Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

NỘI DUNG TRIẾT HỌC MÁCLÊNIN (CÓ VÍ DỤ MINH HỌA)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.42 KB, 26 trang )

NỘI DUNG TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
(CĨ VÍ DỤ MINH HỌA)
1. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng.
2. Sự khác nhau giữa ba hình thức của chủ
nghĩa duy vật.
3. Quy luật chuyển hóa lượng – chất.
4. Quan điểm toàn diện của chủ nghĩa Mác
– Lênin và vận dụng quan điểm toàn diện


1. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng
Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng? Sự vận dụng mối quan hệ biện chứng
giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của
Đảng Cộng sản Việt Nam ở nước ta hiện nay?
Cơ sở hạ tầng là kết cấu kinh tế đa thành phần trong đó có thành phần kinh tế quốc
doanh, tập thể và nhiều thành kinh tế khác nhau. Đây là một kết cấu kinh tế năng
động, phong phú được phản chiếu trên nền kiến trúc thượng tầng và đặt ra đòi hỏi
khách quan là nền kiến trúc thượng tầng cũng phải đổi mới để đáp ứng địi hỏi của
cơ sở kinh tế. Do đó, trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo
định hướng xã hội ở nước ta, cần vận dụng và quán triệt quan hệ biện chứng giữa
cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Theo chủ nghĩa Mác- Lê nin,“ Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có quan hệ
biện chứng khơng tách rời nhau, trong đó có cơ sở hạ tầng giữ vai trị quyết định
kiến trúc thượng tầng. Còn kiến trúc thượng tầng là phản ánh cơ sở hạ tầng, nhưng
nó có vai trị tác động trở lại to lớn đối với cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó.” Vì thế, em
xin chọn đề tài “Sự vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng của Đảng Cộng sản Việt Nam ở nước ta trong giai đoạn hiện nay”
làm đề tài để nghiên cứu.


Với trình độ kiến thức còn hạn chế, nên trong bài em còn nhiều sai xót, rất mong
thầy cơ thơng cảm và sửa chữa để giúp em hoàn thiện kiến thức hơn. Em xin chân
thành cảm ơn!

1. Cơ sở hạ tầng là gì? Kiến trúc thượng tầng là gì?
– Cơ sở hạ tầng (CSHT): là toàn bộ những quan hệ sản xuất (QHSX) hợp thành cơ
cấu kinh tế của một hình thái kinh tế- xã hội nhất định.
Khái niệm CSHT phản ánh chức năng xã hội của các QHSX với tư cách là cơ sở
kinh tế của các hiện tượng xã hội. CSHT của một xã hội cụ thể bao gồm những
CSHT thống trị, những QHSX tàn dư của xã hội trước và những QHSX là mầm
mống của xã hội sau. Trong một CSHT có nhiều thành phần kinh tế, nhiều QHSX
thì kiểu QHSX thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các thành phần
kinh tế và các kiểu QHSX khác; nó quy định và tác động trực tiếp đến xu hướng
chung của tòan bộ đời sống kinh tế xã hội. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, tính
giai cấp của cơ sở hạ tầng là do kiểu QHSX thống trị quy định. Tính chất đối kháng
giai cấp và sự xung đột giai cấp và sự xung đột giai cấp bắt nguồn từ ngay trong
CSHT.


– Kiến trúc thượng tầng (KTTT): là tòan bộ những quan điểm tư tưởng xã hội,
những thiết chế tương ứng và những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành
trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
KTTT của xã hội có đối kháng giai cấp bao gồm: hệ tư tưởng và thể chế giai cấp
thống trị, tàn dư của các quan điểm của xã hội trước để lại; quan điểm và tổ chức
của các giai cấp trung gian. Tính chất hệ tư tưởng của giai cấp thống trị quyết định
tính chất cơ bản của KTTT trong một hình thái xã hội nhất định. Trong đó bộ phận
mạnh nhất của KTTT là nhà nước- công cụ của giai cấp thống trị tiêu biểu cho chế
độ xã hội về mặt chính trị, pháp lý. Chính nhờ có nhà nước mà tư tưởng của giai
cấp thống trị mới thống trị được tòan bộ đời sống xã hội.


2. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng
Mỗi hình thái kinh tế-xã hội có cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của nó. Do
đó, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng mang tính lịch sử cụ thể, giữa chúng có
mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó cơ sở hạ tầng giữ vai trị quyết định.
2.1. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng
Cơ sở hạ tầng nào sinh ra kiến trúc thượng tầng ấy. Giai cấp nào chiếm địa vị thống
trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị trong đời sống tinh thần. Quan hệ sản
xuất nào thống trị thì tạo ra kiến trúc thượng tầng chính trị tương ứng. Mâu thuẫn
trong lĩnh vực kinh tế quyết định tính chất mâu thuẫn trong lĩnh vực tư tưởng.
Do đặc điểm nói trên, bất kỳ hiện tượng nào thuộc kiến trúc thượng tầng: nhà nước,
pháp luật, đảng phái chính trị, triết học, đạo đức,.. đều khơng thể giải thích từ chính
nó, bởi vì, chúng đều trực tiếp hoặc gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng và do cơ
sở hạ tầng quyết định.
Những biến đổi căn bản trong cơ sở hạ tầng sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự biến đổi
căn bản trong kiến trúc thượng tầng. Sự biến đổi đó diễn ra trong từng hình thái
kinh tế-xã hội và rõ rệt hơn khi chuyển từ hình thái kinh tế-xã hội này sang hình
thái kinh tế-xã hội khác. Sự biến mất của một kiến trúc thượng tầng khơng diễn ra
một cách nhanh chóng, có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng cũ còn tồn tại
dai dẳng sau khi cơ sở kinh tế của nó đã bị tiêu diệt. Có những yếu tố của kiến trúc
thượng tầng cũ được giai cấp cầm quyền mới sử dụng để xây dựng kiến trúc
thượng tầng mới.
Do đó, tính quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng diễn ra rất
phức tạp trong quá trình chuyển từ hình thái kinh tế-xã hội này sang hình thái kinh
tế-xã hội khác.
2.2. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng


Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng được thể hiện ở
chức năng xã hội của kiến trúc thượng tầng là bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển

cơ sở hạ tầng sinh ra nó, đấu tranh xóa bỏ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
cũ.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng, kiến trúc thượng tầng bảo đảm sự thống trị
chính trị và tư tưởng của giai cấp giữ địa vị thống trị trong kinh tế.
Trong các bộ phận của kiến trúc thượng tầng, nhà nước giữ vai trị đặc biệt quan
trọng, có tác dụng to lớn đối với cơ sở hạ tầng. Nhà nước không chỉ dựa vào hệ tư
tưởng mà còn dựa vào chức năng kiểm soát xã hội để tăng cường sức mạnh kinh tế
của giai cấp thống trị. Ăngghen viết: “bạo lực (nghĩa là quyền lực nhà nước) cũng
là một lực lượng kinh tế”. Các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng như triết
học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật cũng tác động đến cơ sở hạ tầng, nhưng thường
thường phải thông qua nhà nước, pháp luật.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định, chỉ có kiến trúc thượng tầng tiến bộ nảy sinh
trong quá trình của cơ sở kinh tế mới – mới phản ánh nhu cầu của sự phát triển kinh
tế, mới có thể thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội. Nếu kiến trúc thượng tầng là
sản phẩm của cơ sở kinh tế đã lỗi thời thì gây tác dụng kìm hãm sự phát triển kinh
tế-xã hội. Tất nhiên sự kìm hãm chỉ là tạm thời, sớm muộn nó sẽ bị cách mạng khắc
phục.

3. Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng ở nước ta hiện nay
Dưới chủ nghĩa xã hội hoàn chỉnh, cơ sở hạ tầng và kiến thức thượng tầng thuần
nhất và thống nhất. Vì cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa khơng có tính chất đối kháng,
khơng bao hàm những lợi ích kinh tế đối lập nhau. Hình thức sở hữu bao trùm là sở
hữu toàn dân và tập thể, hợp tác tương trợ nhau trong quá trình sản xuất, phân phối
sản phẩm theo lao động, khơng cịn chế độ bóc lột.
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách
mạng sâu sắc và triệt để, là một giai đoạn lịch sử chuyền tiếp nó.Bởi vì, cơ sở hạ
tầng mang tính chất quá độ với một kết cấu kinh tế nhiều thành phần đan xen của
nhiều loại hình kinh tế xã hội khác nhau. Còn kiến trúc thượng tầng có sự đối
kháng về tư tưởng và có sự đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trên

lĩnh vực tư tưởng văn hố.
Bởi vậy cơng cuộc cải cách kinh tế và đổi mới thể chế chính trị là một q trình
mang tính cách mạng lâu dài. Cơ sở hạ tầng thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm các
thành phần kinh tế như: kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản nhà nước,
kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, cùng các kiểu quan hệ sản xuất gắn liền với
hình thức sở hữu khác nhau, thậm chí đối lập nhau cùng tồn tại trong một cơ cấu
kinh tế quốc dân thống nhất


Kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa phản ánh cơ sở hạ tầng của xã hội chủ
nghĩa, vì vậy mà có sự thống trị về chính trị và tinh thần Nhà nước phải thực hiện
biện pháp kinh tế có vai trị quan trọng nhằm từng bước xã hội hố nền sản xuất
với hình thức và bước đi thích hợp theo hướng như : kinh tế quốc doanh được củng
cố và phát triển vươn lên giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể dưới hình thức thu hút
phần lớn những người sản xuất nhỏ trong các ngành nghề, các hình thức xí nghiệp ,
cơng ty cổ phần phát triển mạnh, kinh tế tư nhân và gia đình phát huy được mọi
tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở kinh tế hợp lý. Các
thành phần đó vừa khác nhau về vai trị, chức năng, tính chất, vừa thống nhất với
nhau trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất mà còn cạnh tranh nhau, liên
kết và bổ xung cho nhau.
Để định hướng xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế này, nhà nước phải
sử dụng tổng thể các biện pháp kinh tế hành chính và giáo dục, trong dó thì biện
pháp kinh tế là quan trọng nhất nhằm từng bước xã hội hóa nền sản xuất với hình
thức và thích hợp theo hướng kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển vươn
lên giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể dưới hình thức thu hút phần lớn những người
sản xuất nhỏ trong các ngành nghề, các hình thức xí nghiệp, cơng ty cổ phần phát
triển mạnh, kinh tế tư nhân và gia đình phát huy được mọi tiềm năng để phát triển
lực lượng sản xuất, xây dựng kinh tế hợp lý.
Về kiến trúc thượng tầng, Đảng ta khẳng định: Lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động của toàn Đảng, toàn dân

ta. Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng
về sự giải phóng con người khỏi chế độ bóc lột thốt khỏi nỗi nhục của mình là đi
làm th bị đánh đập, lương ít.Trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ghi rõ : ”xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa , nhà
nước của dân, do dân và vì dân, liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo”.


2. Sự khác nhau giữa ba hình thức của
chủ nghĩa duy vật
Sự khác nhau giữa ba hình thức của chủ nghĩa duy vật. Bài tập cá nhân Những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin.
Trong triết học, chủ nghĩa duy vật là một hình thức của thực hữu luận (physicalism)
với quan niệm rằng thứ duy nhất có thể được thực sự coi là tồn tại là vật chất; rằng,
về căn bản, mọi sự vật đều có cấu tạo từ vật chất và mọi hiện tượng đều là kết quả
của các tương tác vật chất.
Cùng với sự phát triển của khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật để được hình
thành và phát triển vói ba hình thức cơ bản là: Chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ
nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật thời
cổ đại. Trong khi thừa nhận tính thứ nhất của vật chất, chủ nghĩa duy vật giai đoạn
này để lý giải tồn bộ sự hình thành của thế giới từ một hoặc một số dạng vật chất
cụ thể, cảm tính, coi đó là thực thể đầu tiên, là bản nguyên của thế giới
– Ưu điểm: Lấy giới tự nhiên để giải thích giới tự nhên, khơng viện đến thần linh
hay Thượng Đế.
– Hạn chế: Những lý giải về thế giới còn mang nặng tính trực quan nên những kết
luận về thế giới về cơ bản cịn mang tính ngây thơ, chất phác.
– Ví dụ: Quan niệm của Talét, Hêraclit, Đêmơcrit
Chủ nghĩa duy vật siêu hình là hình thức cơ bản thứ hai của chủ nghĩa duy vật, thể
hiện khá rõ ở các nhà triết học thế kỉ XV đến thế kỉ XVIII và đỉnh cao vào thế kỉ

thứ XVII, XVIII. Đây là thời kì mà cơ học cổ điển thu được những thành tựư rực rỡ
nên trong khi tiếp tục phát triển quan điểm của chủ nghĩa duy vật thời cổ đại, chủ
nghĩa duy vật giai đoạn này chịu sự tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy
siêu hình, máy móc của cơ học cổ điển. Do đó theo quan niệm của chủ nghĩa duy
vật siêu hình, thế giới giống như một cỗ máy cơ giới khổng lồ mà mỗi bộ phận tạo
nên nó ln ở trạng thái biệt lập, tĩnh tại; nếu có biến đổi thì đó chỉ là sự tăng giảm
đơn thuần về số lượng và do những ngun nhân bên ngồi gây ra
– Tích cực: Góp phần không nhỏ vào việc chống lại thế giới quan duy tâm và tôn
giáo, nhất là giai đoạn lịch sử chuyển tiếp từ thời Trung cổ sang thời Phục Hưng ở
các nước Tây Âu
– Hạn chế: Chưa phản ứng đúng hiện thực trong mỗi liên hệ phổ biến và sự phát
triển
– Ví dụ: Các quan niệm của Niutơn, Bêcơn và các nhà duy vật Pháp thế kỉ XVIII


Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật, do
Mác và Ănghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỉ XIX, sau đó được V.I.Lênin
phát triển. Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó và sử dụng
khá triệt để thành tựu của khoa học đương thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng, ngay
từ khi mới ra đời đ• khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác thời
cổ đại, chủ nghĩa siêu hình và là đỉnh cao trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật.
Nó là kết quả của quá trình đúc kết, khái qt hố những tri thức của nhân loại về
nhiều lĩnh vực để xây dựng nên hệ thống quan điểm lý luận chung, đồng thời định
hướng cho các lực lượng x• hội tiến bộ trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của
mình
– Tích cực: Phản ánh hiện thực đúng như chính bản thân nó tồn tại, là công cụ hữu
hiệu giúp những lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạ hiện thực ấy
– Hạn chế:
– Ví dụ:
Trên cơ sở phát triển của khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật đã phát triển qua

các hình thức lịch sử của nó, trong đó chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức
phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử. Bên cạnh những mặt khác
nhau, cả 3 hình thức trên đều thống nhất ở cùng một đặc điểm đó là: Khi giải quyết
các vấn đề cơ bản của triết học đều khẳng định vật chất là cái có trước và quyết
định ý thức.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình triét học Mác Lênin, nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2006
Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội 2009
Giáo trình Triết học Mác – Lênin (Hội đồng TW chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc
gia các bộ mơn khoa học Mác – Lênin, nxb CTQG, Hà Nội 1999

3. Quy luật chuyển hóa lượng – chất
Những vấn đề lý luận của quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành
những sự thay đổi về chất và ngược lại? Quy luật lượng chất trong quá trình học tập và
rèn luyện của học sinh, sinh viên?


Trong cuộc sống hằng ngày, đằng sau các hiện tượng muôn màu muôn vẻ, con
người dần dần nhận thức được tính trật tự và mối liên hệ có tính lặp lại của sự vật
hiện tượng, từ đó hình thành khái niệm “quy luật”. Với tư cách là phạm trù của lý
luận nhận thức, khái niệm “quy luật” là sản phẩm của tư duy khoa học phản ánh sự
liên hệ của các sự vật, hiện tượng và tính chỉnh thể của chúng.
Các quy luật của tự nhiên, xã hội cũng như của tư duy con người đều mang tính
khách quan. Con người khơng thể tạo ra hoặc xóa bỏ được quy luật mà chỉ có thể
nhận thức và vận dụng vào thực tế.
Quy luật “chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về
chất và ngược lại” là một trong ba quy luật của phép biện chứng duy vật, nó cho
biết phương thức của sự vận động và phát triển. Việc nhận thức quy luật này có ý
nghĩa to lớn trong thực tiễn khi chúng ta xem xét các sự vật, hiện tượng. Nếu nhận

thức không đúng quy luật này dễ dẫn đến hiện tượng “tả khuynh” hoặc “hữu
khuynh”. “Tả khuynh” có thể hiểu là tư tưởng chủ quan nóng vội, muốn sớm có sự
thay đổi về lượng nhưng lại khơng tính đến việc tích lũy về chất. “Hữu khuynh” là
tư tưởng bảo thủ, trì trệ, không dám thực hiện “bước nhảy” (sự thay đổi về chất)
khi đã có sự tích lũy đủ về lượng.
Với bài tiểu luận này, chúng tôi mong muốn tiếp cận và làm sáng tỏ phần nào nội
dung và ý nghĩa của quy luật quan trọng này và từ đó rút ra được những bài học bổ
ích trong học tập và cuộc sống.
Bằng việc tiếp cận vấn đề thông qua việc làm sáng tỏ ba ví dụ cụa thể trong thực tế,
chúng tơi mong muốn có thể cung cấp cho người đọc cách nhìn nhận dễ dàng và
chân thực nhất về quy luật này. Với kiến thức triết học của bản thân cịn rất hạn chế
nên bài viết khơng thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự ghóp ý
của thầy cô và các bạn.

1. Những vấn đề lý luận của quy luật chuyển hóa từ những
sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và
ngược lại.
1.1. Một số khái niệm.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chất là phạm trù triết học dùng
để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, là sự thống nhất hữu cơ những
thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ khơng phải là cái khác. Lượng là phạm trù triết
học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy mơ, trình độ,
nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật.
Lượng và chất là hai mặt cơ bản của mọi sự vật hiện tượng. Trong bản thân sự vật
thì hai mặt này luôn tác động qua lại, ở nột mức độ nào đó, làm cho sự vật phát
triển. Khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng trong sự vật chưa đủ làm thay


đổi căn bản chất của sự vật được gọi là độ. Chỉ trong trường hợp khi sự thay đổi về
lượng đạt tới mức đủ để dẫn tới sự thay đổi về chất thì độ bị phá vỡ và sự vật phát

triển sang một giai đoạn mới, khác hẳn về chất.
Mọi sự vật trong thế giới vật chất đều vận động và phát triển khơng ngừng. Việc
tích lũy về lượng cũng chính là một trong những cách vận động của sự vật. Vì thế,
dù nhanh hay chậm, sớm hay muộn thì việc tích lũy về lượng của sự vật cũng sẽ
đến một giới hạn mà ở đó làm cho chất của sự vật thay đổi về căn bản. Thời điểm
mà ở đó sự thay đổi về lượng đã đủ để làm thay đổi về chất của sự vật gọi là điểm
nút. Chất của sự vật thay đổi do lượng của nó thay đổi trước đó gây ra gọi là bước
nhảy.
1.2. Nội dung quy luật.
Sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội cũng như sự phát
triển nhận thức trong tư duy con người đều đi từ sự thay đổi dần về lượng khi vượt
qua giới hạn về độ tới điểm nút thì gây ra sự thay đổi cơ bản về chất, làm cho sự
vật, hiện tượng phát triển cao hơn hoặc thay thế bằng sự vật , hiện tượng khác. Sở
dĩ như vậy là vì chất và lượng là hai mặt thống nhất hữu cơ nhưng cũng mang trong
mình tính mâu thuẫn vốn có trong sự vật. Lượng thì thường xun biến đổi cịn
chất có xu thế ổn định. Do đó, lượng phát triển tới một mức nào đó thì mâu thuẫn
với chất cũ, u cầu tất yếu là phải thay đổi chất cũ, mở ra một độ mới cho sự phát
triển của lượng. Sự chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những sự
thay đổi về chất, diễn ra một cách phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Quy luật này còn diễn ra theo chiều ngược lại, tức là không chỉ thay đổi về lượng
dẫn đến thay đổi về chất mà sau khi chất mới ra đời, do sự biến đổi về lượng trước
đó gây nên thì nó lại quay trở lại, tác động đến sự biến đổi của lượng mới. Ảnh
hưởng của chất mới đến lượng thể hiện ở quy mô, mức độ, nhịp điệu phát triển
mới. Nội dung của quy luật được phát biểu như sau: Mọi sự vật đều là sự thống
nhất giữa lượng và chất, sự thay đổi dần dần về lượng trong khuôn khổ của độ tới
điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chât của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới
ra đời tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới. Q trình tác động đó diễn ra liên
tục làm cho sự vật không ngừng phát triển, biến đổi.
Như chúng ta đã biết, quy luật về sự thay đổi của lượng dẫn đến sự thay đổi về chât
và ngược lại là một trong ba quy luật cơ bản chủa chủ nghĩa duy vật biện chứng.

Nội dung của nó khơng chỉ giới hạn trong một hay một số lĩnh vực cụ thể mà bao
trùm lên mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy con người.
Trước hết, ta hãy xét ví dụ về sự chuyển hóa thành các dạng tồn tại khác nhau của
nước. Nước (ở đây chỉ xét nước tinh khiết) xét trên phương diện cấu tạo hóa học là
một hợp chất được cấu tạo nên bởi hai nguyên tố là hiđro và oxi. Nước có cơng
thức cấu tạo hóa học là H2O. Ở điều kiện bình thường nước tồn tại ở dạng lỏng
nhưng ở những điều kiện đặc biệt, nước cịn có thể tồn tại ở những dạng khác như
rắn, khí hay plasma. Quy luật lượng chất thể hiện rõ nhất trong quá trình chuyển


hóa giữa những dạng tồn tại khác nhau của nước. Trước hết, ta hãy xét sơ đồ sau:
thể plasma H2O ở thể khí H2O ở thể lỏng H2O ở thể rắn – 273oC 0oC 100oC
550oC to Sơ đồ: các trạng thái tồn tại của nước. Ở ví dụ này, trong mối quan hệ
giữa các trạng thái tồn tại của nước ta có thể thấy rằng chất của nước chính là trạng
thái tồn tại (rắn, lỏng, khí hay plasma) cịn lượng chính là nhiệt độ nước, vận tốc
của các phân tử nước.
Có thể nhận thấy rõ rằng, trạng thái của nước ln tương ứng với nhiệt độ của nó.
Khi nhiệt độ của nước ở -273oC thì nước ở thể rắn, nhiệt độ có tăng thêm tới
-270oC, 250oC hay thậm chí lên tới -10C thì nước vẫn ở thể rắn mà thơi. Cũng
trong khoảng nhiệt độ này, vận tốc của các phân tử nước cũng tăng dần theo nhiệt
độ của nước nhưng chưa đủ để tạo nên sự thay đổi trong trạng thái tồn tại của nước,
tức là mặc dù lượng của nước đã thay đổi nhưng về cơ bản thì chất của nó vẫn được
giữ ổn định. Tuy nhiên, Khi nhiệt độ của nước tăng lên đến 0oC và cao hơn nữa thì
trạng thái của nước bắt đầu có sự thay đổi, chuyển từ thể rắn sang thể lỏng, tức là
về cơ bản, chất của nước đã thay đổi. Quá trình chuyển hóa giữa các dạng của nước
cũng diễn ra tương tự ở những nhiệt độ khác nhau.
Như vậy, có thể thấy rằng, Khoảng nhiệt độ từ -273oC đến 0oC chính là độ của
nước. Đây là khoảng giới hạn mà lượng của nước đựơc tích lũy nhưng khơng làm
thay đổi chất căn bản của nước. Đến 0oC thì sự thay đổi về chất diễn ra, như vậy,
0oC chính là điểm nút mà ở đó, sự tích lũy về lượng của nước đã đủ để làm nó có

sự thay đổi về chất. Từ 0oC, nước khơng cịn ở thể rắn nữa mà chuyển hồn tồn
sang thể lỏng, vì vậy, đây chính là bước nhảy của nước trong quá trình chuển từ thể
rắn sang thể lỏng. Chất mới được sinh ra lại tiếp tục quay trở lại tác động đến
lượng mới, điều này thể hiện ở vận tốc của các phân tử nước ở trạng thái lỏng được
tăng lên đáng kể so với trạng thái rắn khi mà nhiệt độ của nước tiếp tục được nâng
lên… Tương tự như sự phân tích trên, căn cứ vào sơ đồ ta sẽ có được những độ,
những điểm nút (100oC, 550oC) và những chất mới. Quy luật này của nước được
thể hiện rõ ràng nhất ở vịng tuần hồn của nước trong tự nhiên.
Ví dụ về nước chỉ là một trong vơ vàn ví dụ về quy luật lượng chất trong tự nhiên.
Việc nhận thức đúng đắn quy luật này có ý nghĩa rất to lớn, trước hết, nó giúp con
người có được nhận thức đúng đắn và đầy đủ về thế giới tự nhiên và từ đó đem
những gì nhận thức được quay trở lại, cải tạo tự nhiên, phục vụ cho cuộc sống của
con người.

2. Quy luật lượng chất trong quá trình học tập và rèn
luyện của học sinh, sinh viên.
Biển lớn tri thức nhân loại thật bao la vô tận. Con người, bên cạnh việc phát triển
về thể xác, tinh thần còn phải ln tự mình tiếp thu những tri thức của nhân loại,
trước hết là để phục vụ cho bản thân. Tri thức tồn tại dưới nhiều hình thức đa dạng
và phong phú, do vậy con người có thể tiếp thu nó bằng nhiều cách khác nhau. Q
trình tích lũy tri thức, kinh nghiệm diễn ra ở mỗi người khác nhau là khác nhau, tùy


thuộc vào mục đích, khả năng, điều kiện… của mỗi người. Q trình tích lũy tri
thức của con người cũng khơng nằm ngồi quy luật lượng chất. Bởi vì, dù nhanh
hay chậm thì sớm muộn, sự tích lũy về tri thức cũng sẽ làm con người có được sự
thay đổi nhất định, tức là có sự biến đổi về chất. Quá trình biến đổi này trong bản
thân con người diễn ra vơ cùng đa dạng và phong phú, ở ví dụ này chúng tôi chỉ xin
giới hạn việc làm rõ quy luật lượng chất thơng qua q trình học tập và rèn luyện
của học sinh, sinh viên.

Là sinh viên, ai cũng phải trải qua quá trình học tập ở các bậc học phổ thông kéo
dài trong suốt 12 năm. Trong 12 năm ngồi trên ghế nhà trường, mỗi học sinh đều
được trang bị những kiến thức cơ bản của các môn học thuộc hai lĩnh vực cơ bản là
khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Bên cạnh đó, mỗi học sinh lại tự trang bị cho
mình những kĩ năng, những hiểu biết riêng về cuộc sống, về tự nhiên, xã hội. Q
trình tích lũy về lượng (tri thức) của mỗi học sinh là một q trình dài, địi hỏi nỗ
lực khơng chỉ từ phía gia đình, nhà trường mà cịn chính từ sự nỗ lực và khả năng
của bản thân người học. Quy luật lượng chất thể hiện ở chỗ, mỗi học sinh dần tích
lũy cho mình một khối lượng kiến thức nhất định qua từng bài học trên lớp cũng
như trong việc giải bài tập ở nhà. Việc tích lũy kiến thức sẽ được đánh giá qua các
kì, trước hết là các kì thi học kì và sau đó là kì thi tốt nghiệp. Việc tích lũy đủ lượng
kiến thức cần thiết sẽ giúp học sinh vượt qua các kì thi và chuyển sang một giai
đoạn học mới. Như vậy, có thể thấy rằng, trong q trình học tập, rèn luyện của học
sinh thì quá trình học tập tích lũy kiến thức chính là độ, các kì thi chính là điểm nút,
việc vượt qua các kì thi chính là bước nhảy làm cho việc tiếp thu tri thức của học
sinh bước sang giai đoạn mới, tức là có sự thay đổi về chất.
Trong suốt 12 năm học phổ thơng, mỗi học sinh đều phải tích lũy đủ khối lượng
kiến thức và vượt qua những điểm nút khác nhau, nhưng điểm nút quan trọng nhất,
đánh dấu bước nhảy vọt về chất và lượng mà học sinh nào cũng muốn vượt qua đó
là kì thi đại học. Vượt qua kì thi tốt nghiệp cấp 3 đã là một điểm nút quan trọng,
nhưng vượt qua được kì thi đại học lại còn là điểm nút quan trọng hơn, việc vượt
qua điểm nút này chứng tỏ học sinh đã có sự tích lũy đầy đủ về lượng, tạo nên bước
nhảy vọt, mở ra một thời kì phát triển mới của lượng và chất, từ học sinh chuyển
thành sinh viên.
Cũng giống như ở phổ thơng, để có được tấm bằng đại học thì sinh viên cũng phải
tích lũy đủ các học phần theo quy định. Tuy nhiên, việc tích lũy kiến thức ở bậc đại
học có sự khác biệt về chất so với học phổ thông. sự khác biệt nằm ở chỗ, sinh viên
không chỉ tiếp thu kiến thức một cách đơn thuần mà phải tự mình tìm tịi nghiên
cứu, dựa trên những kĩ năng mà giảng viên đã cung cấp. Nói cách khác, ở bậc đại
học, việc học tập của sinh viên khác hẳn về chất so với học sinh ở phổ thông. Việc

tiếp thu tri thức diễn ra dưới nhiều hình thức đa đạng và phong phú, từ cơ bản đến
chuyên sâu, từ đơn giản đến phức tạp, từ ít đến nhiều. Từ sự thay đổi về chất do sự
tich lũy vê lượng trước đó (ở bậc học phổ thơng) tạo nên, chất mới cũng tác động
trở lại.Trên nền tảng mới, trình độ, kết cấu cũng như quy mơ nhận thức của sinh
viên cũng thay đổi, tiếp tục hướng sinh viên lên tầm tri thức cao hơn. Cũng giống
như ở bậc học phổ thơng, q trình tích lũy các học phần của sinh viên chính là độ,


các kì thi chính là điểm nút và việc vượt qua các kì thi chính là bước nhảy, trong đó
bước nhảy quan trọng nhất chính là kì thi tốt nghiệp.
Vượt qua kì thi tốt nghiệp lại đưa sinh viên chuyển sang một giai đoạn mới, khác
về chât so với giai đoạn trước. Q trình đó cứ liên tục tiếp diễn, tạo nên sự vận
động và phát triển không ngừng ngay trong chính bản thân con người, tạo nên động
lực khơng nhỏ cho sự phát triển của xã hội. Việc nhận thức quy luật lượng chất
trong quá trình học tập của học sinh sinh viên có ý nghĩa rất to lớn trong thực tiễn,
không chỉ với bản thân người học mà cịn rất có ý nghĩa với cơng tác quản lý và
đào tạo. Thực tế tong nhiều năm qua, giáo dục nước ta đã mắc phải nhiều sai lầm
trong tư duy quản lý cũng như trong hoạt động đào tạo thực tiễn. Việc chạy theo
bệnh thành tích chính là thực tế đáng báo động của nghành giáo dục bởi vì mặc dù
sự tích lũy về lượng của học sinh chưa đủ nhưng lại vẫn được “tạo điều kiện” để
thực hiện “thành công” bước nhảy, tức là không học mà vẫn đỗ, khơng học nhưng
vẫn có bằng. Kết quả là trong nhiều năm liền, giáo dục nước ta đã cho ra lò những
lớp người khơng “lượng” mà cũng chẳng có “chất”. Xuất phát từ việc nhận thức
một cách đúng đắn quy luật trên cho phép chúng ta thực hiện những cải cách quan
trọng trong giáo dục. Tiêu biểu là việc chống lại căn bệnh thành tích trong giáo dục
vẫn tồn tại hàng thập kỉ qua. Bên cạnh đó là việc thay đổi phương giáo dục ở bậc
phổ thông và đào tạo đại học. Việc chuyển từ đào tạo niên chế sang đào tạo tín chỉ
và cho phép người học được học vượt tiến độ chính là việc áp dụng đúng đắn quy
luật lượng chất trong tư duy con người.



4. Quan điểm toàn diện của chủ
nghĩa Mác – Lênin và vận dụng quan
điểm toàn diện
Quan điểm toàn diện của Chủ nghĩa Mác-Lênin? Vận dụng quan điểm toàn
diện để đánh giá cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung?
Chúng ta đang sống trong một thời kì mà ở bất cứ nơi đâu trên đất nước
Việt Nam này cũng có thể tiến hành giao dịch thương mại. Cứ ngủ dậy gửi
một tin nhắn hay rửa mặt dưới nước máy là bạn đã tham gia một giao dịch
thương mại. Từ cái tăm, đến gói muối nơi nào cũng có người bán, kẻ mua,
cứ có cầu thì nguồn cung sẽ xuất hiện. Chỉ cần có tiền là hàng sẽ được
giao tới tận nơi nhanh nhất có thể. Sản phẩm làm ra có thể dùng hoặc đem
bán ở bất cứ nơi đâu được giá cao mà khơng bị bó buộc bởi bất kỳ một luật
lệ nào hết.
Cao hơn một chút ta thấy trên đất nước xuất hiện nhiều hơn các tập đồn,
cơng ty nước ngồi. Đấy là cịn chưa kể tới các cơng ty tư nhân chiếm đa
số, phân bố ở khắp nơi. Và chúng ta gọi nó một cách nơm na là cơ chế thị
trường mở cửa, thơng thống. Nhưng trong trí nhớ của những người đã
trải qua thời kì ấy, chắc không khi nào quên khái niệm cơ chế kế hoạch hóa
tập trung, nói cách khác là cơ chế quan liêu bao cấp. Hình ảnh về nó ấn
tượng đến nỗi chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy chỉ bằng vài thao tác đơn
giản trên Internet.
Nghĩ đến quan liêu bao cấp có nhiều người nhìn nó bằng ánh mắt khơng
mấy thiện cảm, có khi cịn chê bai, chỉ trích… Nhưng thiết nghĩ sự vật hiện
tượng nào cũng nên được nhìn một cách toàn diện trước khi bị đưa ra
phán xét, như thế mới đánh giá đúng về nó. Và phải chăng là thật sự cần


thiết với việc áp dụng quan điểm toàn diện vào giải quyết vấn đề đang
được bàn tới ở đây: cơ chế kế hoạch hóa tập trung – mặt lợi hay cái hại?

PHẦN NỘI DUNG

1. Quan điểm toàn diện của Chủ nghĩa Mác-Lênin
Phép biện chứng duy vật là môn khoa học nghiên cứu những quy luật
chung nhất của sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống gồm 2
nguyên lý (nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, nguyên lý về sự phát triển), 6
cặp phạm trù cơ bản (cái riêng – cái chung, nguyên nhân – kết quả, tất
nhiên – ngẫu nhiên, nội dung – hình thức, bản chất – hiện tượng, khả năng
– hiện thực) và 3 quy luật phổ biến (quy luật lượng – chất, quy luật phủ
định của phủ định, quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập).
Từ 2 nguyên lý cơ bản trên, ta xây dựng được 3 quan điểm: Quan điểm
toàn diện, quan điểm phát triển và quan điểm lịch sử – cụ thể. Trong đó,
quan điểm tồn diện đóng một vai trị quan trọng bởi bất cứ sự vật hiện
tượng nào trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ với các sự vật khác
và mối liên hệ rất đa dạng, phong phú. Do đó, quan điểm tồn diện có ý
nghĩa hết sức thiết thực trong cuộc sống.
1.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng thế giới tồn tại như một thể thống
nhất. Các sự vật hiện tượng và các quá trình cấu thành thế giới đó vừa tồn
tại tách biệt với nhau, vừa có sự liên hệ qua lại, thâm nhập và chuyển hóa
lẫn nhau. Cơ sở của sự liên hệ đó chính là tính thống nhất của thế giới vật
chất.
Mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng là khách quan, là vốn có của sự vật,
hiện tượng. Đồng thời mối liên hệ cịn mang tính phổ biến bởi bất cứ sự vật


hiện tượng nào cũng đều nằm trong các mối liên hệ với những sự vật, hiện
tượng khác.
Quan điểm duy vật biện chứng khơng chỉ khẳng định tính khách quan, tính

phổ biến của sự liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng, các q trình mà nó
cịn nêu rõ tính đa dạng của sự liên hệ qua lại: có mối liên hệ bên trong và
mối liên hệ bên ngồi, có mối liên hệ chung bao quát toàn bộ thế giới và
mối liên hệ bao quát một số lĩnh vực của thế giới, có mối liên hệ trực tiếp,
mối liên hệ gián tiếp mà trong đó sự tác động qua lại được thể hiện thông
qua một hay một vài khâu trung gian, có mối liên hệ bản chất, mối liên hệ
tất nhiên và liên hệ ngẫu nhiên, có mối liên hệ giữa các sự vật khác nhau
và mối liên hệ giữa các mặt khác nhau của sự vât. Trong các mối quan hệ
đó, nói chung, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ tất nhiên, mối liên hệ chủ
yếu… giữ vai trò quyết định, tùy thuộc vào quan hệ hiện thực xác định.
1.2. Quan điểm toàn diện trong triết học Mác-Lênin
Từ việc nghiên cứu quan điểm biện chứng về mối liên hệ phổ biến của sự
vật hiện tượng, triết học Mác – Lênin rút ra quan điểm tồn diện trong nhận
thức. Vì bất cứ sự vật, hiện tượng nào trên thế giới đều tồn tại trong mối
liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác và mối liên hệ rất đa dạng, phong
phú, do đó khi nhận thức về sự vật, hiện tượng, chúng ta phải có quan
điểm tồn diện, tránh quan điểm phiến diện chỉ xét sự vật, hiện tượng ở
một mối liên hệ đã vội vàng kết luận về bản chất hay về tính quy luật của
nó.
Quan điểm tồn diện địi hỏi để có được nhận thức đúng đắn về sự vật,
hiện tượng, một mặt chúng ta phải xem xét nó trong mối liên hệ qua lại
giữa các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính khác nhau của chính sự vật,
hiện tượng đó. Mặt khác, chúng ta phải xem xét nó trong mối liên hệ với
các sự vật khác (kể cả trực tiếp và gián tiếp). Đề cập đến 2 nội dung này,
Lênin viết “muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và


nghiên cứu tất cả các mặt, các mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp của sự vật
đó”.
Đồng thời quan điểm tồn diện địi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng

mối liên hệ, phải biết chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất,
mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên…để hiểu rõ bản chất của sự vật
và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất
trong hoạt động của bản thân. Đương nhiên, trong nhận thức và hành
động, chúng ta cũng cần lưu ý tới sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mối
liên hệ ở những điều kiện nhất định.
Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự
vật, chúng ta vừa phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó, vừa phải
chú ý tới những mối liên hệ giữa sự vật ấy với các sự vật khác. Từ đó ta
phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau để
tác động vào sự vật nhằm đem lại hiệu quả cao nhất.
Hơn thế nữa, quan điểm tồn diện địi hỏi, để nhận thức được sự vật cần
phải xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người.
Ứng với mỗi con người, mỗi thời đại và trong một hoàn cảnh lịch sử nhất
định, con người bao giờ cũng chỉ phản ánh được một số lượng hữu hạn
những mối liên hệ. Bởi vậy, tri thức đạt được về sự vật cũng chỉ là tương
đối, không đầy đủ trọn vẹn. Ý thức được điều này, chúng ta mới tránh được
việc tuyệt đối hóa những tri thức đã có về sự vật và tránh xem nó là những
chân lí bất biến, tuyệt đối khơng thể bổ sung, không thể phát triển. Để nhận
thức được sự vật, cần phải nghiên cứu tất cả các mối liên hệ, cần thiết phải
xem xét tất cả mọi mặt để đề phòng cho chúng ta khỏi phạm sai lầm và sự
cứng nhắc.
Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện khơng chỉ ở chỗ nó
chú ý tới nhiều mặt, nhiều mối liên hệ. Việc chú ý tới nhiều mặt, nhiều mối
liên hệ vẫn có thể là phiến diện nếu chúng ta đánh giá ngang nhau những


thuộc tính, những quy định khác nhau của sự vật được thể hiện trong
những mối liên hệ khác nhau đó. Quan điểm tồn diện chân thực địi hỏi
chúng ta phải đi từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật đến

chỗ khái quát để rút ra cái bản chất chi phối sự tồn tại và phát triển của sự
vật hay hiện tượng đó.

2. Vận dụng quan điểm toàn diện để đánh giá cơ chế
kinh tế kế hoạch hóa tập trung
Nguồn gốc của cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung
Ngày 30/4/1975 cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước hoàn toàn thắng
lợi ,đất nước ta hoàn tồn thống nhất sau 21 năm kháng chiến trường kì.
Cả nước bước vào thời kỳ xây dựng và phát triển kinh tế -xã hội .Định
hướng của Đảng và Nhà nước: xây dựng nền kinh tế theo mơ hình kế
hoạch hóa tập trung mà hiện nay Đảng cộng sản Việt Nam gọi là mơ hình
“quan liêu bao cấp’’. Cơ chế này có nguồn gốc từ mơ hình phát triển kinh
tế xã hội và cơ chế quản lí kinh tế kế hoạch hóa tập trung của các nước xã
hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xơ.
Cơ chế này có những ưu điểm thích hợp cho hồn cảnh hiện tại của đất
nước lúc đó , nhưng cũng có nhiều hạn chế kìm hãm sự phát triển kinh tế
của đất nước sau này . Vậy cơ chế đó như thế nào? Có ưu nhược điểm
gì? Sau đây chúng ta sẽ cùng đi tìm hiểu.
Ngày nay, khi nhắc đến cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung ta thường
chỉ nghĩ đến các mặt tiêu cực của nó.
Thứ nhất, khi nền kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn phát triển theo
chiều sâu dựa trên việc áp dụng các thành tựu của nền khoa học và cơng
nghệ hiện đại thì cơ chế này thủ tiêu sự cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ khoa


học cơng nghệ. Điều đó làm cho nền kinh tế nước ta lâm vào khủng hoảng
trầm trọng
Thứ hai, nhà nước quản lí kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa
trên hệ thống chỉ tiêu, pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới. Tính
pháp lệnh thể hiện ở chỗ: nhà nước xây dựng các chỉ tiêu chủ quan, sau

đó đưa xuống cho các doanh nghiệp, thậm chí cả hợp tác xã thực hiện.
Các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở quyết định của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền và chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Hệ thống chỉ tiêu
được thể hiện ở chỗ: nhà nước thực hiện chế độ bao cấp đối với mọi đơn
vị cấp dưới và doanh nghiệp nhà nước kể cả hợp tác xã ( Hình 3). Cơ quan
hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các
doanh nghiệp, từ cấp vốn, sản xuất đến khâu phân phối sản phẩm nhưng
lại khơng chịu trách nhiệm gì về vật chất và pháp lí với các quyết định của
mình( Hình 4). Giữa cơ quan hành chính trực tiếp tham gia vào quá trình
lên chỉ tiêu kế hoạch và các doanh nghiệp thực hiện chỉ tiêu thì lại khơng có
bất kì sự ràng buộc pháp lí nào với hành động của mình, tức là dù có làm
sai đi chăng nữa thì họ cũng khơng có vấn đề gì cả, vì vậy mà khơng có lí
do nào khiến họ thực hiện kế hoạch một cách tối ưu nhất. Vấn đề mà cả
hai bên quan tâm đó là chạy theo và chạy đua với chỉ tiêu được ấn từ trên
xuống. Ở giai đoạn này, kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể được coi
trọng đặc biệt. Từ đó hạn chế sự phát triển của các thành phần kinh tế
khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, triệt tiêu động lực
kinh tế, lao động sáng tạo đối với người lao động, khơng kích thích tính
năng động, sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh doanh.
Thứ ba, bộ máy quản lí cồng kềnh, nhiều cấp trung gian . Bộ máy quản lí
này vừa kém năng động vừa sinh ra đội ngũ kém năng lực, phong cách
cửa quyền, quan liêu, nhưng lại được hưởng quyền lợi cao hơn người lao
động. Hoạt động kinh tế kém hiệu quả. Trong thực tế, bộ máy nhà nước và
doanh nghiệp quốc doanh còn xuất hiện tính tham ơ.


Thứ tư, các hoạt động giao dịch thương mại còn nhiều hạn chế: bán như
cho, mua như cướp (Hình 5). Giá bán thấp hơn nhiều so với số vốn bỏ ra
nên mới có chuyện nhiều người dân tìm cách giấu lúa và nhiều chuyện dở
khóc dở cười. Ai mua thứ gì cũng phải đến hợp tác xã mua bán hay cửa

hàng mậu dịch quốc doanh. Để mua được thì rất khó khăn vì khơng đủ để
cung cấp, mọi người phải xếp hàng chầu chực để được mua với đặc trưng
là chế độ tem phiếu: vật phẩm tiêu dùng được phân phối theo định mức
chứ không theo khả năng lao động. Tức là người làm ít và người làm nhiều
đều được phân phát vật phẩm như nhau. Vì thế chế độ này thủ tiêu động
lực kích thích người lao động và phá vỡ nguyên tắc phân phối theo lao
động.
Thứ năm, trong thời kì này lạm phát bùng nổ. Tiền phát hành nhiều mà vẫn
khơng đủ, lương cơng nhân khơng có; vật tư hàng hóa khan hiếm. Giá bán
lương thực dù tăng mười lần vẫn khơng đủ để bù đắp chi phí. Sản xuất
nông nghiệp sa sút, đầu tư trong công nghiệp giảm. Chỉ số giá bán lẻ của
thị trường xã hội năm 1986 tăng 587,2% so với năm 1985. Do đồng tiền
mất giá, người ta quay sang lấy vàng làm bản vị, khiến giá vàng tăng vọt,
còn nhanh hơn cả tăng giá hàng hóa. Tình trạng khan hiếm hàng hóa khiến
cuộc sống chật vật không những về số lượng mà cả về phẩm chất của
nhiều mặt hang
Tuy nhiên theo quan điểm tồn diện chỉ nhìn sự vật, hiện tượng ở một mặt,
một chiều thì khơng thể đánh giá chính xác sự vật, hiện tượng mà cần phải
đặt nó vào mối liên hệ cụ thể trong từng hoàn cảnh, điều kiện lịch sử tương
ứng. Cụ thể như cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, khi nhìn phiến diện
ta chỉ có thể nhìn thấy mặt tiêu cực mà khơng thể nhìn thấy những ưu điểm
của nó.
Nhìn một cách tồn diện, ta thấy bên cạnh những hạn chế, yếu kém của
chế độ kinh tế tập trung thì trong hồn cảnh giai đoạn lịch sử những năm


70/XX chế độ kinh tế tập trung cũng có những ưu điểm đóng góp nhất định
cho đất nước:
Xét về mặt kinh tế: Trong những năm 70/XX, thời kì kinh tế tăng trưởng
theo chiều rộng, tức là dựa vào tăng đầu tư khai thác tài nguyên, sức lao

động giá rẻ và một số lợi ích khác, cơ chế kinh tế tập trung có tác dụng
nhất định. Nó cho phép tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế, phát huy sức
mạnh tổng hợp của cả nước vào các mục tiêu chủ yếu trong từng giai đoạn
và điều kiện cụ thể, nhất là trong q trình cơng nghiệp hóa theo hướng ưu
tiên phát triển công nghiệp nặng. Cơ chế này đã tạo nên sự thống nhất,
đồng bộ trong việc thực hiện các mục tiêu của cả nước .
Xét về mặt xã hội – chính trị:
Những năm 70/XX, thời kì đất nước cịn đang nằm dưới bom đạn chiến
tranh, hai miền Nam – Bắc còn bị chia cắt. Mục tiêu và nguyện vọng cùa cả
dân tộc là đánh đuổi Mĩ Ngụy, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước “
Non sông Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”. Trong hoàn cảnh đất
nước ấy, cơ chế quản lý kinh tế hóa tập trung đã đáp ứng được yêu cầu
của thời chiến: Tạo nên sức mạnh đoàn kết toàn dân, toàn quân, hậu
phương – tiền tuyến chung lòng. Thực hiện kế hoạch hóa tập trung sẽ huy
động được tối đa sức lực của toàn nhân dân trong việc xây dựng và phát
triển kinh tế, giúp miền Bắc hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ hậu phương chi
viện cho miền Nam. Nhiệm vụ và mục tiêu là giải phóng miền Nam thống
nhất đất nước là của tồn dân tộc chứ khơng riêng cá nhân ai.
Mặt khác, những người chiến sĩ khi ra chiến trường có thề n tâm về gia
đình, cha mẹ, vợ con ở nhà bởi mọi thứ đã được nhà nước bao cấp.
Chiến thắng lịch sử năm 1975, đất nước dành thắng lợi hoàn toàn, thống
nhất trên toàn lãnh thố. Sự thắng lợi ấy cũng có phần nào vai trị của cơ
chế kinh tế tập trung


Sau khi đất nước thống nhất, nhiệm vụ trước mắt quan trọng nhất lúc bấy
giờ là khôi phục và phát triển kinh tế, khắc phục hậu quả chiến tranh. Chế
độ kinh tế hóa tập trung đã huy động được tinh thần, sức mạnh đồn kết
tồn dân. Nhanh chóng khắc phục hậu quả chiến tranh ở hai miền Nam –
Bắc, đưa đất nước sang giai đoạn phát triển.

Như vậy nếu nhìn một cách tồn diện, đánh giá đa góc cạnh thì chế độ kinh
tế tập trung cũng có nhiều ưu điểm nhất định trong công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam những năm 70/XX.
Điểm phân biệt giữa quan điểm toàn diện và chủ nghĩa Triết chung ở chỗ:
trong khi nhìn nhận sự vật, hiện tượng trong tổng thể các mối liên hệ của
nó, quan điểm tồn diện nhận thức được đâu là mối liên hệ quan trọng, cơ
bản hơn để từ đó đưa ra nhận định đúng đắn mà không hề dàn trải hay
cứng nhắc. Áp dụng vào vấn đề đang bàn luận, ta dễ dàng nhận thấy mối
liên hệ cơ bản nhất với cơ chế quan liêu bao cấp ở đây chính là hồn cảnh
lịch sử của đất nước.
Liên hệ một chút tới đánh giá của quốc tế thì trong bài trả lời phỏng vấn
hãng tin nhà nước Rusia Today ( RT) vào ngày 15/2 vừa qua, Viện sĩ
Yevgeny Primakov 85 tuổi, người từng đảm nhiệm chức vụ Thủ tướng Liên
Bang Nga đã không ngớt lời tôn vinh mơ hình kinh tế của Liên Bang Xơ
Viết trước đây. Nhưng đó chỉ là một thời đã qua với cả Liên Bang Xô Viết
và Việt Nam ta bởi cả hai đều đã tiến hành cải cách kinh tế ( ở Liên Xô là
năm 1965 và Việt Nam là 1986 ). Nói như thế khơng có nghĩa cơ chế bao
cấp khơng hiệu quả nên phải thay đổi mà vì nó khơng cịn phù hợp nữa.Ở
nước ta, thời kì đầu với hào khí dân tộc đang lên sau chiến thắng lẫy lừng
của cuộc kháng chiến chống Pháp, cũng như do được sống trong một chế
độ hoàn toàn mới, độc lập, tự do nên người dân tràn đầy hy vọng sẵn sàng
đóng góp cơng sức, tiền của của mình cho cơng cuộc xây dựng chế độ xã
hội mới, chế độ xã hội chủ nghĩa. Vì thế lúc bấy giờ, cơ chế kế hoạch hóa
tập trung là hồn tồn phù hợp. Và thực tế đã chứng minh tính đúng đắn


của nó thơng qua sức mạnh tồn dân tộc mà nó tạo nên đã giúp nước nhà
đánh tan giặc Mỹ, nước non thu về một mối.
Tuy nhiên, mơ hình kinh tế xã hội chủ nghĩa vận hành theo cơ chế kế
hoạch hóa tập trung đã dần bộc lộ rõ ràng hơn những hạn chế hết sức to

lớn mà trước đấy nó được chiến tranh che lấp thì bây giờ đã gây ra hiệu
quả trầm trọng mà đất nước phải gánh chịu. Nền kinh tế thiếu năng động,
kém hiệu quả, đất nước rơi vào tình trạng lạc hậu, đời sống nhân dân ngày
càng trở nên khó khăn, các căng thẳng xã hội cũng vì thế mà gia tăng; dẫn
đến một hệ quả tất yếu là ta phải tiến hành cải cách kinh tế năm 1986 đưa
đất nước sang giai đoạn phát triển mới.
Thời thế đã thay đổi thì dứt khốt cơ chế cũng phải thay đổi sao cho phù
độ hợp nếu khơng muốn bị bỏ lại phía sau. Cũng giống như thế để có cái
nhìn tồn diện về cơ chế kế hoạch hóa tập trung, ta phải xác định được
hồn cảnh mà nó được áp dụng, đấy là căn cứ quan trọng nhất để ta đánh
giá về nó, tránh những đánh giá phiến diện, sai lầm của khơng ít người
hiện nay. Bản thần cơ chế nó khơng có lỗi, mà là được áp dụng sai thời
điểm và cuối cùng thì cũng phải chịu bị phủ định trong quá trình phát triển
của kinh tế đất nước bởi một cái mới hơn: cơ chế thị trường.
Nhìn một cách tồn diện và bao qt về chế độ quan liêu bao cấp thì nó
cũng có những mặt ưu điểm riêng. Tuy nhiên mặt ưu điểm lại vơ cùng hạn
chế thay vào đó là vơ số những nhược điểm khiến nước ta phải mất nhiều
thời gian để thay đổi nếp nghĩ, tác phong từ chiến đấu sang xây dựng. Bên
cạnh đó, tư tưởng bao cấp, sự duy ý chí và chậm đổi mới tư duy đã đưa
dân ta đứng trước bao khó khăn vào cuối những năm tám mươi, đầu chín
mươi của thế kỷ trước. Hơn nữa trong nền kinh tế hội nhập hiện nay nó lại
trở nên vơ cùng lạc hậu và khơng cịn phù hợp nữa. Tất cả những hạn chế
trên không thể đổi lỗi cho cụ thể một cá nhân nào mà nó phải xét trên nhiều
yếu tố và các mặt khác nhau.


Thứ nhất là sự quản lý chưa đúng đắn, thiếu kinh nghiệm của đảng ta.
Đảng ta đã nghiêm túc kiểm điểm, công khai thừa nhận những sai lầm,
khuyết điểm trước nhân dân và cho rằng, nguyên nhân chính của những
sai lầm, khuyết điểm trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội (19751985) của Đảng ta là do bệnh nóng vội, chủ quan, duy ý chí, từ đó dẫn đến

sai lầm về bố trí cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý phân phối lưu thông, cải tạo
xã hội chủ nghĩa; sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện.
+ Nhà nước quản lý kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính, xây dựng
các chỉ tiêu một cách chủ quan, áp đặt từ trên xuống dưới khiến cho các
doanh nghiệp chỉ quan tâm duy nhất đến việc hoàn thành chỉ tiêu, hạn chế
sáng tạo.
+ Các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh
doanh của các doanh nghiệp. Làm hạn chế sự phát triển và đóng góp vào
nền kinh tế của các thành phần kinh tế khác.
+ Quan hệ hàng hóa tiền tệ bị coi nhẹ
+ Bộ máy quản lý cồng kềnh nhiều cấp trung gian. Hệ thống thể chế chưa
đồng bộ, còn chồng chéo, thiếu thống nhất, thủ tục hành chính cịn rườm
rà, phức tạp, trật tự kỷ cương chưa nghiêm.
Hai là đội ngũ cán bộ cơng chức cịn nhiều yếu kém về phẩm chất, tinh
thần, trách nhiệm. Khơng ít cán bộ, cơng chức trong các cơ quan hành
chính nhà nước làm việc thiếu tích cực. Điều đó thể hiện ở chỗ: nhiều cán
bộ, công chức bảo thủ trong cách nghĩ, cách làm, thiếu sự năng động, sáng
tạo và đổi mới; cách làm việc quan liêu, hành chính hố, khơng thạo việc,
tác phong chậm chạp, rườm rà, thái độ thờ ơ, thiếu trách nhiệm… dẫn đến
sự trì trệ về phương thức hoạt động trong các cơ quan hành chính. Vẫn
cịn tồn tại khơng ít hiện tượng áp đặt, quan liêu cửa quyền, tham nhũng,
hối lộ, tuỳ tiện, coi thường kỷ cương, kỷ luật công vụ.


Ba là, trong xu thế hội nhập và phát triển quốc tế như hiện nay, các nước
phát triển đang sử dụng những ưu thế của mình gây ảnh hưởng, tạo sức
ép, làm tổn hại nền độc lập dân tộc của những nước chậm phát triển, trong
đó có Việt Nam. Nếu như trước đây, chúng ta vì Độc lập mà buộc phải hy
sinh “No cơm, ấm áo”, thì nay “No cơm, ấm áo” đang trở thành “mồi nhử”
của những nước lớn, nhằm làm méo mó nội dung độc lập dân tộc của

nhiều nước nghèo và nhỏ. Trong bối cảnh tình hình này, khơng cho phép
chúng ta tách mình biệt lập với cộng đồng thế giới, mà phải chủ động tham
gia hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, chủ động khai thác những thuận
lợi từ bên ngoài, dựa vào những tập hợp lực lượng có lợi, hạn chế những
tác động tiêu cực. Q trình đó được kết hợp chặt chẽ với yêu cầu tăng
cường tiềm lực quốc phòng – an ninh để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam XHCN. Thông qua hội nhập quốc tế, khu vực các nước ASEAN để
tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia, giữ vững độc lập, chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ.
Những nguyên nhân trên đã cho ta thấy tại sao chế độ quan liêu bao cấp
lại tồn tại nhiều nhược điểm và khơng cịn phù hợp với nước ta trong thời
bình. Nước ta đang hướng tới đổi mới tiến hành chuyển dần từ nền kinh tế
tập trung ,quan liêu ,bao cấp sang thực hiện cơ chế thị trường. Có như vậy
nền kinh tế nước ta mới có thể được cải thiện và phát triển vững mạnh.
Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi phát triển thuận lợi, tạo
dựng được các mối quan hệ với các nước đang phát triển, hơn nữa là các
nước phát triển để nước ta có thể chiếm lại ưu thế và sức ảnh hưởng trên
thị trường quốc tế.
PHẦN KẾT LUẬN
Áp dụng quan điểm tồn diện về cơ chế kế hoạch hóa tập trung ở Việt Nam
đã cho ta cái nhìn sâu, rộng, đúng đắn về vấn đề này. Mặc dù còn bộc lộ
rất nhiều hạn chế nhưng ta không thể phủ nhận vai trị và ưu điểm của cơ
chế này. Khi nhìn nhận nó cần xem xét trên mọi mặt, mọi mối quan hệ thì


mới xác định được đâu là những mặt nổi bật, những mối quan hệ quan
trọng nhất. Từ đó ta sẽ thấy được bản chất cơ chế kế hoạch hóa tập trung
không phải là tiêu cực mà chỉ là không được vận dụng sáng tạo, đúng đắn
vào tình hình đất nước cũng như bối cảnh lịch sử nước ta bấy giờ ,chính vì
vậy mới dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Nhận thức được điều đó

Đảng ta đã đề ra đường lối phát triển kinh tế mới và khắc phục những hạn
chế của cơ chế kế hoạch hóa tập trung mà vẫn đi theo con đường xã hội
chủ nghĩa.
Từ vấn đề nêu trên ta càng nhận thức rõ hơn về vai trị quan trọng của
quan điểm tồn diện khi nhìn nhận một vấn đề:
– Quan điểm này đã cung cấp cho chúng ta cái nhìn đúng đắn, khách quan
về sự vật, hiện tượng để rút ra bản chất. Phải đặt nó giữa các yếu tố bộ
phận, các thuộc tính khác nhau của chính sự vật đó và mối quan hệ giữa
sự vật đó với sự vật khác ,đồng thời ln đặt trong mối quan hệ với nhu
cầu thực tiễn của con người.
– Vận dụng quan điểm toàn diện vào hoạt động thực tiễn địi hỏi chúng ta
phải có các biện pháp, phương tiện khác nhau để hiểu cho rộng nhưng
cũng cần xác định đâu là cái cơ bản, cái quan trọng để hiểu sâu sắc vấn đề
. Mà theo như Lê – nin là kết hợp chặt chẽ giữa “chính sách dân chủ” và
chính sách “có trọng điểm”.


×