Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Giao an Ngu Van 9 Tuan 13 s Thanh Nguyen

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.41 KB, 26 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>TUẦN 13 Ngày soạn:……………………………... TIẾT 61 Ngày dạy:……………………………… Tập làm văn LUYỆN TẬP VIẾT ĐOẠN VĂN TỰ SỰ CÓ SỬ DỤNG YẾU TỐ NGHỊ LUẬN I. MỨC ĐỘ CẦN ĐẠT: Giúp HS - Cảm nhận được tình cảm, cảm xúc chân thành của nhân vật trữ tình người cháu và hình ảnh người bà giàu tình thương, giàu đức hy sinh của bài thơ Bếp lửa. - Thấy được nghệ thuật diễn tả cảm xúc thông qua hồi tưởng kết hợp miêu tả, tự sự, bình luận của tác giả I. TRỌNG TÂM, KIẾN THỨC, KĨ NĂNG, THÁI ĐỘ. 1. Kiến thức: Đoạn văn tự sự. - Các yếu tố nghị luận trong văn bản tự sự 2. Kĩ năng: Viết đoạn văn tự sự có sử dụng yếu tố nghị luận với độ dài tên 90 chữ. - Phân tích được tác dụng của yếu tố lập luận trong đoạn văn tự sự II. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC: 1. Ổn định lớp: Kiểm tra sĩ số. 9A1/ (Vắng : . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . ) 9A3/ (Vắng: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .) 9A2/ (Vắng : . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . ) 9A5/ (Vắng: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .) 2. Kiểm tra:  Nghị luận là gì? Trong văn tự sự, yếu tố nghị luận thường xuất hiện ở đâu? Bằng những hình thức gì? - Là văn được viết ra nhằm xác lập cho người đọc, người nghe một tư tưởng, một quan điểm nào đó.  Để nghị luận trong văn bản tự sự được chặt chẽ, hợp lí, người ta thường dùng các từ, các câu gì? 3. Bài mới: Các tiết học trước đã giúp các em biết về nội dung, hình thức và cách lập luận. Tiết học hôm nay, chúng ta sẽ tiến hành viết đọan văn nghị luận. HOẠT ĐỘNG CỦA THẦY - TRÒ NỘI DUNG GHI BẢNG Hoạt động 1: Hướng dẫn học sinh Tìm hiểu yếu tố nghị I. THỰC HÀNH TÌM HIỂU YẾU TỐ NGHỊ LUẬN luận trong văn bản tự sự. TRONG ĐOẠN VĂN TỰ SỰ: + GV cho HS đọc yêu cầu VD1. (S/160) Đọc đoạn văn: VD1. (S/160) Đọc đoạn văn sau: LỖI LẦM VÀ SỰ BIẾT ƠN LỖI LẦM VÀ SỰ BIẾT ƠN Hai người bạn cùng đi qua sa mạc. Trong chuyến Hai người bạn cùng đi qua sa mạc. Trong chuyến đi, giữa hai người có xảy ra một cuộc tranh luận, và một đi, giữa hai người có xảy ra một cuộc tranh luận, và một người nổi nóng không kiềm chế được mình đã nặng lời người nổi nóng không kiềm chế được mình đã nặng lời miệt thị người kia. Cảm thấy bị xúc phạm, anh không miệt thị người kia. Cảm thấy bị xúc phạm, anh không nói gì, chỉ viết lên cát: “Hôm nay người bạn tốt nhất nói gì, chỉ viết lên cát: “Hôm nay người bạn tốt nhất của tôi đã làm khác đi những gì tôi nghĩ”. của tôi đã làm khác đi những gì tôi nghĩ”. Họ đi tiếp, tìm thấy một ốc đảo, và quyết định đi Họ đi tiếp, tìm thấy một ốc đảo, và quyết định đi bơi. Người bị miệt thị lúc nãy bây giờ bị đuối sức và bơi. Người bị miệt thị lúc nãy bây giờ bị đuối sức và chìm dần xuống. Người bạn kia đã tìm cách cứu anh. chìm dần xuống. Người bạn kia đã tìm cách cứu anh. Khi đã lên bờ, anh lấy một miếng kim loại khắc lên đá: Khi đã lên bờ, anh lấy một miếng kim loại khắc lên đá: “Hôm nay người bạn tốt nhất của tôi đã cứu sống tôi”. “Hôm nay người bạn tốt nhất của tôi đã cứu sống tôi”. Người kia hỏi: “Tại sao khi tôi xúc phạm anh, anh Người kia hỏi: “Tại sao khi tôi xúc phạm anh, anh viết lên cát, còn bây giờ anh lại khắc lên đá ?” viết lên cát, còn bây giờ anh lại khắc lên đá ?” Anh ta trả lời: “Những điều viết lên cát sẽ mau Anh ta trả lời: “Những điều viết lên cát sẽ mau chóng xóa nhòa theo thời gian, nhưng không ai có thể chóng xóa nhòa theo thời gian, nhưng không ai có thể xóa được những điều tốt đẹp đã được ghi tạc trên đá, xóa được những điều tốt đẹp đã được ghi tạc trên đá, trong lòng người”. trong lòng người”. Vậy mỗi chúng ta hãy học cách viết những nỗi Vậy mỗi chúng ta hãy học cách viết những nỗi đau buồn, thù hận lên cát và khắc ghi những ân nghĩa đau buồn, thù hận lên cát và khắc ghi những ân nghĩa lên lên đá. đá. (Hạt giống tâm hồn, tập 4 (Hạt giống tâm hồn, tập 4 NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2004) NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2004) + GV cho HS đọc yêu cầu VD2. (S/160) Trả lời câu hỏi: VD2: S/160. Trong đoạn văn trên yếu tố nghị luận thể hiện ở những - Các yếu tố nghị luận:.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> câu văn nào? Chỉ ra vai trò của các yếu tố ấy trong việc làm nổi bật nội dung của đoạn văn.. Hoạt động 2: Thực hành viết đoạn văn tự sự có sử dụng yếu tố nghị luận. + GV cho HS đọc yêu cầu BT1. (S/161) Viết đoạn văn kể lại buổi sinh hoạt lớp. Trong buổi sinh hoạt đó, em đã phát biểu ý kiến để chứng minh Nam là một người bạn rất tốt. Bài văn tham khảo: Sáng nay, trong buổi sinh hoạt lớp với chủ đề " Ai là người bạn tốt nhất?", lớp trưởng Cẩm Tú sau khi nhận xét chung tình hình của lớp trong tháng, bạn đã thông qua kết quả đánh giá 5 người bạn tốt nhất do các tổ bình bầu. Cẩm Tú vừa dứt lời, cả lớp vỗ tay đồng thanh nhất trí. Nhưng riêng lòng tôi cứ day dứt về trường hợp của Nam. Nam không được Ban cán bộ lớp xét duyệt vì lý do bạn đi học muộn một buổi trong tuần chào mừng ngày NGVN. Sau khi cân nhắc, suy nghĩ, tôi quyết định phát biểu ý kiến của mình về trường hợp của Nam. Tôi nói: - Thưa các bạn, lớp ta ai cũng biết Nam là một học sinh học giỏi, một cán bộ lớp hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Nam vốn ít nói, nhưng lại rất chan hoà với bạn, sẵn sàng giúp đỡ các bạn một cách âm thầm như giảng lại bài cho bạn Thanh bị ốm, đưa Vân về tận nhà khi xe bạn bị hỏng giữa trưa hè, chân thành, tế nhị góp ý khi bạn chưa nghiêm túc trong giờ kiểm tra ... Lý do Nam đi học muộn cũng bởi sáng hôm đó, trên đường đi học bạn đã giúp em Hà lớp 6B bị ốm bất thường cấp cứu vào bệnh viện. Tôi nghĩ: người bạn tốt là người không những biết chia sẻ khó khăn với bạn bè, sẵn sàng giúp đỡ người khác mà còn dám thẳng thắn phê bình giúp bạn tiến bộ. Tôi khẳng định: Nam là người bạn rất tốt của chúng ta! Tôi vừa dứt lời, cả lớp hướng về phía Nam vỗ tay rào rào tán thưởng. Thậm chí có bạn còn đề nghị Nam là đội viên xuất sắc trong đợt thi đua này. Vâng, phẩm chất người bạn tốt phải thể hiện từ ý nghĩ, cử chỉ đến việc làm cụ thể chứ đâu phải chỉ ở lời nói! + GV cho HS đọc yêu cầu BT2. (S/161) Viết đoạn văn kể về những việc làm hoặc những lời dạy bảo giản dị mà sâu sắc của người bà kính yêu đã làm cho em cảm động ( trong đoạn văn có sử dụng yếu tố nghị luận). Có thể tham khảo văn bản sau đây: BÀ TÔI (Trích) Tôi ngẩng cao đầu mới thấy tuổi của bà; chứ cứ nhìn bà chặt củi, nhổ sắn, nhìn bà đứng, bà đi mà không ai biết bà đã gần bảy mươi. Bà làm nhanh, đi nhanh, lưng. + "Những điều viết lên cát.... trong lòng người". + "Vậy muốn chúng ta hãy... khắc ghi những ân nghĩa lên đá". - Tác dụng : Làm cho câu chuyện giàu tính triết lí và có ý nghĩa giáo dục cao. - Bài học về sự bao dung, lòng nhân ái biết tha thứ và ghi nhớ ân tình ân nghĩa. II. THỰC HÀNH VIẾT ĐOẠN VĂN TỰ SỰ CÓ SỬ DỤNG YẾU TỐ NGHỊ LUẬN: Bài tập 1. (S/161) Thứ 7 tuần trước, Lan bị mất chiếc máy mp3, Lan vội vàng nghi Nam lấy cắp nó. Lan nói rằng Nam ngồi gần và trong giờ ra chơi chỉ có Nam tỏng lớp nên mới có cơ hội lấy cắp nhưng tôi biết Lan nghi Nam lấy chỉ vì gia đình Nam rất khó khăn, bần cùng. Đến tiết Sinh hoạt lớp, Lan lại còn nói với cô Hằng GVCN lớp tôi. Các bạn trong lớp đều tin rằng điều Lan nói là có cơ sở. Mọi người bàn tán xôn xao. Nam có giải thích nhưng không ai nghe. Tôi bức xúc, thấy ức, thấy giận thay Nam. Tôi biết Nam không bao giờ làm điều đó. Tôi đứng dậy, nói : "Các bạn không chịu nghe Nam nói, không có bằng chứng thì đừng vội đổ tội cho người khác. Nam là người nhút nhát, khép kín chỉ vì các bạn không chịu mở lòng, luôn coi thường Nam vì gia đình bạn ý nghèo, khó khăn, mẹ là lao công, bố là công nhân sao? Lan nghi Nam lấy cắp mp3 à? Thế bạn không nhớ sáng hôm qua đã cho Huy lớp bên mượn à?" Lan bàng hoàng nhớ lại, vẻ mặt ngượng ngùng, cúi mặt không nói một lời. Tôi tiếp "Các bạn có biết Nam vẫn thường xuyên giúp đỡ những em bé đường phố học chữ không? Việc nhà, việc học, lại còn việc dạy chữ nữa, ấy thế mà Nam năm nào cũng là học sinh giỏi. Đó không phải tấm gương hay sao? Chỉ nhìn bề ngoài, hoàn cảnh mà vội đánh giá người khác thì có quá đáng không? Để nhận xét một người, các bạn không nên chỉ nhìn vẻ bề ngoài. Đó chính là điều tôi và các bạn cần học đấy!" Tôi ngồi xuống, im lặng. Buổi sinh hoạt trôi qua nặng nề nhưng tôi biết, cả lớp đều đang suy ngẫm.. Bài tập 2. (S/161) Mỗi năm cứ vào cuối thu ngoài trời se lạnh thì tôi lại nhớ đến hình ảnh bà tôi ngồi đan áo ấm cho tôi. Người bà giản dị nhưng lại có một đức tính cao cả. Từ nhỏ tôi đã sống với bà vì ba mẹ phải đi làm ăn xa để lại quê nhà quạnh hiu cùng hai bà cháu. Ở với bà tôi được dạy bao nhiêu điều bổ ích. Bà thường bảo làm người phải biểt “Uống nước nhớ nguồn” cháu ạ. Bà còn bảo: Chim có tổ, người có tông và ta không nên quên đi nguồn cội của mình, nơi mà ta đã cất tiếng khóc chào.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> thẳng. Bà không hút thuốc lào như u tôi, không ăn giầu. Bà như một chiếc bóng; lặng lẽ, đi không ai biết, về không ai hay. Bà tất bật, khi đi giồng sắn ở trại, lúc rẫy ràng ràng, khi đi bắt cua bán, lúc cấy thuê. Có lần bà bỏ nhà bốn năm ngày. Tôi hỏi Lĩnh, nó rớm nước mắt. Tuần phu đi rầm rập bắt thuế. Trống dồn sôi cả bụng, đập thình thịch vào cái ngực bé nhỏ của tôi. Cả làng đã im ắng. Bà như chiếc bóng giở về. Ít khi tôi thấy bà nói chuyện nói trò với ai ngoài các cháu ra. Ít khi tôi thấy bà đôi co với ai. Dân làng bảo bà hiền như đất. Nói cho đúng, bà hiền như chiếc bóng. Nếu ai lành chanh lành chói bà rủ rỉ khuyên. Bà nói nhiều bằng ca dao, tục ngữ. Những chị mồm năm miệng mười, sau khi bà khuyên chỉ còn mồm một, miệng hai. Người ta bảo: "Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà". Bà như thế thì chúng tôi hư làm sao được. […] Bà tôi có học hành gì đâu, một chữ cắn đôi không biết. Bà lặng lẽ; cứ tưởng bà không biết gì. Bà thuộc như cháo hàng trăm hàng nghìn câu ca. Bà nói những câu sao mà đúng thế. Bà bảo u tôi: Dạy con từ thuở còn thơ Dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về Người ta như cây. Uốn cây phải uốn từ non. Nếu để lớn lên mới uốn, nó gãy. (Theo Duy Khán, Tuổi thơ im lặng, NXB Kim Đồng, Hà Nội, 1996). đời, nơi chôn nhao cắt rúng... Tất cả những điều ấy làm tôi không thể nào quên và nó đã theo tôi trong suốt cuộc đời... Hoặc: Bố mẹ tôi đều làm ruộng nên ngày ấy nhà tôi nghèo lắm. Bấy giờ, bà nội tôi tuy tuổi đã cao, những vẫn còn khoẻ mạnh nên bà thường đỡ đần bố mẹ tôi công việc nội trợ, bếp núc. Bà tôi bảo : “Đối với con người, hạt gạo là quí giá nhất !”. Mỗi lần đong gạo từ thùng ra cái rá, bà tôi thường làm rất thong thả, cẩn thận : không bao giờ để vương vãi hạt nào ra ngoài. Một lần bà tôi bị mệt nên tôi phải lo chuyện cơm nước. Khi tôi bê cái rá gạo ra cửa, chẳng may trượt chân, nhưng vẫn gượng gạo đi, chỉ có vài ba hạt gạo văng ra ngoài. Tôi thản nhiên đi xuống bếp nấu cơm. Xong việc, tôi định bụng khoe với bà về cái sự giỏi giang của mình thì … Tôi bỗng đứng sững… Bà tôi đang chống gậy dò đi từng bước để nhặt các hạt gạo vương vãi trên nền nhà… Tôi vội chạy lại đỡ bà, nói : “Bà ơi có mấy hạt gạo bõ bèn gì mà bà phải khổ sở thế ?”. Bà tôi thều thào : “Cháu ơi… thóc gạo là Đức Phật đấy… Không có nó thì cũng chẳng có ai hương khói nơi cửa Phật đâu…”. Lúc ấy, tôi chưa hiểu câu nói của bà lắm, nhưng bây giờ tôi đã hiểu… Suốt một đời tần tảo lam lũ, bà tôi không có gì cả đâu, ngoài những hạt thóc do chính bà làm ra bằng một nắng hai sương và cũng chính do bà xay, giã, giần, sàng ? Hoặc: * Bà nội rất quan tâm đến chúng tôi . Mỗi khi thấy hai chị em tôi ngồi học bài, bà bảo: “ Các cháu phải ráng mà học hành cho giỏi giang. Ngày xưa, bà và bố mẹ các cháu chẳng được học hành chu đáo, nên bây giờ các cháu phải học thay cho cả bà và cha mẹ đấy!”. Buổi tối, bà thường kể chuyện cho chúng tôi nghe. Qua lời bà kể nhỏ nhẹ, chị em tôi rất dễ hình dung ra người hiền, kẻ ác trong từng câu chuyện và dần dần hiểu được thế nào là lẽ phải, là lẽ công bằng, là đạo lí ở trên đời.. IV. HƯỚNG DẪN TỰ HỌC: - Hướng dẫn HS về nhà: - Hoàn thành các bài tập. - Đọc , soạn văn bản “Làng”.. TUẦN 13 TIẾT 62, 63 Văn bản. Ngày soạn:……………………………... Ngày dạy:………………………………. LÀNG (Trích) ---Kim Lân---.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> Buổi trưa hôm ấy ông Hai ở nhà một mình. Con bé lớn gánh hàng ra quán cho mẹ chưa thấy về. Hai đứa bé thì ông cắt chúng nó ra vườn trông mấy luống rau mới cấy lại chẳng gà vặt hết. Ông Hai hì hục vỡ một vạt đất rậm, ngoài bờ suối từ sáng đến giờ, ông tính để trồng thêm vài trăm gốc sắn ăn vào những tháng đói sang năm. Có một mình, ông phải làm cố, hai vai mỏi nhừ. Ông nằm vật lên giường vắt tay lên trán nghĩ ngợi vẩn vơ. Ông lại nghĩ về cái làng của ông, lại nghĩ đến những ngày cùng làm với anh em. A, sao mà độ ấy vui thế. Ông thấy mình như trẻ ra. Cũng hát hỏng, bông phèng, cũng đào, cũng cuốc mê man suốt ngày. Trong lòng ông lão lại thấy náo nức hẳn lên. Ông lại muốn về làng, lại muốn được cùng anh em đào đường đắp ụ, xẻ hào, khuân đá… Không biết cái chòi gác ở đầu làng đã dựng xong chưa? Những đường hầm bí mật chắc là còn khướt lắm. Chao ôi! Ông lão nhớ làng, nhớ cái làng quá. Bên ngoài, ánh nắng rọi xuống mặt sân sáng lóa, có mấy tiếng gà trưa cất lên eo óc. Gian nhà càng như lịm đi, mờ mờ hơi đất. Giờ này là mụ chủ sắp đi làm đồng về đây. ông lại sắp phải nằm trong này mà nghe mụ chửi con mắng cái, kêu vại nước chóng cạn, cái bếp bừa bộn nheo nhéo lên đây. Tấm liếp che cửa bỗng kêu lạch xạch, gian nhà sáng bừng lên. Ông Hai giật mình, ngóc đầu nhìn ra. Đứa con gái lớn gồng đôi thúng không bước vào. Ông cất tiếng hỏi: - Ở ngoài ấy làm gì mà lâu thế mày? Không để đứa con kịp trả lời, ông lão nhỏm dậy vơ lấy cái nón: - Ở nhà trông em nhá! Đừng có đi đâu đấy. ông lão giơ tay chỉ lên nhà trên: - Nó thì rút ruột ra, biết chửa! Dứt lời ông bước vội ra ngoài. Trời xanh lồng lộng, có những tảng mây sáng chói, lừ đừ. Đường vắng hẳn người qua lại. Họ rạt cả vào các khoảnh bóng cây tránh nắng. Một vài tiếng động nhẹ khẽ gợn lên, oi ả. Ông Hai đi nghênh ngang giữa đường vắng, cái đầu cung cúc lao về phía trước. Hai tay vung vẩy, nhấp nhổm. Gặp ai quen ông Hai cũng níu lại cười cười: - Nắng này là bỏ mẹ chúng nó! Có người bỡ ngỡ hỏi lại: “Chúng nó nào?”. Thì ông lão bật cười, giơ tay trỏ về phía tiếng súng: -Tây ấy chứ còn chúng nó nào nữa. Ngồi trong vị trí giờ bằng ngồi tù. Dứt lời, ông lão lại đi, làm như đang bận nhiều công việc lắm. Cũng như mọi hôm, việc đầu tiên là ông vào phòng thông tin nghe đọc báo. Ông cứ đứng vờ vờ xem tranh ảnh chờ người khác đọc rồi nghe lỏm. Điều này ông khổ tâm hết sức. Ông cũng đã có học được một khóa bình dân học vụ ở làng, cũng đã biết đọc, biết viết. Nhưng chữ in khó nhận mặt chữ, ông đọc nó cứ bập bõm, câu được câu chăng, mà chả lẽ cứ nghếch cổ lên giữ chịt lấy tờ báo không cho người khác xem nữa? Ông ghét thậm những anh cậy ta đây lắm chữ đọc báo lại cứ đọc thầm một mình, không đọc ra thành tiếng cho người khác nghe nhờ mấy. Hôm nay may quá, vớ được anh dân quân đọc rất to, dõng dạc, rành rọt từng tiếng một, cơ chừng anh ta cũng mới học, đánh vần được chữ nào anh ta đọc luôn chữ ấy. Ông lão nghe chẳng sót một câu nào. Bao nhiêu là tin hay. Một em nhỏ trong ban tuyên truyền xung phong bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm cắm quốc kỳ lên Tháp Rùa. “Đấy, cứ kêu chúng nó trẻ con mãi đi, liệu đã bằng chúng nó chưa?” Một anh trung đội trưởng sau khi giết được bảy tên giặc đã tự sát bằng một quả lựu đạn cuối cùng. Đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người đi mua hàng đã bắt sống một tên quan hai bốt Thao ngay giữa chợ. “Khiếp thật, tinh những người tài giỏi cả”. Lại còn bao nhiêu tin đột kích nữa, chỗ này giết được năm Pháp với hai Việt gian; chỗ kia phá đổ được một xe tăng và một xe díp. “Cứ thế, chỗ này giết một tí, chỗ kia giết một tí, cả súng ống cũng vậy, hôm nay dăm khẩu, ngày mai dăm khẩu, tích tiểu thành đại làm gì mà rồi thằng Tây không bước sớm”. Ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá! Ông lão náo nức bước ra khỏi phòng thông tin, rẽ vào quán dặn vợ mấy việc rồi đi thẳng ra lối huyện cũ. Ở đây, những tốp người tản cư mới ở dưới xuôi lên đứng ngồi lố nhố cả ở dưới mấy gốc đa sù sì, cành lá rườm rà ken vào nhau, rải xuống mặt đường và bãi cỏ một vùng bóng mát rộng. Ông lão ngồi vào một cái quán gần đấy. Hút một điếu thuốc lào, uống một hụm chè tươi nóng, ông chóp chép cái miệng ngẫm nghĩ: bao nhiêu ý nghĩ vui thích chen chúc trong đầu óc. Tiếng quạt, tiếng thở, tiếng trẻ con khóc, cùng với tiếng cười nói của cánh đi phá đường về râm ran một góc đường. Dưới chân đồi, những thửa ruộng lúa xanh mượt, uốn quanh co dưới trời nắng, lấp loáng như một khúc sông. Có mấy bóng cò trắng bay dật dờ… - Các ông các bà ở đâu ta lên đấy ạ? Ông Hai đặt bát nước xuống chõng hỏi. Một người đàn bà mau miệng trả lời: - Thưa ông chúng cháu ở Gia Lâm lên đấy ạ. Đi bốn năm hôm mới lên đến đây vất vả quá! - Ở Gia Lâm lên ạ? Lúa má dưới ta thế nào, liệu có cấy được không bác? - Chả cấy thì lấy gì mà ăn. Cấy tất ông ạ. Chân ruộng dưới chúng cháu còn tốt hơn trên này nhiều..

<span class='text_page_counter'>(5)</span> - Thì vưỡn! Lúa dưới ta vưỡn tốt nhiều chứ. Ông lão rít một hơi thuốc lào nữa, gật gù cái đầu: “Hừ, đánh nhau cứ đánh nhau, cày cấy cứ cày cấy, tản cư cứ tản cư… Hay đáo để.” - Này bác có biết mấy hôm nay súng nó bắn ở đâu mà nghe rát thế không? Một người đàn bà cho con bú mé bên kia nói xen vào: - Nó rút ở Bắc Ninh về qua chợ Dầu nó khủng bố ông ạ. Ông Hai quay phắt lại lắp bắp hỏi: - Nó… Nó vào chợ Dầu hở bác? Thế ta giết được bao nhiêu thằng? Người đàn bà ẵm con cong môi lên đỏng đảnh: - Có giết được thằng nào đâu. Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây còn giết gì nữa. Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được. Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, ông cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi: - Liệu có thật không hở bác? Hay là chỉ lại… - Thì chúng tôi vừa ở dưới ấy lên đây mà lại. Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi cơ ông ạ. Tây vào làng chúng nó bảo nhau vác cờ thần ra hoan hô. Thằng chánh Bệu thì khuân cả tủ chè, đỉnh đồng, vải vóc lên xe cam nhông, đưa vợ con lên vị trí với giặc ở ngoài tỉnh mà lại. Có người hỏi: - Sao bảo làng chợ Dầu tinh thần lắm cơ mà?… - Ấy thế mà bây giờ đổ đốn ra thế đấy! Ông Hai trả tiền nước, đứng dậy, chèm chẹp miệng cười nhạt một tiếng, vươn vai nói to: - Hà, nắng gớm, về nào… Ông lão vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác, rồi đi thẳng. Tiếng cười nói xôn xao của đám người mới tản cư lên ấy vẫn dõi theo. Ông nghe rõ cái giọng chua lanh lảnh của người đàn bà cho con bú: - Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó! Đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương. Cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát! Ông Hai cúi gằm mặt xuống mà đi. Ông thoáng nghĩ đến mụ chủ nhà. Về đến nhà, ông Hai nằm vật ra giường, mấy đứa trẻ thấy bố hôm nay có vẻ khác, len lén đưa nhau ra đầu nhà chơi sậm chơi sụi với nhau. Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ tràn ra… Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu… ông lão nắm chặt hai tay lại và rít lên: - Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này! Ông lão bỗng ngừng lại, ngờ ngợ như lời mình nói không được đúng lắm. Chả nhẽ cái bọn ở làng lại đốn đến thế được. Ông kiểm điểm từng người trong óc. Không mà, họ toàn là những người có tinh thần cả mà. Họ đã ở lại làng. Quyết tâm một sống một chết với giặc, có đời nào lại can tâm làm điều nhục nhã ấy!… Nhưng sao lại nẩy ra cái tin như vậy được? Mà thằng chánh Bệu thì đích thị là người làng không sai rồi. Không có lửa thì sao có khói? Ai người ta hơi đâu bịa tạc ra những chuyện ấy làm gì. Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian! Rồi đây biết làm ăn, buôn bán ra sao? Ai người ta chứa. Ai người ta buôn bán mấy. Suốt cả cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước… Lại còn bao nhiêu người làng, tan tác mỗi người một phương nữa không biết họ đã rõ cái cơ sự này chưa?… Chiều hôm ấy bà Hai về cũng có vẻ khác. Bà bước uể oải, cái mặt cúi xuống bần thần. Đôi quang thúng thõng thẹo trên hai mấu đòn gánh. Bà đi thẳng vào trong nhà lúi húi xếp hàng vào một xó, rồi lẳng lặng ra bậc cửa ngồi ôm má nghĩ ngợi. Trẻ con cũng không đứa nào dám vòi quà. Trong nhà có cái im lặng thật là khó chịu, không ai dám cất tiếng lên nói, cả đến nhìn nhau họ cũng không dám nhìn nhau nữa. Mãi khuya, bà Hai mới chống gối đứng dậy. Bà lẳng lặng xuống bếp châm lửa ngồi tính tiền hàng. Vẫn những tiền cua, tiền bún, tiền đỗ, tiền kẹo… Vẫn cái giọng rì rầm, rì rầm thường ngày. - Này thày nó ạ. Ông Hai nằm rũ ra trên giường không nói gì. - Thày nó ngủ rồi à? - Gì? Ông lão khẽ nhúc nhích: - Tôi thấy người ta đồn….

<span class='text_page_counter'>(6)</span> Ông lão gắt lên: - Biết rồi! Bà Hai nín bặt. Gian nhà lặng đi, hiu hắt. ánh lửa vàng nhờ nhờ ở ngọn đèn dầu lạc vờn trên nét mặt lo âu của bà lão. Tiếng thở của ba đứa trẻ chụm đầu vào nhau ngủ nhẹ nhàng nổi lên, nghe như tiếng thở của gian nhà. - Thế nhưng người ta đồn trên này người ta không chứa những người chợ Dầu nữa thầy nó ạ. Nghe ngóng một chút, không thấy chồng trả lời, bà lão lại cúi xuống lầm bầm tính. Nét mặt bà lặng đi, chịu đựng và nhẫn nhục. Bên gian bác Thứ đã ngủ từ lâu, chung quanh đều im lặng… Một vài tiếng chó nhúc nhắc sủa phía xa, và có tiếng trẻ khóc văng vẳng trong tiếng gió. Ông Hai vẫn trằn trọc không sao ngủ được. Ông hết trở mình bên này lại trở mình bên kia, thở dài. Chợt ông lão lặng hẳn đi, chân tay nhủn ra, tưởng chừng như không cất lên được… Có tiếng nói léo xéo ở gian trên. Tiếng mụ chủ… Mụ nói cái gì vậy? Mụ nói cái gì mà lào xào thế? Trống ngực ông lão đập thình thịch. Ông lão nín thở, lắng tai nghe ra bên ngoài… Bà Hai bỗng lại cất tiếng: - Thầy nó ngủ rồi ư? Dậy tôi bảo cái này đã. Ông Hai bật ngóc đầu dậy, giơ tay trỏ lên nhà trên, ông sít hai hàm răng lại mà nghiến: - Im! Khổ lắm! Nó mà nghe thấy lại không ra cái gì bây giờ. Ông lão lại ngả mình nằm xuống, không nhúc nhích. Đã ba bốn hôm nay, ông Hai không bước chân ra đến ngoài, cả đến bên bác Thứ ông cũng không dám sang. Suốt ngày ông chỉ quanh quẩn ở trong cái gian nhà chật chội ấy mà nghe ngóng. Nghe ngóng xem binh tình bên ngoài ra sao? Một đám đông xúm lại ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam nhông… là ông lủi ra một góc nhà, nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi! Nhưng còn cái này nữa mà ông sợ, có lẽ còn ghê hơn cả những tiếng kia nhiều. Ấy là mụ chủ nhà. Từ ngày xảy ra chuyện ấy, hình như mụ ta lấy điều làm cho vợ chồng ông khổ ngấm khổ ngầm là mụ thích. Sáng chiều bốn buổi đi làm đồng về, mụ kéo lê cái nạo cỏ quèn quẹt dưới đất, qua cửa, mụ nhòm vào nói những câu bóng gió xa xôi, như khía vào thịt ông lão. Thôi thì bây giờ thế nào mà chả phải chịu. Có được chỗ chui ra chui vào là may lắm rồi. Mỗi lần mụ nói, ông lão chỉ cười gượng làm như không biết chuyện gì. Ông thì muốn lặng đi như thế, nhưng mụ chủ nhà có để cho ông yên đâu. Sáng hôm nay lúc bà Hai sắp sửa quang gánh ra hàng thì mụ chủ nhà không biết đi đâu về, mụ đứng dạng háng ở ngoài sân nói chõ vào: - Bà lão chưa đi hàng cơ à? Muộn mấy?… - Chưa bà ạ. Mời bà vào chơi trong này. - Vâng bà để mặc em… à bà Hai này!… Mụ chạy sát vào bực cửa, thân mật: - Trên này họ đồn giăng giăng ra rằng thì là làng dưới nhà ta đi Việt gian theo Tây đấy, ông bà đã biết chưa nhỉ? … Nghe nói, bảo có lệnh đuổi hết những người làng chợ Dầu khỏi vùng này không cho ở nữa. Mụ chủ chép miệng, giọng ngọt xớt: - Em cứ khó nghĩ quá… ông bà cũng là người làm ăn tử tế cả. Nhưng mà có lệnh biết làm thế nào. Đành nhẽ là ông bà kiếm chỗ khác vậy… Này, ở với nhau đang vui vẻ, ông bà dọn đi, em lại cứ nhớ đáo để đấy nhớ. Bà Hai cúi mặt xuống rân rấn nước mắt, bà nói: - Vâng… thôi thì dân làng đã chả cho ở nữa, chúng tôi cũng đành phải đi nơi khác chứ biết làm thế nào. Nhưng xin ông bà trên ấy nghĩ lại thư thư cho vợ chồng chúng tôi vài ba hôm nữa. Bây giờ bảo đi, vợ chồng chúng tôi cũng không biết là đi đâu… Mụ chủ đi rồi, bà Hai và con bé lớn nước mắt ròng ròng, lẳng lặng gánh hàng ra quán. Vợ chồng cũng chẳng dám nói với nhau câu gì. Ông Hai ngồi lặng trên một góc giường, bao nhiêu ý nghĩ đen tối, ghê rợn, nối tiếp bời bời trong đầu óc ông lão. Biết đem nhau đi đâu bây giờ? Biết đâu người ta chứa bố con ông mà đi bây giờ?… Thật là tuyệt đường sinh sống! Mà không gì cái đất Thắng này. Ở Đài, ở Nhã Nam, ở Bố Hạ, Cao Thượng… đâu đâu có người chợ Dầu người ta cũng đuổi như đuổi hủi. Mà cho dẫu vì chính sách Cụ Hồ người ta chẳng đuổi đi nữa, thì mình cũng chẳng còn mặt mũi nào đi đến đâu..

<span class='text_page_counter'>(7)</span> “Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây…” cái câu nói của người đàn bà tản cư hôm trước lại dội lên trong tâm trí ông. Hay là quay về làng ?… Vừa chớm nghĩ như vậy, lập tức ông lão phản đối ngay. Về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến. Bỏ Cụ Hồ… Nước mắt ông giàn ra, về làng tức là chịu quay lại làm nô lệ cho thằng Tây. ông lão nghĩ đến mấy thằng kỳ lý chuyên môn khua khoét như thế lại ra vào hống hách ở trong cái đình. Và cái đình lại như của riêng chúng nó, lại thâm nghiêm ghê gớm, chứa toàn những sự ức hiếp, đè nén. Ngày ngày chúng dong ra, dong vào, đánh tổ tôm mà bàn tư việc làng với nhau ở trong ấy. Những hạng khố rách áo ôm như ông có đi qua cũng chỉ dám liếc trộm vào, rồi cắm đầu xuống mà lủi đi. Anh nào ho he, hóc hách một tí thì chúng nó tìm hết cách để hại, cất phần ruộng, truất ngôi, trừ ngoại, tống ra khỏi làng… Ông Hai nghĩ rợn cả người. Cả cuộc đời đen tối, lầm than cũ nổi lên trong ý nghĩ ông. Ông không thể về cái làng ấy được nữa. Về bây giờ ra ông chịu mất hết à? Không thể được! Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù. Ông lão ôm thằng con út lên lòng, vỗ nhè nhẹ vào lưng nó, khẽ hỏi: - Húc kia! Thầy hỏi con nhé, con là con ai? - Là con thầy mấy lỵ con u. - Thế nhà con ở đâu? - Nhà ta ở làng chợ Dầu. - Thế con có thích về làng chợ Dầu không? Thằng bé nép đầu vào ngực bố trả lời khe khẽ: - Có. Ông lão ôm khít thằng bé vào lòng, một lúc lâu lại hỏi: - À thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai? Thằng bé giơ tay lên, mạnh bạo và rành rọt: - Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm! Nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má. Ông nói thủ thỉ: - Ừ đúng rồi, ủng hộ Cụ Hồ con nhỉ. Mấy hôm nay ru rú ở xó nhà, những lúc buồn khổ quá chẳng biết nói cùng ai, ông lão lại thủ thỉ với con như vậy. Ông nói như để ngỏ lòng mình, như để mình lại minh oan cho mình nữa. Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông. Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai. Mỗi lần nói ra được vài câu như vậy nỗi khổ trong lòng ông cũng vợi đi được đôi phần. Khoảng ba giờ chiều hôm ấy, có một người đàn ông đến chơi nhà ông Hai. Hắn cũng là người chợ Dầu. Hai người thì thầm ở góc nhà một lúc lâu rồi thấy ông Hai đóng khăn áo chỉnh tề tất tả theo hắn đi. ông vội vã đến quên cả dặn trẻ coi nhà. Ông Hai đi mãi đến xẩm tối mới về. Cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên. Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ, hấp háy… Vừa đến ngõ ông lão đã lên tiếng: - Chúng mày đâu rồi, ra thầy chia quà cho nào. Lũ trẻ ở trong nhà ùa ra, ông lão vội rút cái gói bọc lá chuối khô cho con bé lớn: - Bánh rán đường đây, chia cho em mỗi đứa một cái. Dứt lời ông lão lại lật đật đi thẳng sang bên gian bác Thứ. Chưa đến bực cửa, ông lão đã bô bô: - Bác Thứ đâu rồi? Bác Thứ làm gì đấy? Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn! ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính, ông ấy cho biết… Cải chính cái tin làng chợ Dầu chúng tôi là Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả. Bác Thứ chưa nghe thủng câu chuyện ra sao, ông lão đã lại lật đật bỏ lên nhà trên. - Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn. Ông chủ tịch làng em vừa lên cải chính… Cải chính cái tin làng chợ Dầu chúng em Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn là sai sự mục đích cả! Cũng chỉ được bằng ấy câu, ông lão lại lật đật bỏ đi nơi khác. Còn phải kể cho người khác biết chứ. Ông lão cứ múa tay lên mà khoe cái tin ấy với mọi người. Ai cũng mừng cho ông lão..

<span class='text_page_counter'>(8)</span> Đến ngay cả mụ chủ nhà là người ông lão yên trí, nghe tin này thế nào mặt mụ cũng sa sầm xuống mà nói tức nói xóc, thì trái lại, mụ lại tỏ vẻ rất vui sướng. Mụ giương tròn cả hai mắt lên mà reo: - A, thế chứ! Thế mà tớ cứ tưởng dưới nhà đi Việt gian thật, tớ ghét ghê ấy… Thôi, bây giờ thì ông bà lại cứ ở tự nhiên chả ai bảo sao. Ăn hết nhiều chứ ở hết là bao nhiêu. Mụ cười khì khì: - Này, rồi cũng phải nuôi lấy con lợn… mà ăn mừng đấy! Ông Hai gật gật: - Được, được, chuyến này rồi phải nuôi chứ… Tối hôm ấy ông Hai lại sang bên gian bác Thứ, lại ngồi trên chiếc chõng tre vén quần lên tận bẹn mà nói chuyện về cái làng của ông. Ông kể lại hôm Tây vào khủng bố. Chúng nó có bao thằng, bao nhiêu Tây, bao nhiêu Việt gian, đi những đường nào, đốt phá những đâu đâu, và dân quân, tự vệ làng ông bố trí, cầm cự ra sao; rành rọt tỉ mỉ như chính ông lão vừa dự trận đánh giặc ấy xong thật… (Kim Lân (*), Văn tuyển tập 1945 – 1956, NXB Văn nghệ, Hà Nội, 1956) I. MỨC ĐỘ CẦN ĐẠT: - Cảm nhận được tình yêu làng quê thắm thiết , thống nhất với lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến ở nhân vật Ông Hai trong truyện. Qua đó thấy được 1 biểu hiện cụ thể, sinh động về tinh thần yêu nước của nhân dân ta trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. - Thấy được những nét đăc sắc trong nghệ thuật: Xây dựng tình huống tâm lý, miêu tả sinh động diễn biến tâm trạng, ngôn ngữ của nhân vật quần chúng. - Rèn luyện năng lực phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự, đặc biệt là phân tích tâm lý nhân vật. II. TRỌNG TÂM, KIẾN THỨC, KĨ NĂNG, THÁI ĐỘ. 1. Kiến thức: - Nhân vật sự việc cốt truyện trong một tác phẩm hiện đại - Đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm; Sự kết hợp với các yếu tố miêu tả, biểu cảm trong VB tự sự hiện đại. - Tình yêu làng, yêu nước, tinh thần kháng chiến của người nông dân VN trong thời kì kháng chiến chống Pháp. 2. Kĩ năng: - Đọc – hiểu văn bản truyện Việt Nam hiện đại được sáng tác trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp. - Vận dụng kiến thức về thể loại và sự kết hợp các phương thức biểu đạt trong tác phẩm truyện để cảm nhận một văn bản tự sự hiện đại. 3. Thái độ: Giáo dục tình yêu quê hương , đất nước III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC: 1. Ổn định lớp: Kiểm tra sĩ số. 9A1/ (Vắng : . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . ) 9A3/ (Vắng: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .) 9A2/ (Vắng : . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . ) 9A5/ (Vắng: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .) 2. Kiểm tra: Đọc thuộc lòng bài thơ “Ánh trăng” ? Nêu các tầng ý nghĩa của hình ảnh “Vầng trăng” ? 3. Bài mới: Trong kháng chiến chống pháp ngoài hình ảnh người lính trực tiếp cầm súng chiến đấu như trong bài “ Đồng chí”của Chính Hữu. Ta còn thấy người nông dân mặc dù không trực tiếp cầm súng chiến đấu nhưng ở họ có một tình yêu quê hương thắm thiêùt , đã thống nhất với tình yêu nước và tinh thần kháng chiến , được Kim Lân miêu tả qua nhân vật ông Hai, với nghệ thuật xây dựng tình huống tâm lí sâu sắc, mà ta sẽ được học hôm nay qua tác phẩm “Làng”. HOẠT ĐỘNG CỦA THẦY - TRÒ NỘI DUNG GHI BẢNG HĐ 1: Giới thiệu văn bản. I. GIỚI THIỆU: + GV yêu cầu HS đọc phần (*) Tác gả trong S/171-172. 1. Tác giả: Kim Lân (S/171-172). Kim Lân (1920-2007), Tên khai sinh là Nguyễn Văn 2. Tác phẩm: Tài, quê ở huyện Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh. Ông là nhà văn - HCST: Viết trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chuyên viết chuyện ngắn và đã có sáng tác ăng báo từ chống Pháp. Đăng lần đầu tiên trên tạp chí Văn nghệ: trước Cánh mạng tháng 8 năm 1945. Vốn gắn bó và am năm 1948. hiểu sâu sắc cuộc sống ở nông thôn, Kim Lân hầu như - Thể loại: Truyện ngắn chỉ viết về làng quê và cảnh ngộ của ngời nông dân. - PTBĐ: Tự sự + biểu cảm + miêu tả..

<span class='text_page_counter'>(9)</span> Năm 2001, ông đợc nhà nớc trao tặng Giải thởng Nhà nớc về văn học nghệ thuật. + GV: Bố cục văn bản gồm 3 phần: - Phần 1: Từ đầu đến “không nhúc nhích”.  Tâm trạng của ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu làm Việt gian. - Phần 2: “Đã ba bốn hôm nay” đến “đôi phần”.  Tâm trạng đau khổ , xấu hổ , buồn bực của ông hai ba bốn ngày sau đó. - Phần 3: Còn lại.  Tình cờ ông Hai mới biết đó là tin đồn nhảm. Ông vô cùng phấn khởi và tự hào về làng mình. HĐ2: Phân tích văn bản - GV: Kể lại một số chi tiết thể hiện tình yêu làng quê của ông Hai ở phần đầu của truyện. - Tình yêu làng quê của ông Hai trong phần đầu của truyện: -Tính hay khoe về làng từ xưa cho đến nay:với ông Hai làng chợ Dầu thật không đâu bằng và cái gì cũng đáng tự hào: + Nhà ngói san sát sầm uất như tỉnh. + Đường làng toàn lát đá xanh . + Làng có phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa,rộng rãi nhất vùng,chòi phát thanh cao bằng ngọn tre ,chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy. + Những ngày kháng chiến dồn dập ở làng,ông gia nhập phong trào từ hồi còn bóng tối. + Những công trình không để đâu hết (những hố ,những ụ, những giao thông hào…) - Khi chính quyền vận động đi tản cư ông không muốn đi cứ nấn ná mãi…. ? Tác gỉa đã đặt nhân vật ông Hai vào tình huống như thế nào?. HS: - Tình huống truyện rất phù hợp với diễn biến tâm lý của nhân vật. - Về mặt nghệ thuật : Tạo nên một cái nút thắt trong câu chuyện, gây ra một mâu thuẫn giằng xé tâm trí ông lão , tạo điều kiện để thể hiện tâm trạng và phẩm chất ,tính cách của nhân vật thêm chân thực và sâu sắc , góp phần giải quyết chủ đề của tác phẩm. ? Tâm trạng của ông Hai thể hiện ra sao trong tình huống này - GV: Từ chỗ sững sờ đến chưa tin hẳn, rồi ông phải tin vì những người nói ra tin đó họ vừa ở dưới xuôi lên . ? Trước cái tin như vậy ông Hai đó có phản ứng như thế nào? HS: Thảo luận, trình bày - GV giảng: Tin đến với ông đột ngột , bất ngờ làm ông sững sờ,bàng hoàng “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại,da mặt tê rân rân ” - Về nhà: “Nằm vật ra giường” … “Nhìn lũ con, tủi. - Bố cục: Ba phần. - Tóm tắt văn bản: Ở nơi tản cư, ông Hai nhớ làng chợ Dầu, ra phòng thông tin nghe đọc báo để biết tin tức kháng chiến. Trên đường về, ông gặp người tản cư ở quê lên cho biết làng ông theo giặc. Ông xấu hổ, nhục nhã… cả đêm 2 vợ chồng không ngủ được. Định quay về làng nhưng nghĩ làng đã theo Tây thì phải thù, không thể về cái làng đó nữa. Bỗng có người ở làng đến cho biết làng không theo Tây. Đó chỉ là tin đồn, mặt ông vui vẻ rạng rỡ hẳn lên. Gọi con cháu đến chia quà, tất bật chạy báo cho mọi người biết nhà ông bị Tây đốt nhưng làng không phải Việt gian, cả làng vẫn hăng hái kháng chiến. Ông càng yêu quí tự hào về làng của mình. II. ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN: 1.Diễn biến tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc: Tình yêu làng quê của ông Hai: - Tính hay khoe về làng từ xưa cho đến nay: với ông Hai làng chợ Dầu thật không đâu bằng và cái gì cũng đáng tự hào. - Nhớ làng da diết “nghĩ đến những ngày làm việc cùng anh em …. nhớ làng quá”. - Ở phòng thông tin, ông nghe được nhiều tin hay  Ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá!” => Một niềm vui, niềm tự hào của người nông dân, trước thành quả cách mạng của làng quê. Đây là biểu hiện tình yêu làng, yêu nước của người nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Tình huống xảy ra: - Tin làng chợ Dầu theo giặc mà chính ông nghe được từ miệng những người tản cư từ dưới xuôi lên. - Cái tin ấy đến với ông vào một buổi trưa giữa lúc tâm trạng của ông đang rất phấn chấn vì nghe được nhiều tin ta đánh giặc trên tờ báo ở phòng thông tin. Tâm trạng của ông Hai khi nghe tin làng theo giặc: + Phản ứng: - Tin đến với ông đột ngột , bất ngờ làm ông sững sờ,bàng hoàng “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại,da mặt tê rân rân ”. - Về nhà: “Nằm vật ra giường” … “Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ dàn ra. - Khi trò chuyện với vợ ông Hai bực tức , gắt gỏng vô cớ, đau đớn, trằn trọc thở dài. + Tâm trạng: Ngỡ ngàng , sững sờ , xấu hổ, nhục nhã, căm giận, bực bội, đau đớn, lo lắng. - Suốt mấy hôm ông không dám đi đâu, luôn bị ám ảnh về chuyện làng theo Tây - Gia đình ông không biết sẽ sống nhờ ở đâu, tâm trạng của ông lúc này thật bế tắc truyệt vọng. - Ông đau khổ chỉ biết thủ thỉ với đứa con . + Muốn đứa con ghi nhớ “ Nhà ta ở làng chợ Dầu”. + “Ủng hộ Cụ Hồ con nhỉ.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> thân, nước mắt ông lão cứ dàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ dúng hắt hủi đấy ư? …” + Khi trò chuyện với vợ ông Hai bực tức , gắt gỏng vô cớ, đau đớn, trằn trọc thở dài. ? Tâm trạng của ông ra sao khi nghe tin và mấy ngày sau đó như thế nào ? - HS : Thảo luận trả lời - GV: Chốt: Suốt mấy hôm ông không dám đi đâu, luôn bị ám ảnh về chuyện làng theo Tây. Cứ thấy một đám đông túm lại ông cũng chột dạ “ thoáng nghe những tiếng Tây Việt gian l# ụng lủi ra một góc nhà , nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi!” - Gia đình ông không biết sẽ sống nhờ ở đâu, tâm trạng của ông lúc này thật bế tắc truyệt vọng. - Có ý nghĩ “Hay là quay về làng” nhưng “ vừa chớm nghĩ như vậy, lập tức phản đối ngay” … “nước mắt ông dàn ra. Về làng … làm nô lệ cho thằng tây .. thế rồi ông quyết định “ Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. ? Tâm trạng của nhân vật ông Hai đã có sự thay đổi ra sao khi nghe tin cải chính làng chợ Dầu không phải theo Tây. * Thảo luận nhóm ? Qua những chi tiết trên đây. Hãy hệ thống tâm trạng của ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo Tây? - HS: Thảo luận trình bày - GV: Chốt sửa sai. HĐ3: Hướng dẫn tổng kết. + GV yêu cầu HS đọc Ghi nhớ: S/174. - Tình yêu làng quê và lòng yêu nước, tinh thần kháng chiến của người nông dân phải rời làng đi tản cư đã được thể hiện chân thực, sâu sắc và cảm động ở nhân vật ông Hai trong truyện Làng. - Tác giả đã thành công trong việc xây dựng tình huống truyện, trong nghệ thuật miêu tả tâm lí và ngôn ngữ nhân vật..  Tình yêu sâu nặng với làng quê. lòng yêu làng, yêu nước đã thực sự hoà quện trong tâm hồn ông. Tâm trạng của ông Hai khi nghe tin cải chính: - Làng chợ Dầu theo Tây chỉ là tin đồn nhảm … - Ông Hai vui mừng phấn chấn đi khoe khắp nơi. - Ông Hai trở lại là người vui tính , yêu làng yêu nước. => Đó là tình cảm thống nhất xuyên suốt trong toàn bộ văn bản . 2. Tinh thần chiến đấu của nhân dân ta: - Cuộc sống vừa chiến đấu vừa sản xuất phục vụ kháng chiến ‘Đánh nhau…….cày cấy” - Những ngày đầu kháng chiến nhân dân ta đó chiến đấu anh dũng “Ông Hai đến phòng thông tin…..” - Nhân dân căm thù giặc và việt gian ,một lòng đi theo kháng chiến và Bác Hồ. 3. Ý nghĩa văn bản: Đoạn trích thể hiện tình cảm yêu làng, tinh thần yêu nước của người nông dân trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp.. III. TỔNG KẾT: 1. Nghệ thuật: - Xây dựng tình huống truyện đặc sắc gay cấn: Tin thất thiệt được chính những người đang đi tản cư từ phía làng Chợ Dầu lên nói ra. - Miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật chân thực và sinh động sâu sắc qua suy nghĩ, hành động, qua lời nói (độc thoại và đối thoại). - Ngôn ngữ nhân vật sinh động, thể hiện rõ cá tính của nhân vật. 2. Nội dung: * Ghi nhớ: S/174. HĐ4: Hướng dẫn luyện tập. IV. LUYỆN TẬP: * Những tác phẩm : Quê hương ( Tế Hanh ); Tiếng gà Bài tập: Em có nhớ truyện ngắn hay bài thơ nào viết về trưa (Xuân Quỳnh), Bếp lửa ( Bằng Việt ), Cố Hương tình cảm quê hương, đất nước? Theo em, nét riêng của (Lỗ Tấn )... truyện Làng so với những tác phẩm ấy là gì? - Nét riêng của tình cảm quê hương trong truyện ngắn "Làng" thể hiện ở hai điểm sau: + Tình yêu làng của ông Hai trở thành niềm say mê, hãnh diện ,thành thói quen khoe làng mình. + Tình yêu làng phải đặt trong tình yêu nước ,thống nhất với tinh thần kháng chiến khi đất nước đang bị xâm lược và cả dân tộc đang tiến hành cuộc kháng chiến. Hoặc:.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> HOẠT ĐỘNG CỦA GV 1. Ổn định: Kiểm tra sĩ số 2. Kiểm tra bài cũ: - Nêu hiểu biét về tác giả, tác phẩm “ Làng” của Kim Lân. - Mỗi câu chuyện hay đều để lại trong lòng người đọc một ấn tượng khó quên về tình huống truyện. Em thấy tình huống truyện trong Làng độc đáo ở chỗ nào?. HOẠT ĐỘNG CỦA HS - Báo cáo sĩ số - Trả lời trước lớp - Tình huống ông Hai nghe tin làng chợ Dầu của ông theo Tây. Tình huống này đối lập hẳn với việc ông Hai yêu làng, yêu nước thiết tha, ông tự hào lắm về làng ông là làng kháng chiến, làng quê có tinh thần cách mạng ghê lắm…. Từ đó tâm trạng của nhân vật được miêu tả khá tinh tế.. 3. Bài mới * HĐ 1: Hướng dẫn phân tích tâm trạng nhân vật ông Hai. - Trả lời: Hỏi: Cuộc sống của ông Hai nơi tản cư có + Cuộc sống tạm bợ, xa quê, sống nhờ gì khác thường? người khác, mọi người đều lo kiếm sống. Hỏi: Mối quan tâm duy nhất của ông Hai - Xác định, nêu: là về làng quê ông, cuộc kháng chiến của + “Nhớ đến những ngày làm việc cùng đất nước. Đoạn văn nào thể hiện điều ấy? anh em…nhớ làng quá.” + Ông lại nghĩ về cái làng của ông… quá! … Cùng anh em đào đường…bí mật. Ông Hai đi nghênh ngang giữa đường…. ruột gan ông cứ múa cả lên.. + Mong nắng cho Tây chét mệt, (Nắng Hỏi: Quan tâm đến kháng chiến, ông có này thì bỏ mẹ chúng nó.) những biểu hiện đặc biệt nào? + Nghe lỏm đọc báo thường xuyên ở phòng thông tin để biết tin tức từ kháng chiến. + Đầy lòng tin kháng chiến: ( Đấy, cứ kêu chúng nó trẻ con mãi đi, liệu đã bằng chúng nó chưa? Cứ thế, chỗ này giết một tí, chỗ kia giết một tí, cả súng ống cũng vậy, hôm nay dăm khẩu, tích tiểu thành đại, làm gì mà rồi thằng Tây không bước sớm. + không giấu nổi cảm xúc vui mừng: Hỏi:Khi biết được tin đó, tâm trạng của Ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui ông thế nào? quá. - HS tự bộc lộ cảm nhận. Hỏi: Từ những biểu hiện trên, em có cảm nhận gì về nhân vật ông Hai? GV :Niềm vui, niềm tự hào của người nông dân trước thành quả cách mạng, của làng quê ->Một biểu hiện của tình yêu làng. Chuyển ý:….. + Cổ ông lão nghẹn ắng lại….vướng ở Hỏi: Ông Hai đã có cảm giác gì khi nghe cổ. → Đó là cảm giác xấu hổ và uất ức,. NỘI DUNG GHI. 2/ Diễn biến tâm lí nhân vật Ông Hai: a/ Trước khi nghe tin xấu về làng. - Phải xa làng đi tản cư, ông nhớ làng da diết.. - Ông nghe được nhiều tin hay: những chiến thắng của quân ta.. -> Ruột gan ông cứ múa cả lên, vui quá.. =>Một người nông dân vui tính, chất phác, có tấm lòng gắn bó với với làng quê kháng chiến. b/ Khi nghe tin làng theo.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> tin làng mình theo giặc? Các chi tiết đó cảm thấy bị xúc phạm, đau đớn, tê tái. cho thầy tâm trạng của ông Hai lúc này như thế nào? + Chao ôi! Cực nhục chưa, Cả làng Việt gian!....thù hằn cái giống Việt gian Hỏi: Cảm nghĩ cực nhục của ông Hai được bán nước. thể hiện trong đoạn văn nào?Vì sao ông + Vì nếu làng theo thật, ông sẽ là kẻ lạc cảm thấy cực nhục? loài với bàn dân thiên hạ, với giống nòi… + Là biểu hiện của lòng yêu nước. Vì yêu nước lòng yêu nước nồng nàn mà Hỏi: Ý nghĩ cho rằng cả cái nước VN này ông căm giận đến tận cùng những kẻ người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái bán nước. giống Việt gian bán nước có phải là biểu hiện của lòng yêu nước của ông Hai không? Vì sao? Hỏi: Ý nghĩ của ông : Làng thì yêu thật , + Xót xa, uất hận. nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù. Cảm xúc nào khiến ông có ý nghĩ ấy? + Ngôn ngữ độc thoại, nhân vật tự bộc Hỏi: Ở đây, ngôn ngữ nào được sử dụng? lộ nội tâm của mình. Ý nghĩa? + Bố con ông nói với nhau về 2 việc: Hỏi: Để giải toả bớt nỗi đau đớn, cực nhục nhà ta ở làng chợ Dầu và ủng hộ cụ Hồ. đó ông Hai đã làm gì? Vì sao? Cuộc trò Dùng ngôn ngữ đối thoại. chuyện giữa ông và đứa con là ngôn ngữ + Ông mượn đứa con để bày tỏ tấm lòng gì? của mình với làng quê, với đất nước : Ông nói như để ngỏ lòng mình , như để mình minh oan cho mình nữa . “ nước mắt ông lão giàn ra , chảy ròng ròng hai bên má.” Hỏi: Từ đó những dằn vặt, khổ tâm của ông Hai đã giúp em cảm nhận được gì qua tấm lòng của ông Hai với làng quê, với đất nước? * HĐ 3: HD tìm hỉểu tâm trạng của ông Hai khi nghe làng được cải chính. Hỏi: Khi biết tin làng mình không theo giặc, dáng vẻ ông Hai có những biểu hiện khác thường nào? Dáng vẻ ấy biểu hiện tâm trạng gì?. Tây - Cổ nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân.→ cảm thấy bị xúc phạm, đau đớn, tê tái. .. - Xót xa, uất hận.. - NT: Ngôn ngữ độc thoại và đối thoại→ nhân vật tự bộc lộ nội tâm của mình.. Tự bộc lộ.. + Cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui hẳn lên Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ hấp háy. Ông cảm thấy nhẹ nhõm vui sướng ra mặt. + Vì nó là bằng chứng của việc gia đình Hỏi: Tại sao ông Hai lại khoe với mọi ông không những không theo giặc mà người rằng: Tây nó đốt nhà tôi rồi? còn là gia đình kháng chiến. + Lật đật đi sang gian bên bác Thứ, lật đật bỏ lên nhà trên, lật đật bỏ đi nơi khác, múa tay lên mà khoe, vén quần lên tận bẹn mà nói chuyện về cái làng của ông + Ông vui sướng hả hê đến cực điểm Hỏi: Lúc này cử chỉ của ông có gì đặc biệt? + Ông là người coi trọng danh dự , yêu Hỏi: Cử chỉ đó phản ánh một nội tâm như làng yêu nước hơn tất cả.. - Một con người yêu quê , yêu nước đằm thắm, chân thật. c/ Khi nghe tin làng được cải chính. - Cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui rạng rỡ hẳn lên..

<span class='text_page_counter'>(13)</span> thế nào? + Tình yêu làng hoà trong tình yêu nước - Hả hê đến cực điểm. Hỏi: Em hiểu gì về ông Hai qua những cử thiết tha cháy bỏng trong con người ông chỉ, dáng vẻ lời nói đó? Hai. => trọng danh dự, yêu ghét rạch ròi, yêu làng, yêu nước hơn tất cả. * HD 4: HD tổng kết Hỏi: Đọc truyện của Kim Lân em cảm nhận điều gì về nhân vật ông Hai? Hỏi: Em có nhận xét gì về ngôn ngữ và nghệ thuật miêu tả nhân vật của tác giả? (Miêu tả nhân vật bằng cách nào?) - Gọi HS đọc ghi nhớ SGK 4. Củng cố: - GV nêu bài tập: Em có nhớ truyện ngắn hay bài thơ nào viết về tình cảm quê hương, đất nước? Hỏi: Theo em, nét riêng của truyện Làng so với những tác phẩm ấy là gì?. - Đọc ghi nhớ SGK - HS nêu:”Nhớ con sông quê hương” (Tế Hanh);”Quê hương”(Giang Nam) + Tình yêu làng trở thành niềm say mê, hãnh diện, thành thói quen”khoe làng”. + Tình yêu làng đặt trong tình yêu nước, thống nhất với tinh thần kháng chiến khi đất nước bị xâm lược.. III/ Tổng kết. - Tình yêu làng hoà trong tình yêu nước thiết tha . - Ngôn ngữ độc thoại, đối thoại mang tính quần chúng; kết hợp tả ngoại hình với nội tâm, dùng độc thoại để miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật. *Ghi nhớ SGK. 5. Hướng dẫn học bài ở nhà: - Viết cảm xúc của em khi học xong Làng. - Soạn bài: Chương trình địa phương phần TV. Hoặc: Hoạt động của GV. Hoạt động của HS. Nội dung kiến thức cần đạt I - TiÓu dÉn. Dựa vào SGK, em hãy - Đọc SGK. nêu những nét chính về - Thảo luận. tác giả Kim Lân (quê quán, sở trường, tác - Trả lời. phẩm chính) ?. 1. Tác giả Kim Lân (1920 - 2007) tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài, quê ở huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ông là nhà văn có sở trường viết truyện ngắn, am hiểu và gắn bó với nông thôn và nông dân miền Bắc, chuyên viết về những phong tục văn hóa cổ truyền đồng bằng Bắc Bộ. Tác phẩm chính: Làng, Vợ nhặt, Đôi chim thành,..... - Truyện ngắn Làng Dựa vào SGK trang 2. Tác phẩm được viết năm nào và 172, HS đọc rồi thảo Truyện ngắn Làng được viết năm 1948 trên chiến được đăng lần đầu tiên luận và trả lời. khu Việt Bắc, câu chuyện và nhân vật có liên quan nhiều trên tạp chí nào ? đến làng quê và con người tác giả. Truyện được in trên tạp - Văn bản trong SGK có chí Văn nghệ số 1. lược đi đoạn nào ? Truyện khai thác tình cảm quê hương, đất nước, một tình cảm bao trùm và phổ biến trong mỗi con người Việt.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Nam thời kì kháng chiến. Văn bản trong SGK có lược bỏ phần đầu (phần giới thiệu về hoàn cảnh phải rời làng lên nơi tản cư của ông Hai và cái tính thích khoe làng của ông). Gọi 3 HS lần lượt đọc Đọc văn bản trong II - §äc v¨n b¶n từng đoạn văn bản. SGK Đoạn trích trong SGK có Dựa vào phần chuẩn bị 1. Bố cục thể chia làm mấy phần ? bài ở nhà, HS phát biểu Đoạn trích có thể chia làm 3 phần Nêu nội dung chính của ý kiến. - Từ đầu → không nhúc nhích: tâm trạng của ông từng phần. Hai khi nghe tin cả làng Dầu làm Việt gian theo Pháp. - Tiếp → đôi phần: tâm trạng xấu hổ, đau khổ buồn bực của ông Hai trong ba bốn ngày sau đó. - Còn lại: tình cờ, ông Hai mới biết đó là tin đồn nhảm. Ông vô cùng sung sướng nên lại yêu, lại tự hào về cái làng mình hơn xưa. Em hãy nêu chủ đề đoạn HS suy nghĩ và trả lời trích ?. 2. Chủ đề Qua truyện ngắn, Kim Lân phản ánh và ca ngợi tình yêu làng - yêu nước chân thành, giản dị của người nông dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp. III - §äc hiÓu v¨n b¶n. Để khắc họa nổi bật chủ HS suy nghĩ, đề xuất, lí đề của truyện, tính cách giải trên cơ sở bài của nhân vật, Kim Lân chuẩn bị ở nhà đã đặt nhân vật chính vào một tình huống truyện như thế nào ? Tình huống ấy có tác dụng gì ?. 1. Tình huống truyện Trong truyện ngắn Làng, Kim Lân đã để cho ông Hai càng trở nên thân quý đối với người đọc vì tác giả đã sáng tạo ra một tình huống đặc sắc. Đó là tình huống ông Hai tình cờ nghe được tin dân làng Chợ Dầu yêu quý của ông đã thành làng Việt gian theo Pháp, phản lại kháng chiến, phản lại cụ Hồ. Chi tiết này xét về mặt hiện thực rất hợp lí ; về mặt nghệ thuật, nó tạo nên một cái nút thắt của câu chuyện, gây ra một mâu thuẫn giằng xé tâm trí ông lão, tạo ra điều kiện để thể hiện tâm trạng và phẩm chất, tính cách của nhân vật thêm chân thực, sâu sắc, góp phần giải quyết chủ đề truyện ngắn. Sự phát triển của câu chuyện sẽ dựa vào tình huống oái oăm ấy.. Hết tiết 61, chuyển tiết 62 - Khi nghe tin do những HS tìm dẫn chứng để 2. Diễn biến tâm trạng và hành động của ông Hai khi người tản cư từ Gia Lâm phân tích. nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc cho biết: cả làng chúng - Khi nghe tin do những người tản cư từ Gia Lâm nó Việt gian theo Tây thì cho biết: cả làng chúng nó Việt gian theo Tây thì thái độ thái độ và tâm trạng của và tâm trạng của ông Hai: ông Hai như thế nào.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> (phân tích cử chỉ và những câu nói của ông) ?. Cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân, lặng đi, tưởng như không thở được. Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, cất tiếng hỏi, giọng lạc đi: Liệu có thật không hở bác, hay là chỉ lại... → Chỉ bằng vài câu văn ngắn, tác giả đã cụ thể hóa cái sững sờ, ngạc nhiên đến hốt hoảng, nghẹn giọng, lạc giọng, khó thở khi nghe tin dữ - một cái tin động trời mà trước đó ông không thể tin, không thể ngờ lại có thể xảy ra như thế. Vì vốn ông yêu và tự hào về làng quê của mình cái gì cũng đẹp, cũng hay, cũng nhất. Nhưng rồi, bằng những chứng cứ cụ thể, xác định, ông Hai đành phải tin cái sự thật khủng khiếp ấy. Cử chỉ đầu tiên của ông là lảng chuyện, cười cái cười nhạt thếch của sự bẽ bang, rời quán về nhà (ở nhờ). Những câu nói mỉa móc, căm ghét của những người tản cư nói về cái làng Việt gian ấy vẫn đuổi theo ông, mỉa mai làm ông xấu hổ, ê chề như họ đang mắng chửi chính ông - vì ông là người Chợ Dầu, cái làng đốn mạt ấy. Ông Hai cúi gằm mặt mà đi, trong sự trốn tránh vì xấu hổ, nhục nhã.. - Về đến nhà, nằm vật ra HS đọc đoạn văn: Nhìn giường như bị cảm, nhìn lũ con ... cái cơ sự này lũ con chơi sậm sụi với chưa ? và phát biểu. nhau, tâm trạng của ông Hai diễn biến như thế nào ?. - Đầu tiên, trong sự đau khổ và xấu hổ, nhục nhã, nhìn đàn con chơi đùa sậm sụi, đáng thương với nhau ở sau nhà, ông Hai nghĩ đến sự hắt hủi, khinh bỉ của mọi người dành cho những đứa trẻ của cái làng Việt gian ; thương con, ông thoắt vô cùng căm giận dân làng - những kẻ mà ông đã gọi là chúng bay một cách căm ghét và khinh bỉ. Ông nguyền rủa họ đã làm một việc điếm nhục bậc nhất hại đến danh dự của làng ; và tội còn to hơn thế, đó là tội phản bội, đầu hàng, bán nước. Nhưng rồi ông lại khó tin chuyện tày đình ấy, ghê gớm ấy có thể xảy ra. Ông tin rằng những người ấy đã quyết tâm sống mái với giặc - nghĩa là họ còn anh dũng, liều mạng hơn ông, thì làm sao họ có thể đổ đốn sa đọa, biến chất nhanh như thế được ? Nhưng rồi những chứng cứ hiển nhiên trở lại làm ông đành một lần nữa cay đắng chấp nhận sự thật và sự nhục nhã, giày vò tâm trí lại sôi réo trong lòng ông: Cực nhục chưa ? Ông nghĩ tới sự tẩy chay của mọi người, tới tương lai chưa biết sinh sống, làm ăn như thế nào. Những kẻ mà ông suốt đời ghê tởm, thù hằn, trớ trêu thay lại rơi vào chính làng ông, vào chính bản thân và gia đình ông. Cụ thể nhất là ông sắp phải đón đợi thái độ ghẻ lạnh, móc máy của mụ chủ nhà khó tính, lắm điều.. Tâm trạng, hành động của ông Hai như thế nào khi nói chuyện với vợ và mấy ngày sau đó ?. - HS đọc đoạn trò chuyện của ông Hai với vợ, qua đó phân tích tiếp tục tâm trạng và thái độ của ông Hai ?. - Trò chuyện với bà vợ trong gian nhà ở nhờ, thái độ của ông Hai vừa bực bội, vừa đau đớn, cố kìm nén, ông gắt bà vô cớ, trằn trọc thở dài, rồi lo lắng đến mức chân tay nhủn ra, nín thở, lắng nghe, không nhúc nhích, nằm im chịu trận..

<span class='text_page_counter'>(16)</span> Thái độ của ông Hai trong mấy ngày sau đó: không dám ra khỏi nhà, không dám đi đến đâu, chỉ ru rú trong nhà nghe ngóng tình hình bên ngoài trong lo lắng, sợ hãi thường xuyên ; lúc nào cũng nghĩ đến chuyện ấy, cũng tưởng mọi người chỉ nói đến chuyện ấy. - Qua câu chuyện với HS trao đổi, thảo luận, mụ chủ nhà, vợ chồng phân tích ý nghĩ và tâm ông Hai bị đẩy đến tình trạng của ông Hai. hình như thế nào ? Tâm trạng của ông lúc ấy như thế nào ? - Ý nghĩ: Làng thì yêu thật; nhưng làng đã theo Tây rồi thì phải thù ! chứng tỏ điều gì đã diễn ra trong lòng ông ?. 3. Tâm trạng của ông Hai mấy ngày sau Khi bị mụ chủ nhà khó tính đẩy đến chỗ không biết sẽ sống nhờ ở đâu, tâm trạng của ông Hai càng trở nên u ám, bế tắc và tuyệt vọng. Những câu hỏi liên tiếp cuộn trào trong đầu ông già khốn khổ: Biết đem nhau đi đâu bây giờ ? Biết đâu người ta chứa bố con ông mà đi ? Thật là tuyệt đường sinh sống ! Chính trong giây phút tuyệt vọng ấy, ông lão đã chớm có ý định quay trở về làng cũ: Hay là quay về làng ? Nhưng trong ông lập tức lại diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt: Về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ ; về làng là chịu đầu hang thằng Tây, lại là cam chịu kiếp sống nô lệ, tôi đòi... về là chịu mất hết ư ? Đến đây, tình cảm tự do, tình cảm cách mạng, lòng yêu nước, lòng yêu làng, yêu nước đã thực sự hòa quyện trong tâm hồn người lão nông tản cư. Và ông đã quyết định dứt khoát, trong cực kì đau khổ, uất hận: muốn sao thì sao, không thể bỏ về làng, phải thù cái làng theo giặc ấy dù trước đây, dù cả đời ông đã gắn bó máu thịt với nó, vô cùng yêu thương, tự hào về nó. Thế là mâu thuẫn nội tâm trong ông Hai đã tạm thời tự ông tìm được hướng giải quyết trong tình thế thúc bách. Nhưng trong lòng ông đau đớn biết bao. Ông chỉ biết san vợi phần nào nỗi đau ấy trong câu chuyện với đứa con út bé bỏng.. Em có cảm nhận gì sau khi đọc đoạn trò chuyện giữa ông Hai và thằng Húc ?. HS đọc diễn cảm đoạn trò chuyện giữa ông Hai và thằng Húc và nêu cảm nhận về đoạn văn này.. Đoạn văn rất chân tình và cảm động bởi nó không chỉ diễn tả tình cảm cha con, tình yêu thương con của ông Hai mà chủ yếu, qua đó thể hiện tâm trạng buồn bã, ăn năn, đau khổ và quyết tâm trung thành đến cùng của người cha già đối với Cách mạng, với cụ Hồ. Những giọt nước mắt của ông Hai lại trào ra, chảy ròng ròng trên hai má. Những lời tâm tình thủ thỉ của ông đối với đứa con nhỏ dại chính là tiếng lòng sâu thẳm của ông, nói lên thành tiếng quyết tâm và ý chí của ông, tâm sự của ông trong một hoàn cảnh cụ thể với quê hương, với kháng chiến, với vị lãnh tụ kính yêu của toàn dân. Đó là lời tự nhủ giãi bày lòng mình, như là tự minh oan cho chính mình. Đó là tình yêu sâu nặng với cái làng quê đang tạm thời phải xa, phải thù. Đó là tấm lòng thủy chung với cách mạng và kháng chiến, tấm lòng biết ơn chân thành, bền vững và thiêng liêng cho đến chết. Đoạn văn: Anh em đồng chí có biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ soi xét cho bố con ông. Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai..

<span class='text_page_counter'>(17)</span> quả thật là những suy nghĩ và lời lẽ chân thành rất mực, mộc mạc rất mực của người nông dân nghèo Bắc Bộ. Đến đỉnh điểm của câu HS tìm dẫn chứng, 4. Tâm trạng của ông Hai khi nghe tin cải chỉnh chuyện, tác giả tìm cách phân tích. Sau khi biết sự thật đó chỉ là một tin đồn nhảm do giải quyết mâu thuẫn và địch mượn gió bẻ măng tung ra để gây hoang mang trong tâm trạng của ông Hai dân chúng, còn sự thật là làng ông đã chiến đấu anh dũng, như thế nào ? Tâm trạng nhà ông đã bị đốt phá, tất nhiên là thái độ của ông Hai là và thái độ, cử chỉ, lời nói vui mừng hớn hở. Ông dường như không tiếc ngôi nhà, lại của ông sau khi biết đi khoe tin nhà mình bị đốt. Thì ra cái nhà không quý bằng được sự thật về cái làng cái tiếng được trở lại trong sạch ; không phải cái tiếng của của mình ra sao ? ông mà của cả dân làng ông, trong đó có ông và gia đình ông. Niềm vui và niềm tin hoàn toàn trở lại trong tâm hồn người nông dân già tản cư. Ông Hai trở lại là người vui tính, yêu làng yêu nước ; hai tình cảm ấy trong ông giờ đây lại hoàn toàn thống nhất, không có gì mâu thuẫn. Câu chuyện kết thúc thật vui, thật có hậu. Với những người nông dân như ông Hai, cuộc kháng chiến chống Pháp giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chin, thắng lợi là điều tất nhiên. IV - Tæng kÕt Nội dung chính của đoạn Dựa vào phần ghi nhớ 1. Nội dung trích là gì ? SGK trang 174 và trả Tình yêu làng quê và lòng yêu nước, tinh thần lời. kháng chiến của người nông dân phải rời làng đi tản cư đã được thể hiện chân thực, sâu sắc và cảm động ở nhân vật ông Hai. Nghệ thuật chính của Dựa vào phần ghi nhớ 2. Nghệ thuật đoạn trích là gì ? SGK trang 174 và trả Tác giả đã thành công trong việc xây dựng một tình lời. huống truyện, trong nghệ thuật miêu tả tâm lí và ngôn ngữ nhân vật. IV. HƯỚNG DẪN ĐỌC THÊM: - Làm bài tập 1,2 (SGK ) - Soạn : + Chương trình địa phương. + Đối thoại, độc thoại. TUẦN 13 Ngày soạn:……………………………... TIẾT 64 Ngày dạy:……………………………… Tiếng Việt CHƯƠNG TRÌNH ĐỊA PHƯƠNG TỪ NGỮ ĐỊA PHƯƠNG TRONG SÁNG TÁC VĂN HỌC I. MỨC ĐỘ CẦN ĐẠT: Hiểu được sự khác biệt giữa phương ngữ mà học sinh đang sử dụng với phương ngữ khác và ngôn ngữ toàn dân thể hiện qua những từ ngữ chỉ sự vật, hoạt động, trạng thái, đặc điểm, tính chất,…. II. TRỌNG TÂM, KIẾN THỨC, KĨ NĂNG, THÁI ĐỘ. 1. Kiến thức: - Từ ngữ địa phương chỉ sự vật, hoạt động, trạng thái, đặc điểm, tính chất… - Sự khác biệt giữa các từ ngữ địa phương. 2. Kĩ năng: - Phân biệt một số từ ngữ thuộc các phương ngữ khác nhau..

<span class='text_page_counter'>(18)</span> - Phân tích tác dụng của việc sử dụng phương ngữ trong một số văn bản. 3. Thái độ: Có ý thức sử dụng chọn lọc các từ ngữ địa phương trong bài văn của mình. III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC: 1. Ổn định lớp: Kiểm tra sĩ số. 9A1/ (Vắng : . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . ) 9A3/ (Vắng: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .) 9A2/ (Vắng : . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . ) 9A5/ (Vắng: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .) 2. Kiểm tra: Từ ngữ địa phương là gì ? Từ ngữ toàn dân là gì ? Biệt ngữ xã hội là gì ? - Khác với từ ngữ toàn dân,từ ngữ địa phương là từ ngữ chỉ sử dụng ở một (hoặc một số) địa phương nhất định. - Khác với từ ngữ toàn dân, biệt ngữ xã hội chỉ được dùng trong một tầng lớp xã hội nhất định. - Từ toàn dân: là từ được sử dụng rộng rãi trong các cộng đồng người Việt. 3. Bài mới: Nhằm bổ sung kiến thức về từ ngữ địa phương và hiểu thêm về sự phong phú của tiếng Việt, chúng ta sẽ cùng nhau học bài học hôm nay.. 1. Vai trò của từ ngữ địa phương trong sáng tác văn học. Mọi tác phẩm văn học đều được viết hoặc kể bằng lời: lời thơ, lời văn, lời tác giả, lời nhân vật..., gọi chung là lời văn. Lời văn là hình thức ngôn từ của tác phẩm văn học được tổ chức theo quy luật nghệ thuật về mặt nội dung, phương pháp sáng tác, phong cách, thể loại... Đơn vị cơ sở của ngôn ngữ là từ; do vậy các phương tiện từ vựng như từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ cổ, từ mới, tiếng lóng, thuật ngữ, từ ngữ địa phương...đều là các phương tiện tạo hình và biểu hiện quan trọng của lời văn. “Làm sao tái hiện được cuộc sống thời xưa mà không sử dụng các ngôn từ, cách xưng hô thời ấy như bệ hạ, trẫm, thiết triều,... Làm sao làm sống dậy cuộc sống giang hồ, lưu manh mà không biết đến các tiếng lóng như Nguyên Hồng đã làm trong Bỉ vỏ ? Muốn tả những giai nhân tài tử như Thúy Kiều, Kim Trọng thì không thể thiếu những từ Hán Việt trang nhã như mai cốt cách, tuyết tinh thần, thói nhà băng tuyết, chất hằng chỉ phong”1. Tương tự như vậy, để thể hiện tính cách cũng như đặc điểm vùng đất và con người địa phương, góp phần đắc lực vào việc cá tính hóa cũng như tô đậm màu sắc địa phương trong các tác phẩm văn học, nhà văn không thể không có ý thức sử dụng từ ngữ địa phương để tổ chức lời văn nghệ thuật của mình. 2. Từ ngữ địa phương trong sáng tác văn thơ. Qua tìm hiểu thơ Tố Hữu, ta thấy nhà thơ sử dụng từ ngữ địa phương rất chọn lọc và có dụng ý nghệ thuật trong những hoàn cảnh, điều kiện nhất định để bộc lộ ý thơ và tình thơ. Điều này thống nhất với quan điểm nghệ thuật của ông là thơ phải là tiếng nói của cuộc sống. Từ ngữ địa phương xuất hiện trong thơ Tố Hữu khá đều đặn và ổn định, trung bình 0,9 từ/trang; trong đó tập Từ ấy 2,06 từ/trang, tập Việt Bắc 1,41 từ/trang, tập Ra trận 0,79 từ/trang. Thường trong một bài thơ, Tố Hữu sử dụng số từ ngữ địa phương để vừa tạo nhạc điệu cho câu thơ, vừa tăng thêm tính biểu hiện và sắc thái tình cảm. Cặp từ “mô-vô” là cặp từ mang tính chất địa phương được Tố Hữu sử dụng nhiều nhất, cũng là cặp từ có giá trị dễ thừa nhận nhất. Ví dụ: Em đi với chiếc thuyền không Khi mô vô bến rời dòng dâm ô Trời ơi em biết khi mô Thân em hết nhục dày vò năm canh. (Tiếng hát sông Hương) Bữa mô mời bạn vô chơi Huế Cồn Hến buồm giăng ngược Bến Tuần. (Hoa Tím) Cách ngăn mười tám năm trường Khi mô mới được nối đường vô ra? (Nước non ngàn dặm) Có khi, từ ngữ địa phương lại được dùng để nhấn mạnh, để diễn đạt đúng điều mà nhà thơ muốn nói. Tựa hồ như trong những trường hợp ấy, từ địa phương chiếm ưu thế tuyệt đối so với từ toàn dân. Nếu máy móc, đơn thuần thay thế từ địa phương ấy bằng một từ nào khác đó, thì vô tình đã làm thay đổi ý nghĩa của cả câu thơ. Ví dụ:.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> -. Chém cha ba đứa đánh phu Choa đói choa rét, bay thù gì choa ! (Tiếng hát trên đê) Như thể khách đường xa ghé lại Bố đi đâu, hĩm, mẹ đâu nào ? (Mẹ Tơm) Có thể nói, dùng từ “mụ” theo đúng cách nói của người địa phương, Tố Hữu đã làm cho câu thơ thêm đằm thắm vì tình cảm, tâm hồn tinh tế, giàu yêu thương của đôi vợ chồng già, và khi đọc câu thơ, người đọc đã quên đi cái nghĩa chung (toàn dân) để chỉ còn giữ lại nghĩa riêng (địa phương) của từ “mụ” này. 3. Từ ngữ địa phương trong sáng tác văn xuôi. Văn học cách mạng miền Nam giai đoạn 1945 – 1975 sử dụng rất nhiều từ địa phương đặc trưng phản ánh về cuộc sống cũng như không khí chiến đấu sôi sục của nhân dân miền Nam. Chưa bao giờ trong văn học lại sử dụng nhiều từ liên quan đến chiến tranh như thế và cũng chưa bao giờ tiếng địa phương miền Nam lại trở nên thân thiết và gắn bó đông đảo với quần chúng như vậy. Qua khảo sát 25 truyện ngắn, 01 truyện vừa với tổng số là 2302 trang, các tác giả1 thu thập được 403 từ địa phương miền Nam; trong đó có 56 từ chỉ hoạt động của chiến tranh mới được dùng trong giai đoạn này như chống càn, ruồng bố, càn, bưng biền,... 49 từ không có từ tương đương trong tiếng phổ thông, chỉ các đồ vật và sản vật ở miền Nam như: trâm bầu, bình bát, xuồng ba lá, tam bản, khăn rằn, phảng, chùm ruột, lục bình,... 87 từ là biến thể ngữ âm: chánh trị, bữa hổm, gởi, tánh mạng, sanh, tợ, suôi gia, nói trổng, ngưng, thâu, ngoải, nhểu,... 221 từ là các biến thể từ vựng khác: dưa leo, hớt tóc, đổ thừa, ớt hiểm, nước miếng, sình, rầy, trái cây, chết xỉu, bông trang, nói dóc, ở trần, tiệm,... Chúng không chỉ xuất hiện trong lời đối thoại của các nhân vật mà còn xuất hiện nhiều trong lời dẫn truyện của tác giả và rất tự nhiên, khiến người đọc không có cảm giác bị tắc nghẽn khi gặp những cách nói mang tính địa phương. Ví dụ: - Quanh ông còn có chừng một chục người đàn bà đứng tuổi, mấy cô du kích khoác súng bá đỏ và ba bốn đứa con nít (Anh Đức, Giấc mơ ông lão vườn chim). - Cuốc vá xắn đứt những dây choại, dây dớn, những gốc mốp trắng nhểu nước ròng ròng (Anh Đức, Giấc mơ ông lão vườn chim). - Dọc đường về nó sẽ lượm những củ khoai bom hất vung vãi trên vồng hoặc nhào vào những đám mưa trấu phụt ra từ bên hông nhà máy chà gạo, hứng lấy đầy thúng để tối về un muỗi cho em. Nhưng điều thích thú hơn hết là trong những chuyến đi này nó được ghé vào coi trường học (Nguyễn Thi, Mẹ vắng nhà). - Mẹ Chỉnh cột bánh tét vào ba-lô cho con gái, nói với bác Hai, với con: - Giờ nó mới hết bắt thường tôi tại sao nắn nó ra là gái (Nguyễn Thi, Mùa xuân). Trong phương ngữ Nam Bộ có rất nhiều những yếu tố đi sau tính từ chỉ mức độ mang đậm màu sắc biểu cảm, cảm xúc. Ví dụ: lạnh tanh, trống lổng, xanh lét, dài nhằng, mốc cời, ngắn chủn, gần xịt, tròn vo, dày bịt, cao nghệu, nhát hít, nhẹ phau, mừng húm, thẳng thuột, rầu thúi ruột... Những yếu tố đó cũng thường xuyên xuất hiện trong văn học cách mạng miền Nam giai đoạn 1945 – 1975; ví dụ: - Độ này đứa trẻ chòi đạp mạnh khiến chị đau lói, choáng váng (Anh Đức, Con chị Lộc). - Nó hay giương đôi mắt tròn vo say sưa nhìn cái miệng cũng tròn vo của cô giáo dạy học trò hát (Nguyễn Thi, Mẹ vắng nhà). - Ngày hôm trước, sau khi tắm rửa, đầu chải bóng lộn, Kính đạp xe trên trục kilômét đến bệnh xá trung đoàn... (Lê Thành Chơn, Hoàng tử của bầu trời). - Vì bị đánh mạnh ở bên kia sông Trẹm, bộ đội luồn qua rừng tràm dày bịt này để tiến đánh chúng và rút lui (Anh Đức, Giấc mơ ông lão vườn chim)... Trong truyện ngắn của các nhà văn An Giang, nhất là sau năm 1975, đầy ắp những trang văn tả cảnh thiên nhiên, tả cuộc sống sinh hoạt của người dân An Giang, Nam Bộ thấm thía tình người, đôn hậu, ấm áp, chân tình. Có thể nói ấn tượng đầu tiên và dễ thấy nhất trong ngôn ngữ truyện là khả năng khai thác và vận dụng nhuần nhị, có hiệu quả từ ngữ địa phương Nam Bộ để phản ánh và làm bật nổi những nét văn hóa về vùng đất và con người vùng sông nước miền Tây. Trong truyện ngắn của các nhà văn, người đọc dễ nhận ra những từ ngữ về địa hình, đồ vật, sản vật và cuộc sống sinh hoạt đặc trưng của vùng đồng bằng sông Cửu Long như: kinh, rạch, cù lao, vàm, láng, xuồng ba lá, ghe tam bản, vỏ lãi, chợ nổi, đèn hột vịt, cà ràng, ô môi, bình bát,... thể hiện cách nói rất đặc trưng của người miền Tây như:.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> - Đợi tới đêm 30 lâu thấy mồ. Mày lấy giầy ra, tụi mình trượt vài đường thôi mà. (Nguyễn Trí Công, Cuộc đua tài mùa xuân). - Tệ gì cũng có cơm nguội với mắm sống – ăn no rồi cứ rửa chén úp vô chạn xuống xuồng chèo đi, khỏi thưa gởi làm mất giấc ngủ của má. (Viễn Phương, Thầy tôi). - Ông Sáu muốn cởi áo lội sông, nhưng thấy sông lớn quá đành đứng thở ra. (Văn Định, Chiếc cầu). - Ngược lại hia Kim trông chẳng khác người nông dân mặc đồ đen, quần lá nem dây lưng rút, lại để râu càm. (Ngô Khắc Tài, Giọt nước trôi sông). - Chú mày là người tốt, qua không lấy tiền. (Trịnh Bửu Hoài, Người hàng xóm lạ lùng) - Bà ngó sững tía tôi. Sau cái phút bất ngờ ấy, má tôi xụ xuống, không hỏi han nói năng chi nữa. (Nguyễn Lập Em, Sông Hậu xuôi về). - Con nào coi cũng sướng con mắt hén anh. Tôi mới nuôi có ba tháng hai ngày mà cỡ đó. Tết anh vô chơi, thấy lủ khủ cho mà coi. (Văn Định, Chiếc cầu) Có thể nói, việc thường xuyên sử dụng những từ ngữ địa phương như trên đã góp phần làm cho bức tranh hiện thực đời sống và con người trong truyện thêm phần chân thật và sống động; giúp người đọc hiểu hơn về cuộc sống và nét văn hóa độc đáo của vùng đồng bằng sông Cửu Long so với các vùng miền khác của cả nước. 4. Kết luận. Màu sắc địa phương trong tác phẩm văn chương là tổng hòa những yếu tố thuộc các mặt khác nhau của ngôn ngữ nhưng đáng chú ý nhất là mặt từ ngữ. Sử dụng từ ngữ địa phương trong tác phẩm văn học là một biện pháp nghệ thuật, làm cho ngôn ngữ bình dân trở thành ngôn ngữ nghệ thuật; vì thế, trong sáng tác, người viết cần chọn lựa, cân nhắc kĩ càng, không nên sử dụng một cách dễ dãi, và càng không nên lạm dụng từ ngữ địa phương. HƯỚNG DẪN HỌC BÀI 1. Trong tác phẩm văn học, từ ngữ địa phương có những vai trò và tác dụng gì ? 2. Hãy cho biết đặc điểm của từ ngữ phương Nam Bộ trong việc sử dụng các yếu tố đi sau tính từ chỉ mức độ, cảm xúc. 3. Tìm các từ ngữ chỉ địa hình, đồ vật, sản vật hoặc cuộc sống sinh hoạt đặc trưng của người dân Nam Bộ trong các câu văn trích trong truyện ngắn của các nhà văn An Giang. 4. Nguyên tắc sử dụng từ ngữ địa phương trong sáng tác văn học là gì ? LUYỆN TẬP Hãy tìm các từ ngữ chỉ địa hình, đồ vật, sản vật, hoặc cuộc sống sinh hoạt đặc trưng của người dân Nam Bộ trong truyện ngắn Ông cá hô, Thằng Cung của Lê Văn Thảo. * Ghi nhớ: S/117. Sử dụng từ ngữ địa phương trong sáng tác văn học là một biện pháp nghệ thuật, góp phần phản ánh sinh động, chân thực đời sống. Hoặc: Hoạt động của thầy , trò Nội dung kiến thức Hoạt động 1 Bài 1 a. phương ngữ không có tên gọi trong từ toàn dân - Nhút : Xơ mít muối trộn với một vài thứ khác Giải thích nghĩa của các từ “ nhút , bồn (nghệ tĩnh) bồn, xụm , chao” ? - Bồn bồn : món dưa hoặc xào làm từ cây thân Hs : mềm sống dưới nước (nam bộ) - Xụm : món trộn chua ngọt từ xoài , đu đủ , cà rốt ..(Trung bộ ) - Chao : Món ăn làm từ đậu phụ ngâm có mùi thúi (Đông nam bộ) b. Đồng nghĩa nhưng khác âm P Bắc P Trung P Nam Cá quả Cá trầu Cá lóc Gv kẻ bảng mẫu bài 1b, 1c ở bảng phụ Lợn Heo Heo Gọi hs lên bảng điền từ theo mẫu Ngã Bổ Té Cả lớp nhận xét bổ sung Bà Mệ Bà *Hỏi và trả lời: về nghĩa và cách sử dụng Bố Bọ Tía.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> phương ngữ: Nghiện Nghiện ghiền *Nghĩa của từ ngữ địa phương và cách sử c. Đồng âm nhưng khác nghĩa dụng từ ngữ địa phương trong giao tiếp như P Bắc P Trung P Nam thế nào? Ốm : Bệnh Gầy Gầy -HS trả lời- nhận xét. Hòm : Đựng Quan tài Quan tài đồ Nón : lá , Mũ Nón tre, hình chóp Bài 2 Các từ ngữ trong bài 1a không có từ tương đương ở các địa phương khác hoặc trong từ toàn dân vì Hoạt động 2 nó chỉ xuất hiện ở địa phuơng này mà không Vì sao các từ ở mục 1a không có từ toàn dân xuất hiện ở địa phương khác tương ứng ? Hs : Bài 3 : Từ toàn dân Nhìn vào 2 bảng 1b, 1c cho biết đâu là từ - 1b: Phương ngữ Bắc ngữ toàn dân ? - 1c: Phương ngữ Bắc Hs : Theo ẹm từ ngữ của phương nào gần với từ toàn dân nhất ? Bài 4 : Hs : Phương bắc - Từ ngữ địa phương : Chi , rứa , nờ. tui , cớ Hoạt động 3 rang , ưng , mụ .. Hướng dẫn hs làm BT4 → Phương ngữ Trung : Quảng Bình, QTrị, TT Gv gọi hs đọc ở SGK Huế Hs thảo luận nhóm, sau 5p , đại diện các → Thể hiện chân thực hình ảnh của một vùng nhóm trình bày ,nhận xét bổ sung quê, tình cảm, suy nghĩ, tính cách, tâm hồn của Gv chữa bài tập người mẹ Quảng Bình , tăng sự sống động gợi Xác định từ ngữ địa phương ? cảm cho bài thơ. Tác dụng của những từ ngữ địa phương ấy ? -Sử dụng từ địa phương khi hiểu rõ nghĩa của từ *KNS:Phân tích tình huống: PT cách sử đó. dụng từ ngữ địa phương để có cách giao tiếp -Chú ý đến đối tượng giao tiếp. phù hợp: Qua các bài tập, em rút ra bài học gì cho bản thân trong cách sử dụng từ ngữ đia phương trong giao tiếp? Hoặc: HOẠT ĐỘNG CỦA GV HOẠT ĐỘNG CỦA HS NỘI DUNG GHI 1.Ổn định: Kiểm tra sĩ số. - Báo cáo sĩ số 2. Kiểm tra bài cũ: - Ở lớp 8 các em đã học về từ ngữ địa phương và - Trả lời trước lớp biệt ngữ xã hội. Em hiểu thế nào là từ địa phương? Tìm một ví dụ từ địa phương. 3. Bài mới: Mỗi vùng miền đất nước có những phương ngữ khác nhau. Tiết học này sẽ giúp các em hiểu được sự phong phú của từ ngữ trên các vùng miền của đất nước. * HĐ 1: Hướng dẫn HS làm bài tập 1: Tìm những từ địa phương trong phương ngữ mà em đang sử dụng. 1/ Từ ngữ địa - Gọi HS đọc bài tập 1: phương..

<span class='text_page_counter'>(22)</span> a) Tìm từ ngữ địa phương chỉ các sự vật, hiện tượng không có tên gọi trong các phương ngữ khác và trong ngôn ngữ toàn dân.. - HS tìm: a) + An lời (Phương ngữ Bắc): Nghe lời. + An nót lóng, nói đâm bông (Phương ngữ Trung): An không nhai, nói không nghỉ, thiếu chín chắn. + A thần phù (Phương ngữ Nam): Bất thình lình. - HS thực hiện:. b) Tìm từ ngữ địa phương giống về nghĩa nhưng khác về âm với những từ ngữ trong các phương ngữ khác hoặc trong ngôn ngữ toàn dân. b) HS tìm: PN Bắc Bố c) Tìm từ ngữ địa phương giống về âm nhưng Gỉa vờ khác về nghĩa với những từ ngữ trong các Giống hệt phương ngữ khác hoặc trong ngôn ngữ toàn dân. Mặc xác Xa Nghiện *HĐ 2: Hướng dẫn HS làm bài tập 2 c) HS tìm: - Gọi HS đọc bài tập. PN Bắc Hỏi: Vì sao các từ ngữ địa phương ở BT 1a) Bới: giỡ không có từ ngữ tương đương trong phương ngữ khác hoặc trong ngôn ngữ toàn dân? Sự xuất Ốm: bệnh hiện những từ ngữ đó thể hiện tính đa dạng về Hòm:rươn điều kiện tự nhiên và đời sống xã hội trên các g vùng miền của đất nước ta như thế nào?. a) + An lời (Phương ngữ Bắc) + An nót lóng, nói đâm bông(Phương ngữ Trung): + A thần phù (Phương ngữ Nam):. b) PN Trung Ba(bọ) Gỉa đò In hịt Mặc kệ Ngái Ghiền. PN Nam Ba(tía) Gỉa đò Y chang Kệ bà Xa Ghiền. PNTrung Bới: xới. PN Nam Bới:vạchr a Ốm: gầy Hòm:qtài. Ốm: gầy Hòm:qtà i. - HS làm theo nhóm, đại diện nhóm trả lời. * HĐ 3: Hướng dẫn HS làm BT 3 + Vì có những sự vật hiện tượng ở địa - Quan sát 2 bảng mẫu ở BT 1. phương này nhưng không xuất hiện ở Hỏi: Cho biết từ ngữ nào ở trường hợp a) và địa phương khác. Điều đó cho thấy cách hiểu nào ở trường hợp c) được xem là Việt Nam là 1 đất nước có sự khác biệt thuộc về ngôn ngữ toàn dân? về vùng miền, về điều kiện tự nhiên, đặc điểm tâm lí. Tuy nhiên sự khác biệt đó không lớn, bằng chứng là những từ ngữ thuộc nhóm này không nhiều. * HĐ 4: Hướng dẫn HS làm BT 4 - HS thảo luận, trả lời: - Gọi HS đọc BT 4: + Cá quả Xác định từ địa phương có trong đoạn trích? + Lợn Hỏi: Những từ địa phương đó thuộc phương ngữ + Ngã nào? + Ốm 4. Củng cố: NX: đều là phương ngữ miền Bắc, 5. Hướng dẫn học bài ở nhà: nhưng dã được lấy làm chuẩn của - Tìm, sưu tầm từ địa phương và chú ý cách tiếng Việt. dùng. - HS đọc và xác định: - Chuẩn bị: Đối thoại, độc thoại và độc thoại nội + Chi, rứa, nờ, tui, cớ răng, ưng, mụ.. c). 2/ Giải thích.. 3/ Từ ngữ được coi là ngôn ngữ toàn dân : + Cá quả + Lợn + Ngã + Ốm 4/ Xác định từ ngữ địa phương. Chi, rứa, nờ, tui, cớ răng, ưng, mụ..

<span class='text_page_counter'>(23)</span> tâm.. + Phương ngữ Trung (Các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên- Huế). Hoặc: HOẠT ĐỘNG CỦA GV VÀ HS * HOẠT ĐỘNG 1 : Sự phong phú của phương ngữ trong tiếng việt - 1HS đọc yêu cầu bài tập ? Tìm trong phương ngữ em đang sử dụng, hoặc một phương ngữ mà em biết những từ ngữ: Chỉ các sự vật, hiện tượng, không có tên gọi trong các phương ngữ khác và trong ngôn ngữ toàn dân. - Trình bày phần chuẩn bị trước lớp. - HS khác theo dõi, nhận xét, bổ sung (nếu có ). - GV đánh giá.. NỘI DUNG BÀI DẠY I. TÌM HIẺU CHUNG: 1. Sự phong phú của phương ngữ trong tiếng việt a.Chỉ các sự vật, hiện tượng, không có tên gọi trong các phương ngữ khác và trong ngôn ngữ toàn dân. - VD: Sầu riêng ,chôm chôm (Nam bộ) nhứt (Nghệ An –Hà Tĩnh) b. Đồng nghĩa nhưng khác về âm với từ ngữ trong các phương ngữ khác hoặc trong ngôn ngữ toàn dân.. 1HS đọc yêu cầu bài tập - Trình bày miệng trước lớp. - HS khác nghe , nhận xét, bổ xung. - GV đánh giá.. * HOẠT ĐỘNG 2 : Lý giải các hiện tượng phương ngữ trên: ? Các từ chôm chôm, sầu riêng có từ ngữ khác tương đương không? - HS: Trả lời - GV: như vậy các từ trên không xuất hiện ở các địa phương khác mà chỉ xuất hiện ở một số địa phương nhất định - Một số từ ngữ này có thể chuyển thành từ ngữ toàn dân vì những sự vật, hiện tượng mà những từ ngữ này gọi tên. Vốn chỉ xuất hiện ở một địa phương, nhưng sau đó dần phổ biến trên cả nước. - HS : Đọc yêu cầu bài tập - Làm bài tập, trình bày trước lớp. - Nhận xét, bổ xung - HS : Đọc yêu cầu bài tập. GV hướng dẫn HS làm bài tập 4 ? Tìm từ ngữ địa phương ? Các từ ngữ này thuộc phương ngữ nào. ? Tác dụng của từ ngữ địa phương trong đoạn trích * HOẠT ĐỘNG 3 : Hướng dẫn tự học. Bắc Trung Nam mẹ Mạ má bố ba, bọ ba, tía quả trái trái bát chén chén c. Đồng âm nhưng khác về nghĩa với từ ngữ trong các phương ngữ khác hoặc trong ngôn ngữ toàn dân. - Hòm: + ở miền Bắc: chỉ một số đồ đựng có nắp đậy. + ở miền Trung, Nam: Chỉ áo quan( quan tài). - Nón: + miền Trung và từ ngữ toàn dân: chỉ một thứ đồ dùng làm bằng lá, để đội đầu, có hình chóp. + miền Nam: Chỉ nón và mũ nói chung. - Bắp: + miền Bắc: Có thể dựng chỉ bắp chân, tay + miền Trung , Nam: chỉ bắp ngô. 2. Lý giải các hiện tượng phương ngữ trên: - Những từ ngữ địa phương như ở bài tập 1.a không có từ ngữ tương đương trong phương ngữ khác và trong ngôn ngữ toàn dân vì: Có những sự vật,hiện tượng xuất hiện ở địa phương này nhưng không xuất hiện ở địa phương khác do có sự khác biệt giữa các vùng miền về điều kiện tự nhiên, đặc điểm tâm lý, phong tục tập quán. Tuy nhiên sự khác biệt đó không quá lớn. (Từ ngữ thuộc nhóm này không nhiều) Ví dụ 3: (SGK /175) - Hai bảng mẫu ở bài tập 1- bảng b, c. - Từ ngữ toàn dân ở bảng b – từ ngữ ở miền Bắc: cá quả, lợn, ngã, ốm. - Cách hiểu thuộc ngôn ngữ toàn dân: ốm- bị bệnh. Ví dụ 4: (SGK/ 176) - Những từ ngữ địa phương trong đoạn trích: Chi,.

<span class='text_page_counter'>(24)</span> - GV hệ thống bài: + Vai trò của từ ngữ địa phương. + Cách sử dụng từ ngữ địa phương - HD học sinh về nhà: + Tiếp tục hoàn thiện bài tập + Soạn: “Đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm…..”. rứa, nờ, tui, cớ răng, ưng, mụ thuộc phương ngữ Trung được dùng phổ biến ở các tỉnh: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế. - Tác dụng góp phần thể hiện chân thực hơn hình ảnh của một vùng quê và tình cảm, suy nghĩ, tính cách của một người mẹ trên vùng quê ấy; làm tăng sự sống động, gợi cảm của tác phẩm III. HƯỚNG DẪN TỰ HỌC TUẦN 13 Ngày soạn:……………………………... TIẾT 65 Ngày dạy:……………………………… Tập làm văn ĐỐI THOẠI VÀ ĐỘC THOẠI NỘI TÂM TRONG VĂN BẢN TỰ SỰ I. MỨC ĐỘ CẦN ĐẠT: - Hiểu được vai trò của đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm trong văn bản tự sự. - Biết viết văn bản tự sự có đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm. II. TRỌNG TÂM, KIẾN THỨC, KĨ NĂNG, THÁI ĐỘ. 1. Kiến thức: - Đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm trong văn bản tự sự - Tác dụng của việc sử dụng đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm trong văn bản tự sự. 2. Kĩ năng: - Phân biệt được đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm. - Phân tích được vai trò của đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm trong văn bản tự sự. 3. Thái độ: Có ý thức tập viết bài văn tự sự có sử dụng yếu tố đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm. III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC: 1. Ổn định lớp: Kiểm tra sĩ số. 9A1/ (Vắng : . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . ) 9A3/ (Vắng: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .) 9A2/ (Vắng : . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . ) 9A5/ (Vắng: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .) 2. Kiểm tra: Không kiểm tra. 3. Bài mới: Trong văn bản tự sự ta thường gặp người đối thoại có khi là độc thoại hay độc thoại nội tâm. Vậy yếu tố này có vai trò gì và khi sử dụng cần lưu ý những điểm nào? Giờ học hôm nay sẽ giúp chúng ta hiểu được những vấn đề trên HOẠT ĐỘNG CỦA THẦY - TRÒ NỘI DUNG GHI BẢNG @ Hoạt động 1: Hướng dẫn Tìm hiểu yếu tố đối thoại, I. TÌM HIỂU YẾU TỐ ĐỐI THOẠI, ĐỘC THOẠI độc thoại ,độc thoại nội tâm. VÀ ĐỘC THOẠI NỘI TÂM TRONG VB TỰ SỰ: + GV yêu cầu HS đọc VD1. (S/176-177) Đọc đoạn trích sau: VD1. (S/176-177) Có người hỏi: ( 1 ) * Đọc đoạn trích sau: - Sao bảo làng Chợ Dầu tinh thần lắm cơ mà?... ( 2 ) Có người hỏi: ( 1 ) - Ấy thế mà bây giờ đổ đốn ra thế đấy! ( 3 ) - Sao bảo làng Chợ Dầu tinh thần lắm cơ mà?... ( 2 ) Ông Hai trả tiền nước, đứng dậy, chèm chẹp miệng, - Ấy thế mà bây giờ đổ đốn ra thế đấy! ( 3 ) cười nhạt một tiếng, vươn vai nói to: ( 4 ) Ông Hai trả tiền nước, đứng dậy, chèm chẹp miệng, - Hà, nắng gớm, về nào… ( 5 ) cười nhạt một tiếng, vươn vai nói to: ( 4 ) Ông lão vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác, rồi đi thẳng. - Hà, nắng gớm, về nào… ( 5 ) (6) Tiếng cười nói xôn xao của đám người mới tản cư Ông lão vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác, rồi đi thẳng. lên ấy vẫn dõi theo. (7) Ông nghe rõ cái giọng chua lanh (6) Tiếng cười nói xôn xao của đám người mới tản cư lảnh của người đàn bà cho con bú: (8) lên ấy vẫn dõi theo. (7) Ông nghe rõ cái giọng chua lanh - Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó ! ( 9 ) Đói khổ ăn cắp, lảnh của người đàn bà cho con bú: (8) ăn trộm bắt được người ta còn thương. ( 10 ) Cái giống - Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó ! ( 9 ) Đói khổ ăn cắp, Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát ! (11) ăn trộm bắt được người ta còn thương. ( 10 ) Cái giống Ông Hai cúi gằm mặt xuống mà đi. ( 12 ) Ông thoáng Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát ! (11) nghĩ đến mụ chủ nhà. (13) Ông Hai cúi gằm mặt xuống mà đi. ( 12 ) Ông thoáng nghĩ đến mụ chủ nhà. (13) Về đến nhà, ông Hai nằm vật ra giường, mấy đứa trẻ Về đến nhà, ông Hai nằm vật ra giường, mấy đứa trẻ thấy bố hôm nay có vẻ khác, len lét đưa nhau ra đầu nhà thấy bố hôm nay có vẻ khác, len lét đưa nhau ra đầu nhà.

<span class='text_page_counter'>(25)</span> chơi sậm chơi sụi với nhau. ( 14 ) Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ giàn ra. (15) Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư ? (16) Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư ? (17) Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu … (18) Ông lão nắm chặt hai tay lại mà rít lên : (19) - Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này. ( 20 ) + GV yêu cầu HS đọc VD2. (S/177) Suy nghĩ và trả lời câu hỏi: a) Trong ba câu đầu đoạn trích, ai nói với ai ? Tham gia câu chuyện có ít nhất mấy người ? Dấu hiệu nào cho ta thấy đó là một cuộc trò chuyện trao đổi qua lại ? b) Câu "- Hà, nắng gớm, về nào.." Ông Hai nói với ai? Đây có phải là một câu đối thoại không? Vì sao? Trong đoạn trích còn có câu nào kiểu này không? Hãy dẫn ra các câu đó. c) Những câu như: “ Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư ? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư ? Khốn nạn ,bằng ấy tuổi đầu…” là những câu ai hỏi ai ? Tại sao trước những câu này không có gạch đầu dòng như những câu đã nêu ở điểm (a) và (b) ? d) Các hình thức diễn đạt trên có tác dụng như thế nào trong việc thể hiện diễn biến của câu chuyện và thái độ của những người tản cư trong buổi trưa ông Hai gặp họ ? Đặc biệt chúng đã giúp nhà văn thể hiện thành công những diễn biến tâm lí nhân vật ông Hai như thế nào ? + GV: Vậy giữa đối thoại và độc thoại giống và khác nhau như thế nào ? + HS đáp: - Giống nhau : Đều có dấu gạch đầu dòng. - Khác nhau : Đối thoại Độc thoại. chơi sậm chơi sụi với nhau. ( 14 ) Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ giàn ra. (15) Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư ? (16) Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư ? (17) Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu … (18) Ông lão nắm chặt hai tay lại mà rít lên : (19) - Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này. ( 20 ). VD2. (S/177) - 3 câu đầu: miêu tả cuộc nói chuyện của những người phụ nữ tản cư. Có ít nhất 2 người phụ nữ tham gia bởi; có 2 lượt lời… (xuống dòng, gạch đầu dòng)  đối thoại - 1 câu nói trống không, bâng quơ… không hướng tới 1người tiếp nhận cụ thể nào. Không liên quan tới chủ đề mà người khác đang trao đổi…thực ra ông nói với chính mình để lảng tránh… độc thoại. - Chúng bay… - Ông Hai hỏi chính mình. - Những câu này không phát ra thành tiếng mà âm thầm diễn ra trong suy nghĩ, tình cảm của ông Hai… Cho thấy tâm trạng dằn vặt, đớn đau…=> Độc thoại nội tâm => Khắc hoạ sinh động, chân thật cuộc sống, tạo tình huống đi sâu vào nội tâm nhân vật.  Các hình thức đối thoại tạo cho câu chuyện có không khí như cuộc sống thật, thể hiện thái độ căm giận của người tản cư đối với dân làng Chợ Dầu, tạo tình huống để đi sâu vào nội tâm nhân vật. Những hình thức độc thoại và độc thoại nội tâm sau đó giúp nhà văn khắc hoạ sâu sắc tâm trạng dằn vặt, đau đớn khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc, nghĩa là làm cho câu chuyện sinh động hơn. * Ghi nhớ: S/178. Là hình thức đối đáp, tròLà lời của 1 người nào đó - Đối thoại, độc thoại, độc thoại nội tâm là những hình chuyện giữa 2 hoặc nhiềunói với chính mình hoặc thức quan trọng để thể hiện nhân vật trong VB tự sự. người. nói với 1 ai đó trong - Đối thoại là hình thức đối đáp, trò chuyện giữa hai tưởng tượng . hoặc nhiều người. Trong văn bản tự sự, đối thoại được + GV hỏi: Phân biệt độc thoại và độc thoại nội tâm? thể hiện bằng cách gạch đầu dòng ở lời trao và lời đáp + HS đáp, GV chốt đáp án: (mỗi lượt lời là một gạch đầu dòng). - Giống nhau: Lời của một người nào đó nói với chính - Độc thoại là lời của một người nào đó nói với chính mình hoặc nói với một ai đó trong tưởng tượng. mình hoặc với một ai đó trong tưởng tượng. Trong văn - Khác nhau: bản tự sự, khi người độc thoại nói thành lời thì phía . Độc thoại: trước câu có gạch đầu dòng; còn khi không thành lời thì * Nói thành lời. không có gạch đầu dòng. Trường hợp sau gọi là độc * Trong VDTS, phía trước câu nói có gạch đầu dòng. thoại nội tâm. . Độc thoại nội tâm: * Không nói thành lời. * Trong VBTS, phía trước câu nói ko có gạch đầu dòng. + GV yêu cầu HS đọc Ghi nhớ: S/178. @ Hoạt động 2: Hướng dẫn Luyện tập..

<span class='text_page_counter'>(26)</span> + GV yêu cầu HS đọc BT1. (S/178) Phân tích tác dụng của hình thức đối thoại trong đoạn trích sau đây : Mãi khuya, bà Hai mới chống gối đứng dậy. Bà lẳng lặng xuống bếp châm lửa ngồi tính tiền hàng. Vẫn những tiền cua, tiền bún, tiền đỗ, tiền kẹo… Vẫn cái giọng rì rầm, rì rầm thường ngày. - Này, thầy nó ạ. Ông Hai nằm rũ ra ở trên giường không nói gì. - Thầy nó ngủ rồi à? - Gì? Ông lão khẽ nhúc nhích. - Tôi thấy người ta đồn… Ông lão gắt lên : - Biết rồi! Bà Hai nín bặt. Gian nhà lặng đi, hiu hắt. (Kim Lân, Làng) + GV yêu cầu HS đọc BT2. (S/179) Viết một đoạn văn kể chuyện theo đề tài tự chọn , trong đó sử dụng cả hình thức đối thoại , độc thoại và độc thoại nội tâm . Tham khảo: Sáng nay, trước khi đi làm, bố dặn mình: - Ở nhà, cho cá ăn hộ bố nhé! - Vâng ạ! Vào nhà, mình lấy truyện tranh ra xem, chán thì ra ngắm bể cá của bố. Mấy con cá ba đuôi có cái bụng phệ ơi là phệ, thế mà chúng bơi qua bơi lại trông ỏn ẻn, nhẹ nhàng lắm. Còn mình, bố bảo chỉ vì cái bụng nặng quá nên đi còn chưa vững, cứ ngã oạch hoài. Sao bụng cá to thế mà không nặng nhỉ? Mình thò tay xuống nước định sờ thử xem cái bụng nó có cứng không thôi, nhưng con cá cứ chạy trốn. Ô, bụng nó căng phồng như quả bóng tí hon, mình muốn biết xem có cái gì ở trong đó. Nhưng bụng gì mà kì thế này, sao mình chỉ bóp nhẹ một cái đã bể cái bụp. Chết chưa, làm sao bây giờ? Mình thả con cá trở vào bể, rồi chạy tót về phòng. Mình tự nhủ: - Đồ chơi của bố mau hư quá! IV. HƯỚNG DẪN TỰ HỌC: - Hệ thống bài. - Đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm. - Học bài + hoàn thành các bài tập.. II. LUYỆN TẬP: Bài tập 1: (S/178). - Đối thoại: của ông Hai với bà Hai. Cuộc hội thoại diễn ra trong không khí không bình thường giữa vợ chồng ông Hai. - Có ba lượt lời trao (Bà Hai) nhưng chỉ có hai lời đáp (ông Hai) + Lượt đầu ông Hai không đáp, mà nằm rũ trên giường + Lượt hai ông khẽ nhúc nhích, đáp lại bằng một câu hỏi lại… + Lượt ba ông chỉ đáp lại lời bà bằng một câu cụt lủn, giọng gắt lên: Biết rồi.  Tái hiện cuộc đối thoại này tác giả đã làm nổi bật được tâm trạng chán nản, buồn bã, đau khổ, thất vọng của ông Hai trong cái đêm nghe tin làng mình theo giặc.. Bài tập 2: (S/179) Tôi vừa phải nằm viện một tuần vì bị ốm. Hôm nay là ngày tôi dược ra viện. Trên đường về nhà, xen với nỗi vui mừng là nỗi lo. Lo vì không biết phải xoay xở sao đây để bù đắp bài vở trong những ngày qua. Tôi vừa bước vào nhà thì bé Hoa, em tôi, nhảy cẫng ra và bi bô: - Anh Hưng ơi! Có chị nào nho nhỏ, chị nói với bố là bạn của anh. Ngày nào chị ấy cũng đến lấy vở về chép bài cho anh. Chị ấy còn cho em kẹo nữa cơ đấy! - Ừ. Rồi không kịp nhìn những viên kẹo trên tay em, tôi lao ngay vào phòng học.Tay tôi run run giở vội những tờ giấy trắng. Không lẽ lại là cái Hà? Có phải là Hà không nhỉ? Thôi đúng Hà rồi.Tôi lặng đi.Chính Hà đã âm thầm giúp tôi trong những ngày qua. Vậy mà đã có lúc tôi nghĩ xấu về Hà. Lúc này tự dưng trong lòng tôi dâng lên một niềm cảm xúc khó tả. Không thể kìm nén nổi lòng mình, tôi thốt lên: - Hà ơi! Cảm ơn bạn nhé!.

<span class='text_page_counter'>(27)</span>

×