Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

22. Ngô Kim Thanh - Bài thi môn Hợp chất thiên nhiên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.76 MB, 11 trang )

Tên câu hỏi tiểu luận: Anh, chị hãy trình bày hiểu biết về một loại thực vật giàu
monoterpene ở nơi anh chị cư trú thường được sử dụng làm thuốc.
BÀI LÀM
Tên loại thực vật giàu monoterpene lựa chọn: Cây Sả
I. Lý do chọn:
Cây Sả là một loại cây khá quen thuộc với mỗi chúng ta. Ngoài việc được
sử dụng trong chế biến món ăn, củ sả cịn mang lại tác dụng to lớn đối với sức
khỏe con người, khi được dùng để làm thuốc điều trị một số bệnh và có cơng dụng
hữu ích trong vấn đề làm đẹp.
Là một loại cây sống lâu năm, mọc
thành bụi cao 1m đến 1,5m. Lá hẹp, dài giống
như lá lúa, hai mặt lá giáp nhám, khi bóc vỏ ra
có mùi thơm. Thân rễ trắng hoặc hơi tím. Theo
Đơng y, cây sả vị the, mùi thơm, tính ấm. Là
một loại dược liệu có ý nghĩa rất quan trong
đối với đời sống con người.
Cây sả được trồng phổ biến ở khắp mọi
nơi, tập trung chủ yếu ở khu vực miền Bắc nước ta, ở các tỉnh Tuyên Quang, Hà
Giang, Sơn La, Lai Châu... và đặc biệt ở khu vực Tuyên Quang được trồng nhiều
tại một số xã như Vinh Quang, Bình Nhân, Kim Bình thuộc huyện Chiêm HóaII.
Tên gọi, đặc điểm hình thái:
Tên gọi.
+ Tên khác: Sả chanh, cỏ sả, hương mao hoặc lá sả
+ Tên khoa học: Cymbopogon nardus Rendl (Sả), Cymbopogon flexuosus
Stapf (Sả chanh), Cymbopogon winterianus Jowitt (Sả Java).
(Tham khảo tại tài liệu: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi)
Phân loại:
Giới (Kingdom):

Thực vật (Plantae)


Ngành (Division):

Thực vật có hoa (Angiosperms)

Lớp (Class):

Thực vật 1 lá mầm (Monocots)

Phân lớp (Subclass):

Cây hạt kín (Commelinids).

Bộ (Order):

Hịa thảo (Poales)

Họ (Family):

Hịa thảo (Poaceae)
1


Phân họ (Subfamily):

Panicoideae

Tộc (Tribe):

Andropogoneae


Phân tộc (Subtribe):

Andropogoninae

Chi (Genus):

Cymbopogon Spreng.(khoảng 55 loài)

Loài (Species):

Cymbopog

Đặc điểm hình thái.
+ Sả chanh: Là dạng cây mọc theo dạng bụi,
sống lâu năm với thân cao từ 1 + 1,5 m. Cây có thân
rễ màu trắng xanh hoặc hơi tía. Phiến lá dài khoảng
1 m, hẹp với các bẹ lá cuốn chặt vào nhau. Mép lá
sờ hơi nhám và cị mùi thơm dễ chịu. Bẹ lá khơng
có lơng nhưng có sọc dọc. Hoa mọc thành cụm gồm nhiều hoa nhưng khơng có
cuống
+ Sả Java: Mọc dạng bụi có thân cao khoảng 2 m. Thân gốc có màu hồng
hoặc đỏ tím. Rễ cây phát triển khỏe ăn sâu vào lịng đất khoảng 20 - 25 cm. Lá
thn dài, có màu xanh, mép lá nhám. Khi trưởng thành, lá rủ xuống khoảng 2/3
phiến lá với các bẹ lá quấn chặt lấy nhau, bao bọc lấy câu. Hoa mọc thành từng
chùm thẳng đứng.
Thân: Sả là một loại cây thân thảo, thuộc họ Hòa thảo. Thường mọc thành
từng bụi cao khoảng 1-1,5m (tùy theo dinh dưỡng trong đất nhiều hay ít hoặc cách
chăm sóc tốt hay xấu). Thân có mầu trắng hoặc hơi tím, có nhiều đốt.
Rễ: Sả có kiểu rễ chùm, mọc sâu vào đất, rễ phát triển mạnh khi đất tơi, xốp.
Lá: Lá hẹp dài, mép lá hơi nhám. Bẹ lá ôm chặt với nhau rất chắc, tạo thành

một thân giả (mà ta thường gọi là củ). Sả đẻ
chồi ở nách lá tạo thành nhánh như nhánh lúa.
Với cách sinh sản này từ một nhánh trồng ban
đầu về sau chúng sẽ sinh sôi ra nhiều nhánh
tạo thành một bụi sả (giống như bụi lúa).
Trong lá có nhiều tinh dầu, dược dùng làm nguyên liệu cất tinh dầu cùng với thân
2


(bó bẹ lá).

(Trích dẫn tài liệu: Cẩm nang cây trồng)
III. Phân bố.
Phân bố trên thế giới
+ Trên thế giới cây sả được trồng chủ yếu tại các vùng nhiệt đới Cựu thế
giới, thuộc Châu Phi, Nam Á, Đông Nam Á, Đơng Á và Australia. Trong đó lồi
phổ biến nhất ở Trung Quốc và vùng Đơng Nam Châu Á là lồi Sả ta hay Sả
Tàu (Cymbopogon citratus) có nguồn gốc từ Trung Quốc và phân bố rộng rải ở các
nước vùng Đông Á và Đông Nam Á.
Phân bố ở Việt Nam.
Ở nước ta cây sả đã được trồng từ lâu ở cả hai miền Nam và Bắc. Vào thời
thực dân Pháp xâm lược đã trồng sả để chiết xuất tinh dầu. Năm 1957 nhà nước đã
có chủ trương khơi phục và phát triển diện tích trồng sả và các cơ sở chiết xuất tinh
dầu của người Pháp để lại. Tại miền Bắc trồng sả có diện tích lớn ở các tỉnh Tuyên
Quang, Thái Nguyên, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hà
Tây, Hải Dương, Hưng Yên. Diện tích lớn nhất lên tới 1200 ha. Sản lượng tinh dầu
đạt cao nhất vào các năm 1974- 1977 (từ 73.200 - 90.000 kg).
Sản xuất cây sả ở các tỉnh từ nam miền Trung, Tây Nguyên, Sông Bé, Đồng
Nai, Minh Hải, TP. Hồ Chí Minh rất ít, tổng diện tích đạt 325 ha, nơi có diện tích
lớn nhất là thành phố Hồ Chí Minh là 235 ha và có hai cơ sở chư ng cất tinh dầu

nhưng sản lượng tinh dầu cũng chỉ đạt (120 - 250 kg/năm). Sự phát triển cây sả ở
các tỉnh miền Trung và miền Nam hầu như rất ít được quan tâm, chỉ trồng chủ yếu
là để bán thân tươi làm gia vị, làm vị thuốc trong dân gian chứ chưa trồng để làm
nguyên liệu để chưng cất tinh dầu.
Cây sả được trồng trên khắp mọi miền của tổ quốc, nhưng chủ yếu ở các
tỉnh miền Bắc, tại Tuyên Quang nơi trồng chiếm tỉ lệ cao nhất là khu vực huyện
3


Hàm Yên, Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang đạt sản lượng tinh dầu rất cao.

(Trích dẫn tại trang: baotuyenquang.com.vn)
IV. Thành phần hóa học chủ yếu của lồi cây sả được cơng bố gần đây:
Theo nghiên cứu khoa học gần đây nhất, cơng bố trong cây xả bao gồm các
nhóm chính là Terpene và Terpenoid.
Tinh dầu sả chứa thành phần hóa học của rất nhiều nhóm khác nhau, chủ yếu
là nhóm terpen tích cực hoạt động trên các bộ phận khác nhau của cơ thể để khắc
phục một loạt các điều kiện. Các hợp chất terpene chính trong tinh dầu sả bao gồm
citronellal, nerol, limonene, geraniol, geranyl acetate, citral và myrcene.
+ Citral có đặc tính chống vi rút, sát trùng và chống oxy hóa.

+ Citronellal có đặc tính chống vi rút, kháng khuẩn, kháng nấm và an thần.

4


+ Geraniol có đặc tính chống oxy hóa, kháng khuẩn, sát trùng và giảm đau.

+ Geranyl acetate có đặc tính chống oxy hóa, kháng khuẩn, sát trùng và giảm đau.


+ Limonene có đặc tính tiêu hóa, ức chế sự thèm ăn, giải độc và chống oxy hóa

+ Nerol có đặc tính chống oxy hóa, an thần và chống viêm.

+ Myrcene có đặc tính chống viêm, giảm đau, kháng sinh và an thần.

5


Tinh dầu sả cất từ cây sả Cymbopogon nardus (L.) Rendl. (sả Xrilanca) và
cây Cymbopogon winterianus Jowitt có 20 dến 40% geraniola và citronellola, 40
đến 60% xìtronellala. Tinh dầu sả cất từ cầy sả chanh Cymbopogon flexuosus và C.
citratus chứa từ 70 đến 80% xitral. Tinh dầu sả cất từ lồi Cymbopogon martiniì
var. motìa chứa 75- 95% geraniola cịn var.sofia chứa ancol perilic.
Sả chanh có rất ít năng lượng calorie, chứa 99calo/100g nhưng không chứa
cholesterol. Phần thân phù và lá rất tốt có chứa acide folique. Folate rất quan trọng
trong việc phân chia tế bào và tổng hợp AND. Phần lá sả chanh rất giàu vitamine:
B5, B6, B1 những vitamine này cần thiết trong chiều hướng là cơ thể cần lấy từ
bên ngoài để tái tạo lại. Ngoài ra, sả tươi cũng chứa những vitamine với lượng nhỏ
chống oxy hóa như là vitamine C và vitamine A
Cách tách tinh dầu: Dùng phương pháp chưng cất hơi nướ, ngưng tụ và làm
lạnh bằng dòng nước chảy qua hệ thống chưng cất phân đoạn để tách rời tinh dầu
và nước.
(Tham khảo tại: - Viện khoa học
- Giáo trình Hợp chất thiên nhiên – PGS. TS Phạm Văn Khang)
V. Hoạt tính sinh học và cơng dụng của lồi thực vật đã chọn.
Hoạt tính sinh học.
Tinh dầu xả có hoạt tính kháng viêm, diệt kí sinh trung, kháng khuẩn, phịng
chống ung thư....Tinh dầu xả dùng làm thuốc giúp tiêu hóa, đuổi muỗi, cịn dùng
trong cơng nghiệp chất thơm, làm nước hoa, xà phịng thơm…

Lá sả dùng pha nước uống cho mát và tiêu. Củ sả có tác dụng thơng tiểu
tiện, ra mồ hơi, chữa cảm sốt…
(Tham khảo tại tài liệu: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi)
Công dụng:
- Làm rau gia vị
Sả được dùng làm rau gia vị lâu đời ở các nước Châu Á. Sả được sử dụng
rộng rãi như là một loại thảo dược trong món ăn châu Á. Nó có hương vị chanh
tinh tế và có thể được dùng tươi (rất phổ biến) hoặc sấy khô và làm bột.
6


Ở Việt nam sả khơng thể thiếu trong các món mắm, món nấu với thịt, cả
món ăn chay như tương, chao.
Ở Ấn Độ cây sả được sử dụng trong các loại trà, súp và món cà ri. Nó cũng
thích hợp cho gia cầm, cá, thịt bò, hải sản...
Sả thường được dùng như trà ở các nước Châu Phi như Togo và Cộng hòa
Dân chủ Congo và các nước Mỹ Latinh như Mexico .

-Tinh dầu sả dùng như hóa chất cơng nghiệp.
+Tinh dầu sả dùng như thuốc Bảo vệ thực vật
Ở các nước Đông Nam Á, dầu sả (Lemongrass oil) được sử dụng như là một
loại thuốc trừ sâu và một chất bảo quản. Nghiên cứu cho thấy rằng sả dầu có đặc
tính xua đuổi cơn trùng và chống nấm.
Các thành phần hóa học chính của tinh dầu sả là geraniol và citronellol có
tác dụng sát trùng, do đó tinh dầu sả được sử dụng trong xà phòng, nến và nhang
muỗi để xua đuổi côn trùng như dán, kiến, ruồi, muỗi, rận, rệp.
Mặc dù dầu sả có khả năng xua đuổi cơn trùng, tuy nhiên dầu sả có tác dụng
hấp dẫn và được sử dụng như "mồi nhử" để thu hút ong mật. Vì một trong những
chất pheromone từ ong chúa tiết ra giống như một chất có mùi của tinh dầu sả. Do
đó trong kỹ thuật ni ong mật người ta dùng dầu sả như chất gọi đàn khi đàn ong

mới được chuyển vùng.
Ở Việt nam cây sả được trồng khắp, nhân dân trồng cây sả quanh nhà, ngoài
vườn, xung quanh nhà vệ sinh để xua đuổi rắn, ruồi, muỗi, dĩn, bọ chét vừa làm
sạch mơi trường, vừa có tác dụng phịng bệnh. Ngồi ra, tinh dầu sả cịn khử mùi
hôi trong công tác vệ sinh.
Kinh nghiệm dân gian Nam Bộ cho biết khi trồng sả rắn độc không dám đến
gần để trú ẩn hay làm hang.
Ở Ấn Độ, theo kinh nghiệm dân gian, người ta dùng thân là sả đặt trên ngọn
cây dầu cọ để xua đuổi các loài bọ cánh cứng hại cây cọ.

7


+Tinh dầu sả dùng trong cơng nghiệp hóa mĩ phẩm
Tinh dầu sả được khai thác trong công nghiệp làm đẹp ngày càng phổ biến,
chúng được dùng trong các sản phẩm dầu thơm y học, dầu thơm mỹ phẩm, xà
phòng y tế, hương liệu thực phẩm, dầu gội đầu, chăm sóc da…

-Các bộ phận cây sả dùng làm thuốc
+Theo Đông y: Cây Sả có tên là Hương mao, có vị the, cay, mùi thơm, tính
ấm, có tác dụng làm ra mồ hơi, sát khuẩn, chống viêm, hạ khí, thơng tiểu, tiêu đờm
để chữa đầy bụng, đái rắt, chân phù nề, chữa ho do cảm cúm...Tồn cây có mùi
thơm đặc biệt. Ngồi được dùng làm rau ăn, gia vị (nhân dân thường dùng ăn sống
hoặc tẩm ướp cho thơm các món ăn) cây sả còn là vị thuốc chữa bệnh rất hữu hiệu.
Bộ phận dùng làm thuốc là lá, rễ sả dùng tươi, phơi hay sấy khô.
+Theo Tây y: Cây sả mới được nhập vào Châu Âu và Châu Mỹ trong thời
gian gần đây và dược tính của nó nhanh chóng được nghiên cứu và khai thác.
Trong y học dân gian của Brazil cho là tinh dầu sả đã giải được lo âu, trầm
cảm và là thuốc chống co giật, nhưng không ảnh hưởng đến sức khỏe con người.
các nghiên cứu ở Brazil trong phịng thí nghiệm đã cho thấy tinh dầu sả có tác

dụng chống oxy hóa, chống viêm. Citronellol là một thành phần tinh dầu từ các
loài sả Cymbopogon citratus, C. winterianus và loài cây giống như sả (Lippia
alba) được cho là có đặc tính chống huyết áp cao. Citronellol đã làm giảm huyết áp
ở chuột nhờ vào tác động của tinh dầu sả vào cơ trơn làm giãn mạch.
8


Trong một thử nghiệm khác kết luận tinh dầu sả (C. citratus) đã được sử
dụng như một phương thuốc rẻ tiền để điều trị nấm miệng ở bệnh nhân HIV/AIDS.
- Các bài thuốc từ cây sả
+Các bài thuốc từ lá sả:
Lá sả: (Thường dùng phối hợp với các vị thuốc khác để chữa bệnh).
Trị chứng đầy bụng:
Lá sả, vỏ bưởi, hồi hương, trạch tả, mộc thông, cỏ bấc, mỗi vị 10g; quế 5g;
bồ hóng, diêm tiêu, mỗi vị 2g; xạ hương 0,05g. Tất cả sắc cách thủy với 200ml
nước trong 15 - 30 phút, chia uống làm hai lần trong ngày. Nên uống sau bữa ăn
trưa và tối. Uống trong 2 ngày.
Lưu ý: Trong q trình điều trị khơng nên đồ nếp và muối mặn. (Theo Bác sĩ
Nguyễn Huyền-suckhoedoisong)
Thuốc xông giải cảm:
Lá sả, lá bưởi, lá chanh, cúc tần, hương nhu hoặc lá bạch đàn (có thể thêm
tía tơ, bạc hà, kinh giới), mỗi thứ 50g, cho vào nồi, đậy kín, đun sơi trong 5 -10
phút. Lấy ra, mở vung, trùm chăn xông hơi cho ra mồ hôi, lau khô, rồi uống một
bát nước thuốc, đắp chăn, nằm nghỉ.(Theo Bác sĩ Nguyễn Huyền-suckhoedoisong).
Chữa phù nề chân, đái rắt:
Lá sả 100g, rễ cỏ xước, rễ cỏ tranh hoặc bông mã đề, mỗi thứ 50g. Tất cả
rửa sạch, thái nhỏ, phơi khô, sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm 2 lần trong
ngày. Dùng 3 - 4 ngày. (Theo Bác sĩ Nguyễn Huyền-suckhoedoisong).
Làm sạch gàu, trơn tóc:
Lá sả, hương nhu, lá bưởi..., mỗi vị 30g, rửa sạch đun với nước, để ấm gội

đầu. Mỗi tuần nên gội 2 lần. Nước gội đầu có vị sả khơng những làm thơm tóc,
sạch gầu mà cịn tránh những bệnh về tóc và da đầu. (Theo Bác sĩ Nguyễn Huyềnsuckhoedoisong).
+Các bài thuốc từ rễ sả
Rễ sả: (Có thể dùng riêng hoặc phối hợp với vị thuốc khác).
Chữa tiêu chảy do lạnh bụng:
Rễ sả 10g; củ gấu, vỏ rụt, mỗi vị 8g; vỏ quýt, hậu phác, mỗi vị 6g tất cả đem
sắc với 3 bát nước còn 1 bát, uống khi thuốc còn ấm nên uống vào buổi sáng. Dùng
trong 2 ngày. Hoặc rễ sả 10g, búp ổi 8g, củ riềng già 8g, thái nhỏ, sao qua, sắc với
200ml nước còn lại 50ml, uống sau bữa ăn. (Theo Bác sĩ Nguyễn Huyềnsuckhoedoisong}.
Chữa ho do cảm cúm:
Rễ sả, trần bì, sinh khương, tơ tử, mỗi vị 200g, tất cả giã nát, ngâm với rượu
40 độ (200ml rượu); bách bộ bỏ lõi, thái nhỏ, sao khô 400g; mạch môn bỏ lõi
200g; tang bạch bì tẩm mật, sao vàng 200g, 3 vị thuốc này đem sắc cô đặc lại
thành 250ml cao lỏng. Trộn lẫn cao lỏng và rượu ngâm thuốc. Ngày uống 2-3 lần,
mỗi lần 5-10ml. Uống trong 3 ngày.(Theo Bác sĩ Nguyễn Huyền- suckhoedoisong)
9


Chữa chàm trẻ em: rễ sả 30-50g. Giã nát xát vào vết chàm
Món ăn thuốc có sả:
Ếch ướp sả xào lăn: ếch 1kg, sả 2 - 3 củ. Ếch làm sạch, chặt làm 3 để ráo
nước, ướp thịt ếch với sả đã băm nhỏ, thêm bột càri, muối, tiêu, dầu vừng và gia vị,
trộn đều, để khoảng 15 - 30 phút. Chuẩn bị thêm mùi tàu, cà, ớt, gừng, tỏi tươi, lạc
rang giã vụn, mắm và gia vị thích hợp. Để chảo nóng, đun sơi dầu rán, cho ếch vào
xào nhanh tay to lửa cho chín, cho mùi tàu, cà, ớt, gừng, tỏi gia vị (có thể thêm cần
tây, hành tây, cà rốt, cà chua, củ niễng...), cho ít nước, đun chín nhừ, nước sánh lại.
Món ngon, thích hợp với người phù nề, suy nhược cơ thể, sốt nóng.
Ốc xào củ sả ngó sen: ốc hương (hoặc ốc nhồi) 2kg, ngó sen 200g, củ sả 2 3 củ (khoảng 20 - 30g, cả lá). Ốc ngâm, rửa sạch, luộc chín, đập khêu lấy thịt ốc;
thêm ít gừng, ớt xanh và các gia vị khác đem ướp trộn đều với ốc, để trong 10 - 15
phút. Ngó sen ngâm chua thái lát để sẵn; sả đập thái vụn. Chuẩn bị thêm nước sốt

có gừng tỏi chanh tiêu ớt và ngó sen ngâm chua. Đem ốc đã ướp gia vị sả gừng ớt
xào lại trên chảo, đổ ra bát, đổ nước sốt lên mặt bát đĩa ốc vừa xào là được. Món
này tốt cho người viêm gan vàng da, viêm đường tiết niệu, ho viêm họng.
Bò nướng ướp sả: thịt bò 1kg, sả 3 - 5 củ (cả lá non), hành tây 1 củ, lá lốt
và xương sơng vừa đủ. Thịt bị lau khô thái mảnh dài 8cm, ngang 4cm để sẵn; sả
băm nát vụn, cùng bột tiêu, tỏi củ giã nát, dầu vừng, bột càri, xì dầu liều lượng
thích hợp, trộn đều với thịt bò, ướp trong 30 - 50 phút. Hành tây thái lát nhỏ, lá lốt,
xương sông rửa sạch. Đặt từng miếng thịt bò đã ướp trên thớt hoặc khay, cho hành
tây, lá lốt xương sông vào giữa và cuộn lại đem nướng trên lửa than. Ăn cùng với
nước chấm gừng tỏi, dưa leo, khế chua và các loại rau xa lát. Món này rất tốt cho
người ăn kém chậm tiêu, viêm gan vàng da, viêm khí phế quản.
Cá nấu sả: Cá lóc (cá quả) 1 - 1,5kg, sả 3 - 5 củ, khoai lang, khoai tây, cà
chua mỗi thứ 1 - 3 củ quả, gừng tươi 1 củ. Cá làm sạch cắt khúc, ướp với nửa gói
càri và sả đập giập băm nhỏ, ít muối mắm, đường, hành, tỏi; khoai lang, khoai tây
gọt vỏ thái lát to (2x4cm), cà chua bổ đơi, gừng đập giập. Cho cá lóc đã ướp vào
rán qua, cho khoai và cà chua vào xào, thêm nước, gia vị, hầm nhừ. Món ngon, rất
tốt cho người phù nề, vàng da, ho sốt...
(Tham khảo tại tài liệu: baosuckhoedoisong)

10


1



×