Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Thực trạng chất lượng cuộc sống ở phụ nữ loãng xương đến khám tại Bệnh viện Hữu nghị Đa khoa Nghệ An năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (604.45 KB, 11 trang )

CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC HẢI PHÒNG

THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG
Ở PHỤ NỮ LOÃNG XƯƠNG ĐẾN KHÁM
TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ ĐA KHOA NGHỆ AN NĂM 2020
Đinh Thị Thanh Mai1, Thái Văn Chương2,
Vũ Văn Thái1, Võ Thị Thanh Hiền1
TĨM TẮT
Đặt vấn đề: Lỗng xương ảnh hưởng đến
chất lượng cuộc sống của phụ nữ đã được
các nhà thấp khớp học trên thế giới tìm hiểu
và đưa ra những báo cáo thống kê đáng để
khẳng định điều này. Đánh giá đúng chất
lượng cuộc sống của từng bệnh nhân lỗng
xương giúp cho người thầy thuốc có chiến
lược tư vấn, điều trị và dự phòng phù hợp.
Mục tiêu: Mô tả thực trạng chất lượng
cuộc sống ở phụ nữ loãng xương đến khám
tại Bệnh viện Hữu nghị Đa khoa Nghệ An,
năm 2020.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
Một nghiên cứu cắt ngang được tiến hành ở
720 phụ nữ có đo mật độ xương, chưa điều
trị lỗng xương bao giờ, tự nguyện tham gia
nghiên cứu, phỏng vấn theo bộ câu hỏi đánh
giá chất lượng cuộc sống theo thang điểm
SF-36 ở phụ nữ.
Kết quả:
+ Điểm chất lượng cuộc sống ở phụ nữ
loãng xương là 35,3 ± 16,28 được xếp loại ở
mức thấp theo thang điểm SF-36 và thấp hơn


có ý nghĩa thống kê so với nhóm khơng
lỗng xương là 55,9 ± 19,59, với p < 0,01.
58

Trường Đại học Y Dược Hải Phòng,
Bệnh viện Hữu nghị đa khoa Nghệ An
Chịu trách nhiệm chính: Đinh Thị Thanh Mai
Email:
Ngày nhận bài: 22.3.2021
Ngày phản biện khoa học: 21.4.2021
Ngày duyệt bài: 21.5.2021
1
2

400

+ Chất lượng cuộc sống ở tất cả 8 lĩnh
vực đánh giá và 2 khía cạnh sức khỏe thể
chất và sức khỏe tinh thần của phụ nữ lỗng
xương đều thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm
khơng lỗng xương, p < 0,01.
Từ khóa: loãng xương, chất lượng cuộc
sống.
SUMMARY
THE SITUATION OF LIFE QUALITY
IN WOMEN WITH OSTEOPOROSIS
EXAMINED AT HUU NGHI GENERAL
HOSPITAL IN NGHE AN IN 2020
Rationale: It has been investigated by
rheumatologists whether osteoporosis affects the

quality of women’s life and and they have given
statistic reports to comfirm this. A proper
evaluation of each osteoporotic patient’s life
quality helps doctors to have an appropriate
strategy of consultation, treatment and
prevention.
Objectives: To describe the situation of life
quality of women with osteoporosis examined at
Huu Nghi General Hospital in Nghe An in 2020.
Subjects and research methods: A crosssectional study was conducted in 720 women
who had their bone density measured with no
osteoporosis treatment before and voluntarily
participated in the study and in the interviews
based on the questionnaires to evaluate life
quality according to SF-36 scale in women.
Results:


TạP CHí Y học việt nam tP 503 - tháng 6 - sè ĐẶC BIỆT - 2021

+ The score of life quality in osteoporotic
women was 35.3 ± 16.28, ranked low on the SF36 scale and statistically significantly lower than
the non-osteoporosis group of 55.9 ± 19.59, with
p <0.01.
+ The life quality scores in all 8 evaluation
areas and 2 aspects of physical and mental health
of osteoporotic women were significantly lower
than the group without osteoporosis, p <0.01.
Key word: osteoporosis, life quality


I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Loãng xương ở phụ nữ là vấn đề ngày
càng được quan tâm do ước tính ảnh hưởng
đến 200 triệu người trên toàn thế giới, hơn
75 triệu người ở Châu Âu, Mỹ và Nhật Bản
và ngày càng gia tăng khi tuổi thọ ngày càng
cao.
Loãng xương ảnh hưởng đến chất lượng
cuộc sống của phụ nữ đã được các nhà thấp
khớp học trên thế giới tìm hiểu và đưa ra
những báo cáo thống kê đáng để khẳng định
điều này. Đánh giá đúng chất lượng cuộc
sống của từng bệnh nhân loãng xương giúp
cho người thầy thuốc có chiến lược tư vấn,
điều trị và dự phòng phù hợp hơn [8]. Hiện
nay, để đánh giá chất lượng cuộc sống của
bệnh nhân người ta sử dụng có rất nhiều
công cụ là các bộ câu hỏi như: Short Form36, Short Form-12, Euro Quality of life 5
Dimention, Healthcare Access and Quality
Index...[10]. Nhiều quốc gia trên thế giới đã
áp dụng thường xuyên các thang điểm đánh
giá chất lượng sống trong đó có bộ câu hỏi
Short Form-36 trong q trình theo dõi và
điều trị cho phụ nữ loãng xương [6], [8], [9].
Ở Việt Nam, đã có rất nhiều cơng trình
nghiên cứu về đặc điểm lâm sàng, cận lâm
sàng và các phương pháp điều trị loãng
xương. Tuy nhiên, loãng xương là bệnh lý
thầm lặng do vậy đánh giá loãng xương và


nâng cao chất lượng cuộc sống cho phụ nữ là
vô cùng cần thiết .
Để góp phần vào cơng tác chăm sóc sức
khỏe sinh sản cho phụ nữ trong độ tuổi sinh
đẻ, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài với
mục tiêu:
Mô tả thực trạng chất lượng cuộc sống ở
phụ nữ loãng xương đến khám tại Bệnh viện
Hữu nghị Đa khoa Nghệ An, năm 2020.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu đề xuất các
biện pháp hữu hiệu nhằm phòng chống bệnh.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm nghiên cứu
Khoa Khám bệnh, Bệnh Viện Hữu nghị
Đa khoa Nghệ An.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn lựa chọn
- Nữ giới.
- Có đo mật độ xương.
- Chưa điều trị loãng xương bao giờ.
- Tự nguyện tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
- Bệnh nhân đã hoặc đang điều trị lỗng
xương.
- Bệnh nhân khơng hợp tác, mất trí nhớ
hoặc trí nhớ kém ảnh hưởng đến q trình
thu thập thơng tin chính xác.
- Đã thay khớp háng nhân tạo.
2.3. Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 01/2020 đến tháng 09/2020.

2.4. Phương pháp nghiên cứu
Theo phương pháp nghiên cứu ngang mơ
tả.
2.4.1. Cỡ mẫu
Cơng thức tính cỡ mẫu:

n = Z12− / 2

p(1 − p)
2

: Mức ý nghĩa thống kê.
∆: Khoảng sai lệnh mong muốn.
401


CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC HẢI PHỊNG

p: Xác suất lỗng xương ở phụ nữ theo
nghiên cứu của Nguyễn Thị Ngọc Lan [3].
Với  = 0,05; ∆ = 0,04; p = 0,584. Thay
vào công thức ta có n = 584. Để tăng độ tin
cậy của nghiên cứu chúng tôi lấy n = 720
người.
2.4.2. Cách chọn mẫu
- Mỗi ngày đến khám và đo lỗng xương
tại phịng khám của bệnh viện có 10 - 15 phụ
nữ. Các đối tượng đủ tiêu chuẩn được phỏng
vấn đưa vào nghiên cứu.
- Lấy đến khi đủ số lượng nghiên cứu

(trong đó chia ra 2 nhóm lỗng xương và
khơng lỗng xương)
2.4.3. Các biến số, chỉ số trong nghiên cứu
- Thông tin chung: địa dư, học vấn, nghề
nghiệp, tuổi, cân nặng, chiều cao, chỉ số khối
cơ thể (BMI)
- Chất lượng cuộc sống, phân loại chất
lượng cuộc sống
2.4.4 Phương pháp thu thập thông tin
2.4.4.1. Công cụ thu thập số liệu
- Bộ câu hỏi phỏng vấn theo bộ câu hỏi
đánh giá chất lượng cuộc sống theo thang
điểm SF-36 ở phụ nữ.
- Đo mật độ xương bằng phương pháp hấp
thụ tia X năng lượng kép.
2.4.4.2. Phương pháp thu thập số liệu
* Thăm khám lâm sàng và đánh giá kết
quả.
- Cân nặng: .
- Chiều cao:
- BMI: Được tính theo cơng thức:
BMI = m/h2
m: Cân nặng (kg)
h: Chiều cao (m)
Phân loại BMI: Sử dụng phân loại BMI
theo tiêu chuẩn năm 2000 của WHO dành
cho các nước Châu Á Thái Bình Dương.
+ Gầy: BMI < 18,5 kg/m2
+ Bình thường: 18,5 ≤ BMI ≤ 22,9 kg/m2
402


+ Thừa cân và béo phì: BMI ≥ 23 kg/m2
- Giảm chiều cao trên 3 cm: Coi là có khi
bệnh nhân có chiều cao thấp hơn ít nhất trên
3 cm so sánh với chiều cao khi khám sức
khỏe tuổi thanh niên [3].
* Đo mật độ xương
- Thiết bị đo: Bằng phương pháp đo hấp
thụ tia X năng lượng kép (Dual energy Xray
abssorptiometry - DXA).
Chất lượng cuộc sống
- Đối tượng nghiên cứu trả lời bộ câu hỏi
chất lượng cuộc sống theo thang điểm SF-36.
Điều tra viên ln có mặt để giải thích những
từ ngữ khó hiểu theo định nghĩa của từng
lĩnh vực, khía cạnh.
- Bộ câu hỏi SF-36 (Phiên bản 1.0) có 36
câu hỏi, gồm 8 yếu tố về sức khỏe: Hoạt
động thể lực; Chức năng thể lực; Cảm giác
đau; Hoạt động sức khỏe chung; Sức sống;
Hoạt động xã hội; Chức năng cảm xúc; Sức
khỏe tâm lý [9].
- Cho điểm các câu hỏi, chuyển đổi điểm
số của các câu trả lời theo bảng dưới đây.
Điểm càng cao thì xác định tình trạng sức
khỏe càng tốt. Mỗi câu trả lời đều có điểm số
thay đổi từ 0 đến 100.
Bảng 2.1 Cách cho điểm bộ câu hỏi SF36
Câu trả
Điểm

Câu hỏi
lời
số
1
100
2
75
1, 2, 20, 22, 34, 36
3
50
4
25
5
0
1
0
3, 4, 5, 6, 7, 8, 9,
2
50
10, 11, 12
3
100
1
0
13, 14, 15, 16, 17,
18, 19
2
100
21, 23, 26, 27, 30
1

100


TạP CHí Y học việt nam tP 503 - tháng 6 - sè ĐẶC BIỆT - 2021

24, 25, 28, 29, 31

2
3
4
5
6
1
2
3

80
60
40
20
0
0
20
40

32, 33, 35

4
5
6

1
2
3
4
5

60
80
100
0
25
50
75
100

Bảng 2.1. Cách tính điểm cho 8 yếu tố trong bộ câu hỏi SF-36
Yếu tố
Số lượng
Câu hỏi
Hoạt động thể lực
10
3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12
Chức năng thể lực
4
13, 14, 15, 16
Cảm giác đau
2
21, 22
Hoạt động sức khỏe chung
5

1, 33, 34, 35, 36
Sức sống
4
23, 27, 29, 31
Hoạt động xã hội
2
20, 32
Chức năng cảm xúc
3
17, 18, 19
Sức khỏe tâm lý
5
24, 25, 26, 28, 30
Các điểm số từ các câu hỏi thuộc từng yếu tố đặc biệt của tình trạng sức khỏe được gộp lại
để tính trung bình chung và trung bình riêng của 8 yếu tố, điểm sức khỏe thể chất và điểm sức
khỏe tâm thần.
Điểm SF-36 sau khi được tính sẽ được dùng để phân loại bệnh nhân theo bảng sau:
Bảng 2.2. Phân loại chất lượng cuộc sống theo SF-36
Điểm chất lượng cuộc sống theo SF-36
Phân loại
≤ 25
Rất thấp
26 - 50
Thấp
51 - 75
Trung bình
> 75
Cao
2.5. Sai số và cách hạn chế
- Sai số lớn nhất có thể gặp trong nghiên

cứu này là người bệnh khơng dám đưa thông
tin thật sẽ làm sai lệch kết quả.
- Khống chế sai số:
+ Thiết kế bộ câu hỏi phỏng vấn rõ ràng,
dễ hiểu.

+ Tập huấn kỹ cho điều tra viên là cán bộ
y tế tại khoa khám bệnh để lấy số liệu thống
nhất.
+ Giải thích rõ cho người bệnh về mục
tiêu nghiên cứu, tính bảo mật, quyền từ chối
hoặc dừng tham gia trả lời phỏng vấn.
+ Giám sát quá trình thu thập số liệu
nghiên cứu.

403


CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC HẢI PHÒNG

+ Kiểm tra ngẫu nhiên 5% số phiếu thu
thập thông tin, nếu chưa đạt tiêu chuẩn đề
nghị làm lại.
+ Làm sạch số liệu trước khi tiến hành
phân tích.
2.6. Xử lý và phân tích số liệu
Nhập số liệu và xử lý số liệu trên máy vi
tính bằng phần mềm STATA 14.0.
- Tính giá trị lớn nhất, nhỏ nhất, giá trị
trung bình, độ lệch chuẩn, các tỷ lệ phần trăm.

- Dùng thuật toán 2 để so sánh các tỷ lệ
quan sát, dùng test T-student để so sánh các
giá trị trung bình, sự khác biệt khi p < 0,05.

2.7. Đạo đức trong nghiên cứu
- Nghiên cứu đã được sự đồng ý của lãnh
đạo Khoa khám bệnh, Ban giám đốc Bệnh
viện Hữu nghị Đa khoa Nghệ An .
- Các đối tượng tham gia nghiên cứu một
cách tự nguyện, được cung cấp đầy đủ các
thông tin về nghiên cứu, các thông tin liên
quan đến đối tượng nghiên cứu được đảm
bảo giữ bí mật.
Tất cả đối tượng nghiên cứu đều được
thăm khám bệnh và phỏng vấn theo một mẫu
phiếu điều tra thống nhất.

III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu
Bảng 3.1. Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu (n = 720)
Thông tin chung
n
Tỷ lệ (%)
Thành thị
200
27,78
Địa dư
Nông thôn
520
72,22

Hoạt động
278
38,61
Nghề nghiệp
Tĩnh tại
442
61,39
Mù chữ
40
5,56
Tiểu học
192
26,67
Trình dộ học vấn
Trung học cơ sở
377
52,36
Phổ thông trung học
79
10,97
Cao đẳng và Đại học
32
4,44
Nhận xét: - Đối tượng nghiên cứu chủ yếu tập trung ở vùng nơng thơn và làm nghề
nghiệp có tính chất tĩnh tại chiếm tỷ lệ tương ứng 72,22% và 61,39%.
- Nhóm đối tượng nghiên cứu có học vấn trung học cơ sở chiếm tỷ lệ cao nhất 52,36% và
nhóm có học vấn cao đẳng và đại học chiếm tỷ lệ thấp nhấp 4,44%.
Bảng 3.2. Phân bố tuổi của đối tượng nghiên cứu (n = 720)
Tuổi (năm)
n

Tỷ lệ (%)
< 50
60
8,33
50-59
149
20,69
Nhóm tuổi
60-69
201
27,92
≥ 70
310
43,06
Tuổi trung bình ( ± SD)
404

66,2 ± 12,04


TạP CHí Y học việt nam tP 503 - tháng 6 - sè ĐẶC BIỆT - 2021

Nhận xét: Tuổi trung bình 66,2 ± 12,04, trong đó nhóm phụ nữ ≥ 70 tuổi chiếm tỷ lệ cao
nhất 43,06% và nhóm < 50 tuổi chiếm tỷ lệ thấp nhất 8,33%.
Bảng 3.3. Chỉ số nhân trắc của đối tượng nghiên cứu (n = 720)
Chỉ số nhân trắc

Trung bình ( ± SD)
148,6 ± 6,07
49,8 ± 8,58

22,5 ± 3,20

Min

Chiều cao (cm)
130
Cân nặng (kg)
25
2
BMI (kg/m )
11,9
Nhận xét:
- Chiều cao trung bình: 148,6 ± 6,07; Cao nhất: 167 cm; Thấp nhất: 130 cm.
- Cân nặng trung bình: 49,8 ± 8,58; Cao nhất: 80 kg; Thấp nhất: 25 kg.
- BMI trung bình: 22,5 ± 3,20 (kg/m2); Cao nhất: 35,6 kg/m2;
Thấp nhất: 11,9 kg/m2.

Max
167
80
35,6

Hình 3.1. Phân loại BMI của đối tượng nghiên cứu (n = 720)
Nhận xét: Tỷ lệ thừa cân và béo phì chiếm 39,58%, những người gầy chiếm chiếm 8,47%.
3.2. Chất lượng cuộc sống ở phụ nữ loãng xương
Bảng 3.4. Điểm chất lượng cuộc sống sức khỏe thể chất của đối tượng nghiên cứu theo
SF-36 (n = 720)
Điểm chất lượng cuộc sống
Lỗng xương
Khơng lỗng xương

p
(n = 391)
(n = 329)
theo SF-36 ( ± SD)
Hoạt động thể lực
48,8 ± 19,84
70,9 ± 21,53
< 0,01
Chức năng thể lực
19,8 ± 23,49
48,8 ± 34,13
< 0,01
Cảm giác đau
19,0 ± 17,30
38,5 ± 20,15
< 0,01
Hoạt động sức khỏe chung
34,8 ± 21,43
56,8 ± 27,91
< 0,01
Khía cạnh Sức khỏe thể chất
30,6 ± 17,87
53,8 ± 22,98
< 0,01
Nhận xét: Điểm số trung bình chất lượng cuộc sống ở khía cạnh và các lĩnh vực của sức
khỏe thể chất gồm: Hoạt động thể lực, chức năng thể lực, cảm giác đau, hoạt động sức khỏe
chung, sức khỏe chung ở phụ nữ lỗng xương thấp hơn ở phụ nữ khơng lỗng xương, sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,01.
405



CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC HẢI PHÒNG

Bảng 3.5. Điểm chất lượng cuộc sống sức khỏe tinh thần của đối tượng nghiên cứu
theo SF-36 (n = 720)
Điểm chất lượng cuộc sống
Lỗng xương
Khơng lỗng xương
p
(n
=
391)
(n = 329)
theo SF-36 ( ± SD)
Sức sống
38,1 ± 14,86
51,8 ± 15,40
< 0,01
Hoạt động xã hội
28,3 ± 19,31
48,3 ± 19,76
< 0,01
Chức năng cảm xúc
24,04 ± 24,26
51,1 ± 31,01
< 0,01
Sức khỏe tâm lý
39,6 ± 13,75
51,9 ± 15,40
< 0,01

Khía cạnh Sức khỏe tinh thần
32,5 ± 16,10
50,8 ± 17,63
< 0,01
Nhận xét: Điểm số trung bình chất lượng cuộc sống ở khía cạnh và các lĩnh vực của sức
khỏe tinh thần gồm: Sức sống, hoạt động xã hội, chức năng cảm xúc, sức khỏe tâm lý ở phụ
nữ lỗng xương thấp hơn ở phụ nữ khơng lỗng xương, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với
p < 0,01.
Bảng 3.6. Điểm chất lượng cuộc sống trung bình của đối tượng nghiên cứu theo SF-36
(n = 720)
Điểm chất lượng cuộc sống
Lỗng xương
Khơng lỗng xương
p
(n = 391)
(n = 329)
theo SF-36 ( ± SD)
Điểm SF-36 chung
35,3 ± 16,28
55,9 ± 19,59
< 0,001
Nhận xét: Điểm số trung bình chất lượng cuộc sống ở phụ nữ loãng xương được phân loại
ở mức thấp và thấp hơn ở phụ nữ khơng lỗng xương, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p
< 0,001.

Hình 3.4. Phân loại chất lượng cuộc sống của đối tượng nghiên cứu theo SF-36 (n = 720)
Nhận xét: Tỷ lệ phụ nữ lỗng xương có chất lượng cuộc sống ở mức rất thấp và thấp
chiếm 32,48% và 50,13%, cao hơn so với phụ nữ khơng lỗng xương, sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê với p < 0,001.
406



TạP CHí Y học việt nam tP 503 - tháng 6 - sè ĐẶC BIỆT - 2021

IV. BÀN LUẬN
Chất lượng cuộc sống ở phụ nữ đến
khám tại Bệnh viện Hữu nghị Đa khoa
Nghệ An
4.1. Thông tin chung của đối tượng
nghiên cứu
- Trong nghiên cứu của chúng tơi có 720
phụ nữ được điều tra, các đối tượng chủ yếu
tập trung vùng nơng thơn chiếm 72,22%, làm
nghề nghiệp có tính chất tính tại chiếm
61,39% và có trình độ học vấn trung học cơ
sở chiếm tỷ lệ cao nhất 52,36% (Bảng 3.1).
Độ tuổi trung bình là 66,2 ± 12,04, trong đó
nhóm tuổi ≥ 70 chiếm tỷ lệ cao nhất 43,06%
và nhóm < 50 tuổi chiếm 8,33% (Bảng 3.2),
kết quả này tương tự nghiên cứu của Nguyễn
Thị Ngọc Lan và cộng sự (2015) khi nghiên
cứu mật độ xương trên 988 phụ nữ trên 50
tuổi tại miền Bắc Việt Nam tuổi trung bình là
64,38 ± 9,27 [3].
- Chiều cao trung bình của đối tượng
nghiên cứu là 148,6 ± 6,07cm (Bảng 3.3)
tương tự của Tào Minh Thúy (2013) là 152,1
± 5,7 cm [5], của Nguyễn Thị Ngọc Lan
(2015) là 149,89 ± 6,05 cm [4].
- Cân nặng trung bình của đối tượng

nghiên cứu là 49,8 ± 8,58 kg (Bảng 3.3),
tương tự như kết quả của Tào Minh Thúy
(2013) là 52,91 ± 8,43 kg [4], của Nguyễn
Thị Ngọc Lan (2015) là 51,75 ± 9,07 kg [4].
BMI trung bình của các đối tượng nghiên
cứu là 22,5 ± 3,20 kg/m2 (Bảng 3.3), trong
đó tỷ lệ người gầy chiếm 8,47% và tỷ lệ thừa
cân, béo phì chiếm 39,58% (Hình 3.1). Kết
quả của chúng tôi tương tự kết quả của Tào
Minh Thúy (2013) là 22,86 ± 3,31 kg/m2 [4],
Nguyễn Thị Ngọc Lan (2015) là 22,98 ± 3,48
kg/m2 [3].
4.2. Chất lượng cuộc sống ở phụ nữ
lỗng xương
Trong nghiên cứu của chúng tơi đối tượng

nghiên cứu được chia thành hai nhóm lỗng
xương và khơng loãng xương, sử dụng SF-36
đánh giá chất lượng cuộc sống ở mỗi nhóm
trên tất cả các khía cạnh.
4.2.1. Điểm sức khỏe thể chất: Physical
component summary (PCS)
Điểm sức khỏe thể chất bao gồm 4 yếu tố:
Hoạt động thể lực, chức năng thể lực, cảm
giác đau của cơ thể và hoạt động sức khỏe
chung.
- Hoạt động thể lực (Physical Functioning
– PF)
Điểm hoạt động thể lực trung bình của
phụ nữ mắc lỗng xương trong nghiên cứu

của chúng tôi là 48,8 ± 19,84 thấp hơn nhóm
khơng lỗng xương 70,9 ± 21,53, có ý nghĩa
với p < 0,01 (Bảng 3.4). Theo Ciubean A. D
(2018) khi nghiên cứu chất lượng cuộc sống
ở 364 phụ nữ Rumani mãn kinh mắc loãng
xương và gãy xương, cho kết quả điểm trung
bình hoạt động thể lực ở nhóm lỗng xương
là 50 thấp hơn có ý nghĩa so với ở nhóm
chứng là 55 với p < 0,01 [6].
- Chức năng thể lực (Role physical - RP)
+ Trong nghiên cứu của chúng tơi, điểm
chức năng thể lực của phụ nữ lỗng xương là
19,8 ± 23,49 thấp hơn có ý nghĩa so với
nhóm khơng lỗng xương 48,8 ± 34,13
(Bảng 3.4). Kết quả này tương tự với các tác
giả Ciubean A.D (2018) và Hopman (2019).
+ Tác giả Hopman và cộng sự (2019)
đánh giá chất lượng cuộc sống trên dữ liệu
5.266 phụ nữ Canada theo thang điểm SF-36
cho kết quả ở phụ nữ không mắc loãng
xương điểm chức năng thể lực 76,4 ± 36,7
trong khi ở nhóm lỗng xương là 57,5 ± 43,1
thấp hơn có ý nghĩa thống kê với p < 0,001
[8].
- Cảm giác đau của cơ thể (Bodily pain BP)
+ Điểm cảm giác đau cơ thể nghiên cứu
407


CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC HẢI PHÒNG


được trên 720 phụ nữ là 27,8 ± 20,95, ở
nhóm lỗng xương 19,0 ± 17,30 thấp hơn có
ý nghĩa so với nhóm khơng lỗng xương
38,5 ± 20,15 với p < 0,01 (Bảng 3.4).
+ Tác giả Hopman (2019) đánh giá chất
lượng cuộc sống trên dữ liệu 5.266 phụ nữ
Canada theo thang điểm SF-36 cho kết quả ở
phụ nữ không mắc loãng xương điểm cảm
giác đau 72,8 ± 23,7, trong khi ở nhóm lỗng
xương là 58,2 ± 25,6 thấp hơn có ý nghĩa
thống kê với p < 0,001 [8].
- Hoạt động sức khỏe chung (General
healthy - GH)
+ Đây là yếu tố cuối cùng trong nhóm
hoạt động thể lực (PCS), nghiên cứu của
chúng tơi tính được chỉ số này của nữ giới
lỗng xương 34,8 ± 21,43 thấp hơn nhóm
khơng lỗng xương 56,8 ± 27,91 có ý nghĩa
với p < 0,01 (Bảng 3.4).
+ Ferreira N và cộng sự (2008) nghiên
cứu trên 220 phụ nữ sau mãn kinh chia thành
2 nhóm lỗng xương và nhóm chứng, nhận
thấy điểm hoạt động sức khỏe chung theo
SF-36 ở nhóm lỗng xương là 63,6 ± 24,0
thấp hơn có ý nghĩa so với ở nhóm chứng là
82,1 ± 16,9 với p < 0,001 [7]. Trong đó
nhóm phụ nữ loãng xương điểm sức khỏe thể
chất là 30,6 ± 17,87, nhóm khơng lỗng
xương là 53,8 ± 22,98 sự khác biệt có ý

nghĩa thống kê với p < 0,01 (Bảng 3.4).
Như vậy, để cải thiện được chất lượng
cuộc sống liên quan đến sức khỏe thể chất
của phụ nữ loãng xương cần phải cải thiện
các triệu chứng đau và cải thiện chức năng
thể lực của người bệnh.
4.2..2. Điểm sức khỏe tinh thần Mental
component summary (MCS)
Điểm sức khỏe tinh thần (MCS) bao gồm
4 khía cạnh: Sức sống, hoạt động xã hội,
chức năng cảm xúc và sức khỏe tâm lý.
- Sức sống (Vitality - VT)
408

+ Sức sống ảnh hưởng tới thái độ của
bệnh nhân với tình trạng bệnh của bản thân,
đánh giá khả năng đối mặt với khó khăn.
Điểm sức sống ở phụ nữ loãng xương 38,1 ±
14,86 phân loại ở mức thấp và thấp hơn có ý
nghĩa so với nhóm khơng lỗng xương 51,8
± 15,40 (Bảng 3.5) với p < 0,01.
+ So với kết quả nghiên cứu của các tác
giả Ferreira N (2008), Ciubean A.D (2018)
và Hopman (2019) chúng tôi nhân thấy, phụ
nữ Việt Nam có điểm sức sống thấp hơn các
nước phát triển. Tuy nhiên kết quả tương
đồng khi chỉ ra phụ nữ loãng xương điểm
sức sống thấp hơn hẳn so với nhóm phụ nữ
khơng bị mắc lỗng xương.
- Hoạt động xã hội (Social function - SF)

+ Hoạt động xã hội thể hiện khả năng duy
trì mối quan hệ của bệnh nhân với mọi người
xung quanh. Trong nghiên cứu của chúng tôi
điểm hoạt động xã hội ở phụ nữ loãng xương
28,3 ± 19,31 thấp hơn có ý nghĩa so với
nhóm khơng lỗng xương 48,3 ± 19,76 với p
< 0,01 (Bảng 3.5).Ferreira N và cộng sự
(2008) nghiên cứu trên 220 phụ nữ sau mãn
kinh chia thành 2 nhóm lỗng xương và
nhóm chứng, nhận thấy điểm hoạt động xã
hội theo SF-36 ở nhóm lỗng xương là 79,8
± 27,1 thấp hơn có ý nghĩa so với ở nhóm
chứng là 91,1 ± 22,1 với p < 0,001 [7].
+ Theo Ciubean A. D (2018) khi nghiên
cứu chất lượng cuộc sống ở 364 phụ nữ
Rumani mãn kinh mắc lỗng xương và gãy
xương, cho kết quả điểm trung bình hoạt
động xã hội ở nhóm lỗng xương là 50 thấp
hơn có ý nghĩa so với ở nhóm chứng là 62,5
với p < 0,01 [6].
Tác giả Hopman và cộng sự (2019) đánh
giá chất lượng cuộc sống trên dữ liệu 5.266
phụ nữ Canada theo thang điểm SF-36 cho
kết quả ở phụ nữ khơng mắc lỗng xương
điểm hoạt động xã hội 87,1 ± 20,1, trong khi


TạP CHí Y học việt nam tP 503 - tháng 6 - sè ĐẶC BIỆT - 2021

ở nhóm lỗng xương là 78,8 ± 25,9 thấp hơn

có ý nghĩa thống kê với p < 0,001 [8].
- Chức năng cảm xúc (Role emotional RE)
+ Chức năng cảm xúc tốt giúp duy trì khả
năng làm việc, lao động kéo dài và đạt hiệu
quả tốt. Điểm hoạt động xã hội trong nghiên
cứu của chúng tơi tính trên phụ nữ lỗng
xương là 28,3 ± 19,31 thấp hơn có ý nghĩa so
với nhóm khơng lỗng xương là 48,3 ± 19,76
với p < 0,01 (Bảng 3.5). Ferreira N và cộng
sự (2008) nghiên cứu trên 220 phụ nữ sau
mãn kinh chia thành 2 nhóm lỗng xương và
nhóm chứng, nhận thấy điểm chức năng cảm
xúc theo SF-36 ở nhóm lỗng xương là
58,7± 43,2 thấp hơn có ý nghĩa so với ở
nhóm chứng là 84,1 ± 33,2 với p < 0,001 [7].
+ Theo Ciubean A.D (2018) khi nghiên
cứu chất lượng cuộc sống ở 364 phụ nữ
Rumani mãn kinh mắc loãng xương và gãy
xương, cho kết quả điểm trung bình chức
năng cảm xúc ở nhóm lỗng xương là 33,33
thấp hơn có ý nghĩa so với ở nhóm chứng là
66,66 với p < 0,001 [6].
- Sức khỏe tâm lý (Mental healthy - MH)
Sức khỏe tâm lý thể hiện tinh thần lạc
quan với bệnh tật của bệnh nhân. Trong
nghiên cứu củ chúng tôi sức khỏe tâm lý ở
phụ nữ loãng xương 39,6 ± 13,75 thấp hơn
nhóm khơng lỗng xương 51,9 ± 15,40, có ý
nghĩa thống kê với p < 0,01 (Bảng 3.5).
Theo Ciubean A. D (2018) khi nghiên cứu

chất lượng cuộc sống ở 364 phụ nữ Rumani
mãn kinh mắc loãng xương và gãy xương,
cho kết quả điểm trung bình sức khỏe tâm lý
ở nhóm lỗng xương là 56 thấp hơn có ý
nghĩa so với ở nhóm chứng là 60 với p <
0,001 [6].
Tác giả Hopman và cộng sự (2019) đánh
giá chất lượng cuộc sống trên dữ liệu 5.266
phụ nữ Canada theo thang điểm SF-36 cho

kết quả ở phụ nữ khơng mắc lỗng xương
điểm sức khỏe tâm lý 78,7 ± 15,1, trong khi
ở nhóm lỗng xương là 74,8 ± 17,1 thấp hơn
có ý nghĩa thống kê với p < 0,001 [8].
Chúng tơi tính được điểm sức khỏe tinh
thần (MCS) trong nghiên cứu ở nhóm phụ nữ
loãng xương điểm sức khỏe tinh thần là 32,5
± 16,10 phân loại ở mức thấp và nhóm
khơng lỗng xương là 55,9 ± 19,59, sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,01 (Bảng
3.6).
4.2.3. Điểm chất lượng cuộc sống SF-36
chung
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho
thấy phụ nữ lỗng xương có chất lượng cuộc
sống ở mức thấp (50,13%) và rất thấp
(32,38%) cao hơn có ý nghĩa so với phụ nữ
khơng bị lỗng xương (tương ứng là 37,99%
và 4,96%) với p < 0,001. Ngược lại, chất
lượng cuộc sống ở mức trung bình và cao ở

nhóm khơng lỗng xương cao hơn có ý nghĩa
so với nhóm mắc lỗng xương (Hình 3.4).
Điểm chất lượng cuộc sống trung bình các
bệnh nhân nhóm lỗng xương là 35,3 ±
16,28 thấp hơn nhóm khơng lỗng xương
55,9 ± 19,59, sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê với p < 0,01 (Bảng 3.6).
Bianchi và cộng sự (2005) đánh giá chất
lượng cuộc sống ở phụ nữ sau mãn kinh mắc
loãng xương nhận thấy chất lượng cuộc sống
giảm 41% ở nhóm phụ nữ lỗng xương so
với nhóm đối chứng [5].
Theo Ciubean A. D (2018) khi nghiên cứu
chất lượng cuộc sống ở 364 phụ nữ Rumani
mãn kinh mắc loãng xương và gãy xương,
cho kết quả điểm trung bình chất lượng cuộc
sống ở nhóm lỗng xương là 30, trong khi đó
ở nhóm chứng là 70 với p < 0,001 và đưa ra
kết luận chất lượng cuộc sống ở phụ nữ
loãng xương, đặc biệt khi có gãy xương thấp
hơn nhóm khơng loãng xương [6].
409


CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC HẢI PHÒNG

V. KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 720 phụ nữ đến khám và
kiểm tra sức khỏe tại Bệnh viện Hữu nghị Đa
khoa Nghệ An chúng tôi rút ra một số kết

luận sau:
- Chất lượng cuộc sống của phụ nữ:
+ Điểm chất lượng cuộc sống ở phụ nữ
loãng xương là 35,3 ± 16,28 được xếp loại ở
mức thấp theo thang điểm SF-36 và thấp hơn
có ý nghĩa thống kê so với nhóm khơng
lỗng xương là 55,9 ± 19,59, với p < 0,01.
+ Chất lượng cuộc sống ở tất cả 8 lĩnh
vực đánh giá và 2 khía cạnh sức khỏe thể
chất và sức khỏe tinh thần của phụ nữ loãng
xương đều thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm
khơng lỗng xương, p < 0,01.
KIẾN NGHỊ
Tuyên truyền rộng rãi kiến thức về các
yếu tố nguy cơ gây loãng xương ở phụ nữ
nhằm can thiệp kịp thời để phòng ngừa, điều
trị và hạn chế biến chứng gãy xương, nâng
cao chất lượng cuộc sống cho người bệnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồng Thị Bích, Nguyễn Thị Ngọc Lan và
Hoàng Hoa Sơn (2014), "Khảo sát yếu tố
nguy cơ loãng xương ở phụ nữ mãn kinh từ
60 tuổi trở lên", Tạp Chí Nội Khoa, tr. 185 190.
2 Hồ Phạm Thục Lan, Phạm Ngọc Hoa và
Lại Quốc Thái (2011), "Chẩn đốn lỗng
xương: ảnh hưởng của giá trị tham chiếu",
Thời Sự Y Học. 57 (1 và 2).
3. Nguyễn Thị Ngọc Lan và các cộng sự.
(2015), "Khảo sát yếu tố nguy cơ loãng
xương ở phụ nữ Việt Nam từ 50 tuổi trở lên


410

và nam giới từ 60 tuổi trở lên", Tạp chí
Nghiên cứu y học. 75(5), tr. 91-98.
4. Tào Minh Thúy và Nguyễn Thị Ngọc Lan
(2013), "Khảo sát các yếu tố nguy cơ loãng
xương ở phụ nữ miền Bắc Việt Nam từ 50
tuổi trở lên", Tạp chí Nội khoa, tr. 243 -249.
5. Bianchi Maria Luisa, Orsini Maria Rosa,
Saraifoger Silviaand et al. (2005), Quality of
life in post-menopausal osteoporosis, Health
and quality of life outcomes, 3, pp. 78-78.
6. Ciubean Alina Deniza, Ungur Rodica Ana,
Irsay Laszloand et al. (2018), Health-related
quality of life in Romanian postmenopausal
women with osteoporosis and fragility
fractures, Clinical interventions in aging, 13,
pp. 2465-2472.
7. Ferreira Neville, Arthuso Michael, Silva
Raimundaand et al. (2008), Quality of life in
women with postmenopausal osteoporosis:
Correlation between QUALEFFO 41 and SF36, Maturitas, 62, pp. 85-90.
8. Hopman W. M., Berger C., Joseph L.and
et al. (2019), Longitudinal assessment of
health-related quality of life in osteoporosis:
data from the population-based Canadian
Multicentre Osteoporosis Study, Osteoporosis
International, 30,(8), pp. 1635-1644.
9 Kerschan-Schindl K., Patsch J., Kudlacek

S.and et al. (2012), Measuring quality of life
with the German Osteoporosis Quality of Life
Questionnaire in women with osteoporosis,
Wien Klin Wochenschr, 124,(15-16), pp. 5327.
10 Madureira Melisa M., Ciconelli Rozana
M.and Pereira Rosa M.R. (2012), Quality of
life measurements in patients with
osteoporosis and fractures, Clinics (Sao
Paulo, Brazil), 67,(11), pp. 1315-1320.



×