Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Vai trò của nhà nước và thị trường trong giải quyết hài hoà lợi ích kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam? Liên hệ thực tế ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.67 KB, 21 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
Trong thời đại hiện nay, cùng với sự phát triển của công nghệ khoa học công
nghệ và thông tin, giao lưu và hợp tác quốc tế chúng ta phải có một nền kinh tế
vững mạnh đủ cạnh tranh được với nền kinh tế của các nước trong khu vực và trên
toàn thế giới nhất là khi Việt Nam đã gia nhập và trở thành thành viên chính thức
của WTO. Mặt khác, trong cơ chế thị trường tự do cạnh tranh đã cho phép các quốc
gia khai thác tối đa các nguồn lực trong nước, khai thác triệt để các lợi ích so sánh
đầu tư, lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả nhất.
Nước ta đang trong giai đoạn phát triển lên chủ nghĩa xã hội nên chúng cần
có những chính sách phù hợp để điều tiết nền kinh tế phát triển theo đúng con
đường mà chúng ta đã chọn. Để làm được điều đó Nhà nước cần phải có hệ thống
hiến pháp và pháp luật, các cơng cụ vĩ mơ và các chính sách kinh tế đúng đắn để
vận hành nền kinh tế theo ý muốn. Nếu khơng có sự quản lí của Nhà nước thì cạnh
tranh và tự do cạnh tranh của nền kinh tế thị trường sẽ tác động tiêu cực đến xã hội
làm cho nền kinhtế mất cân bằng, vận hành khơng đúng quỹ đạo của nó.Vai trị kinh
tế của Nhà nước thúc đẩy những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực đó.
Nhà nước muốn quản lí tốt về vấn đề xã hội thì trước hết phải quản lí tốt vấn
đề kinh tế sau đó mới đến an ninh chính trị, văn hóa, giáo dục…Do vậy vai trị kinh
tế của Nhà nước là vấn đề quan trọng để hình thành và hồn thiện cơ chế quản lí
mới của nước ta nói riêng và quản lí Nhà nước ta nói chung.
Với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam,chúng ta cần phải cố gắng để
theo kịp xu hướng của cả thế giới ,thu hẹp khoảng cách với các nước trên thế
giới .Việt Nam đang có những bước tiến quan trọng như đã tổ chức thành công hội
nghị cấp cao ASEM,APEC và quan trọng hơn nữa chúng ta đã trở thành thành viên
chính thức của WTO.Trở thành thành viên của tổ chức này đã khó nhưng để tồn tại
trong tổ chức này cịn khó hơn.Điều này càng cho thấy vai trị của Nhà nước là rất
quan trọng.Vì vậy em xin chọn đề tài “Vai trò của nhà nước và thị trường trong
giải quyết hài hồ lợi ích kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở việt nam? Liên hệ thực tế ở việt nam hiện nay”để hiểu rõ hơn về vấn
đề này


1


B.NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC
1.Nguồn gốc và bản chất của nhà nước.
1.1. Nguồn gốc của nhà nước
Lịch sử đã cho thấy chúng ta đã và đang trải qua các thời kỳ từ công xã nguyên
thuỷ đến chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa. Nhưng
khơng phải lúc nào xã hội cũng có nhà nước. Trong xã hội nguyên thuỷ, kinh tế còn
thấp kém, chưa có sự phân hố giai cấp, nên chưa có nhà nước, mọi người đều bình
đẳng và hường thụ, xã hội không phân biệt kẻ giàu, người nghèo, không có sự phân
chia giai cấp. Đứng đầu các thị tộc và bộ lạc là các tộc trưởng do nhân dân bầu ra,
quyền lực của những người đứng đầu thuộc về uy tín và đạo đức, việc điều chỉnh
các quan hệ xã hộI được thực hiện bằng các quy tắc chung. Trong tay họ khơng có
và cũng khơng cần một cơng cụ đặc biệt nào. Những người đứng đầu thị tộc, bộ lạc
khơng có đặc quyền lợi nào họ cùng sống, lao động và hưởng thụ như mọi thành
viên khác và chịu sự kiểm tra của cộng đồng.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất và năng suất lao động xã hội đã làm thay
đổi cơ cấu tổ chức xã hội của xã hội cộng sản nguyên thuỷ. Trong xã hội lúc này bắt
đầu xuất hiện các dư thừa và phần này bị những người đứng đầu thị tộc và bộ lạc
chiếm giữ làm cuả riêng. Sau 3 lần phân công lao động trong xã hội, chế độ tư hữu
xuất hiện đã phân chia xã hội thành kẻ giàu, người nghèo, thành các giai cấp đối
kháng và cuộc đấu tranh giai cấp khơng thể điều hồ được xuất hiện.Vậy nguồn gốc
sâu xa của sự ra đời của nhà nước là do sự ra đời của quan hệ chiếm hữu tư nhân về
tư liệu sản xuất làm xuất hiện giai cấp.Điều đó dẫn đến nguy cơ các giai cấp chẳng
những tiêu diệt lẫn nhau mà cịn tiêu diệt ln cả xã hội. Để thảm hoạ đó khơng
diễn ra, một cơ quan quyền lực đặc biệt ra đời. Đó là Nhà nước. Nhà nước đầu tiên
trong lịch sử là nhà nước chiếm hữu nơ lệ. Tiếp đó là nhà nước phong kiến và nhà
nước tư sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa.

1.2. Bản chất của nhà nước.
Nhà nước tựa hồ như đứng ngoài xã hội, làm cho xã hội tồn tại trong vòng trật
tự nhất định nhưng trên thực tế chỉ có giai cấp thế lực nhất- giai cấp thống trị về
kinh tế mới có đủ điều kiện lập ra và sử dụng bộ máy nhà nước. Nhờ có nhà nước,
giai cấp này cũng trở thành giai cấp thống trị về mọi mặt chính trị và do đó có thêm
những phương tiện để đàn áp và bóc lột giai cấp khác. Nhà nước có bản chất giai
cấp sâu sắc, nhà nước là bộ máy của một giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp
là bộ máy dùng để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác, là cơ
quan quyền lực của một giai cấp đối với tồn xã hội, là cơng cụ chun chính của
một giai cấp. Nhà nước là công cụ sắc bén để duy trì sự thống trị giai cấp. Ví dụ
trong các xã hội bóc lột, nhà nước của giai cấp bóc lột (nhà nước chủ nô, nhà nước
phong kiến, nhà nước tư bản) đều có bản chất chung là bộ máy thực hiện nền
chun chính của giai cấp bóc lột là giai cấp chiếm thiểu số trong xã hội. Ngược lại,
trong nhà nước XHCN là bộ máy củng cố địa vị lãnh đạo và bảo vệ lợi ích của giai
cấp cơng nhân và nhân dân lao động, lực lượng chiếm đa số trong xã hội, trấn áp
những lực lượng thống trị cũ đã bị lật đổ và những phần tử chống đối, xây dựng một
xã hội công bằng dân chủ và bình đẳng.
2


Bản chất của nhà nước không phải là của chung mọi giai cấp trong xã hội mà chỉ
là của một giai cấp, giai cấp nắm quyển về thống trị về kinh tế, do giai cấp này thiết
lập ra nhằm hợp pháp hoá và củng cố sự áp bức của chúng đối với quần chúng lao
động. Bản chất nhà nước thực hiện sự chuyên chính về mặt giai cấp của giai cấp
thống trị đối với giai cấp khác trong xã hội. Giai cấp thống trị sử dụng bộ máy nhà
nước để đàn áp, cưỡng bức giai cấp khác trong khuôn khổn lợi ích của giai cấp
thống trị. Như vậy, theo bản chất của nhà nước không thể là lực lượng điều hồ sự
xung đột giai cấp mà trái lạI nó càng làm cho giai cấp mâu thuẫn ngày càng gay gắt.
Nhà nước là một bộ phận quan trọng nhất của kinh tế thị trường trong xã hội có giai
cấp. Tất cả những hoạt động chính trị, văn hố, xã hội do nhà nước tiến hành, xét

cho cùng đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị. Thực tế lịch sử đã chứng
minh dù được che giấu dưới hình thức tinh vi như thế nào, cho dù có bị khúc xạ quá
lăng kính phức tạp ra sao, nhà nước trong mọi xã hội có giai cấp đối kháng cũng chỉ
là cơng cụ bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị mà thơi. Ví dụ như trong cuộc Cách
mạng Tư sản nổ ra với khẩu hiệu là bình đẳng, tự do, cơng bằng nhưng khi cách
mạng thắng lợi thì những khẩu hiệu đó khơng được thực hiện, những tư sản đươc
thiết lập để phục vụ lợi ích cho giai cấp tư sản, giai cấp vơ sản thậm chí cịn bị bóc
lột nặng nề hơn.
2. Đặc trưng cơ bản của nhà nước.
2.1.Nhà nước quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định.
Nhà nước hình thành trên cơ sở phân chia dân cư theo lãnh thổ mà họ cư trú
quyền lực nhà nước có hiệu lực với mọi thành viên trong lãnh thổ, không phân biệt
huyết thống. Mỗi nhà nước được xác định bằng một biên giới quốc gia nhất định.
2.2. Nhà nước có bộ máy quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng chế đối với
mọi thành viên trong xã hội.
Nhà nước của giai cấp thống trị nào cũng có một bộ máy quyền lực chuyên
nghiệp: quân đội, cảnh sát,…và bộ máy quản lý hành chính. Nhà nước thực hiện
quyền lực của mình trên cơ sở sức mạnh cưỡng bức của pháp luật và dùng các thiết
chế bạo lực để pháp luật của mình được thực thi trong thực tế.
2.3. Nhà nước hình thành hệ thống thuế khố để duy trì và tăng cường bộ máy
cai trị.
Nhà nước khơng thể tồn tại nếu khơng dựa vào thuế khố, quốc trái và các hình
thức bóc lột khác. Đó là những chế độ đóng góp có tính chất cưỡng bức đã ni
sống bộ máy cai trị. Bằng cách hình thức khác nhau, nhà nước của giai cấp bóc lột
khơng những là cơng cụ trấn áp giai cấp mà cịn là cơng cụ thực hiện sự bóc lột các
giai cấp bị áp bức.
3.Chức năng của nhà nước.

3



Tuỳ theo các góc độ khác nhau, chức năng của nhà nước được phân chia sự khác
nhau. Dưới góc độ tổ chức quyền lực, nhà nước có các chức năng thống trị của giai
cấp và chức năng xã hội. Dưới góc độ phạm vi tác động của quyền lực, nhà nước có
chức năng đối nội và đối ngoại.
3.1. Chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội.

Chức năng thống trị chính trị của giai cấp là chức năng nhà nước làm
cơng cụ chun chính của một giai cấp nhằm bảo vệ sự thống trị giai cấp của giai
cấp đó đối với tồn thể xã hội. Ví dụ nhà nước tư sản được lập ra dùng để bảo vệ sự
thống trị của giai cấp tư sản, nhà nước phong kiến được lập ra dùng để bảo vệ sự
thống trị của giai cấp phong kiến: quan lại, địa chủ,….Chức năng giai cấp của nhà
nước bắt nguồn từ lý do ra đời của nhà nước và tạo thành bản chất chủ yếu của nó.

Chức năng xã hội của nhà nước: là chức năng nhà nước thể hiện sự
quản lý những hành động chung vì sự tồn tại của xã hội, thoả mãn một số nhu cầu
nằm dưới sự quản lý của nhà nước. Nhà nước là người đề ra luật pháp để ổn định
trật tự xã hội, thực hiện việc thu thuế để phục vụ cho các hoạt động chung của xã
hội.
Trong 2 chức năng đó thì chức năng thống trị chính trị là chức năng cơ bản
nhất, chức năng xã hội phải phụ thuộc và phục vụ cho chức năng thống trị về chính
trị. Giai cấp thống trị bao giờ cũng biết giới hạn chức năng xã hội trong khn khổ
lợi ích của mình. Song chức năng giai cấp chỉ được thực hiện thông qua chức năng
xã hội. Ph. Anghen đã viết: “Ơ khắp nơi, chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trị
về chính trị và sự thống trị về chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào nó cịn thực hiện
chức năng xã hội đó của nó”.
Khi xã hội khơng cịn giai cấp nữa thì những nội dung thuộc chức năng xã
hội sẽ do xã hội tự đảm nhiệm và khi đó chế độ tự quản của nhân dân được xác lập.
3.2. Chức năng đối nội và đối ngoại.
Căn cứ vào phạm vi hoạt động, chức năng của nhà nước được chia thành :

chức năng đối nội và đối ngoại. Sự thống trị chính trị và sự thực hiện chức năng xã
hội của nhà nước thể hiện trong lĩnh vực đối nội cũng như đối ngoại.
*) Chức năng đối nội của nhà nước: thực hiện những nhiệm vụ bên trong của
đất nước. Nhà nước phải thực hiện nhiệm vụ sau:

Giữ gìn trật tự an ninh xã hội.

Quản lý xã hội về mọi mặt kinh tế, y tế, văn hố, giáo dục.

Thơng tin tun truyền nhằm đưa hệ tư tưởng của giai cấp thống
trị lên thành thống trị xã hội.
*) Chức năng đối ngoại của nhà nước: nhà nước thể hiện nhiệm vụ bên ngồi
đất nước.

Tổ chức lãnh đạo quần chúng nhân dân đấu tranh chống giặc ngoại
xâm, bảo vệ đất nước.

4



Giữ vững và không ngừng phát huy địa vị của nhà nước đó trên
trường quốc tế.

Thực hiện sự hợp tác song phương và đa phương về mọi mặt trên
cơ sở hợp tác, bình đẳng và cùng cơ hội.
Ngày này trong xu thế hội nhập khu vực và quốc tế ngày nay thì chức năng đối
ngoại của nhà nước ngày càng có tầm quan trọng. Cả 2 chức năng đối nội và đối
ngoại của nhà nước đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị. Chúng là 2 mặt
của một thể thống nhất. Tính chất của chức năng đối nội quyết định tính chất chức

năng đối ngoại của nhà nước và ngược lại tính chất và những nhu cầu của chức
năng đối ngoại có tác động mạnh mẽ trở lại chức năng đối nội.
4.Các kiểu và hình thức.
4.1. Các kiểu hình thức nhà nước trong lịch sử.
Định nghĩa: kiểu nhà nước là khái niệm dùng để chỉ bộ máy thống trị đó thuộc
về giai cấp nào, tồn tạI trên cơ sở chế độ kinh tế nào, tương ứng với hình thái kinh
tế- xã hội nào.
Tương ứng vớI 3 chế độ xã hội có 3 hình thái kinh tế xã hội la hình thái kinh tế xã
hội chiếm hữu nơ lê, hình thái KT- XH phong kiến và hình thức kinh tế tư bản chủ
nghĩa là 3 kiểu nhà nước chiếm hữu nô lệ, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản.
*) Nhà nước chiếm hữu nô lệ. Đây là nhà nước của giai cấp chủ nô thời cổ đại
mà là tiêu biểu là các hình thức lịch sử nhà nước chủ nô ở Hy Lạp và La Mã cổ đại
như chính thế quân chủ và chính thể cộng hồ, chính thể q tộc và chính thể dân
chủ. Đây là kiểu nhà nước ra đời đầu tiên trong lịch sử- Đó là nhà nước của giai cấp
chủ nơ, thực hiện sự bóc lột đốI vớI nơ lệ bằng sự cưỡng bức trực tiếp sức lao động
của những người nô lệ.
*) Nhà nước phong kiến. Đây là nhà nước của giai cấp phong kiến thực hiện sự
bóc lột thơng qua địa tô và lao dịch. Nhà nước phong kiến cũng được tổ chức dưới
nhiều hình thức khác nhau. Nói chung ở phương Tây ở hình thức quân chủ phân
quyền là hình thức nhà nước phổ biến, quyền lực nhà nước được chia thành quyền
lực độc lập và phân tán. MỗI chúa phong kiến là ông vua trên lãnh thổ của mình.
Chúa phong kiến nhỏ chỉ là chủ hầu của chúa phong kiến lớn. Hoàng đế là chúa
phong kiến lớn nhất nhưng chỉ có thực quyền trên lãnh thổ của mình, ít có khả năng
chi phối lãnh địa khác. Ở phương Đơng (tiêu biểu là Trung Quốc và Ấn Độ), hình
thức quân chủ tập quyền là hình thức nhà nước phổ biến dựa trên chế độ sở hữu
nhà nước về ruộng đất. Trong nhà nước này, quyền lực của vua được tăng cường rất
mạnh, hồng đế có uy quyền tuyệt đối, ý chí của vua là pháp luật.
Dù dưới hình thức nào nhà nước phong kiến cũng chỉ là chính quyền của giai
cấp địa chủ, quý tộc, là cơ quan bảo vệ những đặc quyền phong kiến, là công cụ của
giai cấp địa chủ phong kiến dùng để áp bức, thống trị nông nô.

*) Nhà nước tư sản. Đây là nhà nước của giai cấp tư sản thực hiện sự bóc lột đối với
giai cấp vô sản và nhân dân lao động bằng cách bóc lột giá trị thặng dư, bảo vệ lợi
ích và quyền thống trị của giai cấp tư sản. Nhà nước tư sản có 2 hình thức chính, đó
là : hình thức cộng hồ và hình thức qn chủ lập hiến. V.I Lênin đã chỉ ra rằng “
Những hình thức của tư sản thì hết sức khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một,

5


chung quy lại thì tất cả những nhà nước ấy, vô luân thế nào cũng tất nhiên phải là
nền chuyên chính tư sản”.
*Nhà nước vơ sản.
Chủ nghĩa Mác_Lênin đã chỉ ra rằng nhà nước vô sản là một nhà nước đặc
biệt” Nhà nước khơng cịn ngun nghĩa” là nhà nước” nửa nhà nước”. Sau khi
những cơ sở kinh tế, xã hội của sự xuất hiện và tồn tại của nhà nước mất đi thì nhà
nước sẽ khơng cịn. Sự mất đi của nhà nước vô sản không phải bằng con đường thủ
tiêu, xỏa bỏ mà bằng con đường tự tiêu vong. Sự tiêu vong của nhà nước vô sản là
một quá trình rất lâu dài.
4.2. Hình thức nhà nước.
Khái niệm: Mỗi kiểu nhà nước lại có thể tồn tại dưới các hình thức khác nhau.
Hình thức nhà nước là khái niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức và phương thức
thực hiện quyền lực nhà nước.
Hình thức nhà nước bị quy định bởi bản chất giai cấp của nhà nước, bởi tương quan
lực lượng giữa các giai cấp, bởi cơ cấu giai cấp- xã hội, bởi đặc điểm truyền thống
chính trị của đất nước.
Hình thức nhà nước bao gồm 2 yếu tố: hình thức chính thể và hình thức cấu trúc.
*) Hình thức chính thể: có 2 dạng cơ bản là hình thức qn chủ và chính thể cộng
hồ.
+) Chính thể qn chủ là hình thức chính thể trong đó quyền lực tối cao của nhà
nước tập trung toàn bộ hoặc một phần trong tay người đứng đầu nhà nước, hình

thành theo ngun tắc truyền ngơi ( thế tập ). Nhà nước theo chính thể quân chủ gọi
là nhà nước qn chủ.

Qn chủ tuyệt đối: là hình thức chính thể quân chủ mà quyền lực xã
hội được tập trung hết vào trong tay nhà vua và được duy trì theo kiểu cha truyền
con nối ( ví dụ nhà nước phong kiến Trung Quốc ).

Quân chủ lập hiến ( quân chủ hạn chế ): là hình thức chính thể qn
chủ mà quyền lực tối cao của Nhà nước được trao một phần cho người đứng đầu
nhà nước và một phần được trao cho một cơ quan khác ( như nghị viện trong nhà
nước tư sản hoặc hội nghị đại diện đẳng cấp trong nhà nước phong kiến).

Quân chủ đại nghị: quyền lực của các nguyên thủ quốc gia ( vua,
hoàng đế ) bị hạn chế rất nhiều. Với tư cách nguyên thủ quốc gia, nhà vua chỉ mang
tính chất tượng trưng, đại diện cho truyền thống, sự thống nhất của một quốc gia,
khơng có nhiều quyền hành trong thực tế.” Nhà vua trị vì nhưng khơng cai trị”.
Hiện nay đang tồn tại ở một số nước như Nhật Bản, Anh, Thụy Điển,…
+) Chính thể cộng hịa là hình thức chính thể trong đó quyền lực tối cao của Nhà
nước thuộc về một cơ quan được bầu ra trong một thời hạn nhất định. Chính thể
cộng hịa có hai hình thức chủ yếu là cộng hòa quý tộc và cộng hòa dân chủ.

Chính thể cộng hịa đại nghị: nghị viện là một thiết chế quyền lực
trung tâm, nghị viện có vai trị rất lớn trong cơ chế thực thi quyền lực nhà nước. Ở
đây các nguyên thủ quốc gia ( tổng thống ) do nghị viện bầu ra và chịu trách nhiệm
trước nghị viện. Chính phủ do các Đảng chính trị chiếm đa số ghế trong nghị viện
thành lập và chịu trách nhiệm trước nghị viện, nghị viện có thể bỏ phiếu khơng tín

6



nhiệm chính phủ. Có một số nước tổ chức theo chỉnh thể cộng hịa đại nghị đó là
cộng hịa Liên bang Đức, cộng hịa Áo, Italia…

Chính thể cộng hịa tổng thống: nguyên thủ quốc gia ( tổng thống )
có vai trị và vị trí rất quan trọng. Tổng thống do nhân dân trực tiếp, ( gián tiếp
thông qua đại cử tri ) bầu ra. Tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia vừa là người
đứng đầu chính phủ, nghị viện khơng có quyền lật đổ chính phủ. Ví dụ, nước Mỹ
theo chính thể cộng hịa.
Ngồi ra, cịn tồn tại hình thức cộng hịa lưỡng tính vừa mang tính chất cộng hịa
đại nghị vừa mang tính chất cộng hịa tổng thống. Chính thể cộng hịa lưỡng tính có
đặc điểm sau:
+ Nghị viện do nhân dân bầu ra.
+ Trung tâm bộ máy quyền lực là tổng thống. Tổng thống cũng do nhân dân bầu, có
quyền hạn rất lớn kể cả quyền giải tán nghị viện, quyền thành lập chính phủ, hoạch
định chính sách quốc gia.
+ Chính phủ có thủ tướng đứng đầu, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của tổng thống
và nghị viện.
*)Hình thức cấu trúc nhà nước: là sự cấu tạo nhà nước thành các đơn vị hành
chính lãnh thổ và xcs lập các mối quan hệ giữa các đơn vị ấy với nhau cũng như
giữa các cơ quan Nhà nước ở trung ương với các cơ quan nhà nước ở địa
phương.Có 2 hình thức cấu trúc nhà nước là :nhà nước liên bang và nhà nước đơn
nhất.
+) Nhà nước đơn nhất:là nhà nước có chủ quyền chung ,có một hệ thống pháp
luật thống nhất ,có một quốc hội và một hệ thống cơ quan nhà nước thống nhất từ
trung ương dến địa phương.Ví dụ nhà nước Việt Nam, Trung Quốcđang tồn tại hình
thức nhà nước đơn nhất .
+Nhà nước liên bang : là nhà nước được hình thành từ hai hay nhiều nước
thành viên (hay nhiều bang hợp lại).Trong nhà nước liên bang ,ngoài các cơ quan
nhà nước và cơ quan quản lí nhà nước, hệ thống pháp luật nói chung cho tồn liên
bang, thì mỗi nhà nước thành viên cịn có hệ thống pháp luật và cơ quan quản lí nhà

nước riêng.Hợp chủng quốc Hoa Kỳ,Cộng hịa liên bang Đức, Nga….là những nhà
nước liên bang.
5. Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là cột trụ của hệ thống chính
trị, là cơng cụ thực hiện quyền lực của nhân dân, là tổ chức thực hiện quyền
làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, quản lý kinh tế
bằng kế hoạch, bằng chính sách kinh tế và các cơng cụ điều tiết khác.
Nhà nước cộng hịa xã hội chủ nghĩa được tổ chức theo nguyên tắc nhà nước pháp
quyền của dân, do dân, vì dân, lấy liên minh cơng nơng và đội ngũ trí thức làm nền
tảng đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Trong tổ chức và hoạt động của mình, quyền lực nhà nước được tổ chức theo
nguyên tắc thống nhất nhưng có sự phân cơng và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

7


Tổ chức và hoạt động của nhà nước thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.
Tất cả quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân, bảo đảm sự thống nhất tổ chức
và hành động phát huy đồng bộ và kết hợp chặt chẽ sức mạnh của cả cộng đồng và
từng cá nhân, của cả nước và từng địa phương, của cả hệ thống bộ máy và của từng
yếu tố cấu thành nó. Nhà nước cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có sự thống
nhất hữu cơ chức năng giai cấp và chức năng xã hội. Trước mắt chúng ta cần đổi
mới, nâng cao chất lượng công tác lập pháp và giám sát tối cao của Quốc hội đối
với toàn bộ hoạt động của nhà nước; cải cách nền hành chính nhà nước, bao gồm
cải cách thể chế hành chính, tổ chức bộ máy và kiện tồn đội ngũ cán bộ, công
chức, cải cách tổ chức và hoạt động tư pháp.
II,VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.Vai trò của nhà nước qua các giai đoạn lịch sử
Vai trò của nhà nước trong đời sống kinh tế luôn là mối quan tâm của mọi

thời đại:
Nhà nước là công cụ của giai cấp thống trị được sử dụng để duy trì trật tự xã hội
sao cho phù hợp với lợi ích của nó.Chức năng ban đầu của nhà nước là quản lý hành
chính bao gồm các lĩnh vực:
+Quản lý lãnh thổ, thiết lập mối quan hệ bang giao với các nước láng
giềng.
+ Quản lý trật tự xã hội, sắp xếp mối quan hệ giữa các cá nhân, các giai cấp, các
tầng lớp, các cộng đồng sao cho phù hợp với ý chí của giai cấp đã sản sinh ra nó.
Trong thời kì cơng xã ngun thủy thì nền kinh tế là nền kinh tế tự nhiên, nền
kinh tế mang tính tự cung tự cấp.Thời kì này, hầu như chưa có khái niệm vai trị của
nhà nước.
Trong thời đại chiếm hữu nô lệ, nhà nước chủ nô kiểu nhà nước đầu tiên trong lịch
sử đã trực tiếp dùng quyền lực của mình can thiệp vào việc phân phối của cải được
sản xuất ra; cac thủ đoạn bạo lực phi kinh tế ở đây được sử dụng làm công cụ để
chiếm đoạt, cưỡng bức kinh tế
Trong thời kì phong kiến, nền kinh tế của nước ta là nền kinh tế tự nhiên tự cung tự
cấp, khép kín, sản xuất nhỏ.Tuy nhiên, nhà nước đã đứng ra tập hợp nhân dân khai
hoang ruộng đất mới, xây dựng cơ sở hạ tầng cho nơng nghiêp đề ra các chính sách
ruộng đất phù hợp qua các thời kì.
Nhìn chung , vai trị kinh tế của nhà nước qua các thời kì là khác nhau tùy thuộc
vào quá trình phát triển của đất nước. Song điều đó khẳng định là sự can thiệp và
quản lí của nhà nước đơi với nền kinh tế kinh tế thị trường là thực hiện chức năng
quản lí nhà nước về kinh tế một đặc trưng của nền kinh tế hiện đại

8


Đầu những năm 30 của thế kỉ XX ,những cuộc khủng hoảng kinh tế nổ ra
thường xuyên đã chứng tỏ “Bàn tay vơ hình” khơng thể đảm bảo những điều kiện
nhất định cho kinh tế thị trường phát triển. Hơn nữa, trình độ xã hội hóa sản xuất

phát triển ngày càng cao đã chỉ ra cho các nhà kinh tế học thấy rằng : Cần có sự can
thiệp của nhà nước vào quá trình hoat động của nền kinh tế, điều tiết nền kinh tế.
Nhà kinh tế người Anh Keynes đã đưa ra lí thuyết “Nhà nướcđiều tiết nền kinh tế
thị trường” .Theo ông,sự can thiệp của nhà nước ở cả tầm vi mô và vĩ mô sẽ khắc
phục được tình trạng khủng hoảng thất nghiệp, tạo ra sự ổn định cho nền kinh tế .
Để đối phó với các khuyết tật của cơ chế thị trường, các nền kinh tế hiện đại đã
phối hợp giữa “Bàn tay vơ hình” của thị trường và “Bàn tay hữu hình”của nha
nước.Theo P.A Samuelson chính phủ có 4 chức năng chính trong nền kinh tế thị
trường là:
(1) Thiết lập khuôn khổ pháp luật.
(2) Sửa chữa những thất bại của thị trường để thị trương hoạt động có
hiệu quả.
(3) Bảo đảm sự cơng bằng.
(4) Ổn định nền kinh tế vĩ mô
Đến năm 1986 nước ta đã thực hiện cải cách nền kinh tế cho nên vai trò kinh tế
của nhà nước được xác định một cách rõ ràng. Nó có chức năng hạn chế những
khuyết tật của nền kinh tế thị trường. Những khuyết tật này có thể là do những tác
động bên ngồi gây nên như ô nhiễm môi trường mà doanh nghiệp khơng phải trả
giá cho sự hủy hoại đó hoặc là những thất bại của thị trường do tình trạng độc
quyền phá hoại tự do cạnh tranh và cuối cùng là sự phân bố bất bình đẳng do hệ
thống thị trường mang lại.
2.Vai trị quản lí của nhà nước trong nền kinh tế thị trường
Thị trường là phạm trù kinh tế xã hội phức tạp, một lĩnh vực khoa học vẫn đang
có sự trao đổi nghiên cứu nhằm đạt được một sự thống nhất về lí luận và thực tiễn,
trên cơ sở đó tìm ra những biện pháp quản lí, khai thác những tiềm năng của nó để
phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phầnvận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước,theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch , tập trung bao cấp trước kia, thị trường được

xem xét , nhìn nhận thơng qua q trình tái sản xuất xã hội theo các công đoạn :
- Sản xuất
- Trao đổi, lưu thông
- Tiêu dùng
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, thị trường được xem như một hệ
thống thống nhất của cả quá trình tái sản xuất xã hội, trong đó sản xuất – kinh
doanh đựợc gắn kết chặt chẽ với nhau. Vì vậy có thể hiểu: thị trường là nơi diễn ra

9


các hoạt động sản xuất kinh doanh , là nơi phát sinh và giải quyết các quan hệ
cung cầu .
Dưới góc độ quản lí nhà nước, thị trường được xem xét , phân loại theo một số tiêu
thức sau đây:
- Thị trường nội địa (thị trường trong nước) và thị trường ngoài nước ( thị trường
khu
vực , thị trường quốc tế),
- Thị trường phân theo các lĩnh vực hoạt động kinh tế : Thị trường tài chính tiền tệ
(thị trường vốn), thị trường bất động sản , thị trường sức lao động, thị trường hàng
hóa nói chung …
- Thị trường phân theo nhóm hàng hóa cụ thể, như: Thị trường xăng dầu , thị
trường nhà đất, thị trường hàng nông sản…
Thị trường nội địa ( thị trường trong nước ) là một hệ thống kinh tế thống nhất
trong nền kinh tế của mỗi một quốc gia .Phát triển thị trường nội địa đồng nghĩa với
phát triển nền kinh tế quốc dân . Đây là một vấn đề, một nhiệm vụ quan trọng và
khó nhất đối với chính phủ của các nhà nước trên thế giới .
Một nền kinh tế phát triển nhanh hay chậm, phát triển cân đối, bền vững hay
phát triển khơng ổn định (nền kinh tế nóng theo dạng bong bóng xà phịng ) nó phụ
thuộc vào nhiều yếu tố trong đó yếu tố quản lí cuả nhà nước có vai trị quan trọng

nhất quyết định đến sự phát triển của thị trường và toàn bộ nền kinh tế .
Khi nói đến vai trị quản lí của nhà nước đối với quá trình phát triển của nền
kinh tế cũng có nghĩa là nói đến vai trị , khả năng , mức độ can thiệp của chính phủ
vào thị trường, vào quá trình vận động của nền kinh tế. Sự can thiệp này đến đâu ,
bằng biện pháp gì , vào lĩnh vực nào trong từng thời điểm, để một mặt vừa định
hướng cho sự phát triển đúng đắn của thị trường, mặt khác vẫn khuyến khích tính
chủ động, sáng tạo của cơ sở và các doanh nghiệp, tạo động lực phát triển mạnh mẽ
cho nền kinh tế.
Nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch tập trung , bao cấp trước kia đã tuyệt đối hóa
vai trị quản lí của nhà nước, phủ nhận vai trò tự điều tiết của thị trường. Từ quản lí
vĩ mơ đến quản lí vi mơ đều do bàn tay quản lí của nhà nước điều hành thơng qua
các cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao độ từ Trung ương đến địa phương và các đơn
vị cơ sở bằng hệ thống các chỉ tiêu pháp lệnh cứng nhắc. Cơ chế tập trung bao cấp
đã sinh ra bộ máy quản lí cồng kềnh và hàng nghìn doanh nghiệp quốc doanh ln
dựa vào sự bao cấp của nhà nước, dẫn đến hậu quả là sản xuất kinh doanh khơng có
lãi, thị trường khơng phát triển .
Nhận thức sớm được những mặt hạn chế của cơ chế cũ, Đảng và Nhà nước đã
kịp thời chuyển đổi nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường theo tinh thần
nội dung của nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII là “phát triển nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa , vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lí của nhà nước”

10


Chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung , bao cấp sang cơ chế thị trường là
bước đi đúng đắn, kịp thời của Đảng và Nhà nước ta. Song điều đáng chú ý ở đây là
chúng ta vẫn giữ vững vai trò tự điều tiết của thị trường như các học thuyết kinh tế
học cổ điển và lí thuyết “ bàn tay vơ hình “ mà A. Smith đã nêu ra.
Thực tế phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta trong những năm qua cho

thấy “ nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường , có
sự quản lí của Nhà nước “ là một mơ hình phát triển hợp lí , vì nó có sự kết hợp
giữa “thị trường” và “Nhà nước”, tức là có sự kết hợp giữa “bàntay vơ hình” và
“bàn tay hữu hình” của Nhà nước để tạo nên một thể chế quản lí mới có tính hiệu
quả cao hơn .
Vấn đề cần nghiên cứu trao đổi ở đây là vai trị quản lí của Nhà nước trong nền
kinh tế theo cơ chế thị trường hiện nay được thể hiện như thế nào, Nhà nước cần và
không cần can thiệp vào những lĩnh vực nào của thị trường? Từ thực tế quản lí đã
rút ra được trong những năm qua , kết hợp với những bài học kinh nghiệm của các
nước trên thế giới đã cho thấy vai trị quản lí của Nhà nước trong nền kinh tế thị
trường được thể hiện ở những nội dung cơ bản sau :
2.1 . Xây dựng một hệ thống chính sách vĩ mơ ổn định , hợp lí
Nhằm định hướng cho thị trường phát triển theo đúng mục tiêu, đồng thời tạo
lòng tin cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước yên tâm đầu tư phát triển sản
xuất, kinh doanh.
Bài học thực tế của các nước phát triển đã cho thấy : hệ thống chính sách vĩ
mơ, hệ thống pháp luật đầy đủ , ổn định sẽ là nền tảng vững chắc cho nền kinh tế
phát triển bền vững, lành mạnh , đúng định hướng, đồng thời nó cịn là cơ sở tạo ra
một sân chơi bình đẳng , rộng rãi cho các nhà doanh nghiệp trong và ngoài
nước.Với ý nghĩa đó , trong những năm thực hiện đường lối đổi mới vừa qua, nhà
nước ta đã ban hành đồng bộ hệ thống văn bản pháp luật (đến nay đã có 43 luật, bộ
luật, 45 pháp lệnh và hàng trăm văn bản pháp quy khác được ban hành ) nhằm đáp
ứng kịp thời cho cơng tác quản lí nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Cùng với việc hoàn chỉnh phải bổ sung hệ thống văn bản pháp luật những
chính sách điều hành quản lí vĩ mơ cũng khơng ngừng được củng cố hồn thiện và
tạo nên một cơ chế quản lí mới, trong đó chức năng quản lí vĩ mơ của nhà nước
ngày càng được tăng cường , đồng thời quyền chủ động ở cơ sở và các doanh
nghiệp ngày càng được nâng cao. Ở một chừng mực nào đó, nhà nước đã thể hiện
đúng vai trò chức năng là người trọng tài điều khiển chứ không trực tiếp tham gia
vào cuộc chơi trong không gian của thị trường.

Cơ chế quản lí mới đã có sự phân định rõ chức năng quản lí hành chính của
nhà nước về kinh tế của các bộ , ngành với chức năng quản lí sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp. Theo đó là việc giảm dần cơ chế bộ chủ quản đã tạo cho các
công ty , các doanh nghiệp quốc doanh có nhiều quyền tự quyết định trong sản xuất
và kinh doanh, đồng thời phía nhà nước đã giảm được gánh nặng bao cấp. Đây
11


chính là một bước hồn thiện cơ chế quản lí kinh tế vĩ mơ,thiết lập sự bình đẳng
giữa các thành phần kinh tế , tạo cơ sở cho sự phát triển của thị trường trong nước.
2.2. Vai trò tạo lập mơi trường kinh doanh thuận lợi, an tồn và bình đẳng
Mơi trường kinh doanh thuận lợi, an tồn được biểu hiện thông qua nhiều
yếu tố như: hạ tầng cơ sở tốt, hệ thống pháp luật đầy đủ , ổn định, nền hành chính rõ
ràng và bộ máy cơng quyền trong sạch , lành mạnh…những yếu tố trên đều do nhà
nước(và chỉ có nhà nước) tạo dựng nên nhằm thu hút đầu tư trong và ngoài nước
phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế .
Môi trường kinh doanh thuận lợi cịn được thể hiện ở sự lành mạnh , bình
đẳng trong cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế , giữa các doanh nghiệpcác tổ
chức, cá nhân hoạt động trong một khơng gian kinh tế .Bởi vì kinh tế thị trường lấy
cạnh tranh làm cơ sở , động lực thúc đẩy sự phát triển của thị trường, nhà nước cần
tạo ra một cơ chế khuyến khích cạnh tranh lành mạnh. Nhưng muốn có cạnh tranh
lành mạnh trước hết phải hạn chế và chống độc quyền, bởi vì độc quyền là “bản án
tử hình” của cơ chế thị trường dù đó là độc quyền nhà nước hay độc quyền tư nhân.
Kinh nghiệm thực tiễn đã cho thấy đối với những nền kinh tế đang trong giai
đoạn chuyển đổi như ở nước ta hiện nay, thì cạnh tranh thực sự chưa đi vào tiềm
thức trong hoạt động kinh tế, chưa trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển của thị
trường. Trong khi đó ,độc quyền nhà nước vẫn đang ngự trị trong nhiều lĩnh vực.
Độc quyền nhà nước lại chủ yếu dựa trên quyền lực hành chính chứ khơng
phải dự trên năng lực hoạt độngkinh tế,bởi vì chính các doanh nghiệp thuộc khu vực
nhà nước hoạt động không hiệu quả.Độc quyền dựa trên quyền lực hành chính được

xem như rào cản hành chính đối với cạnh tranh .Theo một số học giả Trung Quốc
( là nước có mơ hình kinh tế gần giống với Việt Nam ) thì cí hai hình thức độc
quyền chủ yếu dựa trên quyền lực hành chính là độc quyền ngành và độc quyền địa
phương.
Độc quyền ngành ,hay còn gọi là độc quyền theo chiều dọc là độc quyền của
các bộ quản lí chuyên ngành ,hoặc của các tổng cơng ty ,các cơng ty ,các tập đồn
kinh tế lớn(của nhà nước)vừa có chức năng quản lí hành chính nhà nước ,vừa là nhà
sản xuất kinh doanh trên một lĩnh vực hay một số ngành nào đó.Có thể xem họ là
những chủ thể hành chính –kinh tế ,bởi vì họ vừa có quyền lực ,vừa có nhiều lợi thế
về vốn ,về địa vị pháp lí ,lại ln nhận được những ưu đãi đặc biệt từ phía chính
phủ hoặc chính quyền địa phương.Nhờ những lợi thế đó cho nên trong hoạt đọng
sản xuất kinh doanh ,họ “tự nhiên” có được thế mạnh trên thị trường .Một số ngành
như :Bưu chính viễn thơng , Điện lực, các Tổng cơng ty 90, Tổng cơng ty 91….hiện
nay là những chính là những hình thức độc quyền theo ngành.
Độc quyền địa phương cịn đựợc gọi là độc quyền theo chiều ngang, là hình
thức bảo hộ sản xuất địa phương bằng những biện pháp hành chính nhằm ngăn cấm
những hàng hóa và dịch vụ từ địa phương khác xâm nhập vào địa phương của
mình . Đây là hành vi chia nhỏ thị trường , gây mất cân đối trong thị trường trong
phạm vi toàn quốc, làm suy yếu thị trường trong nước .
12


2.3, Vai trò bảo hộ
Để thị trường phát triển , Nhà nước cần có sự bảo hộ hợp lí đối với một số
lĩnh vực và ngành hàng trong nước . Bởi vì , Nhà nước là chr thể quản lí cao nhất ,là
người đại diện cho quyền lợi ích của cả cộng đồng quốc gia ,chỉ có Nhà nước mới
có đủ tư cách, sức mạnh , tiềm lực để thực hiện quyền bảo hộ . Thông qua các cơ
quan bảo vệ pháp luật và bộ máy hàn chính, nhà nước có trách nhiệm bảo vệ những
quyền lợi hợp pháp của mọi tổ chức cá nhân tham gia hoạt động trên thị trường như
quyền sở hữu(dù là quyền sở hữu tư nhân hay sở hữu Nhà nước) , quyền tự do kinh

doanh theo quy định của pháp luật,bảo vệ bản quyền và nhãn hiệu hàng hóa …Theo
nghĩa bao qt hơn ,hình thức bảo hộ của nhà nước còn được thể hiện ở sự baỏ hộ
nền sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh từ bên ngoài ,bảo vệ những quyền lợi
của công dân ,các tổ chức doanh nghiệp trong nước khi có sự tranh chấp với các tổ
chức ,các tập đồn kinh tế nước ngoài.
Trong giai đoạn hiện nay , tuy xu thế “hội nhập” , “mở cửa” đang diễn ra một
cách mạnh mẽ ,nhưng vấn đề bảo hộ sản xuất trong nước vẫn ln là biện pháp, là
chính sách có ý nghĩa quan trọng , thuộc tầm quản lí vĩ mơ của chính phủ.
2.4,Vai trị can thiệp,điều chỉnh, bổ sung thị trường
Trong nền kinh tế thị trường , Nhà nước khơng những chỉ giữ vai trị bảo hộ,
khuyến khích, tạo lập mơi trường kinh doanh, mà cịn có khả năng can thiệp , điều
chỉnh , bổ sung cho thị trường, hướng thị trường vận động, phát triển theo đúng mục
tiêu quản lí. Đây là một vấn đề thực tế, một nhiệm vụ quan trọng thuộc chức năng
quản lí của nhà nước. Tuy nhiên, hiện nay vẫn khơng ít quan điểm cho rằng : Nhà
nước không thể và cũng không nên can thiệp vào thị trường.
Điều tiết thị trường là khả năng tác động , can thiệp của Nhà nước (chủ thể
quản lí)vào q trình vận động của thị trường nhằm loại bỏ hoặc hạn chế những ảnh
hưởng xấu của thị trường , hướng thị trường vận động và phát triển theo đúng mục
tiêu đã định .
Trong thực tế khơng có Nhà nước nào lại khơng có tác động , can thiệp ít hay
nhiều vào thị trường, làm biến đổi thị trường . Chỉ có điều là sự can thiệp , tác động
đến mức nào , hình thức và biện pháp can thiệp ra sao, hiệu quả của sự can thiệp đó
đến đâu? Lại là vấn đề khác phụ thuộc vào tình huống của thị trường , vào khả năng
điều hành của Chính phủ và thực lực của nền kinh tế mà Nhà nước đang lắm giữ.
Thực tế quản lí cho thấy, trong những năm qua Nhà nước đã có những biện pháp
can thiệp kịp thời vào thị trường nên những tác động xấu do cuộc khủng hoảng tài
chính – tiền tệ khu vực trong những năm 1997-1998, những tổn thất do thiên tai ,
bão lụt …đã không ảnh hưởng lớn đến tốc độ phát triển kinh tế ở nước ta.
Thông thường, sự tác động, can thiệp của Nhà nướcvào thị trường được thực
hiện bằng quyền lực hành chính thơng qua các biện pháp hành chính . Biện pháp

hành chính là hình thức sử dụng quyền lực hành chính của Nhà nước tác động vào
thị trường, hướng thị trường vận động theo mục tiêu định trước phù hợp với đường
13


lối phát triển kinh tế .Tuy nhiên,cơ chế tập trung bao cấp trước kia đã quá lạm dụng
quyền lực hành chính vào trong quản lí , khơng thừa nhận quy luật vận động khách
quan trong sự vận động của thị trường .Do vậy, nền kinh tế được điều hành chủ yếu
theo ý chí chủ quan của chủ thể quản lí (Nhà nước), dẫn đến hậu quả là thị trường bị
thu hẹp , các quy luật kinh tế không phát huy được tác dụng , nền kinh tế không
phát triển.
Thực tiễn quản lí cho thấy , muốn điều tiết thị trường có hiệu quả cần phải
kết hợp hài hịa các biện pháp hành chính với các biện pháp kinh tế thơng qua các
cơng cụ quản lí là pháp luật, các chính sách kinh tế như : chính sách thuế , chính
sách giá cả , chiến lược đầu tư, chính sách tiêu dùng…Trong cơ chế thị trường ,
biện pháp kinh tế đã ngày càng trở thành các biện pháp cơ bản để điều tiết, để định
hướng cho sự phát triển của thị trường.
Tóm lại: Thị trường và cơng tác quản lí nhà nước đối với thị trường luôn là
một vấn đề , một đề tài có tính thời sự . Bởi thị trường là một nơi chứa đựng nhiều
tiềm năng và chứa đựng cả những ẩn số , những rủi ro đối với sự phat triển của nền
kinh tế .Hoàn thiện và định hướng cho thị trường vận động , phát triển theo đúng
muc tiêu , phục vụ kịp thời sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước là chức năng ,
nhiệm vụ quan trọng của các cơ quan quản lí Nhà nước .
Trong cơ chế thị trường hiện nay , một mặt cần tơn trọng sự vận động mang
tính quy luật của thị trường nhưng mặt khác,Nhà nước vẫn có vai trị và khả năng
can thiệp , bổ sung , định hướng đối với sự vận động của thị trường đẻ phục vụ cho
mục tiêu phát triển kinh tế .
3,Sự cần thiết phải chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước
XHCN Việt Nam
Do nhận thức còn đơn giản về CNXH và con đường đi lên CNXH nên chúng

ta đã thiết lập thể chế kinh tế kế hoạch và cơ chế vận hành nền kinh tế la cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp.Mơ hình đó có những đăc trưng sau :
Thứ nhất do nhà nước quản lí nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu
với hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh từ trên xuống dưới.
Thứ 2,các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoat động sản xuất của các
đơn vị sản xuất kinh tế cơ sở nhưng không chịu trách nhiệm gì về vật chất đối với
các quyết định của mình.
Hậu quả do 2 điểm trên là cơ quan quản lí nhà nước làm thay chức năng quản lí sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.Cịn các doanh nghiệp thì vừa bị trói buộc vừa
khơng có quyền tự chủ ,vừa ỷ lại vào cấp trên vì khơng bị ràng bc kết quả kinh
doanh.

14


Thứ 3,trong cơ chế cũ quan hệ hang hóa tiền tệ bị coi thường ,nhà nươc quản lí
kinh tế và kế hoạch về kế hoạch hóa bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản
phẩm,quan hệ hiện vật là chủ yếu ,quan hệ hạch tốn chỉ là hình thức .
Thứ 4,bộ máy quản lí cồng kềnh ,có nhiều cấp trung gian và kém năng động,từ đó
sinh ra một đội ngũ cán bộ kém năng lực nhưng phong cách thì cửa quyền ,quan
liêu.
Mơ hình kinh tế chỉ huy đã làm mất đi các động lực phát triển kinh tế,làm triệt tiêu
tính năng động sáng tạo của các đơn vị kinh tế ,hình thành cơ chế kim hãm sự phát
triển kinh tế xã hội .Khi đó nền kinh tế chủ yếu phát triển theo bề rộng chứ khơng
phải theo bề sâu .Vì vậy với sự đổi mới trong tư duy về kinh tế Đảng ta đã đề ra
phương hướng đổi mới kinh tế là chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế hang
hóa nhiều thành phần ,vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
4, Đặc trưng ,bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt
Nam

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam,một mặt vừa
có những tính chất chung của nền kinh tế thị trường:Mot là,các chủ thể kinh tế có
tính độc lập ,có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh .Hai là,giá cả do thị trương
quyêt định ,hệ thống thị trường được phát triển đầy đủ và nó có tác dụng làm cơ sở
cho việc phan phối các nguồn lực kinh tế vào trong các ngành ,các lĩnh vực của nền
kinh tế .Ba là nền kinh tế vận đơng theo những quy luật vốn có của thị trường như
quy luật giá trị ,quy luật cung cầu ,….. Sự tác động của các quy luật đó hình thành
cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế .Bốn la,nếu là nền kinh tế thị trương hiện đại thì
cịn có sự diều tiết vĩ mô của Nhà nước t Việt Nam hong qua pháp luật kinh tế ,kế
hoạch hóa các chính sách kinh tế ,kế hoạch hóa,các chính sách kinh tế .Mặt khác
KTTTđịnh hướng XHCN ở Việt Nam dựa trên cơ sở và được dẫn dăt chi phối bởi
nguyên tắc và bản chất của CNXH.Do đó KTTT định hướng XHCN có những đạc
trưng bản chất sau:
Một là về mục tiêu phát triển kinh tế thị trường .Mục tiêu hang đầu của phát triển
kinh tế thị trường ở nước ta là giải phóng sức sản xuất ,động viên mọi nguồn lực
trong nước và ngoài nước để thực hiện CNH-HĐH ,xây dựng cơ sơ vật chất kĩ thuật
của CNXH,nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội ,cải thiện từng bước đòi sống nhân
dân .Thực hiện tư tưởng HỒ CHÍ MINH và đường lối đổi mới của Đảng,lấy sản
xuất gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân,tăng trưởng kinh tế đi đôi với việc tiến
bộ và cơng bằng xã hội,khun khích làm giàu hợp pháp,gắn liền với xóa đói giảm
nghèo.
Hai là nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần ,trong đó kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo.Trong nền kinh tế nước ta tồn tai nhiều loai hình sở hữu và nhiều
thành phần kinh tế .Việc phát triển kinh tế nhiều thành phần ở nươc ta la một tất
yếu.Chỉ có như vậy chúng ta mới khai thác được mọi nguồn lực kinh tế ,nâng cao
được hiệu quả kinh tế ,phát huy được các tiêm năng của các thành phần kinh tế vào
15


phát triển chung nền kinh tế của đát nước nhằm thỏa mãn các nhu cầu ngày càng

tăng của nhân dân.Trong nền kinh tế nhiều thành phần như ở nước ta ,kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo .Việc xác lập vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là vấn
đề có tính ngun tắc và là sự khác biệt có tinh chất bản chất giữa KTTT định
hướng XHCN với KTTT tư bản chủ nghĩa .Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của
nền kinh tế thị trường ở nước ta đã quyết định kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ
đạo trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.Bởi lẽ mỗi chế độ xã hội đều có một cơ
sở kinh tế ứng với nó ,kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể tạo nên nền tảng cho chế
độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Ba là, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa , thực hiện nhiều
hình thức phân phối thu nhập trong đó lấy phân phối theo lao động là chủ
yếu.Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay ,tồn tại các hình thức phân
phooois thu nhập sau đây:phân phối theo lao động ,phân phối theo vốn hay tài sản
đóng góp ,phân phối theo giá trị sức lao động ( nó được thực hiện trong các doanh
nghiệp tư bản tư nhân và các doanh nghiệp mà vốn đầu tư là của nước ngoài ) ,phân
phối thong qua các quỹ phúc lợi tập thể và xã hội.
Bốn là ,cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà
nước xã hội chủ nghĩa.Nhà nước quản lí nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch với thị trường.Thị trường là một bộ
phận cấu thành của nền kinh tế ,nó tồn tại khách quan ,tự vận đọng theo những quy
luật vốn có của nó.Cịn kế hoạch hóa là hình thức thực hiện của tính kế hoạch,nó là
sản phẩm chủ quan của chủ thể quản lí .Kế hoạch là sự điều chỉnh có ý thức của chủ
thể quản lí đối với nền kinh tế ,cịn cơ chế thị trường là sự tự điều tiết của bản thân
nền kinh tế.Sự kết hợp kế hoạch với thị trường được thực hiện cả ở cả tam vi mô và
vĩ mô.Ở tầm vi mô ,thị trường là căn cứ xây dựng kế hoạch sản xuất kinh
doanh.Thông qua sự biến động của quan hệ cung cầu và giá cả thị trường ,các
doanh nghiệp lựa chọn đươc phương án sản xuất kinh doanh:sản xuất cai gi,sản xuất
như thế nào ,sản xuất cho ai?Kế hoạch hóa vĩ mơ nhằm đảm bảo những cân đối
lớn ,tổng thể của nền kinh tế như tổng cung –tổng cầu ,sản xuất-tiêu dùng ,hàng hóa
và tiền tệ . Kế hoạch hóa vĩ mơ có thể tác động đến cung cầu,giá cả để uốn nắn
những lệch lạc của sự phát triển do sự tác động tự phát của thị trường gây ra , thong

qua đó mà hướng hoạt động của thị trường theo hướng kế hoạch.
Năm là ,nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng là nền kinh tế
mở ,hội nhập.Do sự tác động của cuộc cạch mạng khoa cơng nghệ, đang diễn ra
q trình quốc tế hóa đời sống kinh tế ,sự phát triển của mỗi quốc gia trong sự phụ
thuộc lẫn nhau.Vì vậy mở cửa kinh tế hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới là
một tất yếu đối với nước ta.Chỉ có như vậy mới thu hút được vốn , kĩ thuật cơng
nghệ hiện đại ,kinh nghiệm quản lí của các nước tiên tiến trên tthế giới để khai thác
tiềm năng và thế mạnh của minh phát huy tối đa nội lực ,thực hiện đa phương hóa
đa dạng hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại ,rút ngắn khoảng cách so với các nước
trong khu vực và quốc tế.
5. Nâng cao vai trị và hiệu lực quản lí của nhà nước ở Việt Nam
16


Đại hội Đảng X đã xác định các chức năng Nhà nước nhà nước phải làm
tốt ;yêu cầu phải thực hiện giải pháp đề phòng ,chống tham nhũng trong bộ máy nhà
nước,nâng cao vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường nhằm đưa nền kinh
tế nước ta phát triển sánh vai với các cường quốc năm châu như Bác đã mong
muốn.
Để sớm cụ thể hóa và thể chế hóa những chủ trương lớn và hết sức quan
trọng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ,cần tiếp tục
tổng kết thực tiễn ,đẩy mạnh nghiên cứu tìm tịi đổi mới ,trên cơ sở đó có những
chính sách đột phá phù hợp.Nhà nước sử dụng các công cụ để điều tiết nền kinh tế
là các chính sách tiền tệ,trao đổi quốc tế ,ngân sách,các biện pháp điều chỉnh doanh
nghiệp quốc doanh.Trước mắt chúng ta cần:
(1)Nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Từ thực tiễn 20 năm đổi mới ,một trong những bài học lớn Đại hội
Đảng X đã rút ra đó là phải kiên định mục tiêu đọc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
trên nền tảng chủ nghĩa Hồ Chí Minh .Đổi mới khơng phải từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa

xã hội mà làm cho chủ nghĩa đúng đắn hơn và xây dựng có hiệu quả hơn.
(2)Phát triển đồng bộ và quản lí có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường
cơ bản thế mạnh
Đại hội đảng X cũng chỉ rõ phương hướng phát triển và quản lí các loại thị
trường cơ bản như tài chính ,bất động sản ,sức lao động khoa học và công
nghệ;vớiv hệ tư tưởng xuyên suốt là :hệ thống kinh tế pháp luật về thị trường ,tạo
lập đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường diễn ra phù hợp với các
nguyên tắc của thị trường và thông lệ quốc tế .Đồng thời phải tăng cương vai trò tổ
chức của bộ máy nhà nước ,tăng cường vai trị điều tiết vĩ mơ
Của nhà nước, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển ,không can thiệp trực tiếp vào sản
xuất kinh doanh.
(3)Tiếp tục đổi mới cơ chế ,chính sách để phát triển mạnh và có hiệu quả các loại
hình sở hữu ,các thành phần kinh tế trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Phải đề ra các cơ chế chính sách để các doanh nghiệp chủ động trong môi
trường cạnh tranh ,công khai minh bạch ,nâng cao hiệu quả hoạt động của các
doanh nghiệp nhà nước và tư nhân ,các loại hình liên kết và liên doanh;cải thiện
mơi trường pháp lí và kinh tế ‘đa dạng hóa các hình thức và cơ chế để thu hút đươc
đầu tư nước ngoài vào những lĩnh vực kinh doanh quan trọng ,không can thiệp trực
tiếp vào sản xuất kinh doanh.Một số đia phương đã làm tốt được điều đó như khu
cơng nghiệp Bình Dương,thành phố Hồ Chí Minh,khu cơng nghiệp Nam Thăng
Long ..
(4)Tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế nhằm chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế theo chiến lược phát triển đất nước.

17


Để tạo bước ngoặt về hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động kinh tế đối ngoại
phải khẩn trương đổi mới thể chêa kinh tế phải hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo
đảm lợi ích quốc gia tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, chú trọng cải cách hành

chinhs tạo lập những điều kiện thuận lợi hơn nữa để thu hút mạnh các nguồn vốn
quốc tế đầu tư trực tiếp gián tiếp và các nguônnn quốc tế khác.

18


C. KẾT LUẬN
Qua việc nghiên cứu lí luận nhà nước và vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị
trường ta thấy được vị trí vai trị hết sức quan trọng của các chính sách vi mơ,vĩ mơ
của nhà nước nhằm điều tiết nền kinh tế để thực hiện các mục tiêu đã đề ra.Đặc biệt
là trong xu thế hội nhập và mở cửa của thế giới hiện nay thì mỗi nước phải phát huy
vai trị năng động của mình .Là nước
Đi sau chúng ta cần phải tiếp thu và học hỏi những thânh tựu của những nước phát
triển đi trước thực hiện đi tắt đón đầu rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu
vực và trên thế giới.Nhờ có sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước : nước ta từ một
nước nông nghiệp lạc hậu thiếu ăn nay đã xuất khẩu gạo và đứng thứ 2 trên thế
giới,tốc độ tăng trương kinh tế năm 2006 là 8.2% ,được đánh giá là nền kinh tế năng
động trong khu vực…Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn cịn tồn tại khuyết điểm yếu kém
như tình trạng tham nhũng cửa quyền ,thủ tục hành chính rườm rà,hệ thống pháp
luật cịn lỏng lẻo…Chúng ta cần phải sửa đổi để nâng cao vai trị của nhà nước
đồng thời kích thích tính năng động của thị trường thu hút vốn đầu tư nước
ngoài,xây dựng các đặc khu kinh tế như: Chu Lai,Bình Dương…Là thế hệ trẻ của
đất nước em thấy mình cần phải học tập trau dồi tri thức để làm giàu không chỉ cho
bản thân mà cịn cho đất nước, góp phần xây dựng nước Việt Nam dân chủ cộng
hịa,xã hội cơng bằng văn minh.

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.

Giáo trình Kinh tế chính trị Mác_Lênin.
Giáo trình triết học Mác_Lênin.
Vai trị của nhà nước trong phát triển kinh tế.
Giáo trình lịch sử các học thuyết kinh tế.
www1.mot.gov.vn.
www.quehuong.org.vn.
www.cpv.org.vn.

20


MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................................................1
B.NỘI DUNG............................................................................................................................2
1.Nguồn gốc và bản chất của nhà nước..........................................................................2
1.1. Nguồn gốc của nhà nước.....................................................................................2
1.2. Bản chất của nhà nước........................................................................................2
2. Đặc trưng cơ bản của nhà nước..................................................................................3
2.1.Nhà nước quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định................................3
2.2. Nhà nước có bộ máy quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng chế đối với
mọi thành viên trong xã hội........................................................................................3
2.3. Nhà nước hình thành hệ thống thuế khố để duy trì và tăng cường bộ máy cai

trị................................................................................................................................3
3.Chức năng của nhà nước.............................................................................................3
3.1. Chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội.........................4
3.2. Chức năng đối nội và đối ngoại...........................................................................4
4.Các kiểu và hình thức..................................................................................................5
4.1. Các kiểu hình thức nhà nước trong lịch sử..........................................................5
4.2. Hình thức nhà nước.............................................................................................6
5. Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là cột trụ của hệ thống chính trị, là
cơng cụ thực hiện quyền lực của nhân dân, là tổ chức thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam...............................7
1.Vai trò của nhà nước qua các giai đoạn lịch sử...........................................................8
2.Vai trị quản lí của nhà nước trong nền kinh tế thị trường...........................................9
2.1 . Xây dựng một hệ thống chính sách vĩ mơ ổn định , hợp lí...............................11
2.2. Vai trị tạo lập mơi trường kinh doanh thuận lợi, an tồn và bình đẳng............12
2.3, Vai trị bảo hộ....................................................................................................13
2.4,Vai trị can thiệp,điều chỉnh, bổ sung thị trường................................................13
3,Sự cần thiết phải chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước XHCN
Việt Nam.......................................................................................................................14
4, Đặc trưng ,bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.....15
5. Nâng cao vai trị và hiệu lực quản lí của nhà nước ở Việt Nam...............................16

21



×