Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

TIỂU LUẬN tâm lý học mối quan hệ giữa hoạt động dạy và hoạt động học vận dụng trong xây dựng quan hệ tích cực giữa giảng viên và học viên trong các nhà trường quân đội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.83 KB, 25 trang )

Mối quan hệ giữa hoạt động dạy và hoạt động học. Vận dụng trong xây dựng
quan hệ tích cực giữa giảng viên và học viên trong các nhà trường quân đội
hiện nay
MỞ ĐẦU
Chất lượng đào tạo là vấn đề không chỉ ngành giáo dục mà cả xã hội đang
quan tâm. Chất lượng đào tạo liên quan đến hàng loạt các yếu tố của giáo dục, xã
hội, kinh tế, quản lí. Riêng về bình diện tâm lý học sư phạm, phương pháp dạy,
phương pháp học đang là tiêu điểm chú ý bàn luận, nghiên cứu được mọi người
quan tâm; đặc biệt quan hệ tương tác giữa dạy và học.
Quá trình dạy học là một hệ thống bao gồm nhiều nhân tố với vị trí và chức
năng khác nhau. Trong đó giáo viên với hoạt động dạy và học sinh với hoạt động
học là hai nhân tố trung tâm. Trong quá trình vận động phát triển mỗi nhân tố đều
phát huy tác dụng của mình. Các nhân tố khác như mục đích, nhiệm vụ, nội dung,
phương pháp và phương tiện dạy học có hồn thiện đến mức độ nào đi nữa nếu
khơng thơng qua thầy và trị với hoạt động dạy và học của họ thì cũng khơng phát
huy tác dụng thực tế. Hoặc ngược lại, nếu thầy, trò và hoạt động dạy học của họ
khơng qn triệt được mục đích và nhiệm vụ dạy học, không nắm được nội dung
dạy học, không sử dụng các phương pháp, phương tiện dạy học ở mức độ cần thiết
thì hiệu quả tác dụng của các nhân tố này sẽ hạn chế rất nhiều, thậm chí có thể mất
tác dụng. Vì vậy người ta quan niệm q trình dạy học là q trình có tính hai mặt:
mặt hoạt động dạy và mặt hoạt động học, hai mặt hoạt động này hợp thành một thể
thống nhất, tồn tại trong mối quan hệ qua lại đối với nhau. Nếu khơng có mối quan
hệ này thì khơng có sự tác động qua lại giữa thầy và trò, dạy với học, do đó cũng
khơng có lý do tồn tại bản thân q trình dạy học.
Mối quan hệ tích cực giữa giảng viên và học viên trong các nhà trường quân
đội - hai chủ thể chính của nhà trường là nhân tố chủ yếu tạo nên môi trường giáo
dục thuận lợi cho sự hình thành, phát triển nhân cách của cả giảng viên và học
viên. Nhân cách những người sĩ quan tương lai, lực lượng nòng cốt tạo nên sức
mạnh chiến đấu của quân đội chịu sự chi phối, tác động bởi nhiều nhân tố nhưng
1



khơng thể thiếu mối quan hệ tích cực giữa họ với các giảng viên nhà trường quân
đội.
Đối với nhà trường quân đội, quan hệ tích cực giữa giảng viên và học viên
trong nhà trường quân đội có ý nghĩa to lớn với hình thành, phát triển nhân cách
của cả giảng viên và học viên. Trong nhà trường, tác động chủ yếu tới người học là
từ các giảng viên. Bản lĩnh chính trị, lịng trung thành, năng lực và các phẩm chất
nhân cách khác của người sĩ quan tương lai được hình thành thơng qua tác động sư
phạm thường xun của người thày. Đồng thời, giảng viên cũng nâng cao được
trình độ chun mơn nghề nghiệp, hồn thiện phương pháp giảng dạy thơng qua
các hình thức dạy học, qua tiếp xúc trực tiếp với các loại đối tương học viên từ
nhiều đơn vị khác nhau về đào tạo.
Xuất phát từ ý nghĩa to lớn của mối quan hệ giữa hoạt động dạy và học, ý
nghĩa vận dụng vào xây dựng mối quan hệ tích cực giữa giảng viên và học viên
trong các nhà trường quân đội, tôi lựa chọn vấn đề: “Mối quan hệ giữa hoạt động
dạy và hoạt động học. Vận dụng trong xây dựng quan hệ tích cực giữa giảng viên
và học viên trong các nhà trường quân đội hiện nay” làm chủ đề viết tiểu luận.

2


NỘI DUNG
1. Hoạt động dạy và hoạt động học
1.1. Hoạt động dạy
* Khái niệm hoạt động dạy
Ngoài việc học, để tồn tại và phát triển thì xã hội cũng phải truyền lại cho
thế hệ sau những kinh nghiệm đã được thế hệ trước sáng tạo và tích lũy được, tức
là phải dạy. Nhưng cũng giống như việc học, liệu có phải mọi phương thức dạy học
đều mang lại hiệu quả? Trước đây việc dạy chỉ diễn ra theo hình thức dạy tri thức
kinh nghiệm. Hay nói ngắn gọn đó là kiểu dạy trao tay (cầm tay chỉ việc): người

dạy trục tiếp truyền lại kinh nghiệm cho người học thông qua hoạt động cụ thể nào
đó. Chẳng hạn người nơng dân dạy con mình cách bón phân, trồng lúa... thơng qua
hoạt động lao động trên ruộng đồng. Với việc truyền thụ kinh nghiệm như thế, tuy
việc tiếp thu dễ dàng, sâu sắc nhưng đó chỉ là những kinh nghiệm mà người dạy
thu được qua trải nghiệm chứ chưa được thực nghiệm và khái quát khoa học nên
chưa trở thành những tri thức có tính phố biến. Bởi vì xã hội khơng chỉ tồn tại mà
cịn phải phát triển. Do đó con người phải chinh phục tự nhiên và chinh phục chính
bản thân mình. Từ đó xuất hiện hoạt động nghiên cứu khoa học, mà sản phẩm là
các tri thức khoa học, được hình thành bởi hoạt động nghiên cứu, thực nghiệm và
khái quát khoa học. Đây là những tri thức có bản chất khác với những kinh nghiệm
thu được qua trải nghiệm cá nhân. Đồng thời chúng có tính phố biến và khái quát
cao. Vì vậy việc truyền thụ những kinh nghiệm này không thế bằng phương pháp
trao tay mà phải thực hiện theo quy trình có tổ chức khoa học, được tiến hành bởi
hoạt động chuyên biệt: hoạt động dạy - hoạt động có mục đích, nội dung, phương
pháp và phương tiện xác định.
Vậy; Hoạt động dạy là tác động qua lại giữa người dạy và người học dưới
sự tổ chức, điều khiển và kiểm tra của người dạy nhằm giúp người học lĩnh hội nền
3


văn hoá xã hội - lịch sử, các kiến thức, kĩ xảo, kĩ năng nghề nghiệp cần thiết, tạo ra
sự phát triển tâm lý, góp phần hình thành các phẩm chất nhân cách cần thiết ở
người học đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo của nhà trường.
* Những đặc trưng tâm lý của hoạt động dạy
Hoạt động dạy là hoạt động thực hiện "cơ chế di sản xã hội", nhằm truyền
thụ tri thức, kinh nghiệm trong kho tàng văn hoá nhân loại cho người học, do
người thầy thực hiện trong những điều kiện sư phạm nhất định.
Mục đích của hoạt động dạy là nhằm tới sự phát triển trí tuệ, qua đó phát
triển tâm lý, góp phần hình thành, phát triển nhân cách người học theo mục tiêu
yêu cầu đào tạo của nhà trường. Giới sinh vật muốn tồn tại và phát triển thì thế hệ

cha, mẹ cần phải truyền lại cho thế hệ con cái những cái để chúng tồn tại (kĩ năng,
hành vi săn bắt mồi, lựa chọn thức ăn, xây tổ, cố kết bầy đàn, sinh sản duy trì nịi
giống...) và chủ yếu được truyền lại theo cơ chế di truyền sinh vật. Đối với con
người, xã hội loài người, trẻ khi sinh ra cũng nhận được những di truyền do thế hệ
trước để lại, đó là các nhân tố sinh vật đặc trưng của loài người như cấu tạo hệ thần
kinh, não, các cơ quan nhận cảm, dáng đi thẳng, cấu trúc người của bộ máy vận
động ngôn ngữ, các nhu cầu sinh vật, nhu cầu bản năng ở người (nhu cầu ăn, được
sưởi ấm...). Với những kinh nghiệm, kĩ năng để sống, để tồn tại thì thế hệ trước
truyền lại cho thế hệ sau theo cơ chế sản xã hội, bằng việc lưu giữ tồn bộ các sản
phẩm văn hố vật chất và tinh thần do loài người sáng tạo ra ở dạng bên ngoài, trong
các đồ vật và hướng dẫn ho thế hệ sau nhận biết, tiếp thu nó. Thế hệ sau muốn có
được trí tuệ của lồi người thì phải được thế hệ trước truyền thụ lại (thông qua hoạt
động dạy) và điều chủ yếu là phải chủ động lĩnh hội nó thông qua hoạt động học.
Truyền thụ trong hoạt động dạy có nghĩa là truyền lại những kinh nghiệm,
những sản phẩm mà lồi người đã sáng tạo ra. Điều đó có nghĩa là hoạt động dạy
không phải là hoạt động sáng tạo ra tri thức mới. Sự truyền thụ được thực hiện
trong những điều kiện sư phạm nhất định như có trường, có lớp, có thầy. có
chương trình, nội dung được tiến hành trong một khoảng thời gian xác định.
Hoạt động dạy là hoạt động truyền thụ, cần phải hiểu, người thầy khơng phải
truyền thụ mọi tri thức đã có cho người học, bởi lẽ khơng thế có xã hội nào, không
4


thể có người thầy nào có thể làm nổi điều này mà chỉ là truyền thụ những kiến thức
cơ bản, chìa khố nhằm giúp người học từ đó tự mình có thể mở cửa kho tàng tri
thức của nhân loại. Như thế, truyền thụ cần được hiểu không phải là sự nhồi nhét
kiến thức của người thầy, cho người học. Cái đích cần đạt tới của truyền thụ là sự
phát triển trí tuệ của người học. Qua mỗi buổi nghe giảng của thầy, người học cảm
thấy lớn lên về tâm hồn và trí tuệ, nhìn thấy trong đó có sự phát triển của chính
mình. Người thầy qua các buổi dạy, qua các lần truyền thụ tri thức phải làm sao

khêu gợi, động viên được sự say sưa, hứng thú của người học, kích thích khát vọng
vươn lên, vượt qua mọi trở ngại để đi tìm chân lý mà những người đi trước còn để
lại.
Đặc trưng này liên quan đến việc xác định nội dung, chương trình học tập ở
các nhà trường với các đối tượng đào tạo khác nhau. Chương trình đào tạo cần phải
cơ bản, hiện đại, cập nhật những tiến bộ khoa học mới nhất về khoa học xã hội,
chính trị, quân sự, hậu cần, kỹ thuật, ít mà tinh. Điều này rõ ràng liên quan đến
chất lượng người thầy. Thầy phải giỏi, tri thức phải uyên thâm, biết “mười" truyền
thụ "một". Thầy cịn phải biết dạy, có tay nghề sư phạm cao.
Đối tượng của hoạt động dạy
Xác định rõ đối tượng của hoạt động dạy của người thầy là điều quan trọng
và cũng để hiểu rõ đặc trưng tâm lý của hoạt động dạy. Trước hết, đối tượng của
hoạt động dạy là các nội dung tri thức cần trang bị cho người học (có trong các tài
liệu học tập, giáo khoa, giáo trình...).
Người thầy phải bằng trí tuệ và khả năng sư phạm của mình cùng với các
phương tiện kỹ thuật dạy học (sơ đồ, giáo cụ trực quan, các máy móc chuyên
dùng...) tác động vào nội dung học tập đã có trong giáo trình, tài liệu học tập, làm
cho các nội dung tri thức này hiện ra một cách sinh động trước trí tưởng tượng, tư
duy của người học.
Đối tượng của hoạt động dạy còn là trình độ tri thức hiện có của người học,
sự phát triển trí tuệ, phát triển tâm lý cần phải đạt tới của người học. Điều đó cũng
có nghĩa rằng, nếu muốn tác động có hiệu quả, người thầy phải hiểu rõ đặc trưng
5


phát triển trí tuệ, phát triển tâm lý nói chung của người học và phải chủ động tác
động để tham gia phần của mình vào cấu tạo lại tri thức cho người học.
* Cấu trúc tâm lý hoạt động dạy
Cấu trúc tâm lý của hoạt động dạy là cơ cấu các thành phần bên trong và
mối liên hệ, quan hệ thứ bậc giữa chúng. Cấu trúc và nội dung hoạt động dạy quan

hệ qua lại, gắn bó chặt chẽ với nhau. Hoạt động dạy của giảng viên không chỉ đặc
thù về nội dung mà còn đặc thù về cấu trúc, các mối quan hệ lẫn nhau giữa các quá
trình nhận thức, cảm xúc, ý chí, các q trình động cơ, kinh nghiệm sống của nhân
cách người giảng viên. Cấu trúc tâm lý của hoạt động dạy của giảng viên nhà
trường quân đội gồm các thành phần sau:
Động cơ của hoạt động dạy
Động cơ của hoạt động dạy là các động lực thúc đẩy tính tích cực của giảng
viên nhằm đạt được mục đích đã đề ra, thoả mãn các nhu cầu của bản thân. Hoạt
động dạy của người giảng viên nhà trường quân đội là một hoạt động phức tạp,
được thúc đẩy bời nhiều động cơ khác nhau, tạo nên hệ động cơ thúc đẩy hoạt
động dạy. Những nghiên cứu tâm lý sư phạm ở các nhà trường quân đội trên nhiều
khía cạnh khác nhau đã chỉ ra cấu trúc hệ thống động cơ của hoạt động dạy gồm
các động cơ như sau:
1. Động cơ chính trị - xã hội: hiểu rõ chức trách, nhiệm vụ của người giảng
viên, tận tuỵ với công việc được giao, hứng thú với việc dạy học, mong muốn cho
học viên nắm vững nội dung học… Đây là động cơ giữ vị trí chủ đạo, thể hiện
trách nhiệm chính trị cao cả của người thầy vì sự nghiệp giáo dục - đào tạo con
người, đào tạo rèn luyện các sĩ quan tương lai của quân đội, tham gia xây dựng
quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại như
Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ X đã chỉ ra, qua đó góp phần to lớn cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Động cơ nghề nghiệp: Đó là lực thúc đẩy người thầy thực hiện tốt nhất
hoạt động dạy của mình xuất phát từ những địi hỏi về nghề nghiệp của chính
mình, nghề sư phạm. Động cơ nghề nghiệp thể hiện: Yêu mến nghề sư phạm, nghề
dạy người, say sưa với sự nghiệp giáo dục con người. Ý nguyện muốn trở thành
6


người thầy giỏi, muốn truyền thụ hết mọi tri thức cho người học. Muốn đào tạo
được nhiều thế hệ trò giỏi, vững vàng nối tiếp sự nghiệp cách mạng do cha anh để

lại, vững vàng xây dựng quân đội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện lịch
sử mới.
3. Động cơ nhận thức: là cái thúc đẩy người dạy thực hiện tốt trách nhiệm
của mình liên quan đến nhận thức rõ nội dung cần giảng dạy, trang bị kiến thức đầy
đủ rõ ràng cho người học, thể hiện ở: Ham hiểu biết, phát hiện, tìm tịi, khơng bằng
lịng với kiến thức cũ của mình. Muốn biết sâu, hiểu rộng, muốn chứng tỏ trình độ
tri thức của mình trước người học cũng là một biểu hiện của động cơ nhận thức.
Một khía cạnh khác của động cơ nhận thức là khát vọng muốn thay đổi nhận thức
cũ, lạc hậu của người học, muốn tạo ra ở người học hứng thú nhận thức với mơn
học, bài học mà mình giảng dạy.
4. Động cơ cá nhân: Đó là thơi thúc mang tính chất cá nhân, khơng trái với
lợi ích tập thể, có thể được chấp nhận như vì uy tín đồng nghiệp, vì uy tín của
người học và của người khác; vì sự tiến bộ và trưởng thành của bản thân; vì được
đề bạt, bổ nhiệm, thăng quân hàm; vì khen thưởng cho một danh hiệu nào đó…
Tất cả các động cơ trên có quan hệ tác động lẫn nhau, tạo thành hệ thống
động cơ, trong đó động cơ chính trị - xã hội chiếm vị trí chủ đạo, có tác dụng chi
phối các động cơ khác.
* Mục đích của hoạt động dạy
Mục đích chung của hoạt động dạy là đào tạo con người theo mục tiêu, yêu
cầu đào tạo của nhà trường. Các mục đích cụ thể của hoạt động dạy, thể hiện ở các
khía cạnh sau:
Trang bị kiến thức, hình thành kỹ xảo, kỹ năng nghề nghiệp theo phạm vi
mơn học, bài học cho các học viên.
Phát triển trí tuệ cho người học, cung cấp cho người học chìa khố để tiếp
tục khám phá tri thức.
Tham gia hồn thiện, phát triển nhân cách người học. Tức là, cùng với việc
“dạy chữ”, người thầy phải biết “dạy người”, tích cực tác động vào q trình hồn
7



thiện phát triển nhân cách người học theo mục tiêu đào tạo, đáp ứng cho nghề
nghiệp quân sự tương lai của họ sau khi ra trường.
* Phương thức của hoạt động dạy
Để dạy học có kết quả, tất yếu người thầy cần có những phương thức nhất định
bảo đảm cho hoạt động dạy đạt hiệu quả. Phụ thuộc vào mục đích của dạy học mà
người giảng viên lựa chọn các phương thức dạy học phù hợp. Với các mục đích dạy
học xa, cần chọn lựa các phương thức dạy học có tính chất chung, có thể áp dụng cho
nhiều dạng hoạt động dạy khác nhau. Đối với mục đích dạy học gần, cần chọn lựa các
phương thức dạy học mang tính chất tình huống. u cầu đề ra là các phương thức mà
người thầy chọn sử dụng trong hoạt động dạy phải đảm bảo được việc truyền thụ tri
thức, hình thành các kĩ xảo, kĩ năng cần thiết cho người học.
* Những quy luật cơ bản của hoạt động dạy
Quy luật của hoạt động dạy là mối liên hệ chủ yếu bên trong của những hiện
tượng dạy học, quy định sự thể hiện tất yếu và sự phát triển của chúng. Những mối
liên hệ này có tính bản chất, tất yếu, lặp lại, phổ biến, bền vững trong những điều
kiện xác định, biểu hiện tính tổ chức, trật tự hoặc kế tiếp, biến đổi và phát triển của
chúng. Hoạt động dạy học của giảng viên nhà trường quân đội diễn ra tuân theo
những quy luật cơ bản sau:
Quy luật về tính quy định của xã hội đối với hoạt động dạy học
Nội dung quy luật này chỉ rõ hoạt động dạy học bị quy định bởi nhu cầu
kinh tế – xã hội, văn hoá – khoa học, hệ tư tưởng, chính trị của xã hội, quy định bởi
khả năng, điều kiện do sự phát triển kinh tế – xã hội, văn hố – khoa học tạo ra.
Tính quy luật về mối liên hệ giữa dạy học và giáo dục
Những công trình nghiên cứu về Tâm lí học và Giáo dục học đã khẳng định
giáo dục và dạy học có vai trò chủ đạo đối với sự phát triển nhân cách. Song, dạy
học chỉ có tác động tốt khi nó đi trước sự phát triển, tạo nên vùng phát triển gần
nhất hay là vùng giới hạn trên của sự phát triển. Đồng thời, dạy học cũng không
đạt được kết quả nếu người học khơng được giáo dục, khơng có thái độ đúng đối
với học tập, không nhận thức được trách nhiệm của mình đối với xã hội nói chung
8



và với học tập của mình nói riêng. Trong q trình sư phạm tổng thể, các biện pháp
giáo dục phải nhằm vào sự phát triển toàn diện, dạy học phải có tính giáo dục.
Tính quy luật về mối quan hệ giữa dạy học và phát triển trí tuệ
Sự phát triển trí tuệ được đặc trưng ở sự tích luỹ vốn tri thức, nắm vững và
thành thạo các thao tác trí tuệ. Dạy học được coi là con đường cơ bản nhất để phát
triển trí tuệ. Thơng qua dạy học, trong một thời gian ngắn người học có thể lĩnh hội
được một khối lượng lớn tri thức và những cách thức hành động (kĩ xảo, kĩ năng)
tương ứng. Thông qua dạy học các chức năng của nhận thức được phát triển nhanh
hơn, một số phẩm chất mới của trí tuệ được hình thành. Kết quả của sự phát triển trí
tuệ giúp người học có thể lĩnh hội những tri thức ở mức độ cao hơn. Sự thống nhất
biện chứng giữa dạy học và phát triển trí tuệ đã thức đẩy quá trình dạy học khơng
ngừng vận động đi lên.
Tính quy luật về sự thống nhất và quy định lẫn nhau giữa các thành tố của
hoạt động dạy (mục đích, nội dung, phương pháp, hoạt động dạy, hoạt động học),
trong đó đặc biệt quan trọng là sự thống nhất biện chứng giữa hoạt động dạy và
hoạt động học.
1.2. Hoạt động học
* Khái niệm hoạt động học
Con người muốn tồn tại và phát triến cần phải có khả năng thích ứng với sự
thay đổi của mơi trường sống. Do đó con người phải tiếp thu kinh nghiệm và
chuyển hóa những kinh nghiệm xã hội thành kinh nghiệm của riêng mình. Điều đó
có nghĩa là phải học: là quá trình tương tác giữa cá thế với môi trường, kết quả là
dẫn đến sự biến đổi bền vũng về nhận thức, thái độ hay hành vi của cá thế đó.
Từ ngàn xưa con người đã có nhiều phương thức học khác nhau: học ngẫu
nhiên, học kết hợp, học tập. Tuy nhiên không phải phương thức học nào cũng
mang lại hiệu quả. Đồng thời cũng thật nguy hiểm khi người học học theo kiểu mò
mẫm, tự tìm tịi mà khơng có sự hướng dẫn, khơng tố chức, khơng mục đích rõ
ràng. Do đó, để việc học thu được kết quả tốt đẹp, có mục đích rõ ràng thì việc học

phải được triển khai bởi một hoạt động đặc thù: hoạt động học (học tập). Đây là
hoạt động đặc thù vì chỉ có ở người, nó nhằm thỏa mãn một nhu cầu nhất định,
9


được kích thích bởi động cơ học và được thực hiện bởi một hoạt động chuyên biệt:
có nội dung, phương pháp, phương tiện riêng. Bên cạnh đó là những tri thức người
học thu được qua hoạt động học là những tri thức khoa học đã được loài người
thực nghiệm và khái quát hóa thành những chân lý phổ biến. Ngày nay, xã hội càng
hiện đại, khoa học càng phát triển thì việc học tập của con người càng đóng vai
người học quyết định trong sự phát triển của cá nhân và xã hội. Cá nhân nào không
học tập tức là đang tự bước lùi, là tụt hậu.
Vậy hoạt động học là gì? Hoạt động học là hoạt động của người học diễn ra
dưới sự chỉ đạo hướng dẫn của người dạy nhằm chủ động lĩnh hội nền văn hoá –
xã hội – lịch sử và phát triển tâm lý của chính mình.
* Đặc trưng tâm lý của hoạt động học
Hoạt động học là hoạt động lĩnh hội : Hoạt động học không phải là hoạt
động truyền thụ của người thầy, càng không phải là hoạt động sản xuất của cải vật
chất, tinh thần nói chung trong xã hội. Trong hoạt động này, người học có nhiệm
vụ lĩnh hội nền văn hố xã hội – lịch sử người, biến nó thành kinh nghiệm của bản
thân. Lĩnh hội được hiểu là sự hồ nhập kinh nghiệm mới với kinh nghiệm đã có
trước đây, hồ nhập thơng tin mới với thơng tin đã biết. Nó là sự chuyển hố kinh
nghiệm xã hội đã tích luỹ thành tài sản tinh thần của cá nhân, nghĩa là thành thuộc
tính của cá nhân.
Đối tượng của hoạt động học là các tri thức ( và các kĩ năng, kĩ xảo tương ứng
với nó) đã được chọn lọc, tinh chế, mang tính khái quát. Người học muốn học có kết
quả phải tiến hành hoạt động tương ứng với đối tượng lĩnh hội, cần “vật lộn” với nó,
chiếm lĩnh nó, biến nó thành cái riêng của mình.
Hoạt động học là hoạt động trong đó các tri thức lý luận, các kỹ xảo, kỹ năng
được người học tiếp nhận nhìn chung là các tri thức đã được chọn lọc mang tính

khái qt. Cịn trong hoạt động nghiên cứu khoa học, các kết luận khoa học mà nhà
nghiên cứu khoa học rút ra có khi cịn thơ sơ, nhiều khi cịn phiến diện, chỉ là sự
tìm tịi ở mức độ lúc đó và theo dịng phát triển khoa học có thể ngay lập tức bị phủ
định. Bởi vậy, với hoạt động học được tiến hành đúng quy cách, con người trong
một thời gian ngắn có thể lĩnh hội được cả một tài sản tinh thần đồ sộ to lớn trong
10


kho tàng văn hoá của nhân loại. Vấn đề là ở chỗ tổ chức hoạt động học đó như thế
nào sao cho có hiệu quả.
Hoạt động học là một hoạt động làm thay đổi chính bản thân chủ thể
Trong hoạt động học, các tri thức lý luận, các kiến thức, kĩ xảo, kĩ năng sau
khi được chủ thể chiếm lĩnh vẫn cịn đó trong tài liệu, giáo trình, giáo khoa nhưng
người học (chủ thể của hoạt động học) đã có sự biến đổi rõ rệt. Về nhận thức,
nhiều nhận thức mới được xuất hiện. Sự hiểu biết thế giới xung quanh sâu sắc hơn,
toàn diện hơn; quan điểm lập trường vững chắc hơn, phương pháp tiếp nhận, đánh
giá, xem xét sự vật, hiện tượng của thế giới quan hoàn chỉnh hơn. Và điều quan
trọng là thông qua hoạt động học, nhân cách của người học được biến đổi, phát
triển, hoàn thiện. Cũng chính vì điều này, chúng ta hiểu vì sao trong các nhà trường
quân đội đặc biệt coi trọng cùng với quá trình học, người học phải tự rèn luyện về
phẩm chất nhân cách của người sĩ quan: lập trường, quan điểm, tư tưởng, tinh thần
trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật trong học tập và rèn luyện, tinh thần tập thể,
đạo đức trong sáng mẫu mực.
Trong hoạt động học, người học phải học cách học dưới sự hướng dẫn của
giảng viên
Việc hình thành phương pháp học tập diễn ra song song cùng với sự phát
triển về tâm lý nói chung, về trí tuệ nói riêng ở người học. Muốn học có kết quả,
người học phải biết cách học. Đối với các học viên nhà trường quân đội ,cách học
ở đây là cách học tập và nghiên cứu bậc đại học tại các nhà trường quân đội, tức là
ngoài các tri thức, kĩ xảo, kĩ năng học tập ở bậc đại học nói chung, người học cịn

cần có các tri thức, kĩ xảo, kĩ năng cần thiết cho việc tiếp thu thuận lợi các môn
học về chiến thuật, về trinh sát, về vẽ bản đồ quân sự… Các học viên cần được
hướng dẫn tỉ mỉ về phương pháp học tập từ việc lĩnh hội các khái niệm khoa học
quân sự, cách hệ thống hoá kiến thức, cách ghi bút ký, đọc tài liệu tham khảo đến
tiếp thu nội dung, cách thực hành nghiên cứu khoa học…
Điều đó địi hỏi nhà trường, đội ngũ giảng viên cùng với nội dung giảng dạy,
phải thường xuyên chăm lo hướng dẫn các học viên về phương pháp học tập. Học
đến đâu kèm theo hướng dẫn phương pháp học đến đó một cách nhịp nhàng, hình
11


thành những hành động học tập thích hợp cho các học viên. Chỉ khi đó mới có thể
nói hoạt động học ở người học có khả năng hình thành một cách thuận lợi. Hình
thành hoạt động học tập ở người học phải được xem là mục đích quan trọng của
hoạt động dạy. Trách nhiệm này thuộc về nhà trường mà trực tiếp là các giảng viên
thông qua hoạt động dạy của mình.
* Cấu trúc tâm lý hoạt động học
Động cơ hoạt động học
Khi con người có nhu cầu học tập, xác định được đối tượng cần đạt thì xuất
hiện động cơ học tập. Động cơ học tập được thể hiện ở đối tượng của hoạt động
học, tức là những tri thức, kĩ xảo, kĩ năng… mà giáo dục đem lại. Động cơ hoạt
động học là động lực thúc đẩy hoạt động học của học viên thực hiện có kết quả
các đòi hỏi của mục tiêu đào tạo.
Động cơ là sự thể hiện cụ thể của nhu cầu. Các động cơ hoạt động học, đó là
các động lực thúc đẩy người học trong quá trình học tập tại trường nhằm thoả mãn
nhu cầu mong muốn được học tập, mong muốn tiến bộ trưởng thành, hoàn thiện
phát triển, mong muốn làm chủ tri thức… Có thể kể đến các hoạt động cơ hoạt
động sau:
Động cơ chính trị - xã hội: Đó là động lực thúc đẩy người học tích cực học tập
liên quan đến thoả mãn các nhu cầu: Nhu cầu mong muốn tiến bộ, trưởng thành; nhu

cầu mong muốn được hoàn thiện, phát triển nhân cách; nhu cầu phục vụ sự nghiệp
xây dựng quân đội, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Động cơ chính trị - xã hội được thể hiện ở sự hiểu biết sâu sắc của các học
viên về các yêu cầu nhiệm vụ cách mạng nói chung, yêu cầu của sự nghiệp xây
dựng quân đội trong giai đoạn cách mạng mới. Chính từ những hiểu biết này đã
kích thích các học viên tích cực miệt mài học tập vì mục đích cao cả phục vụ qn
đội, Tổ quốc và nhân dân đã giúp các học viên lồng vào trong các hiểu biết tri thức
khoa học của các môn học, bài học, làm cho các hiểu biết này khơng chỉ đơn thuần
về mặt kiến thức mà cịn mang ý nghĩa chính trị - xã hội sâu sắc giúp cho người
học giành điểm cao trong các kỳ kiểm tra, thi tại trường.
12


Động cơ nhận thức khoa học: Để thúc đẩy học tập của các học viên không
thể thiếu động cơ này. Đây là sự thể hiện tập trung nhất của động cơ học tập của
người học, là nhân tố kích thích các học viên hăng say trong học tập trên cơ sở của
nhu cầu hoàn thiện tri thức, mong muốn nắm vững tiến tới làm chủ tri thức khoa
học của từng bộ mơn mà mình được học tập. Động cơ này có ý nghĩa rất to lớn cho
việc thơi thúc người học thực sự lao vào học tập để đạt kết quả cao. Có trường hợp
động cơ chính trị - xã hội chưa được bộc lộ đầy đủ để phát huy vai trị quyết định
của nó, chẳng hạn, thái độ học tập cịn có những biểu hiện chưa đúng với u cầu
địi hỏi, cịn học vì điểm, vì các động cơ cá nhân khác… nhưng thực sự muốn làm
chủ tri thức, không muốn chịu những tác động của các quan niệm khơng đúng đắn
đã ảnh hưởng đến mình mà người học vẫn có thể đạt được các kết quả cao trong
học tập. Đương nhiên, nếu chỉ vì duy nhất có các động cơ này thì việc học và rèn
luyện của người học sẽ khó có thể tồn diện và đạt kết quả cao một cách thực sự.
Động cơ nhận thức khoa học được biểu hiện rõ nét ở hứng thú nhận thức: Ham học
tập, thích thú say sưa với việc học; óc tị mị khoa học; thích đem lý luận vận dụng
vào thực tiễn, cần cù nhẫn nại trong việc học; có óc phê phán khoa học, tính độc
lập trong tư duy suy nghĩ; giàu tưởng tượng sáng tạo; tính dễ xúc cảm về nhận

thức.
Động cơ cá nhân: Là thôi thúc mang ý nghĩa hồn tồn riêng của cá nhân
nhưng khơng tác hại tới tập thể, tới sự nghiệp chung, kích thích người học say mê
học tập đạt kết quả cao. Động cơ này liên quan đến các nhu cầu, lợi ích, hứng thú
riêng của cá nhân. Thuộc động cơ này, gồm có: Các khía cạnh thúc đẩy từ phía gia
đình và bạn bè; các khía cạnh thúc đẩy vì tiến bộ của bản thân vì được nhận bằng
cấp xác nhận loại giỏi, xuất sắc, vì được đề nghị đi học tiếp tục, vì được đề bạt
trước niên hạn, được bổ nhiệm chức vụ mới, được khen thưởng vật chất hoặc tinh
thần nào đó…
* Mục đích hoạt động học
Mục đích của hoạt động học là người học phải lĩnh hội cho được nền văn
hoá xã hội – lịch sử người do cha ông truyền lại theo yêu cầu của bậc học và đạt
được mục tiêu đào tạo của khoá học.
13


Dưới sự hướng dẫn của người dạy, người học bằng các hành động học tập cụ
thể làm cho đối tượng của hoạt động học ( là các tri thức khoa học) được sống lại
và được phát hiện lại một lần nữa ( lần đầu tiên được phát hiện ở các nhà nghiên
cứu) dưới dạng tinh chế, cô đúc và bằng con đường ngắn nhất. Điều này có nghĩa
là yêu cầu người học phải nắm được thực chất của tri thức ẩn dấu đằng sau các từ
ngữ, thuật ngữ khoa học chứ khơng phải nắm được một cách hình thức. Ở đây, địi
hỏi người học phải biết cách học, khơng ngại khó, chủ động tìm tịi, phát hiện, tự đi
đến tri thức. Nội dung của các tri thức được hình thành phải được di chuyển vào
niềm tin cá nhân và tham gia cải biến tâm lý của chính mình, tạo ra sự phát triển.
Mục đích hoạt động học chính là sự cụ thể hoá động cơ hoạt động học và xét
đến cùng là sự cụ thể hố những địi hỏi của xã hội ở người học. Chúng xác định
thái độ của người học với tri thức cần lĩnh hội, xác định nội dung, phương pháp
của hoạt động học và quy định các đơn vị của hoạt động học. Để đạt mục đích của
hoạt động học cần tổ chức với hoạt động dạy và tiến hành thực hiện với hoạt động

học. Mục đích chỉ có thể được bắt đầu hình thành khi chủ thể bắt đầu bắt tay vào
thực hiện hành động học của mình. Trên con đường chiếm lĩnh đối tượng ln diễn
ra q trình chuyển hố giữa mục đích và phương thức hoạt động. Mục đích bộ
phận được thực hiện đầy đủ lại trở thành công cụ để chiếm lĩnh các mục đích tiếp
theo.
* Điều kiện và phương thức của hoạt động học
Điều kiện của hoạt động học thường bao gồm : Mối liên hệ giữa sự chỉ đạo
về mặt sư phạm của thầy và trị trong đó thầy là người tổ chức định hướng. Trò
hành động theo sự chỉ đạo hướng dẫn của thầy để đi đến phát hiện lại một lần nữa
tri thức khoa học. Cần chú ý đến nguyên tắc ở đây là: Thầy không bao giờ được
trao cho người học những tri thức đã được chế biến sẵn mà yêu cầu người học phải
tự hoạt động, tự làm lấy để tự phát triển tâm lý của chính mình. Thầy khơng bao
giờ và khơng được phép nhồi nhét, áp đặt cái có sẵn cho người học. Mối liên hệ
hợp tác và trao đổi giữa những người cùng học dưới sự chỉ đạo và tổ chức của thầy,
trong giao lưu, trong tập thể. Bởi vì hoạt động học muốn có hiệu quả phải được
14


diễn ra dưới những hình thức khác nhau của trao đổi và hợp tác chứ không phải là
một hoạt động cô lập.
Phương thức của hoạt động học: Phương thức của hoạt động học trước hết
là hành động học tập. Phương thức này được người học tự hình thành trong quá
trình diễn ra hoạt động học tập. Tuỳ thuộc vào nội dung và phương pháp dạy mà ở
người học hình thành được loại hành động phân tích, so sánh, phân loại, hệ thống
hoá, khái quát hoá... Tâm lý học khẳng định, so sánh, phân loại là những hành động
học tập làm phương thức đắc lực cho việc hình thành những khái niệm kinh nghiệm.
Cịn phân tích, khái qt hố nội dung là những phương thức quan trọng để hình thành
khái niệm khoa học. Do vậy, sự phát triển tâm lý người học phụ thuộc vào chỗ những
hành động học tập nào được hình thành, phát triển và trở thành phương thức cho hoạt
động học tập của chính họ.

1.3. Mối quan hệ giữa hoạt động dạy và hoạt động học
Qua phân tích trên ta có thể thấy giữa hoạt động dạy và hoạt động học có
mỗi quan hệ chặt chẽ với nhau khơng thể đứng tách rời nhau trong q trình dạy
học. Bởi trong mỗi hoạt động đều có sự xuất hiện của người dạy và người học,
hoạt động không phải chỉ có riêng người dạy cũng như khơng chỉ có riêng người
học trong hoạt động học. Có hoạt động dạy thì phải có hoạt động học và ngược lại,
gắn bó hữu cơ với nhau. Sự tồn tại và phát triển của mặt này qui định sự tồn tại và
phát triển của mặt kia. Tuy hai mà một, thực ra chúng cùng đứng trong một hoạt
động: hoạt động dạy - học. .
Từ ngàn xưa, mọi người luôn xem nghề giáo là nghề cao q nhất. Người
giáo viên ln được đề cao vì: “Khơng người dạy đố mày làm nên” hay “Muốn
sang thì bắc cầu kiều - Muốn con hay chữ hãy yêu lấy người dạy”. Đó là về phía
người dạy, cịn đối với người học thì sao? Cơmenxki từng nói: “Những kẻ giàu
sang mà khơng học vấn thì chẳng khác gì những con lợn béo ì vì ăn cám; những
người nghèo khó mà khơng có sự hiểu biết thì cũng khơng khác gì những con lừa
đau khổ buộc phải tải nặng. Một người có hình thức đẹp đẽ mà khơng có văn hóa
thì chỉ là một con vẹt có bộ lơng hào nhống hoặc như người ta nói: một lưỡi kiếm
bằng chì trong vỏ kiếm bằng vàng”. Vì vậy, sự khởi đầu của một con người muốn
15


thành công đều phải xuất phát từ trường lớp, phải đi học. Do đó việc học của người
học và dạy của người dạy là vô cùng quan trọng, cả hai đều phải có ý thức thực
hiện đúng vai người học và trách nhiệm trong hoạt dạy - học, cả hai đều phải chủ
động và tích cực hoạt động. Chính vì vậy mà cả người dạy và người học đều là chủ
thể của hoạt động, mối quan hệ giữa người dạy và người học phải là mối quan hệ
giữa chủ thể - chủ thể. Nhưng để nhận thức đúng mối quan hệ này và ứng xử đúng
theo hiểu biết về nó là cả một quá trình lịch sử lâu dài và phức tạp. Bởi vì trong hệ
thống giáo dục trước đây, mối quan hệ người dạy - người học là quan hệ chủ thể khách thể: người dạy định đoạt tất cả từ mục tiêu, nội dung, phương thức tác động
đến người học, người học trở nên thụ động tiếp thu các tri thức. “Hãy cho tôi một

đứa trẻ khỏe mạnh bình thường, và cho phép tơi ni nấng, dạy do chúng theo
cách riêng của mình thì bạn muốn chúng trở thành kĩ sư, bác sĩ, tổng thống hay là
gì đi nữa thì tơi cũng có thể làm cho chúng trở thành như vậy được ” (Watson).
Những quan niệm tương tự như vậy trong các thời kì trước thật phiến diện và sai
lầm. Người học trong mối quan hệ ấy chẳng khác gì đất sét hay bột mà người dạy
muốn nhào nặn thế nào cũng được. Quả là một lối giáo dục áp đặt và nhồi nhét. Dĩ
nhiên theo quy luật phát triển thì cái cũ cũng sẽ được thay thế bằng cái mới, xã hội
ln vận động đi lên. Chính vì vậy mà những tư tưởng sai lầm, khơng phù hợp
cũng bị loại và thay thế dần bằng những tư tưởng, những cái nhìn tiến bộ và đúng
đắn hơn. Hiện nay hệ thống giáo dục nước ta đang từng bước thực hiện việc thực
hiện đổi mới đó, làm sao cho cả người dạy và người học đều là chủ thể, đều thể
hiện tính tích cực trong vai người học và nhiệm vụ của mình.
Như chúng ta đã biết, trẻ em ngay từ nhỏ cho đến khi trưởng thành luôn luôn
là chủ thể của chính nó, quyết định số phận hiện tại và tương lai của nó. Mỗi trẻ
em đều có những hứng thú, sở thích và quyền lợi cho nên nó có quyền quyết định
con đường đi của chính mình. Tuy nhiên, do đặc thù là trẻ thơ trước thế giới tự
nhiên và xã hội đầy phức tạp và bí hiểm. Cho nên trẻ em thường xuyên đứng trước
mâu thuẫn giữa một bên là phải tự mình trực tiếp tiếp xúc và chiếm lĩnh những yếu
tố cần thiết cho cuộc sống và phát triển của mình trong thế giới và xã hội ấy. Một
bên là trẻ có những hạn chế trong việc định hướng sự lựa chọn và khả năng tác
16


động vào đối tượng học tập để tách ra được những điều có ích cho sự phát triển của
riêng mình. Chính vì vậy mà trẻ cần sự trợ giúp của người lớn; đây mới thực là bản
chất của dạy học hiện đại. Người dạy khơng cịn là người chỉ truyền thụ bằng lối
truyền giảng hay bằng các phương pháp giáo dục độc đoán, áp đặt nữa. Người dạy
trở thành người định hướng, giúp đỡ, tố chức, điều chỉnh và động viên hoạt động
học tập của người học. Ở đây ta thấy có sự tơn trọng người học, đó là để người học
phát huy khả năng của mình; người dạy căn cứ vào từng khả năng của người học

mà có mức độ định hướng và giúp đỡ khác nhau:
Mức độ 1: người học chưa thể tự mình tố chức việc học tập và tu dưỡng.
Trong trường hợp này cần có sự can thiệp trực tiếp của người dạy, với tư cách là
người tổ chức cho người học hoạt động trong môi trường sư phạm. Quá trình này
bao hàm cả chỉ dẫn, tổ chức và điều khiển hoạt động của người học bằng nhiều
phương pháp khác nhau.
Mức độ 2: người học không thế tự mình hoạt động hiệu quả trong mơi
trường sư phạm. Do đó, người học vừa cần có sự định hướng, vừa cần có sự trợ
giúp của người dạy trong quá trình thực hiện. Vì vậy người dạy phải tạo ra môi
trường sư phạm, định hướng cho người học hoạt động trong đó, mặt khác thường
xuyên ở bên cạnh họ để trợ giúp khi cần thiết (không can thiệp trực tiếp).
Mức độ 3: người học có khả năng tự mình giải quyết nội dung cơng việc;
người dạy chỉ đóng vai người hướng đạo, chủ yếu là định hướng cho người học
hoạt động trong môi trường đối tượng. Sự định hướng của người dạy được thực
hiện thông qua việc tạo ra mơi trường sư phạm, trong đó bao hàm các yếu tố cần
thiết đối với sự phát triển của người học mà xã hội đặt ra và cách giải quyết chúng.
Việc căn cứ vào các mức độ khả năng của người học vốn xuất phát từ quan niệm
về “vùng phát triển gần nhất” của Vưgốtxki: “Độ chênh lệch giữa những cái trẻ có
thể làm được cùng với người lớn và những cái trẻ đủ sức làm trong hoạt động tự
lực”. Cụ thể theo các nhà tâm lý học nói thì điều đó có nghĩa là: Dạy học khơng
hướng vào trình độ phát triển mà người học đã đạt tới được mà phải vượt trước
trình độ đó một chút, bằng cách đề ra những yêu cầu vượt quá khả năng hiện có
của người học và trình độ hoạt động phân tích – tổng hợp mà các em đã đạt được
17


và đã lĩnh hội tốt. Dạy học không được hướng vào quá khứ mà phải hướng vào
tương lai của sự phát triển của người học. Dạy học phải được xây dựng khơng chỉ
trên cơ sở trình độ phát triển đã được kết thúc, mà trước hết phải hướng vào cái mà
chưa được hình thành hồn hảo (và cái đang được hình thành do ảnh hưởng của sự

học đó). Chính vì vậy mà người học cần có sự nỗ lực để chiếm lấy cái mình chưa
có hay để hồn thiện cái mình đang hình thành.
Như vậy, người học đã phải trực tiếp đối mặt với các đối tượng học: nội
dung học vấn được hoạch định trong chương trình, nội dung mơn học.... Người dạy
chỉ là tác nhân giúp người học khắc phục những trở ngại chủ quan và khách quan
nảy sinh trên con đường chinh phục đối tượng; người học không làm thay cho
người học bất cứ điều gì. Người dạy từ người truyền đạo trong dạy học truyền
thống đã trở thành người tham vấn, người trợ giúp. Mặc dù giữa người dạy và
người học thực hiện những nhiệm vụ khác nhau như vậy, nhưng trong quá trình
dạy học thì hai hoạt động dạy và học lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau cùng
hướng tới thực hiện nhiệm vụ giáo dục đào tạo của nhà trường.
2. Vận dụng trong xây dựng quan hệ tích cực giữa giảng viên và học
viên trong các nhà trường quân đội
2. 1. Mối quan hệ giữa giảng viên và học viên trong các nhà trường quân
đội
Để hoàn thành nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam XHCN, ngày nay người sĩ quan phải “có bản lĩnh chính trị vững
vàng, trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân; có trình độ kỹ, chiến
thuật, nghiệp vụ giỏi, năng lực tư duy sáng tạo, quyết đoán, khả năng thích ứng
nhanh, hành động kiên quyết, hiệu quả trong xử trí các tình huống” 1. Đáp ứng u
cầu trên địi hỏi q trình đào tạo trong nhà trường quân đội cần phải có những đổi
mới căn bản và toàn diện theo quan điểm của Đại hội XI của Đảng. Đó là q trình
đổi mới từ tư duy giáo dục quân sự đến hệ thống giáo dục, đào tạo qn sự mà
trước hết là tập trung hồn thiện mơ hình nhân cách, mục tiêu đào tạo sĩ quan phù
1

Nghị quyết của QUTƯ về nâng cao chất lượng huấn luyện giai đoạn 2013-2020 và những năm tiếp theo, ngày 20/12/2012

18



hợp với đòi hỏi của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN trong giai đoạn mới, đòi hỏi
của cuộc chiến tranh kiểu mới với việc sử dụng vũ khí cơng nghệ cao. Từ mơ hình
nhân cách, mục tiêu đào tạo sĩ quan phải xây dựng chương trình, nội dung đào tạo
theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá nhưng phải thiết thực và phù hợp với từng loại
đối tượng đào tạo cụ thể. Đồng thời, cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ các phương
pháp dạy và học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học,
gắn bó chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn, nhà trường với chiến trường, đơn vị đảm
bảo cho người học ra trường có thể thích ứng nhanh chóng với mọi loại hoạt động
hết sức đa dạng, phong phú, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên,
trong các vấn đề trên, việc quan tâm xây dựng một môi trường giáo dục trong nhà
trường ln có ý nghĩa lớn với hình thành, phát triển nhân cách người sĩ quan
tương lai. Trong đó, cần quan tâm đặc biệt tới xây dựng quan hệ tích cực giữa
giảng viên và học viên.
Quan hệ giữa giảng viên và học viên trong nhà trường quân đội diễn ra
trong một mơi trường mang tính đặc thù. Đó là môi trường sư phạm quân sự được
tổ chức chặt chẽ, có kỉ luật tự giác và nghiêm minh để đào luyện ra những con
người đáp ứng với đòi hỏi của hoạt động qn sự. Mơi trường ấy ln có sự địi
hỏi cao cả về thể lực và trí tuệ của người học. Quan hệ giữa giảng viên và học viên
trong môi trường sư phạm quân sự vừa là quan hệ giữa các quân nhân, vừa là quan
hệ thày-trò. Quan hệ ấy phải tuân theo những đòi hỏi của điều lệnh quân đội và các
quy định, chuẩn mực của hoạt đơng sư phạm. Đó là những ngun tắc của quan hệ
giữa họ đã được thể hiện trong điều lệnh quân đội như nguyên tắc chỉ huy phục
tùng, nguyên tắc tính tập thể, nguyên tắc nhân ái. Sự thấm nhuần các nguyên tắc
của mối quan hệ sẽ là cơ sở định hướng cho sự phát triển quan hệ tích cực giữa
giảng viên và học viên. Quá trình giáo dục, đào tạo, lãnh đạo, chỉ huy các nhà
trường quân đội đã thường xuyên chăm lo phát triển mối quan hệ tích cực giữa
giảng viên và học viên, thơng qua đó tác động mạnh mẽ tới sự phát triển nhân cách
người học và góp phần nâng cao chất lượng đào tạo. Sự hiểu biết, gắn bó lẫn nhau,
đồng cảm và tác động qua lại ngày càng phát triển. Giảng viên có điều kiện nắm

19


chắc hơn các đặc điểm riêng của mỗi loại đối tượng đào tạo, tìm ra những cách
thức truyền thụ kiến thức, tác động phù hợp nâng cao hiệu quả của hoạt động dạy.
Học viên hứng thú, say sưa tìm tịi, khám phá nâng cao hiệu quả của hoạt động
học. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn xuất hiện những biểu hiện vi phạm các quy định,
các chuẩn mực trong quan hệ giảng viên và học viên. Một bộ phận giảng viên do
xu hướng nghề nghiệp sư phạm không ổn định đã khơng chú trọng tìm hiểu, nắm
chắc những đặc điểm cụ thể của người học dẫn tới những nội dung giảng chung
chung, thiếu thiết thực.
2.2. Xây dựng quan hệ tích cực giữa giảng viên và học viên trong các
nhà trường quân đội
Để xây dựng quan hệ tích cực giữa giảng viên và học viên trong các nhà
trường quân đội, cần tập trung vào một số nội dung sau:
Một là: Giảng viên cần tích cực, chủ động, cởi mở và chân thành trong giao
tiếp, từ đó để thiết lập các quan hệ tích cực với học viên
Giao tiếp nhằm để thiết lập các quan hệ người-người, hiện thực hoá các quan
hệ người - người. Trong nhà trường quân đội, với vị thế là người thày, giảng viên
cần chủ động trong giao tiếp với người học, gần gũi, cởi mở và chân thành trong
tiếp xúc. Việc tích cực rèn luyện phát triển các kĩ năng giao tiếp như: Kĩ năng nhận
biết các dấu hiệu bên ngoài, kĩ năng định hướng, kĩ năng định vị, kĩ năng điều
khiển, điều chỉnh, kĩ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp có ý nghĩa quan trọng
nhằm nâng cao hiệu quả giao tiếp với người học. Thông qua các hình thức dạy học,
giảng viên cần tăng cường, trao đổi, đối thoại cởi mở và chân thành với học viên,
tăng cường thu nhận các thông tin phản hồi từ phía người học. Điều này khơng chỉ
làm cho quan hệ giảng viên, học viên có điều kiện hình thành, phát triển thuận lợi
mà cịn góp phần tăng hiệu quả của hoạt động giảng dạy, giảm đi kiểu truyền thụ
một chiều, tẻ nhạt, khơng tạo được hứng thú. Từ đó, tính tích cực của người học
được phát huy, họ chịu khó tìm tịi, phát hiện, trao đổi với giảng viên, nắm kiến

thức sâu sắc và vững chắc hơn.
20


Hai là: Giảng viên cần nắm chắc đặc điểm của từng đối tượng học viên để
từ đó có những tác động phù hợp, đạt hiệu quả trong quá trình dạy học
Hiểu biết lẫn nhau là điều kiện cơ bản để tạo nên mối quan hệ người- người.
Hiểu rõ học viên là điều kiện cơ bản để thiết lập quan hệ tích cực đối với họ và
cũng để nâng cao hiệu quả tác động sư phạm tới họ, vì thế giảng viên cần tích cực
tìm hiểu, nghiên cứu, nắm chắc đặc điểm của các loại đối tượng học viên. Trong
nhà trường quân đội, nhất là ở các Học viện, đối tượng học viên thường rất đa
dạng, từ trung cấp tới cao cấp với những độ tuổi khác nhau. Do đó, họ cũng có
những đặc điểm tâm sinh lý rất khác nhau, kiến thức, kinh nghiệm, vốn sống khác
nhau, thói quen, phong cách sống, khả năng lĩnh hội kiến thức khác nhau. Giảng
viên, một mặt vừa nắm các đặc điểm tâm sinh lý của người học bằng cách trực tiếp
tiếp xúc, mặt khác, thông qua đội ngũ cán bộ kiêm chức, cán bộ quản lý để tìm
hiểu nắm người học. Đây là nét đặc thù trong các nhà trường quân đội. Bởi đội ngũ
này chính là những người trực tiếp cùng hoạt động với người học, hiểu rõ tâm tư,
nguyện vọng, đặc điểm riêng biệt của mỗi loại đối tượng. Trên cơ sở hiểu rõ các
đặc điểm của từng loại đối tượng giảng viên cần nghiên cứu lựa chọn nội dung,
phương pháp giảng dạy, tìm ra cách thức tác động phù hợp tới họ, từ đó làm cho
quan hệ giảng viên, học viên càng có điều kiện phát triển.
Ba là: Giảng viên cần rèn luyện thường xuyên nâng cao trình độ năng lực
sư phạm và mẫu mực về nhân cách để tạo ra ảnh hưởng mạnh mẽ tới người học
Trong nhà trường, người giảng viên luôn tạo ra ảnh hưởng mạnh mẽ tới
người học. Sức thuyết phục, cảm hoá của người thày đối với người học là từ trình
độ hiểu biết uyên thâm, sâu rộng, nhiệt huyết, trách nhiệm hết mình vì người học,
vì sự nghiệp đào tạo đội ngũ sĩ quan quân đội. Song tấm gương nhân cách mẫu
mực của người thày sẽ là ảnh hưởng mạnh nhất tới người học. Hoạt động quân sự
là hoạt động đặc biệt và nó cũng đòi hỏi con người hoạt động trong lĩnh vực đó

cũng phải có những phẩm chất đặc biệt mới có thể vượt qua những thử thách khắc
nghiệt của chiến đấu và giành chiến thắng trong đối đầu với đối phương. Những
phẩm chất cơ bản của người sĩ quan tương lai sẽ được hình thành từ nhà trường và
21


được hồn thiện trong q trình trực tiếp chỉ huy, lãnh đạo các đơn vị quân đội sau
này. Tuy nhiên, khi họ còn ngồi trên ghế nhà trường, các phẩm chất nhân cách của
người thày thường xuyên tác động ảnh hưởng tới họ. Vì thế, giảng viên nhà trường
quân đội cần tu dưỡng, rèn luyện nâng cao trình độ năng lực sư phạm và mẫu mực
về nhân cách để tạo ra ảnh hưởng mạnh mẽ tới người học. Giảng viên nhà trường
quân đội phải là hình mẫu để người sĩ quan tương lai học tập và noi theo.
Bốn là: Học viên cần nêu cao tính tích cực, chủ động, tìm tịi nghiên cứu trong
q trình học tập
Quan hệ giữa giảng viên và học viên khơng thể hình thành chỉ từ một phía.
Nó chỉ có thể có được từ sự tác động qua lại giữa các chủ thể. Bản thân người học
viên cần phát huy tốt vai trị của mình để quan hệ giảng viên, học viên được hình
thành thuận lợi và phát triển theo chiều hướng tốt đẹp. Là những người đã được
tuyển chọn và đào tạo theo quy hoạch sử dụng, học viên nhà trường quân đội đã có
những yếu tố mang tính tiền đề để trở thành những người phục vụ lâu dài trong
quân đội. Việc tận dụng tốt khoảng thời gian được đào tạo tại trường không chỉ
giúp học viên lĩnh hội được các tri thức, kĩ xảo, kĩ năng cần thiết cho hoạt động
nghề nghiệp sau này mà cịn hình thành những phẩm chất của người sĩ quan tương
lai. Tiếp xúc với những người thày trong môi trường sư phạm quân sự, họ thực sự
học hỏi được nhiều điều cả về tri thức và phẩm chất. Vì thế, học viên cần mạnh
dạn, thẳng thắn, nêu cao tính tích cực, chủ động trong q trình học tập, tăng
cường trao đổi với người dạy.
Cùng với việc hình thành, phát triển quan hệ tích cực giữa giảng viên và học
viên, lãnhđạo, chỉ huy các nhà trường quân đội cũng cần quan tâm hình thành, phát
triển các mối quan hệ khác trong nhà trường như quan hệ giữa cán bộ quản lý với

học viên, quan hệ giữa các lực lương sư phạm khác trong nhà trường với học viên,
quan hệ giữa học viên với nhau. Trên thực tế, quan hệ giảng viên, học viên cũng
chỉ có thể hình thành, phát triển một cách thuận lợi trong môi trường mà các mối
quan hệ khác cũng được chăm lo phát triển theo hướng tích cực. Các mối quan hệ
trên, mặc dù có những nét khác nhau, thể hiện bản sắc riêng của các chủ thể trong
22


từng mối quan hệ nhưng đều có ảnh hưởng, chi phối lẫn nhau, cùng hướng tới tạo
ra môi trường sư phạm quân sự lành mạnh, tác động có hiệu quả tới sự hình thành,
phát triển nhân cách người sĩ quan tương lai. Vì thế, cùng với việc hình thành, phát
triển quan hệ tích cực giữa giảng viên, học viên, cần có sự chú ý đồng bộ tới các
mối quan hệ khác trong nhà trường quân đội.
KẾT LUẬN
Để đạt được mục đích và hiệu quả cao trong bất kỳ hoạt động nào, chỉ khi
mỗi người ln tích cực, chủ động và “hết mình” trong từng hoạt động đó. Hoạt
động dạy học cũng vậy, để đạt được mục đích, trước hết người dạy và người học
phải tích cực trong hoạt động động mình. Mối quan hệ trong hoạt động dạy học là
quan hệ giữa người dạy và người học, mang tính chất: Người dạy phải thực hiện tốt
chức năng là người trực tiếp truyền thụ các kiến thức, kĩ xảo, kĩ năng và những
phẩm chất chuyên môn, nghiệp vụ cho người học. Trong khi tiến hành hoạt động
dạy, người dạy còn thực hiện vai trò là người tổ chức, điều khiển hoạt động học
của người học, giúp họ lĩnh hội nội dung dạy học, tạo ra sự phát triển tâm lý, hình
thành nhân cách theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo. Còn riêng người học cũng phải
luôn chủ động trong việc lĩnh hội tri thức, kĩ xảo, kĩ năng…để hoàn thiện nhân
cách của bản thân đáp ứng mục tiêu đào tạo và yêu cầu của xã hội.
Người dạy thuyết phục người học bằng nội dung tri thức và bằng nghệ thuật sư
phạm của mình để hình thành ở người học niềm tin về những điều được tiếp nhận.
Người dạy phải thuyết phục người học chứ khơng được áp đặt tri thức, tình cảm, ý
chí đối với người học. Mọi sự áp đặt trong dạy học đều dẫn đến sai lầm, làm cho

người học thụ động. Thuyết phục người học bằng trình độ tri thức, sự uyên thâm
về trí tuệ và bằng chính nghệ thuật sư phạm của người thầy, bằng sự khéo léo dẫn
dắt người học đi tìm, phát hiện chân lý, rút ra một cách thuyết phục những kết luận
về quan điểm, tư tưởng, thế giới quan, niềm tin cần hình thành ở người học. Thực
hiện được điều này quả không đơn giản nếu như ở người thầy còn chưa đủ những
yếu tố cần thiết để thuyết phục có hiệu quả người học, chẳng hạn: trình độ, khả
năng sư phạm và cả phẩm chất nhân cách, sự gương mẫu của chính người thầy.
23


Hoạt động dạy là hoạt động truyền thụ. Chất lượng của hoạt động này phụ
thuộc vào người thầy, bởi vậy là người thầy phải là thầy giỏi cả về trình độ tri thức
và phương pháp sư phạm. Nhân cách của thầy phải là nhân cách mẫu mực. Giảng
dạy đối tượng nào, thầy phải nắm vững người học ở đối tượng đó cả về trình độ nhận
thức và đặc điểm phát triển nhân cách. Cụ thể, cần nắm chắc kiến thức đã có, phương
pháp học đã có, thái độ đã có đối với môn học, những nhu cầu cá nhân của người học.
Sứ mệnh của người thầy không chỉ dạy chữ mà cịn phải dạy người. Thơng qua nội
dung dạy mà người thầy tất yếu phải thực hiện một bước tiếp theo, tác động vào
nhân cách người học. Trong dạy học, không được áp đặt tri thức. Phải thực hiện
dân chủ hoá trong dạy và học.
Đối với các nhà trường quân đội xây dưng quan hệ tích cực giữa giảng viên,
học viên là một quá trình thường xuyên và lâu dài. Ngày nay, khi quan hệ giữa
giảng viên, học viên nhà trường quân đội cũng như các mối quan hệ người- người
khác luôn bị chi phối, tác động bởi nhiều yếu tố càng cần phải có sự chú trọng đặc
biệt từ phía các cán bộ chỉ huy, lãnh đạo cũng như các chủ thể của mối quan hệ này
để tạo nên những tác động tốt nhất, có hiệu quả nhất tới hình thành, phát triển nhân
cách người sĩ quan tương lai, đáp ứng đòi hỏi “xây dưng quân đội nhân dân…cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc,
với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin yêu”2.


2

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr82.

24


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Vũ Hoạt (chủ biên),2008, Lý luận day học Đại học. NXB Đại học Sư
phạm, Hà Nội.
2. Lê Văn Hồng (1999), Tâm lý học Sư phạm, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
3. Trần Thị Thu Mai (2009), Tâm lý học Giáo dục Đai học (Tài liệu tham
khảo nội bộ), Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
4. Phan Trọng Ngọ (2005), Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà
trường, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội
5. Huỳnh Văn Sơn (2011), Những cơ sở tâm lý của việc tổ chức hoạt động dạy
và học tích cực, NXB Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
6. Huỳnh Văn Sơn (chủ biên), (2010), Những vấn đề cơ bản của Tâm lý học
lứa tuổi và Tâm lý học Sư phạm, NXB Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
7. NguyễnThạc, Phạm Thành Nghị (2008), Tâm lý học Sư phạm Đại học,
NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
8. Tâm lý học Sư phạm Quân sự, Nxb QĐND, 2011.

25


×