa chữa lỗi lầm;
- Yêu cầu người chưa thành niên phạm tội thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình,
có biện pháp ngăn ngừa, uốn nắn kịp thời khi người đó có biểu hiện tiêu cực và thong báo
với cơ quan tổ chức có thẩm quyền để xử lí khi cần thiết;
- Kịp thời biểu dương khi người chưa thành niên phạm tội có tiến bộ, tích cực tham
gia hoạt động xã hội hoăc lập công;
- Xem xét giải quyết cho người chưa thành niên phạm tội vắng mặt ở nơi cư trú;
- Đề nghị hoặc theo đề nghị của người chưa thành niên phạm tội đề nghị tòa án cấp
huyện nơi người đó dang chấp hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn ra quyết
định chấm dứt thời hạn chấp hành biện pháp này khi người đó chấp hành được một phần
hai thời hạn và có nhiều tiến bộ;
- Cấp giấy chứng nhận đã chấp hành xong thời hạn chấp hành biện pháp giáo dục
tại xã, phường, thị trấn cho người chưa thành niên phạm tội;
b. Biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng
Biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng là biện pháp tư pháp đối với người chưa
thành niên phạm tội nếu xét thấy cần phải có kỉ luật chặt chẽ và cần phải cách li họ với
môi trường xã hội để giáo dục và cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.
Khi quyết định áp dụng biện pháp tư pháp này, tịa án cần xem xét tính chất nghiêm
trọng của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và mơi trường sống của người đó.
Thời hạn của biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng là từ một năm đến hai năm.

Trường giáo dưỡng là cơ sở giáo dục đặc biệt được Nhà nước thành lập để giáo dục,
cải tạo người chưa thành niên phạm tội hoặc có những vi phạm pháp luật khác. Đưa
người chưa thành niên phạm tội vào trường giáo dưỡng là biện pháp nghiêm khắc hơn
biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Biện pháp này được áp dụng khi thấy cần
thiết phải cách li người chưa thành niên khỏi môi trường xã hội mà họ đang sinh sống để
giáo dục, cải tạo. Mơi trường cũ khơng có các điều kiện thuận lợi cho việc giáo dục,cải
tạo người chưa thành niên là mơi trường như trong gia đình có bố, mẹ, anh, chị, em là
người có tiên án hoặc người thường xuyên vi phạm pháp luật; bạn bè của người chưa
thành niên là những người có nhân thân khơng tốt, đã ảnh hưởng xấu đến lối sống của họ;

15


bản thân người chưa thành niên khơng có chỗ học tập, lao động, sinh sống ổn định, đã
sớm có lối sống trụy lạc, sa đọa.
Tuy biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng bắt buộc người chưa thành niên phạm tội
chịu sự quản lý chặt chẽ và phải cách li khỏi xã hội nhưng họ được học tập văn hóa và
nghề nghiệp. Tại đây họ rèn luyện và cải tạo lối sống trước đây của mình để trở thành
cơng dân có ý thức pháp luật đầy đủ trong tương lai.
Khi chấp hành được một phần hai thời hạn và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của
nhà trường, tịa án có thể có quyết định chấm dứt thời hạn ở trường giáo dưỡng.
3.1.3. Hệ thống hình phạt được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội
Hệ thống hình phạt của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam bao gồm hình phạt
chính và hình phạt bổ sung. Tuy nhiên căn cứ vào đặc điểm của người chưa thành niên,
yêu cầu của việc phòng chống tội phạm, nguyên tắc nhân đạo XHCN, luật hình sự quy
định các hình phạt được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội bao gồm:
- Cảnh cáo;
- Phạt tiền;
- Cải tạo không giam giữ;
- Tù có thời hạn.

Tử hình và tù chung thân là những hình phạt chính và nghiêm khắc nhất trong hệ
thống các hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự của nước ta, chỉ áp dụng đối với
các trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Đối với người chưa thành niên ya thức
phạm tội của họ chưa sâu sắc và chịu sự chi phối rất lớn từ môi trường, nên trong mọi
trường hợp không áp dụng tử hình và tù chung thân đối với người chưa thành niên phạm
tội.
Bên cạnh các hình phạt chính, trong BLHS cịn quy định các hình phạt bổ sung.
Nhưng do người chưa thành niên có những đặc điểm tâm lí riêng biệt nên luật hình sự
quy định khơng áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội.
a. Cảnh cáo
Cảnh cáo là hình phạt chính, có tính giáo dục sâu sắc, thể hiện sự khiển trách công
khai của Nhà nước đối với người phạm tội và hành vi phạm tội của họ. Cảnh cáo gây ra
cho người bị kết án những tổn hại về tinh thần.
Người chưa thành niên phạm tội bị phạt cảnh cáo khi phạm tội ít nghiêm trọng và
có nhiều tình tiết giảm nhẹ
b.Phạt tiền
Phạt tiền là hình phạt chính áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội nhằm
tước đi quyền lợi vật chất của họ để cải tạo và giáo dục họ trở thành cơng dân có ích cho
xã hội.
Người chưa thành niên phạm tội bị phạt tiền khi có đủ hai điều kiện: Họ là người đã
từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi và có thu nhập hoặc tài sản riêng.
Các điều kiện về áp dụng phạt tiền với người chưa thành niên phạm tội thể hiện thái
độ của Nhà nước trong trường hợp này. Người chưa thành niên thường chưa có thu nhập
16


hoặc tài sản riêng, chỉ phạt tiền khi họ có khả năng chấp hành án. BLHS hạn chế phạt tiền
theo độ tuổi, chỉ người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi mới có thể bị phạt tiền. Trong
trường hợp khơng thỏa mãn các điều kiện phạt tiền thì áp dụng các hình phạt khác mà
luật hình sự cho phép như cải tạo khơng giam giữ hoặc tù có thời hạn.

c.Cải tạo không giam giữ
Cải tạo không giam giữ là hình phạt chính có nội dung giáo dục sâu sắc khơng
buộc người được áp dụng hình phạt này phải cách li khỏi xã hội. Họ vẫn có thẻ thực hiện
cơng việc thường ngày và sống trong mơi trường gia đình và xã hội như trước đây.
Người chưa thành niên phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ cần đáp ứng hai
điều kiện sau: Hành vi phạm tội thuộc vào tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng; Họ
phải có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng.
d. Tù có thời hạn
Tù có thời hạn là hình phạt cách li người phạm tội ra khỏi xã hôi để giáo dục, cải
tạo họ trở thành cơng dân có ích cho xã hội
Đây là hình phạt có hiệu quả giáo dục và ngăn ngừa cao. Chính vì vậy loại hình này
có thể áp dụng đối với mọi tội phạm được quy định trong luật hình sự Việt Nam.
Tù có thời hạn là hình phạt nghiêm khắc nhất có thể áp dụng đối với người chưa
thành niên. Hình phạt này được áp dụng khi người chưa thành niên phạm tội rất nghiêm
trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Trong trường hợp người chưa thành niên phạm tội ít
nghiêm trọng hoặc tội ghiêm trọng, cần thiết áp dụng hình phạt nhưng khơng có đủ điều
kiện áp dụng các hình phạt khác như cảnh cáo, phạt tiền hoặc cải tạo không giam giữ thì
cũng áp dụng hình phạt tù có thời hạn.
3.2. Thực trạng tình hình truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành
niên phạm tội ở nước ta
Vấn đề người chưa thành niên vi phạm pháp luật và phạm tội đã và đang được tất cả
các nhà nước trên thế giới quan tâm, lo lắng. Liên hợp quốc đã ban hành một số Công
ước, Quy tắc liên quan đến cơng tác phịng chống vi phạm pháp luật của người chưa
thành niên; các cơ quan của tổ chức lớn nhất hành tinh này cũng đã tổ chức nhiều cuộc
hội thảo có tính chất tồn cầu và khu vực để bàn về vấn đề này.
Ở nước ta, công tác đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật và phạm tội của
người chưa thành niên thuộc về trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các cơ quan, tổ chức
và toàn thể nhân dân. Trong những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều
chủ trương, chính sách và pháp luật nhằm bảo đảm sự phát triển toàn diện của trẻ em và
người chưa thành niên. Chính phủ, các Bộ, ban, ngành và chính quyền các cấp đã đề ra

nhiều chương trình, kế hoạch cũng như áp dụng nhiều biện pháp để tăng cường bảo vệ an
ninh, trật tự an toàn xã hội, đấu tranh phòng và chống vi phạm pháp luật nói chung trong
đó có vi phạm pháp luật của người chưa thành niên nói riêng. Tuy nhiên, tình hình người
chưa thành niên vi phạm pháp luật và phạm tội ở nước ta hiện nay vẫn có xu hướng gia
tăng và diễn biến phức tạp. Đặc biệt có một bộ phận thanh thiếu niên đã tham gia vào các
băng nhóm tội phạm có tổ chức, phạm tội có sử dụng bạo lực với tính chất cơn đồ hung
17


hãn; thực hiện các hành vi giết người, cướp của, chống người thi hành công vụ, bảo kê,
đâm thuê, chém mướn gây ra hậu quả hết sức nghiêm trọng.
Theo thống kê của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, số người vi phạm pháp luật hình
sự bị khởi tố, truy tố, xét xử trong 5 năm (từ năm 2003 đến 2007), như sau:
- Năm 2003 khởi tố 4.578 người, truy tố 3.260 người, xét xử 2.940 người.
- Năm 2004 khởi tố 5.138 người, truy tố 3.421 người, xét xử 2.930 người.
- Năm 2005 khởi tố 6.420 người, truy tố 4.172 người, xét xử 3.404 người.
- Năm 2006 khởi tố 7.818 người, truy tố 5700 người, xét xử 5.171 người.
- Năm 2007 khởi tố 8.394 người, truy tố 5.889 người, xét xử 5.247 người.
Số người chưa thành niên có nguy cơ vi phạm pháp luật là 71.581 người.
Theo số liệu thống kê của Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội (Bộ Cơng
an) thì trong 6 tháng đầu năm 2008 đã xảy ra 5.746 vụ, với khoảng 9.000 người người
chưa thành niên vi phạm pháp luật hình sự, tăng 2% số vụ so với cùng kỳ năm ngoái.
Về độ tuổi, theo thống kê của Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội thì
tình hình tội phạm do người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thực hiện có
chiều hướng gia tăng và chiếm tỷ lệ cao nhất, khoảng 60%; từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
chiếm khoảng 32% và dưới 14 tuổi chiếm khoảng 8% trong tổng số các vụ phạm tội do
người chưa thành niên và trẻ em thực hiện.
Về cơ cấu tội phạm, theo thống kê mới nhất của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và
Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội, thì hành vi vi phạm pháp luật hình sự
của người chưa thành niên tập trung nhiều nhất vào các nhóm tội xâm phạm sở hữu; xâm

phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và danh dự con người, một số tội xâm phạm an
tồn cơng cộng, trật tự cơng cộng.
Trong đó tội danh trộm cắp tài sản chiếm 38%, cố ý gây thương tích chiếm 11%,
đặc biệt là giết người chiếm 1,4% trong tổng số tội phạm do người chưa thành niên thực
hiện.
Về địa bàn hoạt động, các vụ vi phạm pháp luật và phạm tội do người chưa thành
niên thực hiện không chỉ xảy ra ở các thành phố, thị xã mà còn xảy ra ở các vùng nông
thôn, kể cả vùng sâu, vùng xa. Tuy nhiên, đánh giá một cách tổng thể trên phạm vi tồn
quốc thì tại các thành phố lớn, nơi kinh tế phát triển mạnh thu hút nhiều lực lượng lao
động, nhiều thành phần xã hội sinh sống, thì tỷ lệ người chưa thành niên vi phạm pháp
luật và phạm tội chiếm tỷ lệ cao hơn và có chiều hướng tăng nhanh hơn. Phần lớn các vụ
án do vị thành niên gây ra là trên địa bàn đơ thị (chiếm hơn 70%), trong đó tập trung ở
những tỉnh, thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phịng, TP.HCM, Đồng Nai, Bình Định…
Đây cũng là nhóm có xu hướng tái phạm tội rất cao (khoảng 35%).
Cũng theo số liệu thống kê của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao cho thấy 71% trẻ
vị thành niên phạm pháp do khơng được quan tâm chăm sóc đến nơi đến chốn. Một
nghiên cứu mới đây của Bộ Công an cũng chỉ ra nguyên nhân phạm tội của trẻ vị thành
niên xuất phát từ gia đình…

18


Trước thực trạng trẻ vị thành niên phạm tội trộm cắp, cướp giật đang ở mức báo
động, Viện Tâm lý học vừa có cơng trình nghiên cứu dưới góc độ khoa học tâm lý nhằm
mổ xẻ nguyên nhân trẻ phạm pháp. Các phân tích của cơng trình nghiên cứu này cho thấy
nguyên nhân trẻ vị thành niên phạm pháp do ảnh hưởng của gia đình chiếm một tỉ lệ
khơng nhỏ.
Cha mẹ làm sai, con làm theo
Người xưa thường cho rằng muốn con cái trở thành thương nhân thì nên ở gần chợ,
muốn con hay chữ thì ở gần trường học, cịn nếu gần trộm, gần cướp thì sớm hay muộn

cũng vào tù ra khám. “Gần mực đen, gần đèn thì rạng”, câu tục ngữ mang tính giáo dục
đến nay vẫn hoàn toàn đúng.
Theo số liệu thống kê tội phạm học, trẻ em phạm pháp có nguồn gốc gia đình làm
nghề bn bán bất hợp pháp chiếm 51,94%, gia đình có người phạm tội hình sự chiếm
40%, 30% trẻ phạm tội có bố, mẹ hoặc cả hai nghiện hút. Có trường hợp bố mẹ trực tiếp
đẩy con ra đường, xúi giục chúng làm những điều bất chính khiến trẻ bỏ nhà đi hoang,
sống bụi, trộm cắp. Theo số liệu của Viện Kiểm sát Nhân dân TP.Hà Nội, tỉ lệ người
chưa thành niên có hành vi trộm cắp tài sản đồng phạm với bố mẹ là 5%.
Sống trong các gia đình có bố mẹ hoặc người lớn khác có hành vi thiếu văn hóa, lối
sống vơ đạo đức và thậm chí có cả những hành vi phạm tội, như bố mẹ bất hòa hay đánh
chửi nhau, đánh bạc, nghiện rượu, nghiện ma túy, buôn lậu, trộm cắp, tham ô... , các em
dần dần coi thường pháp luật, nhiễm các thói hư tật xấu và dễ bị lôi kéo rồi dẫn tới đồng
lõa với hành vi phạm pháp. Chỉ có những trẻ có ý chí kiên cường, có lịng tự trọng cao,
sớm có khả năng đánh giá đúng, sai mới tránh được những ảnh hưởng xấu đó.
Con hư do thiếu tình cảm cha mẹ
Trên thực tế, cũng có nhiều trường hợp bố mẹ là người tốt, có đủ kiến thức và trình
độ hiểu biết nhưng không chú ý đúng mức đến việc giáo dục con cái hoặc khơng có điều
kiện giáo dục chúng. Có người ỷ lại cho nhà trường, một số mải lo làm ăn, kiếm sống
hoặc phải đi công tác trong một thời gian dài. Có gia đình bố mẹ ly hơn, có con ngồi giá
thú, một trong hai người chết hoặc vì lý do nào đó phải xa cách dẫn đến việc con cái bị
bỏ rơi, thiếu sự dạy dỗ và tình thương gia đình.
Những đứa trẻ khơng được chăm sóc và dạy dỗ chu đáo sẽ có tâm lý lệch lạc, tự do
ngang bướng, thậm chí bất cần. Chúng dễ dàng phạm tội khi bị rủ rê, lôi kéo...
Số liệu thống kê của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao cho thấy 71% trẻ vị thành
niên phạm pháp là do khơng được quan tâm chăm sóc đến nơi đến chốn. Một nghiên cứu
mới đây của Bộ Công an cũng chỉ ra nguyên nhân phạm tội của trẻ vị thành niên xuất
phát từ gia đình: 8% trẻ phạm tội có bố mẹ ly hôn, 28% phàn nàn bố mẹ không đáp ứng
nhu cầu cơ bản của các em, 49% phàn nàn về cách đối xử của bố mẹ.
Gần 50% trẻ phạm tội vì bị đối xử hà khắc
Có những gia đình bố mẹ thiếu hiểu biết hoặc khơng kiềm chế được nên đã coi việc

hành hạ, đánh đập hoặc dùng các nhục hình với trẻ như là quyền của họ. Khi trẻ có lỗi,
cha mẹ đánh; khi cha mẹ buồn bực, lo lắng cũng trút đòn roi lên đầu con cái. Nhiều đứa
19


×