Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Phân tích chính sách giáo dục của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.33 KB, 13 trang )

Phân tích chính sách giáo dục của Nhà nước Cộng hịa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam
1.

Khái niệm giáo dục, chính sách giáo dục và truyền thống giáo dục Việt
Nam:
Giáo dục là quá trình hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến
sự phát triển tinh thần, thể chất của con người nhằm tạo ra những phẩm chất
và năng lực cần thiết của con người phù hợp với yêu cầu của xã hội. Giáo
dục là quá trình dạy, rèn luyện và học tập nhằm nâng cao tri thức khoa học
và kĩ năng nghe nghiệp.
Chính sách giáo dục là những định hướng, những nguyên tắc cơ bản trong
việc xác định mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, nội dung, phương pháp giáo
dục và tổ chức hệ thống giáo dục, đào tạo.
Việt Nam là một đất nước có truyền thống hiếu học và là một trong
những quốc gia có trường đại học sớm nhất trên thế giới.
-Vào năm 1075 (năm ất mão) vua Lý Nhân Tông đã xuống chiếu tuyển
minh kinh bác học và thi Nho học tam trường tuyển nhân tài cho đất
nước.
-Năm 1076 vua Lý Nhân Tông cho mở Quốc Tự Giám ở ngay phía sau
văn miếu tuyển chọn con em hồng tộc và quan lại triều đình cho vào
học. Quốc Tự Giám là trường đại học đầu tiên ở nước ta.
-Năm 1077, dưới thời vua Lý Nhân Tông đã có “kì thi lại viên bằng phép
viết chữ, phép tính và hình luật”.
-Đến triều Hậu Lê năm 1442 vua Lê Thái Tông đã cho khắc tên các tiến
sĩ vào bia đá dựng ở Quốc Tự Giám.
- Thời vua Lê Thánh Tơng triều đình đã định rõ thể loại thi cử: thi Hương
ở các đạo, thi Hội, thi Đình ở kinh đơ, cứ 3 năm tổ chức một kì thi.


- Nhà Hậu Lê với 354 năm tồn tại (1428- 1788) gắn liền với tên tuổi của


nhiều nhà khoa bảng nổi tiếng có cơng lao với đất nước như Nguyễn Trải,
Nguyễn Trực, Ngô Sĩ Liên, Lê Qúy Đôn,...
- Trong thời kì thực dân Pháp đơ hộ nhà nước khơng cịn độc lập nền giáo
dục quốc gia theo đúng nghĩa của nó cũng khơng cịn (90% dân số nước
ta mù chữ).
2. Chính sách giáo dục của Nhà nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam trước thời kì đổi mới:
Sau cách mạng tháng tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa ra đời, việc chống nạn mù chữ việc chống nạn mù chữ được chủ
tịch Hồ Chí Minh coi là một trong những nhiệm vụ cấp bách hàng đầu.
Người đã nói “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Vì vậy người đã đề
nghị với Chính Phủ mở chiến dịch chống nạn mù chữ với phương châm
“những người biết chữ dạy cho người chưa biết chữ”
Ngày 8/9/1945 Chính Phủ đã ra sắc lệnh những người chưa biết chữ quốc
ngữ phải học chữ quốc ngữ.
Sắc lệnh nêu rõ trong khi chờ đợi lập được nền tiểu học cưỡng bách, việc
học chữ quốc ngữ từ đây bắt buộc và khơng mất tiền cho mọi người. Hạn
trong một năm tồn thể dân chúng trên 8 tuổi ai chưa biết chũ phải học để
biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ. Quá hạn sẽ bị phạt tiền.
Ngày 8/9/1945 chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí sắc lệnh số 17/SL thành lập
Ban bình qn học vụ trên tồn cõi Việt Nam (do ơng Nguyễn Cơng Mỹ
làm giám đốc).
Ngày 10/10/1945 chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh số 44/SL thành lập
Hội đồng cố vấn học chính gồm khoảng 30 thành viên lựa chọn trong
giáo giới và các đồn thể chính trị, văn hóa do Bộ trưởng Bộ quốc gia
giáo dục làm chủ tịch.
Ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập, Chính
phủ đã chú trọng phát triển giáo dục phổ thông thành một nền giáo dục



đại chúng. Vì thế, tháng 9/1945 các trường phổ thoonh từ tiểu học đến
trung học được nhanh chóng thành lập.
Trong thủ gửi các học sinh trong ngày khai trường đầu tiên của năm học
khi nước nhà độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết “ non sơng Việt
Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài
vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay khơng,
chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu”.
Từ năm 1945 trở đi học sinh các trường phổ thông được tiếp tục học theo
chương trình cải tạo của ơng Hồng Xn Hãn (đã vạch ra trong thời kì
chính phủ Trần Trọng Kim với một số điều chỉnh cho thích hợp với tình
hình và u cầu mới).
Ngày 8/9/1945 Chính Phủ ban hành Sắc lệnh số 16/SL thành lập ngạch
thanh tra học vụ.
10/10/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh số 45/SL thành lập trường
Đại học văn hóa ở Hà Nội và cử Đặng Thai Mai làm giám đốc.
Ngày 9/11/1946 Quốc hội khóa I của nước Việt Nam dân chủ cộng hịa
đã thơng qua bản Hiến pháp năm 1946 (Hiến pháp đầu tiên ở nước ta).
Chính sách giáo dục đã được thể chế hóa trong Điều 15 của Hiến pháp
“Nền sơ học cưỡng bách và khơng học phí. Ở các trường sơ học địa
phương, quốc dân thiểu số có quyền học bằng tiếng của mình. Học trị
nghèo được Chính phủ giúp. Trường tư được mở tự do và dạy theo
chương trình nhà nước”.
Tháng 7/1951 Đại hội giáo dục toàn quốc được triệu tập tại chiến khu
Việt Bắc. Đại hội xác định phương châm giáo dục là phục vụ kháng
chiến, chủ yếu là tiền tuyến, phục vụ nhân dân, chủ yếu là cơng, nơng,
binh. Đến năm 1952 có khoảng 14 triệu người đã thốt nạn mù chữ. Đến
tháng 9/1953 có 14450 lớp bổ túc văn hóa với 335946 học viên. Những
nổ lực của Chính phủ và nhân dân ta đã làm cho nhiệm vụ chống nạn mù
chữ đã đạt được thành tựu to lớn.



Trong những năm đầu của thập kỉ 50, Chính phủ đã thực hiện chương
trình cải cách giáo dục nhằm củng cố và phát triển hệ thống giáo dục
quốc dân. Chính phủ đã chỉ đạo Bộ quốc gia giáo dục ban hành một số
văn bản pháp luật sau đây để điều chỉnh hệ thống giáo dục đào tạo:
- Nghị quyết số 234/NĐ ngày 1/10/1951 của Bộ giáo dục quốc gia
thành lập Khu học xá trung ương gồm 3 trường: Trường khoa học cơ
-

bản, Trường sư phạm cao cấp, Trường sư phạm trung cấp trung ương.
Nghị quyết số 276/NĐ ngày 11/10/1951 của Bộ quốc gia giáo dục về
việc bãi bỏ Ban sư phạm Đại học khoa học và thành lập Trường sư
phạm cao cấp để đào tạo giáo viên cấp III cho các trường phổ thơng

-

gồm 3 ban là tốn, lí, hóa.
Nghị định số 277/NĐ ngày 11/10/1951 về việc mở các lớp dự bị đại

-

học 1 năm vào đầu năm học 1952 tại Liên khu IV.
Thông qua số 49/TT- TKV ngày 30/10/1951 của Bộ quốc gia giáo dục

-

quy định tổ chức trường phổ thông 9 năm.
Nghị định số 88/Nđngày 5/4/1952 của Bộ quốc gia giáo dục quy định

-


việc tổ chức và chế độ các trường tư thục.
Nghị định số 201/NĐ ngày 19/6/1952 của Bộ quốc gia giáo dục quy

-

định việc tổ chức và chế độ các trường chuyên nghiệp.
Nghị định số 259/NĐ ngày 20/8/1952 của Bộ quốc gia giáo dục quy

-

định tổ chức các trường phổ thông lao động.
Nghị định số 366/NĐ ngày 19/11/1952 của Bộ quốc gia giáo dục quy

-

định tổ chức các trường sư phạm trung cấp.
Nghị định số 367/NĐ ngày 9/11/1952 của Bộ quốc gia giáo dục quy
định việc tổ chức các trường sư phạm sơ cấp.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne- vơ được kí kế, hịa
bình được lập lại ở Đơng Dương, miền bắc hồn tồn giải phóng,

-

nhiệm vụ giáo dục được Chính phủ đặt ra một cách sát thực tế:
Phát triển giáo dục phổ thông.
Phát triển giáo dục đại học và trung học chuyên nghiệp.
Thanh toán nạn mù chữ và tiếp tục phát triển bổ túc văn hóa.



-

Phát triển giáo dục miền núi.
Ổn định tình hình và phát triển giáo dục đối với học sinh miền Nam
tập kết.
Năm 1956 ba trường đại học lớn ở Hà Nội được Chính phủ thành lập:
Đại học tổng hợp Hà Nội, Đại học bách khoa Hà Nội, Đại học nông
lâm.
Cuối năm 1959 do tình hình đất nước thay đổi, Quốc hội khóa I, kì
hợp thứ 11, ngày 31/12/1959 đã thơng qua hiến pháp năm 1959 thay
thế hiến pháp năm 1946. Chính sách giáo dục thể hiện trong hiến pháp
năm 1959 là sự tiếp tục chính sách giáo dục của hiến pháp năm 1946:
“Cộng dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền học tập. Nhà
nước thực hiện từng bước chế độ giáo dục cưỡng bách, phát triển dần
các trường học và cơ quan văn hóa, phát triển các hình thức giáo dục
bổ túc văn hóa, kĩ thuật nghiệp vụ, tại các cơ quan xí nghiệp và các tổ
chức khác ở thành thị và nông thôn để đảm bảo cho công dân có thể
hưởng các quyền đó”.
Năm 1965, trước tình hình đế quốc Mỹ tăng cường chiến tranh xâm
lược miền Nam và mở rộng chiến tranh bằng không quân và hải quân
đánh phá miền Bắc, để quản lí tốt hơn cộng tác giáo dục trong điều
kiện đất nước có chiến tranh, theo đề nghị của Hội đồng Chính phủ,
Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã quyết định tách Bộ giáo dục thành hai
bộ là Bộ giáo dục và Bộ đại học và trung học chuyên nghiệp. Mặc dù
trong điều kiện đất nước có chiến tranh và cịn bị chia cắt nhưng giáo
dục ở miền Bắc vẫn không ngừng phát triển, cụ thể: “về giáo dục phổ
thơng năm học 1970- 1971 tồn miền Bắc có 10897 trường, 132631
giáo viên và 4359700 thì năm học 1971-1972 tăng lên 11080 trường,
141550 giáo viên và 4585600 hoc sinh và đặc biết năm học 19721973 là năm học chiến tranh phá hoại rất khốc liệt thì số trường học



vẫn tang lên đến 11226 trường, số giáo viên là 150531, số học sinh là
4680500. Năm học 1972-1973 ở miền Bắc đã có 36 trường Đại học
với 7697 giáo viên, 53760 sinh viên”.
Ngày 10/11/1979 Hội đồng Chính phủ đã ra Quyết định số 405-CP
thành lập Trường đại học pháp lí Hà Nội. Nay là trường Đại học Luật
Hà Nội. Đây được coi là trung tâm giảng dạy, trung tâm nghiên cứu và
trung tâm truyền bá khoa học luật lớn nhất ở Việt Nam hiện nay.
Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng và thống nhất đất nước. Hiến
pháp năm 1980 xác định học tập khơng những là quyền mà cịn là
nghĩa vụ của công dân. Hiến pháp năm 1980 qui định Nhà nước thực
hiện chế độ học không phải trả tiền và chính sách cấp học bổng, tạo
điều kiện thuận lợi cho cơng dân học tập.
Hiến pháp năm 1992 chính sách giáo dục qui định từ năm học 19811982 các trường phổ thông trong cả nước thống nhất chuyển sang hệ
thống giáo dục phổ thông 12 năm.
Để tôn vinh nghề giáo, ngày 28/9/1982 Hội đồng bộ trưởng đã ra
Quyết định số 167-HĐBT lấy ngày 20-11 hằng năm làm ngày nhà
giáo Việt Nam. Ngày 20/11/1984 Hội đồng bộ trưởng đã ra Nghị định
số 133- HĐBT qui định các danh hiệu nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu
tú để phong tặng các giáo viên từ cấp mầm non đến đại học có nhiều
3.

cống hiến cho sự nghiệp giáo dục.
Chính sách giáo dục của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam trong thời kì đổi mới:
Hiến pháp năm 1992 xác định mục tiêu của chính sách giáo dục là: “Nhà
nước và xã hội phát triển chính sách giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Mục tiêu của giáo dục là hình thành và bồi
dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân; đào tạo những
người lao động có nghề, năng động và sang tạo, có niềm tự hào dân tộc, có



đạo đức, có ý chí vươn lên góp phần làm cho dân giàu, nước mạnh, đáp ứng
yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001 đã xác định nguyên tắc và
nội dung cơ bản của chính sách giáo dục:
- Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu Điều 35.
- Nhà nước quản lí hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương
trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn giáo viên, qui chế thi cử
-

và hệ thống văn bằng Điều 36.
Nhà nước phát triển cân đối hệ thống giáo dục gồm giáo dục mầm
non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và

-

sau đại học Điều 36.
Thức hiện giáo dục phổ cập trung học cơ sở trước năm 2001 là phổ

-

cập giáo dục bậc tiểu học điều 36
Phát triển các hình thức trường quốc lập, dân lập và các hình thức giáo

-

dục khác Điều36
Nhà nước ưu tiên cho giáo dục và khuyến khích các nguồn đầu tư


-

khác Điều 36
Nhà nước thực hiện chính sách ưu tiên bảo đảm phát triển giáo dục
miền núi, các vùng dân tộc thiểu số và các vùng đặc biệt khó khan

-

Điều 36
Các đồn thể nhân dân trước hết là đồn thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh, các tổ chức xã hội, các tổ chức kinh tế, gia đình cùng nhà
trường có trách nhiệm giáo dục thanh thiếu niên và nhi đồng Điều 36
Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001 kế thừa những qui
định hợp lí của Hiến pháp năm 1980 như học tập là quyền và nghĩa vụ
của cơng dân, Nhà nước có chính sách học bỗng đồng thời qui định rõ
hơn, cụ thể hơn chính sách giáo dục của nhà nước như cơng dân có
quyền học văn hóa và học nghề bằng nhiều hình thức; học sinh có
năng thiếu được nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập để phát triển
tài năng; nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ e khuyết tật, trẻ em


có hồn cảnh đặc biệt khó khăn khác được học văn hóa và học nghề
phù hợp. Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001 đã chỉnh sửu
lại những qui định không phù hợp như: “Chế độ học không phải trả
tiền” và “nhà nước từng bước thực hiện chế độ phổ thơng bắt buộc”
bằng qui định chỉ có “ bậc tiểu học là bắt buộc và không phải trả tiền
cịn các cấp bậc học khác điều có chế độ học phí”.
Sau khi Hiến pháp năm 1992 ban hành, Quốc hội khóa IX, kì họp thứ
nhất từ ngày 20/9/1992 đến 8/10/1992 đã phê chuẩn tổ chức bộ máy
của Chính phủ theo hướng làm cho bộ máy nhà nước gọn nhẹ hơn, do

đó Bộ giáo dục và Bộ đại học & trung học chuyên nghiệp được nhập
lại thành Bộ giáo dục và đào tạo.
Trong giai đoạn 1992-1997 thực hiện Nghị quyết lần thứ IV của Ban
chấp hành trung ương Đảng khóa VII về văn hóa, giáo dục đào tạo,
chính phủ đã quyết định thành lập hai trung tâm đào tạo đại học và
sau đại học lớn của quốc gia là Đại học quốc gia Hà Nội và Đại học
quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, một số trường Đại học dân lập, đại
học mở; thành lập Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia,
Trung tâm khoa học tự nhiên và công nghệ quốc gia, nâng cấp một số
trường trung học thành cao đẳng và xây dựng ba trưởng phổ thông
trung học chất lượng cao ở Hà Nội, Huế, thành phố Hồ Chí Minh.
Theo Nghị quyết của Thủ tướng Chính phủ ngày 17/11/1997 về chế
độ phụ cấp ưu đãi đối với giáo viên đang trức tiếp giảng dạy trong các
trường cơng lập; quyết định của của Thủ tướng Chính phủ ngày
23/12/1997 về học bỗng và trợ cấp xã hội đối với học sinh, sinh viên
các trường đào tạo công lập; Quyết định ngày 14/1/1998 của Thủ
tướng Chính phủ về thành lập Hội đồng quốc gia giáo dục; Nghị quyết
của Chính phủ ngày 9/12/2000 về đổi mới chương trình giáo dục phổ
thông....


Bước sang thế kỉ XXI,chính sách giáo dục của Việt Nam phải hướng
đến mục tiêu tạo ra những tạo ra những chuyển biến cơ bản để không
tụt hậu so với các nước trên thế giới và trong khu vực. Và để đạt được
mục tiêu trên chính sách giáo dục phải đáp ứng các yêu cầu cơ bản mà
-

Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (Năm 2006) đã chỉ ra:
Đổi mới giáo dục một cách nhất quán, từ mục tiêu, chương trình, nội
dung, phương pháp đến cơ cấu và hệ thống tổ chức, cơ chế quản lí để

tạo ra được chuyển biến cơ bản và toàn diện của nền giáo dục nước
nhà, tiếp cận với trình độ giáo dục của khu vực và thế giới; khắc phục
cách đổi mới chấp vá, thiếu tầm nhìn tổng thể, thiếu kế hoạch, thiếu

-

sự đồng bộ.
Phấn đấu xây dựng nền gióa dục hiện đại của dân, do dân và vì dân,
bảo đảm công bằng về cơ hội học tập cho mọi người, tạo điều kiện để
tồn xã hội có thể học tập suốt đời, đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa,

-

hiện đại hóa đất nước.
Ưu tiên hàng đầu cho cơng việc nâng cao chất lượng dạy và học.
Coi trọng bồi dưỡng cho học sinh, sinh viên khát vọng mãnh liệt xây
dựng đất nước giàu mạnh, gắn liền lập nghiệp của bản thân với tương
lai của cộng đồng, của dân tộc, trao dồi cho học sinh, sinh viên bản

-

lĩnh, phẩm chất, lối sống của thế hệ trẻ Vệt Nam hiện đại.
Triển khai thực hiện hệ thống kiểm định khách quan, trung thực chất

-

lượng giáo dục đạo tạo.
Hoàn thành và ổn định lâu dài hệ thống giáo dục quốc dân; chú trọng
phân luồng đào tạo sau trung học cơ sở, đảm bảo liên thông giữa các
cấp đào tạo. Đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học, tạo chuyển

biến mạnh mẽ về chất lượng đào tạo. Xúc tiến xây dựng một số
trường đại học của Việt Nam đạt đẳng cấp quốc tế, đào tạo nhân tài
cho đất nước.


-

Mở rộng qui mô dạy nghề và trung học chuyên nghiệp, đảm bảo tốc

-

độ tăng nhanh hơn đào tạo đại học, cao đẳng.
Phát triển rộng khắp và nâng cao chất lượng các trung tâm giáo dục

-

cộng đồng.
Tích cực triển khai các hình thức đào tạo từ xa.
Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục và đào tạo, rà sốt sắp xếp lại mạng
lưới các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy

-

nghề.
Đổi mới cơ chế quản lí nâng cao chất lượng các trường cơng lập; bổ
sung chính sách ưu đãi để phát triển các trường ngồi cơng lập và các
trung tâm giáo dục cộng đồng. Có lộ trình cụ thể cho việc chuyễn các
trường công lập sang dân lập, tư thục; xóa bỏ hệ bán cơng; khuyến
khích việc thành lập mới và phất triển các trường đại học, cao đẳng,
trung học chun nghiệp, dạy nghề ngồi cơng lập, kể cả các trường


-

do nước ngoài đầu tư.
Sửa đổi chế độ học phí đi đơi với đổi mới cơ chế tài chính trong giáo
dục và đào tạo theo hướng xác định đầy đủ chi phí dạy và học, chia sẻ
hợp lí trách nhiệm chi trả giữa Nhà nước, xã hội và người học. Thực
hiện miễn giảm học phí và cấp học bổng cho học sinh nghèo, học sinh

-

thuộc diện chính sách và học sinh giỏi.
Ưu tiên phát triển giáo dục đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng

-

bào dân tộc thiểu số.
Tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống trường lớp, cơ sở vất chất kĩ thuật của
các cấp học, mở thêm các trường nội trú, bán trú và có chính sách đảm
bảo giáo viên cho các vùng khó khăn như đồng bào dân tộc thiểu số,
vùng cao, vùng sâu, vùng xa, nơi biên giới, hải đảo...phấn đấu đưa các
chỉ số giáo dục và đào tạo vùng đồng bằng sông Cửu Long lên ngang
bằng trình độ chung của cả nước.


-

Đổi mới và nâng cao năng lực quản lí nhà nước về giáo dục, đào tạo.
Nhà nước thực hiện đúng chức năng định hướng phát triển, tạo lập
khung pháp luật và kiểm tra, thanh tra, giám sát thực hiện việc thực

thi phấp luật, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong giáo dục và
đào tạo, chống bệnh thành tích, chống tiêu cực trong dạy thêm, học
thêm, thi cử, tuyển sinh, đánh giá kết quả học tập và cấp chứng chỉ,

-

văn bằng.
Đổi mới tổ chức và hoạt động, đề cao và đảm bảo quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của nhà trường, nhất là các trường đại học, cao đẳng,

-

trung tâm chuyên nghiệp và dạy nghề.
Tăng cường hợp tác quốc tế trong giáo dục và đào tạo nhằm tiếp thu
những kinh nghiệm quý báu trong giáo dục ở nước ngoài như chương
trình dạy học theo tín chỉ, phương pháp dạy tình huống, phương pháp
lấy người học làm trung tâm, phương pháp đối thoại,..
Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định đường lối “ phát triển giáo
dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” (khoản 1 điều 64); “ Nhà nước ưu tiên
đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục; chăm lo giáo
dục mầm non, đảm bảo giáo dục tiểu học là bắt buộc, nhà nước khơng
thu học phí; từng bước phổ cập giáo dục trung học; phát triển giáo dục
đại học, giáo dục nghề nghiệp, thực hiện chính sách học bỗng, học phí
hợp lí” (điều 2 khoản 61) Chính sách giáo dục thể hiện trong Hiến
pháp năm 2013 cũng là một phần của chính sách xã hội nhất quán của
Đảng và nhà nước ta từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa đến nay, vì vậy Hiến pháp năm 2013 đã kế thừa quy định của
Hiến pháp năm 1992 và tiếp tục xác định: “nhà nước ưu tiên phát triển
giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng

kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn; ưu tiên sử dụng, phát triển nhân tài,


tạo điều kiện để người khuyết tật và người nghèo được học văn hóa,
học nghề. (khoản 3 điều 61)



×