Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Tiểu luận tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch văn hoá ở hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.22 KB, 16 trang )

Tiểu luận
Lời mở đầu
Văn hoá là một sản phẩm do con ngời tạo nên, nó không do một cá nhân
mà do cả một cộng đồng, tập thể ngời. Tơng ứng với mỗi một thời kỳ phát
triển của loài ngời là một nền văn hoá tập trung riêng. Đồng thời văn hoá tự
đánh giá phần nào sự phát triển của văn minh nhân loại và ngày nay văn hoá
còn là một yếu tố cấu thành thúc đẩy động cơ đi du lịch. Mỗi một quốc gia và
một dân tộc có những nét đặc trng văn hoá riêng do vậy để hiểu biết, giao lu
tìm hiểu và thởng thức buộc con ngời phải có hoạt động đi du lịch và thông
qua du lịch cảm thấy gần gũi thân thiết với nhau hơn.
ở Việt Nam bắt đầu từ nền văn hoá đất nớc trải dài theo thời gian
thông qua năm tháng đà tích lũy đợc một kho tàng văn hoá lớn và nó ngày
càng có sức thu hút sự quan tâm chú ý của mọi ngời ở các quốc gia khác
nhau. Hơn bất cứ một ngành nào du lịch ngày càng có mối quan hệ mật thiết
với văn hoá. Văn hoá không chỉ là động lực của sự phát triển mà còn đợc gọi
là điểm tựa, là nền tảng cho sự phát triển bền vững. Văn hoá du lịch đang trở
thành xu thế chủ đạo trong chiến lợc phát triển của ngành du lịch thế giới.
Trong Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VIII đà nêu rõ "Phát triển du lịch tơng
xứng với tiềm năng du lịch to lớn của đất nớc theo hớng du lịch văn hoá sinh
thái, môi trờng xây dựng các chơng trình và các điểm hấp dẫn du lịch về văn
hoá, di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh.
Hà Nội đợc coi là cái nôi văn hoá của cả nớc, nơi tập trung nhiều giá
trị văn hoá gồm cả văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần, có sức thu hút lôi
cuốn ngày càng nhiều khách du lịch.
Để phát triển du lịch không một quốc gia nào trên thế giới lại không coi
trọng sự phát triển của du lịch văn hoá bởi vì du lịch văn hoá là một loại hình
du lịch có nhiều u điểm không phụ thuộc vào thời tiết có thể phát triển quanh
năm. Nguồn thu từ du lịch văn hóa là nguồn thu ổn định với mức tăng trởng
ngày càng lớn nó giúp con ngời hiểu biết sâu sắc về thế giới xung quanh. Điều
đó rất phù hợp với thời đại ngày nay quan trọng hơn việc khai thác tiềm năng
văn hoá truyền thống trong kinh doanh du lịch cũng là một cách tốt nhất đợc


tiến hành đồng thời đà đợc bảo tồn tôn tạo chúng. Phát triển một cách hiệu
quả các tiềm năng, khuyến khích sự phát triển của du lịch văn hoá trong giai
đoạn mới.

1


Tiểu luận
Mục lục
Trang
Lời mở đầu

1

Chơng I. Sự cần thiết để phát triển du lịch văn hoá trong thời kỳ
đẩy mạnh CNH - HĐH

2

I. Vai trò và vị trí của du lịch văn hoá trong sự phát triển của du lịch

2

II. Mối quan hệ giữa du lịch văn hoá với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá

6

Chơng II. Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch văn hoá ở
Hà Nội


9

I. Tiềm năng phát triển du lịch văn hoá ở Hà Nội

9

II. Thực trạng du lịch văn hoá Hà Nội

21

Chơng III. Kiến nghị một số giải pháp

25

Kết luận

30

Tài liệu tham kh¶o

31

2


Tiểu luận
Chơng I. Sự cần thiết để phát triển Du lịch văn hoá
trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH
I. Vai trò và vị trí của Du lịch văn hoá trong sự
phát triển của Du lịch

1. Những nét khái quát về Du lịch văn hoá
Có lẽ hiếm có một quốc gia nào trên thế giới muốn phát triển ngành Du
lịch của mình mà lại không coi trọng du lịch văn hoá? Nhng không phải bất
cứ quốc gia nào cũng có điều kiện phát triển du lịch văn hoá.
Du lịch văn hoá chỉ phát triển ở những nớc có nền văn minh cổ đại nổi
tiếng, có nghệ thuật dân tộc đặc sắc, có những cảnh đẹp làm đắm say lòng ngời. Nếu Ai Cập không có kim tự tháp đồ sộ, Hy Lạp không có những đề tài
nguy nga... thì mỗi năm không thể có hàng chục triệu khách đến du lịch ở nớc
này.
Có thể hiểu Du lịch văn hoá là một loại du lịch mà mục đích chính là
nâng cao hiểu biết cho cá nhân đáp ứng sự ham hiểu biết. Qua các chuyến đi
đến những vùng đất mới, tìm hiểu và nghiên cứu lịch sử, kiến trúc, kinh tế, chế
độ xà hội, cuộc sống và phong tục tập quán của địa phơng đất nớc đến du lịch
hoặc là kết hợp với những mục đích khác nữa.
Du lịch văn hoá vừa là phơng tiện, vừa là mục đích của kinh doanh du
lịch. Du lịch văn hoá nhằm chuyển hoá các giá trị văn hoá. Các giá trị vật
chất cũng nh tinh thần cho hoạt động du lịch. Du lịch văn hoá là phơng thức
hấp dẫn vì nó giải quyết những nhu cầu về cảm thụ cảnh quan của quốc gia và
du lịch văn hoá thờng để dành cho những du khách có trình độ cao trong xÃ
hội.
Du lịch văn hoá đợc xem là tổng thể của Du lịch - xem đó là một hiện tợng văn hoá nhằm thu hút khách ở các điểm du lịch phải mang tính văn hoá.
Tuỳ theo các tiêu thức khác nhau mà ngời ta có thể chia du lịch văn hoá ra
nhiều loại.
+ Du lịch tìm hiểu bản sắc văn hoá: Khách đi tìm hiểu các nền văn hoá
là chủ yếu. Mục đích chuyến đi mang tính chất khảo cứu nghiên cứu. Đối tợng khách chủ yếu là các nhà nghiên cứu, học sinh, sinh viên.

3


Tiểu luận
+ Du lịch tham quan văn hoá: Đây là loại hình du lịch phổ biến nhất du

khách thờng kết hợp giữa tham quan. Với nghiên cứu tìm hiểu văn hoá trong
một chuyến đi. Đối tợng tham gia vào loại hình du lịch này rất phong phú,
bên cạnh những khách vừa kết hợp đi để tham quan vừa để nghiên cứu còn có
những khách chỉ để chiêm ngỡng để biết, để thoả mÃn sự tìm hoặc có thể theo
trào lu... Do vậy trong một chuyến du lịch du khách thờng đi đến nhiều điểm
du lịch, trong đó vừa có những điểm du lịch văn hoá, vừa có những điểm du
lịch núi, du lịch biển, du lịch dà ngoại, săn bắn... Đối tợng khách là những ngời a phiêu lu mạo hiểm, thích tìm cảm giác mới và chủ yếu là những ngời trẻ
tuổi.
+ Du lịch kết hợp giữa thăm quan văn hoá với các mục đích khác. Mục
đích chính của khách là trong chuyến đi nhằm thực hiện công tác hoặc nghề
nghiệp nào đó và có kết hợp với tham quan văn hoá. Đối tợng của loại hình
này là những ngời đi tham dự hội nghị, hội thảo, kỷ niệm những ngày lễ lớn,
các cuộc triển lÃm. Loại khách này đòi hỏi trình độ phục vụ hiện đại, phong
phú có chất lợng cao, quy trình phục vụ đồng bộ, chính xác, họ có khả năng
thanh toán cao, nhng nói chung thời gian dành cho du lịch của họ rất ít. Thể
loại du lịch cụ thể của loại hình du lịch này là du lịch công vụ.
Tuy nhiên, sự phân loại Du lịch văn hoá thành các loại hình trên chỉ là tơng đối. Vì trong một chơng trình đợc kết hợp với nhiều hoạt động khác nhau.
Du lịch văn hoá là loại hình du lịch tiềm năng và nó ít chÞu sù chi phèi
cđa u tè thêi vơ du lÞch (thời tiết, khí hậu) nhng nó phụ thuộc vào đặc điểm
nhân khẩu học nh: giới tính, độ tuổi, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, tôn giáo...
của du khách.
2. Vị trí và vai trò của du lịch văn hoá với quá trình công nghiệp hoá
hiện đại hoá đất nớc:
a) Vị trí của du lịch văn hoá
Trong quá trình phát triển kinh tế xà hội thời kỳ CNH-HĐH hiện nay,
vấn đề giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc là sợi chỉ đỏ trong đờng lối văn hoá
của Đảng ta. Bởi vì nói đến văn hoá là nói đến dân tộc N ớc Việt Nam ta đÃ
trải qua hàng nghìn năm sinh tử trong gian truân, vất vả, nhân dân các dân tộc
đà sáng tạo, nâng cao, bảo tồn, chắt chiu để có những công trình kiến trúc,
đền chùa, miếu mạo của các thiên tài kỳ vĩ nh Nguyễn TrÃi, Nguyễn Du, Hồ

Xuân Hơng, Nguyễn Gia Thiều, Đoàn Thị Điểm... làm nên diện mạo nền văn
4


Tiểu luận
học, nền văn hoá Việt Nam. Từ ngọn bút tháp bên Hồ Gơm hay những món
ăn truyền thống đều là di sản văn hoá dân tộc, đó là những tài sản quốc gia,
cũng là một trong những tiềm năng của du lịch ngày nay. Do vậy mà chúng ta
cần phải giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc đúng nh trong diễn
văn khai mạc Thập kỷ Quốc tế phát triển văn hoá 1900-2000 ông Federico
Mayor, Tổng th ký Unesco đà nói "Cần phải giữ gìn cho đợc mọi giá trị văn
hoá dân tộc, một cộng đồng ngời, thậm chí một cá thể là những điều không
thể thay thế đợc".
Trên thế giới ngày nay đang phát triển nhiều loại hình du lịch nh du lịch
hoài cổ, du lịch tìm cái mới, du lịch tìm hiểu phong tục nhng du lịch kiểu nào,
ở đây, đến nớc nghèo hay nớc công nghiệp phát triển du lịch bao giờ cũng gắn
liền với văn hoá, với bản sắc của mỗi quốc gia luôn đầy ắp giá trị. Vì văn hoá
là yếu tố tiềm ẩn hoá thân trong hoạt động du lịch và hoạt động du lịch trớc
hết là hoạt động nhằm đi tìm các giá trị văn hoá dân tộc và nhân loại để thởng
thức, khám phá, hởng thụ và sáng tạo. Ta có thể khẳng định rằng du lịch
không thể tự mình phát triển đợc nếu không dựa trên một nền tảng văn hoá và
ngợc lại nhờ có du lịch mà các dân tộc hiểu biết đợc những thành tựu rực rỡ
của nền văn hoá nhân loại, tạo ra những điều kiện cần thiết cho sự xích lại
gần nhau giữa các nền văn hoá nhằm làm cho các dân tộc ngày càng hiểu rõ
nhau hơn. Nhng du lịch không chỉ dừng lại ở sự thởng ngoạn cảnh đẹp thiên
nhiên, ngắm nhìn các công trình văn hoá, tìm hiểu các di tích lịch sử để cảm
thụ mà du lịch còn là một hoạt động khám phá sáng tạo theo quy luật của cái
đẹp.
Du lịch và văn hoá là hai khái niệm khác nhau nhng lại đồng nhất trong
mỗi khát vọng của mỗi con ngời. Lịch sử phát triển du lịch từ xa đến nay đÃ

cho thấy nhờ du lịch mà con ngời đà khám phá ra nhiều điều mới mẻ và đÃ
chuyển hoá khá nhiều giá trị văn hoá thành sản phẩm du lịch hấp dẫn. Nh vậy
du lịch là một nhu cầu không thể thiếu đợc của con ngời trong quá trình hiểu
biết để hởng thụ và sáng tạo. Sự đóng góp cho quá trình tăng trởng kinh tế cho
sự phát triển nguồn thu từ du lịch có nguyên nhân từ nhu cầu này - du lịch
phát triển không tách rời nhu cầu hiểu biết, khám phá, sáng tạo. Theo đặc trng
của văn hoá trên cơ sở biết đánh thức các giá trị văn hoá của dân tộc, biết xem
các di sản văn hoá, di tích lịch sử... Sự phát triển của du lịch ở Hà Nội, cũng

5


Tiểu luận
nh Huế, Quảng Ninh, Quảng Nam - Đà Nẵng... là nhờ vào tiềm năng vô giá
đó.
b) Vai trò và ý nghĩa của du lịch văn hoá
Nói đến du lịch văn hoá không có nghĩa rằng du lịch là chỗ dựa duy nhất
của sự phát triển văn hoá. Không nhận thức rõ điều này, thì vô tình sự phát triển
chỉ có thể thành công xét về góc độ kinh tế, còn sẽ thất bại về việc giữ gìn bản
sắc dân tộc do sự tiếp xúc với du khách từ khắp năm châu đến Việt Nam.
Phát triển du lịch văn hoá là một định hớng đúng trong quá trình CNHHĐH đất nớc. Văn hoá chính là nền tảng, là động lực thúc đẩy sự phát triển
du lịch và du lịch văn hoá. Kinh nghiệm trên thế giới và nớc ta cho thấy cần
phải thực hiện đồng thời và đồng bộ nh: phải tạo ra một môi trờng văn hoá
vừa tiên tiến vừa đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc, làm sống lại các giá trị văn
hoá truyền thống, giữ vững sự ổn định chính trị và an ninh xà hội, xây dựng
đội ngũ cán bộ, nhân viên làm du lịch tốt... nhằm tạo ra sức hấp dẫn khách
thập phơng.
Hoạt động du lịch càng hiện đại hoá thì càng phải làm giàu thêm bản sắc
và truyền thống dân tộc. Nhng văn hoá phải thật sự là yếu tố nhân bản, là
những giá trị hữu hình và vô hình. Cái gọi là tài sản vô hình đó chính là sự

chuyển hoá các năng lực tinh thần của con ngời vào hoạt động kinh doanh, đó
chính là văn hoá.
Vai trò và ý nghĩa của du lịch văn hoá đối với kinh doanh du lịch là hết
sức quan trọng, nó góp phần thúc đẩy cho du lịch vơn lên, tạo đà cho du lịch
ngày một phát triển đem lại hiệu quả to lớn và ổn định cho nền kinh tế. Nó có
hiệu quả là càng tăng giá trị văn hoá - văn minh, bản sắc dân tộc thì hiệu quả
kinh doanh du lịch càng cao. Nhận biết đợc các vấn đề đó các nhà kinh doanh
du lịch, các nhà quản lý kinh tế phải không những kiểm tra ngăn chặn những
mặt phi văn hoá bằng hệ thống pháp luật mà vấn đề lâu dài và quan trọng hơn
là xây dựng tạo ra để hấp dẫn từ bản sắc, "thuần - phong - mỹ - tục" dân tộc,
bảo tồn nâng cấp các di tích lịch sử văn hoá, kiến trúc.
II. Mối quan hệ giữa du lịch văn hoá với quá trình
công nghiệp hoá - hiện đại hoá
1. Điều kiện để phát triển du lịch văn ho¸:

6


Tiểu luận
Kinh doanh du lịch là một loại hình kinh doanh cao cấp không thể tách
rời văn hoá vì xét cho cùng du lịch là hoạt động văn hoá. Văn hoá là nhu cầu
thiết yếu trong đời sống xà hội đồng thời nó cũng là nhu cầu đặc trng của con
ngời khi đi du lịch do vậy văn hoá là yếu tố quyết định tính hấp dẫn của sản
phẩm du lịch vì nó giải quyết nhu cầu về nhận thức và thẩm mỹ. Có nghĩa là
đến điểm du lịch nếu đi phải có cái gì cho ngời ta xem và ngợc lại.
Xét về hai khía cạnh: ngời đi du lịch và những nhà kinh doanh đi du lịch
để phát triển du lịch văn hoá thì yếu tố đó là tài nguyên văn hoá bởi vì:
* Khách du lịch: với ớc muốn tìm tòi, hiểu biết thêm về những giá trị văn
hoá tinh thần của một dân tộc, một vùng, một địa phơng nào đó và do vậy họ
sẽ đến với du lịch văn hoá. Du lịch văn hoá chỉ có thể phát triển ở một vùng,

một địa phơng, một đất nớc nếu ở đó có tài nguyên văn hoá phong phú, đa
dạng, độc đáo mang đậm bản sắc dân tộc... cùng kết hợp với một số yếu tố
khác tạo nên những địa điểm du lịch văn hoá đầy hấp dẫn, cuốn hút. Chính
những yếu tố đó đà đa khách du lịch tìm đến những nơi có tài nguyên văn
hoá, lôi cuốn và do đó tài nguyên văn hoá là yếu tố quan trọng nhất đối với lu
lợng đi du lịch văn hoá ngày càng tăng của khách du lịch.
* Nhà kinh doanh: mục đích của những nhà kinh doanh du lịch là làm
sao thu hút đợc nhiều khách tham quan, vui chơi giải trí, tìm hiểu về các lĩnh
vực văn hoá... để từ đó có đợc doanh thu cao lợi nhuận lớn. Muốn đạt đợc
mục đích đó để phục vụ khách du lịch đến tham quan tìm hiểu thì điều kiện
đầu tiên là phải có tài nguyên du lịch thì mới có thể kinh doanh du lịch đợc.
Khi có tài nguyên du lịch thì khách mới có thể thu hút đợc lợi nhuận từ đây
ngành du lịch cũng vì vậy mà phát triển hơn.
Để phát triển du lịch văn hoá thì cũng cần phải có tài nguyên văn hoá,
đây là yếu tố quyết định. Tài nguyên văn hoá với những đặc điểm kỳ diệu, thú
vị, đa dạng độc đáo sẽ ngày càng thu hút khách du lịch đến tham quan nhằm
thoả mÃn trí tò mò cũng nh phần nào đáp ứng đợc lòng mong muốn hiểu biết
sâu rộng về cái hay cái đẹp của mỗi vùng, mỗi địa phơng, mỗi đất nớc. Tài
nguyên văn hoá bao gồm những tài nguyên có giá trị về văn hoá vật chất qua
các di tích lịch sử, văn hoá, các danh lam, thắng cảnh, các công trình kiến
trúc... Ngoài ra nó còn thu hút khách du lịch bởi các giá trị văn hoá phi vật
chất đó là các loại hình nghệ thuật: tuồng, chèo, múa với múa dân ca... là
những nét đặc sắc dân gian và huyền thoại cho các lễ hội.
Khác với nguồn tài nguyên tự nhiên, tài nguyên văn hoá không hề bị can
thiệp nếu chúng ta biết duy trì tôn tạo, bảo vệ và phát triển đừng để cho chúng bị

7


Tiểu luận

suy thoái. Theo thời gian và không gian, khai thác hợp lý nguồn tài nguyên văn
hoá cho phát triển du lịch là một hớng đi đúng hiện nay và trong tơng lai.
2. Phát triển du lịch văn hoá trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nớc
a) Sự phát triển của du lịch văn hoá góp phần làm tăng thu nhập quốc
dân cho địa phơng - đất nớc du lịch thông qua hệ thống thuế trực tiếp và gián
tiếp trong du lịch, có những nớc thu nhập từ du lịch chiếm trên 50% tổng thu
nhập bằng ngoại tệ (Mêhicô, Tây Ban Nha...) Du lịch phát triển tạo ra hiệu
quả số nhận về thu nhập góp phần thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế địa phơng đất nớc du lịch đánh thức một số ngành sản xuất thủ công cổ truyền của
dân tộc, góp phần giải quyết số lợng lớn công ăn việc làm cho xà hội mà biểu
hiện là khi du lịch phát triển sẽ tạo ra hiệu quả số nhân về việc làm. Mặt khác
du lịch phát triển sẽ thu hút nguồn vốn đầu t từ nớc ngoài.
b) Du lịch văn hoá nói riêng và du lịch nói chung là một trong những
lĩnh vực xuất khẩu có hiệu quả nhất của nền kinh tế góp phần tăng nguồn thu
ngoại tệ cho đất nớc và đẩy mạnh cán cân thanh toán quốc tế: thông qua việc
tiêu dùng của du khách ngời ta có thể thực hiện xuất khẩu tại chỗ "xuất khẩu"
bằng con đờng du lịch là xuất khẩu đa số các dịch vụ (dịch vụ lu trú, dịch vụ
bổ sung, trung gian...) đó là những điều ngoại thơng không thể làm đợc. Hơn
nữa thông qua du lịch ta có thể thực hiện xuất khẩu những nguyên liệu và
hàng hoá vật khó xuất khẩu qua con đờng ngoại thơng nh hàng ăn uống, hoa
quả hàng lu niệm... mà nếu muốn xuất khẩu qua con đờng ngoại thơng đòi hỏi
phải đầu t nhiều chi phí cho đóng góp, bảo quản, vận chuyển.
c) Phát triển du lịch văn hoá góp phần mở rộng và củng cố các mối quan
hệ quốc tế, tăng cờng tình hữu nghị giữa các dân tộc, củng cố nền hoà bình
thế giới. Thông qua sự giao lu văn hoá giữa các vùng các quốc gia tạo sự thúc
đẩy nền văn hoá thế giới phát triển.
d) Du lịch văn hoá phát triển giúp cho các quốc gia giảm bớt sự căng
thẳng của các trung tâm đô thị hoá cho công nghiệp mang lại, giảm bớt sự ô
nhiễm môi trờng trong đô thị.
e) Sự phát triển du lịch văn hoá có ý nghĩa lớn đối với việc góp phần khai
thác bảo tồn các di sản văn hoá dân tộc, bảo vệ và phát triển môi trờng tự

nhiên xà hội, trong quá trình CNH-HĐH.
h) Du lịch văn hoá là một loại hình có thể phát triển quanh năm, đó là
một lợi thế lớn cho các nhà kinh doanh du lịch bởi vì họ sẽ tiết kiệm đợc chi
phí về cơ sở vật chất kỹ thuật đảm bảo chất lợng phục vụ và chất lợng đội ngũ
lao động tuỳ thuộc vào điều kiện hoàn cảnh của từng địa điểm du lịch mµ sù
8


Tiểu luận
phát triển du lịch nói chung và cụ thể là sự phát triển du lịch văn hoá sẽ tác
động tiêu cực đến đời sống kinh tế từng vùng - đất nớc du lịch.
Chơng II. Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch
văn hoá ở Hà Nội
I. Tiềm năng phát triển du lịch văn hoá ở Hà Nội
1. Tài nguyên du lịch văn hoá
Việt Nam là đất nớc có truyền thống văn hiến. Cuộc đấu tranh trờng kỳ
của dân tộc trong lịch sử giữ nớc là truyền thống điểm tựa vững chắc cho du
lịch văn hoá. Đất nớc với những chiến công hiển hách từ chống giặc phơng
Bắc (Đờng, Hán, Tống, Nguyên, Minh, Thanh...). Những kỳ tích hào hùng
qua cuộc kháng chiến chống Pháp (80 năm), Mỹ (21 năm) Việt Nam đà trở
thành "lơng tâm thời đại".
Do những chiến công mà mỗi mảnh đất, mỗi con sông, ngọn núi đều trở
thành huyền thoại.
Hà Nội ngàn xa, chiếc nôi hồng lịch sử, trái tim thiêng liêng của đất nớc,
mảnh đất "Thăng Long".
Hà Nội là một trong những thành phố đẹp của châu á. Trên thế giới có
nhiều thành phố đẹp, mỗi thành phố có một vẻ đẹp riêng và mang theo mình
những dấu ấn lịch sử khác nhau. Nhng không phải thành phố nào cũng đẹp,
cũng sang, cũng đồ sộ nguy nga và thu hút lòng ngời.
Cái đẹp của thành phố khác với cái đẹp của con ngời hay của thiên

nhiên. Thành phố đẹp cơ bản là do con ngời tạo ra. Tuy nhiên cùng có những
chỗ giống nhau ở điểm xuất phát do "trời phú" cho nữa, nói theo nghĩa bóng.
Hà Nội cũng đà có một vị trí thuận lợi cảnh sắc thiên nhiên phong phú.
* Hà Nội - đặc điểm về vị trí địa lý, địa thế
Hà Nội nằm ở trung tâm bắc bộ giữa vùng đồng bằng phù sa châu thổ
sông Hồng, nổi tiếng là trù phú với diện tích 920,5 km2. Trong đó nội thành
có diện tích 40 km2, ngoại thành có diện tích 880,5 km2.
Với vị trí địa lý và địa thế tự nhiên của mình, Hà Nội đà sớm có một vai
trò đặc biệt trong sự hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam. Từ một
nghìn năm nay Hà Nội đà đợc ông cha ta chọn làm thủ đô. Trong "chiếu dời
9


Tiểu luận
đô" của Lý Công Uẩn viết vào năm Canh Tuất (1010) đà nhận xét về thành
Đại La (Hà Nội ngày nay) nh sau: "... Thành Đại La nằm ở trung tâm của trời
đất có các hình thể nh hổ phục rồng chầu đúng các vị trí bốn phơng Đông,
Tây, Nam, Bắc, trớc mặt và sau lng đều có sự thuận tiện của sông núi. Đất ấy
rộng mà bằng phẳng, cao ráo mà sáng sủa, dân c không phải cái nạn tối tăm,
ẩm thấp, muôn vật cực kỳ giàu thịnh, đông vui. Xem khắp đất Việt, đó là chỗ
danh thắng, thật là đô hội trọng yếu để bốn phơng sum họp và là đô thành bậc
nhất đáng đặt làm kinh s cho muôn đời...".
Từ đó đến nay Hà Nội luôn là trung tâm chính trị, kinh tế văn hoá xà hội
của cả nớc. Đây cũng chính là tiềm năng cho Hà Nội trở thành trung tâm du
lịch hàng đầu của nớc ta.
* Hà Nội - vị trí đầu mối giao thông quan trọng
Với vị trí trung tâm kinh tế chính trị của cả nớc và với vị trí thuận lợi
trung tâm châu thổ Bắc Bộ, Hà Nội đà trở thành trung tâm đầu mối các hệ
thống mạng lới giao thông: đờng bộ, đờng sắt, đờng không từ Hà Nội toả đi
các miền của đất nớc, còn nối tiếp nớc ta với các nớc láng giềng và thế giới.

Do đầu mối giao thông quan trọng nh vậy, khách du lịch quốc tế có thể
từ tuyến đờng không, qua cửa khẩu Nội Bài và dừng chân ở Hà Nội để lựa
chọn các phơng tiện giao thông phù hợp với các chơng trình hấp dẫn của
chuyến đi.
Trong vòng bán kính xấp xỉ 60-80 km, khách du lịch có thể đến đền
Hùng, Tam Đảo (Vĩnh Phú), Hồ Đại Nải, Ba Vì, các làng quan họ ở Hà Bắc,
Côn Sơn - Kiếp Bạc (Hải Dơng), Hoa L - Cúc Phơng - Nhà thờ đá Ninh
Bình...
- Trong vòng bán kính xấp xỉ 100 km khách có thể đến thăm cảng Hải
Phòng, hải đảo Cát Bà, vịnh Hạ Long nổi tiếng...
Tính đến năm 2000 thủ đô Hà Néi ®· cã 201 di tÝch. MËt ®é di tÝch của
Hà Nội thuộc loại cao nhất cả nớc (0,24 di tÝch trªn 1 km2). NhiỊu qn,
hun cã tõ 25 - 50 di tích lịch sử, văn hoá, các danh thắng đà đợc xếp hạng.
Các di tích lịch sử, văn hoá, danh thắng tiêu biểu ở thủ đô Hà Nội:
- Chùa Một Cột: Một trong những công trình tiêu biểu cho vẻ đặc sắc của
nghệ thuật kiến trúc Việt Nam. Đợc dựng năm 1049 chùa có tên là Diên Hựu,
nghĩa là phúc ấm dài lâu. Tơng truyền vua Lý Thái Tông nằm mộng đợc Phật

10


Tiểu luận
bà dắt lên trà san ngự toạ quần thần cho là điềm gở, xin vua cho xây dựng
ngôi chùa nh bông hoa sen nở trên mặt nớc để cho cầu phúc.
Sự độc đáo của kiến trúc chùa một cột là toàn bộ ngôi chùa đợc đặt trên
một cột đá cao 20 m. ở đây, có sự kết hợp táo bạo của trí tởng tợng lÃng mạn
đầy thi vị qua hình tợng bông sen và những giải pháp hoàn hảo về kết cấu kiến
trúc gỗ.
Khối kiến trúc đợc phụ trở bởi cảnh quan, có ao, có cây cối đà tạo nên sự
gần gũi, tinh khiết mà vẫn thanh tịch.

- Chùa Kim Liên: Chùa Kim Liên (bông sen Vàng) nằm trên một doi đất
bằng phẳng trong lòng Nghi Tàm, xà Quảng An, huyện Từ Liêm - Hà Nội.
Bao quanh đất chùa là gơng nớc Hồ Tây trong xanh. Có lẽ, do bắt nguồn từ
một cung điện nên phong cách kiến trúc tam quan chùa Kim Liên đợm dáng
vẻ cung đình. Đây là một loại hình kiến trúc gỗ đặc sắc và q hiÕm trong
kiÕn tróc chïa chiỊn ë níc ta. Trong chùa có rất nhiều tợng đẹp, nổi tiếng nhất
là pho Quan Âm Thiên phủ ngang hàng với những pho có giá trị nghệ thuật
cao ở nớc ta... Chùa Kim Liên đợc coi là ngôi chùa đẹp nhất Hà Nội.
- Chùa Trấn Quốc: Có thể coi đây là ngôi chùa vào loại cổ nhất nớc ta, vì
tơng truyền là có từ thời Lý Nam Đế (544-548). Chùa còn giữ đợc lối kiến
trúc độc đáo khác với nhiều chùa, phía trớc là nhà Bắc Đờng, rồi đến nhà Tam
Bảo, phía sau mới là hai dÃy hành lang thập điện và gác chuông. Trong chùa
có một số tợng đẹp, đáng chú ý là pho tợng Thích Ca nhập niết bàn bằng gỗ
thếp vàng. Chïa cịng cã nhiỊu bia, cỉ nhÊt lµ tÊm bia dựng năm 1639 do
trạng nguyên Nguyễn Xuân Chinh soạn, nội dung ghi lại lịch sử xây dựng
chùa.
- Văn Miếu - Quốc Tử Giám: Văn Miếu đợc xây dựng vào năm 1070 để
làm nơi biểu dơng cho Nho giáo. Sáu năm sau (1076) xây nhà Quốc Tử giám
ở kề sát Văn Miếu, ban đầu là nơi học của các hoàng tử sau mở rộng thu nhận
cả những học trò giỏi trong cả nớc. Ngày nay, ở đây đợc dùng làm nơi trng
bày chuyên đề về cổ sử của Thủ Đô.
Du khách tới đây không chỉ tiếp xúc với một di tích văn hoá giáo dục có
đủ 900 tuổi mà còn đợc giới thiệu thêm về lịch sử hình thành của Thăng Long
- Đông Đô - Hà Nội.
- Di tích thành cổ Hà Nội: Thăng Long là kinh đô từ năm 1010, vua Lý
Thái Tổ đà xây thành trải qua các đời Trần, Hồ, Lê sơ, Mạc, Lê Trung Hng,
11


Tiểu luận

Tây Sơn đều sử dụng thành này. Năm 1803, vua Gia Long nhà Nguyễn cho
lệnh phá thành này, xây thành mới. Do đó, vị trí thành Thăng Long từ đời Lý
(thế kỷ 11) đến đầu nhà Nguyễn (thế kỷ 19) đến nay cha thể nói chính xác ở
nơi nào.
Còn thành nhà Nguyễn thì tuy nay không còn nhng các bản đồ cổ vẫn
còn và có thể nhận ra địa giới. "Địa giới phía Bắc là đờng Phan Đình Phùng,
phía Đông là đờng Phùng Hng, phía Tây là đờng Hùng Vơng bây giờ".
Thành cổ đà bị thực dân Pháp phá huỷ từ năm 1894 đến năm 1897. Ngày
nay chỉ còn lại một di tích đáng kể là thềm điện Kính Thiên.
- Cột cờ Hà Nội: Đây là một trong những công trình kiến trúc ít ỏi thuộc
khu vực thành cổ Hà Nội may mắn thoát khỏi sự phá huỷ do thực dân Pháp
tiến hành trong ba năm 1894-1897.
Đỉnh cột cờ đợc cấu tạo thành một cái lầu bát giác cao 3m có 8 cửa sổ tơng ứng với 8 cạnh. Giữa lầu là một trụ tròn đờng kính 40 cm cao đến đỉnh
lầu là chỗ để cắm cán cờ cao 8m. Nh vËy toµn bé cét cê bao gåm 3 tầng, đế
cao gần 20cm và thân cao khoảng 40cm, là một cao điểm đáng kể ở nội thành
thủ đô Hà Nội.
- Hồ Hoàn Kiếm và đền Ngọc Sơn: Đây là một danh thắng nổi tiếng của
Hà Nội. Hồ Gơm ở giữa Hà Nội, nơi đà từng gắn với bao sự kiện lịch sử trọng
đại của dân tộc từ ngàn xa để lại. Hồ Gơm là niềm tự hào không những của
ngời Hà Nội mà của cả đồng bào ta. Nói đến Việt Nam thì phải nói đến Hà
Nội mà nói đến Hà Nội hẳn không ai không nhắc đến Hồ Gơm. Ngày nay
cùng với sự đi lên của đất nớc, Hồ Gơm dù đợc nhà nớc chú ý đến nhiều.
Tháp Rùa, đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc đà đợc sửa sang tu bổ, song không bao
giờ Hồ Gơm mất đi nét cổ kính, tâm linh trong lòng ngời Hà Nội.
Những ngày ở Hà Nội, du khách có thể tới thăm các viện bảo tàng để tìm
hiểu chiều dài lịch sử, chiều sâu văn hoá của dân tộc Việt Nam.
Gần trung tâm Hà Nội là Viện Bảo tàng lịch sử. Đi ngợc dòng thời gian,
bảo tàng trng bày những hiện vật quý nh cây cọc Bạch Đằng, trống đồng
Ngọc Lũ... tiêu biểu cho quá trình tiến hoá của dân tộc Việt Nam qua lịch sử
4000 năm dựng nớc và giữ nớc. Bên cạnh Viện Bảo tàng Lịch sử là viện Bảo

tàng Cách mạng, tại đây trng bày nhiều hiện vật quý, tái hiện lịch sử đấu tranh
hàng trăm năm của nhân dân ta chống kẻ thù xâm lợc.

12


Tiểu luận
Đặc biệt là Viện bảo tàng Hồ Chí Minh, đợc xây dựng xong vào năm
1990. Nơi đây đà trng bày nhiều hiện vật gắn liền với thân thế và sự nghiệp
hoạt động của Bác Hồ. Hà Nội còn các khu vui chơi, giải trí nh công viên, vờn
hoa, vờn bách thú... đều là những nơi hấp dẫn khách du lịch.
Kiến trúc của Hà Nội cũng đặc sắc và rất đa dạng. ở Việt Nam, ngoài
Hội An ra chỉ có Hà Nội là còn giữ đợc một khu phố cổ.
Nói về độ giới không gian. Khu phố cổ thì có thể coi đó là một hình tam
giác, có đỉnh là phố hàng Than, cạnh phía Đông là đi sông Hồng, cạnh phía
Tây là các phố Hàng Cót, Hàng Điếu, Hàng Da, còn đáy là trục Hàng Bông,
Hàng Gai, Cầu Gỗ. Tại khu phố này, cho tới trớc khi ngời Pháp tới đều chung
một dáng dấp: Các phố chi chít ngang dọc kiểu bàn cờ, phần lớn mang tên gọi
của các mặt hàng sản xuất hay kinh doanh tại nơi đó: Hàng Đờng, Hàng Bạc,
Hàng Bồ... Tất cả các ngôi nhà ở hai bên đờng đều theo kiểu "nhà ống". Nhà
nh một cái ống, bề ngang hẹp, chiều dài sâu, có khi thông ra một ngõ khác,
phố khác. Bố cục thờng là nh sau: Gian ngoài là chỗ bán hàng hoặc làm hàng
tiếp đó là một khoảng sân lộ thiên để lấy ánh sáng. Trên sân có bể cạn (trong
đó có hòn Nam Bộ, cá vàng để thu gọn thiên nhiên vào căn nhà). Gian trong
mới là nơi ăn ở, và tiếp đó là khu phụ. Đa số là nhà một tầng, lợp bằng những
viên ngói nhỏ nhắn với hai bức tờng hồi vợt cao lên khỏi mái, xây giật cấp nh
những bậc thang và đầu nóc là hai trụ đất dấu vết đặc trng. Cũng có một số
nhà xây thêm tầng gác nhng thấp và không mấy khi trổ cửa sổ nếu có thì rất
nhỏ (vì luật lệ cấm dân không đợc đứng cao hơn vai kiệu của các vua quan đi
trên đờng).

Cái hấp dẫn của khu phố ở Hà Néi chÝnh lµ ë sù tỉng thĨ do con ngêi xa
đà sắp đặt thành một cơ thể đầy sống động, khăng khít gắn bó, kề tựa nhau mà
tồn tại, sinh sôi...
Bên cạnh các nhà ống, còn phải kể tới những đình chùa, đền miếu rải rác
trong nhiều đờng phố. Những công trình này trớc hết là nơi thờ tự của các
làng thôn, phờng cũ, nh đình Nhân Nội, 33 phố Bát Đàn là đình của làng
cùng tên mà nay phố Bát Đàn là một bộ phận, Đình Đông Mông, số 8 Hàng
Cân là đình làng Hữu Đông Môn, đền Thuật Mỹ 64 Hàng Quạt, chùa Huyền
Thuyên ở số 4 Hàng Khoai, đền Yên Thuận ở 25 Hàng Than đều lấy tên làng
làm tên đền chùa. Một số công trình tôn giáo tín ngỡng còn phản ảnh một số

13


Tiểu luận
gốc gác của một số bộ phận dân c Thăng Long vốn là từ nhiều miền quê Đông
Ti bn FULL (file doc 30 trang): bit.ly/3piTXHd
Nam, Đoài, Bắc.
D phũng: fb.com/TaiHo123doc.net
Họ ở các tỉnh khác di c về Thăng Long - Hà Nội làm ăn sinh sống rồi lập
đình đền thờ vọng về quê hơng nh đình Trúc Lâm 40 Hàng Hành là của dân
các làng Chàm trên Chàm dới (Hải Hng) làm nghề giầy da lập nên, hay nh
đình Hoa Lộc ở 90 Hàng Đào là của dân phờng nhuộm màu ở Đao Loan (Hải
Hng) dựng ra Đình Tú Đình 2A ngõ Yên Thái là nơi thờ ông tổ nghề thêu, của
dân làng thêu Quất Động (Hà Tây).
Mặt khác, sự tồn tại các đình miếu này còn là bằng chứng của tâm linh
ngời Hà Nội cũ. Bên cạnh sự hoà đồng với tự nhiên và cộng đồng xà hội, ngời
Thăng Long Hà Nội còn luôn luôn tìm cách hoà đồng với một thế giới tâm
linh vì cùng với một không gian đô thị vật chất còn tồn tại một không gian đô
thị huyền thoại và thiêng liêng, ở đó có thể giao hoà cùng quá khứ và tìm đợc

cũng ở đó một nguồn sinh lực tiềm ẩn.
Ngày nay, mặc dù qua các biến động lịch sử, qua sự thích ứng víi ®êi
sèng x· héi, khu phè cỉ cã biÕn ®éng nơi ít, nơi nhiều, song bóng dáng của
thời xa vẫn còn lu lại ở dăm căn nhà này, ở vài đoạn phố kia và đặc biệt ở cái
không gian văn hoá vẫn đậm đà màu sắc cổ truyền. Cho nên khu phố cổ Hà
Nội với những ngôi nhà ống nhỏ nhắn, thanh tú, những con đờng hẹp lòng nhng ấm áp ngời đi lại, lại còn cả những không gian cây xanh mớt và ngọt ngào
hơng hoa nữa... tất cả làm nên một vẻ đẹp đô thị cổ mà chỉ có thành phố Hà
Nội mới có.
Bên cạnh khu phố cổ là những khu phố kiến trúc theo kiểu Pháp. Khi Hà
Nội rơi vào tay thực dân Pháp năm 1882, ngời Pháp đà "cấy" vào mảnh đất
này nền kiến trúc và mẫu đô thị của riêng họ. Những hình ảnh thanh nhà của
kiến trúc đô thị Pháp đà góp phần làm giàu di sản kiến trúc Hà Nội và là điều
gây ấn tợng rất nhiều với khách nớc ngoài. Giáo s Brahm Wiesman ở Trờng
đại học Tổng hợp Bristich (Canada) đà nói: "Các bạn đang có một Hà Nội
mang dáng dấp Pháp, đó là điều không có ở một thành phố nào khác ở châu
á. Một trong những vấn đề đặt ra cho chính sách phát triển đô thị nh Hà Nội
là làm sao có thể duy trì và bảo tồn đợc các dáng dấp Pháp của nó" (Báo nhân
dân chủ nhật số Xuân 94).
"Khu phố Tây" là tên quen dùng ®Ĩ chØ bé phËn khu phè ë phÝa Nam
qn Hoµn Kiếm (từ Hồ Gơm trở xuống phía Nam) và một bé phËn quËn Ba
14


TiĨu ln

Tải bản FULL (file doc 30 trang): bit.ly/3piTXHd
Dự phịng: fb.com/TaiHo123doc.net

Đình (từ Cửa Nam về phía tây thành phố tới công viên Bách Thảo), và cũng có
một hàm ý phân biệt với "khu phố tả" là các khu phố thuần nhất Việt Nam mà

tiêu biểu là khu phố cổ "36 phố phờng". Các khu phố xây dựng vào thời thuộc
Pháp ở Hà Nội đợc hình thành chủ yếu trong nửa đầu thế kỷ 20, đà góp phần
làm phong phú thêm khung cảnh kiến trúc của thủ đô ta. Với mạng lới đờng
phố kiểu ô cờ, các đại lộ khang trang có đờng cho xe, có hè đi bộ, cây che
bóng mát, đèn điện và một số thiết bị kỹ thuật khác (cấp thoát nớc...). Cách
xây dựng đô thị theo kiểu châu Âu, với đờng phố hoàn chỉnh, nhà cửa ngang
hàng thẳng lối... là điều mới mẻ đối với đô thị Việt Nam khi đó vốn đợc hình
thành từ thời phong kiến, xây dựng tự phát, phố xá nhỏ hẹp, quanh co.
Kiến trúc cổ điển châu Âu với một số cách tân thích hợp, khéo vận dụng
vào những công trình mới ở những địa điểm phù hợp đà có sức hấp dẫn đáng
kể nh trờng hợp trung tâm du lịch Bờ Hồ. Trong việc cải tạo và nâng cấp
khách sạn Metropole (1901), các kiến trúc s đà có ý thức chắt lọc và lu giữ
nhiều nét kiến trúc tiêu biểu của thêi kú nµy lµ mét thÝ dơ tèt cho viƯc cải tạo
và nâng cấp các công trình trong khu phố xây dựng thời thuộc Pháp. Cũng
theo tinh thần đó, việc sửa chữa một số công thự và biệt thự cho các nhu cầu
làm việc hoặc nhà ở của nhiều sứ quán, trụ sở của một số ngân hàng ở Bờ Hồ
và trên phố Tràng Thi... đà gây ấn tợng tốt đẹp cho những ngời yêu mến vẻ
đẹp kiến trúc thanh nh· cđa khu phè nµy.
Song, cã lÏ Hµ Néi lµ thủ đô duy nhất trên thế giới có đợc một điều kỳ
diệu, đó là các làng Ngọc Hà, Nghi Tàm, Phơng Liên, Thanh Nhàn, Trung
Tự... với dáng dấp của các làng nông thôn vẫn còn đang giữ đợc nhịp thể giữa
lòng thành phố. Nhà - vờn cây - ao cá trong cấu trúc làng Việt Nam đà luôn là
một đơn vị cân bằng sinh thái cho môi trờng sống của con ngời. Những đơn vị
này liên hệ với nhau thông qua một hệ thống đờng nhỏ trên đó điểm xuyết các
công trình công cộng phục vụ cho làng cây đa, miếu thờ, đình chùa yên tĩnh
và sạch sẽ đối lập với cái ồn ào xô bồ của nơi đô thị. Nói theo cách nói á
Đông thì cấu trúc Hà Nội có cả Âm - Dơng. Đó là làng và đô thị.
Thêm vào đó, nhiều làng quên Hà Nội vẫn còn giữ đợc nghề truyền
thống từ xa nh: làng sứ gốm Bát Tràng, làng đúc đồng Ngũ Xá, làng hoa
Ngọc Hà... nếu những làng nghề này tiếp tục đợc giữ gìn và phát huy thì có

khả năng trở thành tuyến du lịch văn hoá Hà Nội cho du khách. Đây cũng là
tiềm năng độc đáo cần đợc nghiên cứu khai thác để thu hút khách du lịch.
15


Tiểu luận
* Các đối tợng văn hoá dân tộc
Các hoạt động văn hoá văn nghệ có ý nghĩa rất lớn đối với du lịch: Tiềm
năng văn hoá văn nghệ của Hà Nội phục vụ cho mục đích du lịch thực hiện rõ
nhất qua hoạt động và sinh hoạt văn hoá dân gian. Địa bàn Hà Nội chủ yếu là
ngời Kinh sinh sống. Ngời Kinh có các sinh hoạt văn hoá văn nghệ dân gian
phong phú thể hiện rõ nhất qua các hoạt động lễ hội. Trong những ngày hội
này, du khách sẽ đợc tiếp xúc với nền văn hoá dân tộc độc đáo của Việt Nam,
sẽ đợc sống lại những ngày tháng hào hùng của lịch sử dân tộc. Một nét đặc
biệt nữa là đa số các ngày lễ hội của ngời Kinh đều diễn ra vào dịp đầu năm
mới cho đến hết tháng Giêng. Các lễ hội đợc biểu hiện thành lịch dới đây. Dựa
vào đó những ngời làm công tác du lịch có thể quảng cáo, mời chào khách và
lập kế hoạch đón tiếp khách du lịch cho sát thực.
Lễ hội ở Hà Nội (tính theo âm lịch)
Ngày tháng
Tháng Giêng
1/1

1-3/1
4-6/1

4-7/1
5/1

6/1


Tên lễ hội - đặc điểm

Nội dung - nghi thức

Tết Nguyên đán

Tết đầu năm, lễ hội lớn nhất
chung cho cả cộng đồng ngời
Việt. Đây là thời gian đoàn tụ
gia đình, bàn về dòng họ, tởng
nhớ tổ tiên
Khai bút, đi thăm đi mừng
Mùng 1 Tết ở nhà cha, mồng
2 ở nhà mẹ, mồng 3 nhà thày.
Hội vật Mai Động xà Mai Thờ bà Lê Chân và ông Tam
Động - Hai Bà Trng
Trinh, ông tổ nghề vật, mở lò
dạy vật tại làng. Lễ diễn lại
cuộc thi vật để tuyển quân của
bà Lê Chân, chọi gà, cờ tớng.
Hội Sài Đồng huyện Gia Lâm Cầu mùa, chơi trò giả trang
Hội trận Đống Đa, quận Đống Kỷ niệm chiến thắng 20 vạn
Đa
quân Thanh của vua Quang
Trung 1789 ở gò Đống Đa.
Chùa Bộc: nơi thờ Quan
Trung. Đình Khơng Thợng: Tế
nớc
Hội Gióng Sóc Sơn, huyện Thờ Thánh Gióng, thổ thần,

16

3509515



×