Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Nghiên cứu bệnh héo rũ gốc mốc đen (aspergillus niger) hại lạc vụ xuân 2012 tại huyện nam đàn, tỉnh nghệ an và biện pháp sinh học phòng trừ bệnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.77 KB, 11 trang )

MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Cây lạc (Arachis hypogaea Linn) thuộc họ đậu (Leguminosae), có nguồn
gốc ở Nam Mỹ, là cây cơng nghiệp ngắn ngày, có giá trị kinh tế cao. Cây lạc là
một trong những cây lấy dầu quan trọng nhất của thế giới, Hạt lạc chứa 32-55%
dầu, 16-34% protein, 13,3% gluxit, các axít amin và các chất khác. Cây lạc được
trồng phổ biến ở nhiều nước trên thế giới: Ấn Độ, Trung Quốc, Mỹ, Senegal....
Châu Á đứng đầu thế giới cả về diện tích và sản lượng (chiếm 60% diện tích
trồng và 70% sản lượng lạc của thế giới).
Ở Việt Nam, cây lạc được trồng ở khắp các vùng: Đông Bắc, Bắc Trung
bộ, Đông Nam Bộ, Tây Nguyên.... lạc là cây trồng xuất khẩu quan trọng. Ở các
tỉnh phía Bắc, diện tích trồng lạc hàng năm khoảng 160 nghìn ha, năng suất trung
bình: 15-17 tạ/ha, riêng Trung du và miền núi phía Bắc thì lạc chủ yếu được
trồng trên vùng đất bị hạn và bán khô hạn (vùng nước trời), chiếm 70-80%. Ở
nước ta, lạc chiếm vị trí quan trọng trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng và đa
dạng hóa các sản phẩm nơng nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa và phát triển
nơng nghiệp bền vững.
Ngồi ra, lạc còn là cây trồng cải tạo đất quan trọng trong hệ thống canh
tác đa canh ở nước ta. Rễ lạc có khả năng đồng hố nitơ tự do trong khơng khí
thành dạng đạm sinh học mà cây trồng có thể dễ dàng sử dụng nhờ hệ vi khuẩn
nốt sần Rhizobium vigna sống cộng sinh trong rễ. Vì vậy, cây lạc đem lại hiệu
quả kinh tế cao và làm tăng năng suất các cây trồng khác.
Nghệ An là tỉnh có diện tích trồng lạc lớn với gần 30000 ha, tập trung ở
các huyện như Diễn Châu, Nghi Lộc, Quỳnh Lưu, Hưng Nguyên ... và ở đây cây
lạc được xem là một trong những cây trồng chủ lực. Tuy nhiên, thực tế sản xuất
trong tỉnh cho thấy tình hình phát triển lạc còn nhiều hạn chế, chưa xứng đáng
với tiềm năng đất đai và điều kiện sinh thái của vùng. Đặc biệt năng suất cũng
như phẩm chất lạc ở đây còn thấp và không ổn định so với các tỉnh khác trong cả
nước, một trong những nguyên nhân chính là do bệnh hại.
Để bảo vệ năng suất của cây trồng, trong q trình sản xuất nơng nghiệp
người nơng dân đã q lạm dụng việc sử dụng thuốc hóa học để phịng trừ sâu




bệnh. Trong đó, các thuốc trừ nấm ngày càng nhiều làm ảnh hưởng xấu đến môi
trường và sức khỏe con người cũng như gây thiệt hại về mặt kinh tế. Một số
thuốc trừ nấm dùng nhiều đã gây ra sự huỷ diệt cơn trùng trong đất, tạo nên tính
kháng thuốc ở một số nấm bệnh hại cây trồng, xuất hiện nhiều chủng loại nấm
bệnh mới.
Mặt khác, sự địi hỏi nơng sản khơng có dư lượng thuốc hố học trên thị
trường ngày càng tăng. Bởi vậy, xu hướng mới trong bảo vệ thực vật hiện nay là
quản lý dịch hại tổng hợp IPM và phòng trừ sinh học.
Hiện nay, nhiều nước trên thế giới đã nghiên cứu và ứng dụng các biện
pháp sinh học để phịng chống dịch hại, trong đó có chế phẩm sinh học để trừ
bệnh hại cây trồng. Song, cho đến nay mới chỉ có rất ít chế phẩm này được
nghiên cứu và ứng dụng thành công. Hầu hết việc sử dụng chế phẩm sinh học
phòng trừ bệnh cịn nhiều hạn chế, chưa được nhiều nơng dân chấp nhận, kể cả
phòng trừ bệnh trên đồng ruộng cũng như việc xử lý hạt giống trước khi gieo
trồng.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, để góp phần vào việc phịng trừ bệnh
hại hạt giống lạc an tồn, hiệu quả, đồng thời giảm tác hại của bệnh héo rũ lạc
trên đồng ruộng, nâng cao năng suất và phẩm chất lạc, dưới sự hướng dẫn của
Th.s Ngô Thị Mai Vi, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Nghiên cứu bệnh
héo rũ gốc mốc đen (Aspergillus niger) hại lạc vụ xuân 2012 tại huyện Nam
Đàn, tỉnh Nghệ An và biện pháp sinh học phịng trừ bệnh".
2. Mục đích và u cầu của đề tài
2.1 Mục đích
- Xác định thành phần và mức độ nhiễm bệnh do nấm gây hại trên hạt
giống lạc thu thập tại vùng Nam Đàn - Nghệ An.
- Xác định tình hình nhiễm nấm Aspergillus niger trên các mẫu đất thu
thập tại vùng Nam Đàn - Nghệ An.
- Đánh giá mức độ gây hại, nghiên cứu đặc điểm phát sinh phát triển của

nấm Aspergillus niger gây bệnh héo rũ gốc mốc đen hại lạc vụ xuân 2012 tại
huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An và khảo sát biện pháp sinh học phòng trừ bệnh.


2.2 Yêu cầu
- Giám định thành phần nấm gây bệnh trên các mẫu hạt giống lạc thu thập
tại vùng Nam Đàn - Nghệ An.
- Xác định tình hình và mức độ (tỷ lệ) nhiễm từng loài nấm của các mẫu
hạt giống lạc thu thập tại vùng Nam Đàn – Nghệ An.
- Đánh giá tình hình (tỷ lệ mẫu) nhiễm nấm Aspergillus niger trên các mẫu
đất thu thập tại vùng Nam Đàn - Nghệ An.
- Điều tra, giám định thành phần bệnh hại lạc vụ xuân 2012 vùng Nam
Đàn - Nghệ An.
- Điều tra diễn biến bênh héo rũ gốc mốc đen hại lạc trong vụ xuân 2012
tại vùng Nam Đàn - Nghệ An.
- Tìm hiểu khả năng phịng trừ nấm gây bệnh héo rũ gốc mốc đen
(Aspergillus niger) hại hạt giống lạc bằng biện pháp sinh học (dịch chiết thực
vật) trong điều kiện phịng thí nghiệm.
- Đánh giá hiệu lực ức chế nấm Aspergillus niger hại lạc bằng dịch chiết
thực vật trong điều kiện chậu vại, nhà lưới.


Chương I. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Tình hình sản xuất lạc trên thế giới và Việt Nam
1.1.1 Tình hình sản xuất lạc trên thế giới
Lạc là cây công nghiệp ngắn ngày, cây lấy dầu có giá trị kinh tế cao. Cây
lạc chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế thế giới không chỉ do được gieo
trồng trên diện tích lớn ở hơn 100 nước, mà cịn vì hạt lạc được sử dụng rất rộng
rãi để làm thực phẩm và nguyên liệu cho công nghiệp. Nhu cầu sử dụng tiêu thụ
lạc ngày càng tăng đã và đang khuyến khích nhiều nước đầu tư phát triển sản

xuất lạc với quy mô ngày càng lớn.
Trong những năm gần đây, người ta chú ý nhiều đến protein trong hạt lạc.
Nhân loại đặt nhiều hy vọng vào các loại cây bộ đậu để giải quyết nạn đói protein
trước mắt và trong tương lai.
Trong các cây bộ đậu của thế giới, lạc có diện tích và sản lượng đứng thứ 2
sau cây đậu tương, với diện tích 22 - 26 triệu ha/ năm, sản lượng 37.144,13 tấn.
Bảng tình hình sản xuất lạc trên thế giới (2002 - 2007)
Diện tích

Năng suất

Sản lượng

(triệu ha)

(tạ/ha)

(triệu tấn)

2002

23.518,30

14,14

33.265,30

2003

26.181,84


13,49

35.327,94

2004

26.375,76

13,67

36.057,28

2005

25.217,20

14,47

36.492,14

2006

22.122,99

15,73

34.779,14

2007


23.105,41

16,08

37.114,13

Năm

(Nguồn : Số liệu thống kê FAOSTAT, 2008)
Trong những năm trở lại đây từ 2002 - 2007 diện tích đất trồng lạc của thế
giới giảm. Năm 2002 diện tích là 23,518 triệu ha. Đến năm 2007 diện tích đất trồng
lạc gảm xuống cịn 23.105 triệu ha. Năm 2003 -2004 diện tích lên 26.375,76 triệu


ha. Năng suất của thế giới năm 2002 đạt 13,4 tạ/ha, đến 2005 năng suất tăng lên
14,47 tạ/ha, sản lượng đạt 36.49214 triệu tấn. Năm 2006- 2007 diện tích giảm
nhưng năng suất tăng nhanh đạt 15-16 tạ/ha và sản lượng đạt 34.779 – 37114,13
triệu tấn.
Bảng diện tích, năng suất và sản lượng lạc một số nước trên thế giới
(2005- 2007)

Diện tích (triệu ha)

Năng suất (tạ/ha)

Sản lượng (triệu tấn)

Nước
2005


2006

2007

2005 2006

2007

2005

2006

2007

Thế giới

25.217.2

22.122,2 23.105,41 14.71 22,12 23,11 36.492.1 34.799,1 37.144,1

Trung Quốc

4.871.8

4.595,5

4.573,17 30.04 32,07 38,58 14.368.5 14.737,6 13.067,9

Argentina


210.0

0.163,7

0.215,06 28.23 21,22 27,90 0.593.0

0.347,3

0.600,0

Brazil

125.5

0.110,8

0.113,78 23.26 22,56 23,15 0.291.9

0.249,9

0.263.4

Việt Nam

269.6

0.246,7

0.254,30 17.42 18,75 19,86 0.489.3


0462,5

0.505,0

(Nguồn: Số liệu thống kê FAOSTAT. 2008)
- Về diện tích, Trung Quốc có diện tích lớn nhất năm 2005 là 4.871,8 triệu
ha, tiếp sau đó là Việt Nam có 269,6 nghìn ha và Argentina, đứng thứ 4 là Braxin
có diện tích 0.125,5 triệu ha.
- Năng suất, Trung Quốc là nước có năng suất cao nhất thế giới đặt từ 30,038,50 tạ/ha, tiếp đến là Argentina năng suất đạt 21 - 28 tạ/ha. Sau đó là Braxin năng
suất đạt từ 22,60- 23,26 tạ/ha.
- Về sản lượng, cao nhất là Trung Quốc và Argentina là 2 nước có sản
lượng lớn nhất trên 14 triệu tấn.


Như vậy, hướng sản suất lạc trên thế giới trong những năm tới tốc độ phát
triển sẽ chậm hơn so với những năm trước. Diện tích trồng lạc sẽ có thay đổi
nhiều do các chính sách quản lý, thương mại. Năng suất là chỉ tiêu để phản ánh
tiến bộ nghiên cứu về cây lạc và cây đậu tương, và chính sách là yếu tố quan
trọng quyết định tương lai của cây trồng này. Những yếu tố quan trọng quyết
định năng suất cao là:
- Cải tiến kỹ thuật canh tác và mở rộng diện tích ở các nước nhiệt đới và Á
nhiệt đới, đặc biệt các nước đang phát triển.
- Chú trọng đến cơng tác chọn tạo giống mới có năng suất cao hơn, phẩm
chất tốt, giống phải phù hợp với từng điều kiện sinh thái, hình thành vùng sản
suất hàng hoá, cơ giới hoá sản suất. Thuốc trừ sâu, trừ cỏ, bệnh tốt hơn.
- Chế biến, đi sâu vào lĩnh vực chế biến dầu thực vật, hỗ trợ và giúp đỡ
các nước đang phát triển về xuất khẩu và nhập khẩu lạc nhân.
Trong tương lai, sự tác động của công nghệ sinh học, di truyền học phân
tử đối với cây trồng có thể mở ra 1 tiềm năng mới trong tương lai phát triển cây

lạc, cây đậu tương ccó thể làm tăng năng suất cây lạc, cây đậu tương lên nhiều
thông qua các giống năng suất cao, chống chịu sâu bệnh tốt. Công nghệ sinh học
cũng là yếu tố quan trọng để cải tiến chất lượng đậu tương, lạc. Những tiến bộ kỹ
thuật này cũng có thể cải tiến hiệu quả sản suất và tiêu dùng sản phẩm lạc, đậu
tương.
1.1.2 Tình hình sản xuất lạc ở Việt Nam
Cây lạc được du nhập vào nước ta và được trồng từ bao giờ khơng có tài
liệu xác minh cụ thể. Tài liệu cổ nhất nói về lạc là cuốn "Vân đài loại ngữ" của
Lê Quý Đôn thế kỷ XIIX. Căn cứ vào tên gọi - từ "Lạc" có lẽ xuất phát từ âm
Hán "Lạc Hoa Sinh" - thì từ lạc ở Việt Nam có thể được du nhập từ Trung Quốc.
Từ thế kỷ XVI - XVII, thuyền buôn phương Tây đã đến nước ta chủ yếu là
từ Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan. Nhưng khơng có tài liệu nào nói về sự du


nhập các giống cây trồng do các thương nhân trên. Như vậy, có thể khẳng định
con đường du nhập lạc vào nước ta chỉ có thể qua đường Trung Quốc.
Ngày nay, lạc được trồng rộng rãi khắp trong nước, trên nhiều loại đất và
địa hình khác nhau. Diện tích trồng lạc ở nước ta đặc biệt trong những năm gần
đây tăng nhanh đáng kể.
Bảng diễn biến sản xuất lạc ở nước ta.

Diện tích

Năng suất

Sản lượng

(nghìn ha)

(tạ/ha)


(nghìn tấn)

1955

17,70

8,30

14,50

1965

85,90

9,42

80,90

1973

81,50

9,66

78,70

1978

100,00


9,27

92,00

1985

213,00

9,50

202,40

1992

217,30

10,40

226,70

1993

217,20

11,90

259,30

1994


246,60

12,20

300,60

1996

262,80

13,60

300,00

1997

235,50

13,86

351,30

1998

269,40

14,33

386,00


1999

248,20

12,80

381,00

2000

244,90

14,50

355,30

2001

244,60

14,84

363,10

2002

246,70

16,23


400,00

Năm


2003

242,80

16,65

406,20

2004

255,00

16,51

489,00

2005

269,60

18,10

489,30


2006

249,30

18,70

464,80

2007

246,70

19,86

505,00

(Nguồn: Niên giám thống kê 2008)
Trong những năm chiến tranh (1955- 1975) diện tích lạc cả 2 miền Nam Bắc năm cao nhất chỉ đạt 86.000 ha, nhưng ngay sau ngày thống nhất đất nước,
sản xuất lạc tăng nhânh và trong những năm 80 diện tích lạc đã vượt lên 200.000
ha với sản lượng trên 200.000 tấn/năm. Đến năm 1994 diện tích đạt 246,600
nghìn ha, sản lượng đạt trên 300.000 tấn với mức tăng trưởng nhanh như vậy, sản
phẩm lạc không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước mà cịn là mặt hàng
nơng sản xuất khẩu quan trọng.
Trong 10 năm trở lại đây,(1997- 2007) năng suất cao nhất là (19,86tạ/ha)
năm 2007; thấp nhất là (13,86tạ/ha)năm 1997. Như vậy, có thể nhận thấy rằng
diện tích giảm, năng suất tăng. Sản lượng đạt 505 nghìn tấn năm 2007.
Theo số liệu thống kê năm 2008 của cục thống kê. Việt Nam hiện nay có 8
vùng trồng chính.
Bảng diện tích, năng suất, sản lượng lạc của các vùng trọng điểm ở Việt
Nam 2008


Diện tích

Năng suất

Sản lượng

(nghìn ha)

(tạ/ha)

(nghìn tấn)

Cả nước

251.10

17,5

505,10

Đồng bằng sơng Hồng

31.10

20,3

73,70

Đơng Bắc


36.00

17,0

63,90

Tây Bắc

9.00

10,2

11,40

Bắc Trung Bộ

72.00

20,4

147,60

Vùng


Nam Trung Bộ

25.40


20,0

44,80

Tây Nguyên

19.50

10,6

32,00

Đông Nam Bộ

35.50

20,4

88,00

Đồng bằng sông Cửu Long
12.50
21,2
(Nguồn: Số liệu thống kê năm 2008)

35,90

+ Vùng Bắc trung Bộ, có diện tích lớn nhất (72. nghìn ha) tập trung chủ
yếu ở 3 tỉnh là Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, năng suất đạt 20,3tạ/ha, cao hơn
năng suất trung bình của cả nước. Sản lượng lớn nhất so với cả nước đạt 147,6

nghìn tấn.
+ Vùng Đơng Bắc, có diện tích đứng thứ 2 sau Bắc trung Bộ về cả năng
suất đạt 17 tạ/ha.
+ Vùng Đơng Nam Bộ, diện tíc đứng thứ 3 về diện tích và năng suất 20,4
tạ/ha, sản lượng 88 nghìn tấn. tập trung chủ yếu ở 3 tỉnh là Thanh Hóa, Nghệ An,
Hà Tĩnh.
+ Vùng đồng Bằng sơng Hồng, tuy có năng suất cao đạt 20,3tạ/ha diện
tích gieo trồng 31,10 ha.
+ Vùng Đồng Bằng Sông cửu Long, diện tích chỉ có (12.5 ha) năng suất
đạt 21,2 tạ/ha cao nhất so với cả nước. Nhưng sản lượng thấp do diện tích ít.
+ Vùng Tây Bắc, đặc biệt vùng này năng suất, thấp nhất so với cả nước.
Nhìn chung các vùng sản xuất lạc của nước ta không đồng đều về trình độ
sản xuất, nhất là về thâm canh tăng năng suất chủ yếu ở vùng đồng bằng sông
Hồng, đồng bằng sông cửu Long, đông nam Bộ và Bắc trung Bộ - Đông Bắc.
* Triển vọng phát triển cây lạc ở nước ta


Ở nước ta, lạc được coi là cây trồng có hiệu quả kinh tế cao và có giá trị
đa dạng. Trước hết, với giá trị dinh dưỡng cao nên lạc là cây thực phẩm quan
trọng của nhân dân ta. Đây là nguồn protein và lipit quan trọng đối với đa số
nhân dân, nhất là nông dân trong điều kiện kinh tế chưa cao. Nước ta vẫn còn
nằm trong khu vực thiếu protein trên thế giới, vì vậy nguồn protein thực vật là
nguồn đóng góp lớn trong cân bằng protein cho nhân dân, lạc rễ trồng phù hợp
với khí hậu nhiệt đới - sẽ là nguồn thực phẩm giầu prôtêin chủ yếu của chúng ta.
Đất đai nông nghiệp của ta bị rửa trơi và phong hố nhanh, hàm lượng
mùn và dinh dưỡng thấp - nhất là đất bạc màu, đất phù sa cổ, đất dốc tụ... Lạc
trồng là cây cải tạo đất quan trọng trong hệ thống canh tác đa canh ở nước ta.
Để nâng cao hiệu quả kinh tế của lạc, vấn đề là phải tạo vùng sản xuất tập
trung để nâng cao tỷ lệ lạc thương phẩm và phấn đấu nâng cao năng suất. Cùng
với việc hợp tác quốc tế và công tác nghiên cứu chọn tạo giống trong nước,

chúng ta đã phổ biến một số giống cải tiến trong sản xuất như B5000, 75/23,
V79, MD7... Góp phần nâng cao ổn định năng suất lạc. Trước mắt, với mức đầu
tư như hiện nay, nếu năng suất lạc bình quân 1,3 - 1,7 tạ/ha thì sẽ có khả năng
cạnh tranh với các cây trồng khác, nhất là ở đất bạc màu, đất cằn...
1.2 Tình hình nghiên cứu trên thế giới
1.2.1 Nghiên cứu thành phần bệnh trên hạt giống lạc
Trong các bệnh truyền qua hạt giống, nhóm bệnh nấm chiếm đa số, đặc
biệt là ở những vùng khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới. Theo M.J. Richarson
(1990) [23]: có khoảng 29 loại bệnh hại truyền qua hạt lạc, trong đó nấm bệnh
chiếm 17 loại. Các loại nấm hại hạt đầu tiên phải kể đến là Aspergiluss niger,
Aspergiluss flavus, Sclerotium sp., Botrytis sp., Diplodia sp., Fusarium spp,
Rhizoctonia sp., v.v... Trong đó, riêng loại nấm Fusarium spp. đã ghi nhận
được 12 loài. Các loài nấm trên thường gây hại đồng thời, cùng kết hợp gây
hại trên hạt. Có những lồi khơng chỉ gây hại trên hạt giống mà còn truyền
qua hạt giống gây hại cho cây con.
Phần lớn các loài nấm bệnh trên hạt giống thuộc các nhóm bán ký sinh và
bán hoại sinh, một số ít trong số chúng là ký sinh chun tính. Nhiều lồi nấm


trong số chúng cịn có khả năng sản sinh độc tố mà tiêu biểu và quan trọng nhất
trong số đó là nhóm các lồi nấm Aspergilus sp., Fusarium sp. và Penicilium sp.
Trong số nấm bệnh hại hạt lạc có 2 loài nguy hiểm nhất là: A.flavus Link,
A.paraciticus Speare gây ra hiện tượng mốc vàng lạc.
Cho đến nay, bệnh được tất cả các nước trồng lạc trên thế giới cũng như các
nước tiêu thụ lạc quan tâm do nấm gây hại chủ yếu trên hạt và tiết ra độc tố Aflatoxin
có khả năng gây ung thư và nhiều bệnh khác cho người và động vật.
Bệnh được phát hiện đầu tiên tại nước Anh vào năm 1960 và trở nên phổ biến
ở các nước nhiệt đới và cận nhiệt đới (N.KoKalis-Burelle, 1997) [24].

A.flavus xâm nhiễm và phát triển sớm trên cây lạc còn non, trên củ

và hạt lạc ở trong đất trước và sau thu hoạch, ở trong kho bảo quản làm cho
lạc bị mốc vàng và thối, hạt lạc bị biến màu và giảm trọng lượng so với hạt
khoẻ. Là loại nấm hoại sinh, tồn tại trong đất, trên tàn dư cây trồng,
A.flavus có khả năng cạnh tranh với các sinh vật rất khác và tấn công vào
củ lạc khi độ ẩm trong đất thấp (N.KoKalis-Burelle, 1997) [24].
Ở những vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, số lượng các loài trong 3
nhóm trên khơng chỉ giới hạn xuất hiện trên lương thực dạng hạt mà còn
trên cả các sản phẩm chế biến từ hạt. Hiện tại đã xác định và mô tả được
khoảng 15 loài Aspergilus, 9 loài Fusarium và 18 lồi Penicilium có khả
năng sinh độc tố và những hợp chất thứ cấp khác. Khi dùng phương pháp
agar plug và phương pháp HPLC người ta đã xác định được 74 loại độc tố
sản sinh từ 3 nhóm trên (Kulwant Singh, 1991) [22]. Điển hình là các lồi
thuộc nhóm Aspegillus sp., chúng có thể sản sinh các độc tố gây ra nhiều
bệnh nguy hiểm cho con người và vật nuôi.



×