Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Malaysia singapore

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.54 MB, 37 trang )

Malaysia (tiếng Mã Lai: Malaysia; tiếng Hán: 马马马马, âm Hán Việt: Mã Lai Tây Á) là một liên
bang gồm mười ba bang tại Đông Nam Á.[1] Nước này gồm hai vùng địa lý bị chia tách bởi Biển
Đông:[2]
Bán đảo Malaysia (hay Tây Malaysia) trên Bán đảo Malay có biên giới trên bộ ở phía
bắc với Thái Lan và thơng qua Đường nổi Johor-Singapore và Đường nối Malaysia-Singapore thứ
hai ở phía nam nối với Singapore. Nó gồm chín bang (Johor, Kedah, Kelantan, Negeri Sembilan,
Pahang, Perak, Perlis, Selangor và Terengganu), hai bang dưới sự lãnh đạo của Thống đốc
(Malacca và Penang), và hai lãnh thổ liên bang (Putrajaya và Kuala Lumpur).[3]

Đông Malaysia (hay Borneo thuộc Malaysia) chiếm phần phía bắc đảo Borneo, giáp
biên giới với Indonesia và bao quanh Vương quốc Hồi giáo Brunei. Nó gồm các bang Sabah và
Sarawak lãnh thổ liên bang Labuan.[3]


Cái tên "Malaysia" được chấp nhận năm 1963 khi Liên bang Malaya (tiếng Malay:
Persekutuan Tanah Melayu), Singapore, Sabah và Sarawak hình thành một liên bang 14 bang.[4]
Singapore đã rời khỏi liên bang năm 1965 và sau đó trở thành một quốc gia độc lập.[5]
Dù chính trị thuộc quyền thống trị của người Malay, xã hội Malaysia hiện đại không đồng
nhất, với cộng đồng người Trung Quốc và Ấn Độ khá lớn.[6] Chính trị Malaysia đáng lưu ý ở cái
gọi là tính cộng đồng của nó;[7] ba thành phần chính của Barisan Nasional đều giới hạn đảng viên
trong sắc tộc của mình. Tuy nhiên, cuộc tranh giành bạo lực lớn duy nhất giữa các cộng đồng từ
khi giành được độc lập là vụ náo loạn chủng tộc ngày 13 tháng 5 năm 1969 xảy ra khi chiến dịch
vận động của một tranh cử bị các vấn đề sắc tộc gây ảnh hưởng.[8]


"Ma Lay" theo tiếng Mã Lai là "hoàng kim
Lich su malaysi a
Bài chi tiết: Lịch sử Malaysia
Bán đảo Malay đã phát triển thịnh vượng nhờ vị trí trung tâm của mình trên những con đường
thương mại trên biển giữa Trung Quốc, Ấn Độ và Trung Đông. Ngay từ sớm, Ptolemy đã thể hiện
trên tấm bản đồ của mình một dấu hiệu được dịch là Bán đảo vàng, Eo Malacca được gọi là Sinus


Sabaricus.Từ giữa tới cuối thiên niên kỷ thứ nhất, đa số Bán đảo cũng như Quần đảo Malay nằm
dưới tầm ảnh hưởng của Srivijaya.
Mọi người cho rằng ban đầu đây là những quốc gia Hindu hay Phật giáo. Bằng chứng đầu tiên
của Hồi giáo trên bán đảo Malay có niên đại từ thế kỷ 14 tại Terengganu, nhưng theo Biên niên sử
Kedah, Maharaja Derbar Raja thứ 9 của Vương quốc Hồi giáo Kedah đã cải sang đạo Hồi và đổi
tên thành Quốc vương Hồi giáo Muzaffar Shah. Từ đó đã có 27 quốc vương Hồi giáo cai trị
Kedah.
Có rất nhiều vương quốc Malay ở thế kỷ thứ 2 và 3, theo các nguồn thông tin Trung Quốc, con
số này lên tới 30. Kedah cũng được gọi là Kedaram hay Kataha, trong tiếng Pallava hay tiếng
Phạn cổ, được cai trị bởi Rajendra Chola, tới thế kỷ 11, dưới sự cai trị của vua Vir Rajendra Chola,
tầm ảnh hưởng của Srivijaya, triều đình đã gây ảnh hưởng trên Kedah và Pattani và thậm chí tới cả
Ligor, giảm sút.

Một Famosa được người Bồ Đào Nha xây dựng ở thế kỷ 15.


Vương quốc Ligor Phật giáo chiếm quyền kiểm soát Kedah một thời gian ngắn sau đó, và vị
vua của nó Chandrabhanu đã dùng nơi này làm căn cứ tấn công Sri Lanka ở thế kỷ 11, và thậm chí
đã được nhắc tới trên một bản văn khắc đá tại Nagapattinum ở Tamil Nadu và trong biên niên sử
Sri Lanka, Mahavamsa. Trong thiên niên kỷ đầu tiên, người dân trên bán đảo Malay đã chấp nhận
Hindu giáo và Phật giáo và sử dụng ngôn ngữ tiếng Phạn cho tới khi họ cải theo Đạo Hồi, nhưng
không trước khi Hindu giáo và Phật giáo và tiếng Phạn lẫn vào trong quan điểm về thế giới của
người Malay. Những dấu vết về những ảnh hưởng trong các quan niệm chính trị, cơ cấu xã hội,
nghi lễ, ngơn ngữ, nghệ thuật và văn hóa vẫn cịn tồn tại cho đến ngày nay.
Có những thơng tin về các vùng khác cổ hơn Kedah, ví dụ vương quốc cổ Ganganegara,
quanh Bruas tại Perak, khiến lịch sử Malaysia thậm chí được kéo lùi xa hơn tới tận thời cổ đại.
Nếu đó chưa đủ là bằng chứng, một bài thơ Tamil, Pattinapillai, ở thế kỷ thứ hai sau Cơng
Ngun, đã miêu tả những hàng hóa từ Kadaram tràn ngập trên những đường phố thủ đô Chola,
một vở kịch tiếng Phạn thế kỷ thứ bảy là Kaumudhimahotsva, coi Kedah như Kataha-nagari.
Agnipurana cũng đề cập tới một lãnh thổ được gọi là Anda-Kataha với một trong những biên giới

được xác định bởi một đỉnh cao, mà các nhà sử học tin là Gunong Jerai. Những câu chuyện trong
Katasaritasagaram miêu tả cuộc sống thanh lịch tại Kataha.
Đầu thế kỷ 15, Vương quốc Hồi giáo Malacca được thành lập dưới một triều đại do
Parameswara, một hoàng tử từ Palembang với liên hệ huyết thống với hoàng gia Srivijaya, người
đã phải bỏ chạy khỏi Temasek (Singapore hiện nay) sáng lập. Parameswara đã quyết định thành
lập vương quốc của mình tại Malacca sau khi chứng kiến một tai nạn bất ngờ khi một chú nai
trắng đá một trong những con chó săn của ơng. Ông coi đó là một dấu hiệu may mắn và đặt tên
cho vương quốc của mình là Melaka theo tên lồi cây ơng đang ngồi dưới nghỉ ngơi. Ở thời đỉnh
cao, vương quốc hồi giáo đã kiểm soát nhiều vùng hiện là Bán đảo Malaysia, nam Thái Lan
(Patani), và bờ biển phía đơng Sumatra. Nó đã tồn tại trong hơn một thế kỷ, và khoảng thời gian
này chính là lúc Đạo Hồi lan tràn ra hầu hết Quần đảo Malay.Malacca là cảng thương mại tiền đồn
thời ấy tại Đông Nam Á.[9]
Năm 1511, Malacca bị người Bồ Đào Nha chinh phục, và họ đã lập ra một thuộc địa ở đó.
Những người con trai của vị quốc vương Hồi giáo cuối cùng của Malacca đã thành lập nên những
vương quốc Hồi giáo ở nhiều địa điểm khác trên bán đảo. Vương quốc Hồi giáo Perak ở phía bắc,
và Vương quốc Hồi giáo Johor (ban đầu là sự tiếp nối của Vương quốc Hồi giáo Malacca) ở phía
nam. Sau khi Malacca sụp đổ, ba bên chiến đấu giành quyền kiểm soát Eo Malacca: người Bồ Đào
Nha (tại Malacca), Vương quốc Hồi giáo Johor, và Vương quốc Hồi giáo Aceh. Cuộc xung đột
này kéo dài đến tận năm 1641, khi người Hà Lan (liên minh với Vương quốc Hồi giáo Johor)
giành quyền kiểm soát Malacca.


Tòa nhà Vua Hồi giáo Abdul tại Kuala Lumpur nơi đóng trụ sở của Tịa án Cấp cao Malaya và
Tịa án Thương mại. Kuala Lumpur từng là thủ đô của Liên minh các Bang Malay và thủ đô
Malaysia hiện nay.
Anh Quốc đã thành lập thuộc địa đầu tiên của mình tại bán đảo Malay năm 1786, với việc cho
thuê đảo Penang cho Công ty Đông Ấn Anh của Quốc vương Hồi giáo Kedah. Năm 1824, người
Anh nắm quyền kiểm soát Malacca sau Hiệp ước Anh-Hà Lan 1824 phân chia quần đảo Malaya
giữa Anh và Hà Lan, Malaya thuộc vùng của Anh. Năm 1826, Anh Quốc lập thuộc địa chưa độc
lập (crown colony) Straits Settlements, thống nhất ba vùng thuộc sở hữu của họ tại Malaya:

Penang, Malacca và Singapore. Straits Settlements nằm dưới quyền quản lý hành chính của Cơng
ty Đơng Ấn tại Calcutta cho tới năm 1867, khi quyền này được chuyển giao cho Văn phòng Thuộc
địa tại London.
Cuối thế kỷ 19, nhiều bang Malay đã quyết định nhờ sự giúp đỡ của Anh để giải quyết các
cuộc xung đột nội bộ của họ. Tầm quan trọng trong thương mại của ngành mở thiếc tại các bang
Malay với các thương gia tại Straits Settlements khiến chính phủ Anh phải can thiệp vào các bang
sản xuất thiếc trên Bán đảo Malay. Chính sách ngoại giao thuyền chiến của Anh được áp dụng để
mang lại giải pháp hịa bình cho sự bất ổn do những tên cướp Trung Hoa gây ra, và Hiệp ước
Pangkor năm 1874 đã mở đường cho sự mở rộng ảnh hưởng Anh tại Malaya. Tới đầu thế kỷ 20,
các bang Pahang, Selangor, Perak, và Negeri Sembilan, được gọi chung là Liên minh các Bang
Malay (không nên nhầm với Liên bang Malaya), trên thực tế nằm dưới quyền điều khiển của các
Toàn quyền được chỉ định để cố vấn cho các vị vua cai trị Malay. Trên danh nghĩa người Anh chỉ
là cố vấn, nhưng trên thực tế họ có ảnh hưởng mang tính quyết định với mọi vị vua cai trị Malay.
Năm bang còn lại trên Bán đảo Malay, được gọi là Các bang Malay không Liên minh, tuy
không trực tiếp nằm dưới quyền quản lý của London, cũng đã chấp nhận các cố vấn Anh ở đầu thế
kỷ 20. Trong số họ, bốn bang phía bắc là Perlis, Kedah, Kelantan và Terengganu từng nằm dưới
tầm ảnh hưởng của Xiêm trước kia.
Trên đảo Borneo, Sabah được cai quản như thuộc địa chưa độc lập British North Borneo, tuy
Sarawak đã được Brunei chấp nhận là một vương quốc riêng của gia đỉnh Brooke, những người
cai trị như những Rajahs Trắng.
Sau khi người Nhật chiếm Malaya) trong Chiến tranh thế giới thứ hai, sự ủng hộ của dân
chúng cho một nền độc lập ngày càng tăng.[10] Những kế hoạch hậu chiến của Anh nhằm thống
nhất quản lý hành chính Malaya dưới một thuộc địa duy nhất được gọi là Liên minh Malaya hình
thành trong sự phản đối mạnh mẽ từ người Malay, họ phản đối sự nhu nhược của tầng lớp cai trị
Malay và việc trao quyền công dân cho những người Trung Quốc.[11] Liên minh Malaya, được
thành lập năm 1946 và gồm tất cả các vùng đất thuộc quyền quản lý của Anh tại Malaya ngoại trừ


Singapore, đã giải tán năm 1948 và bị thay thế bởi Liên bang Malaya, giữ lại quyền tự trị của
những vị vua cai trị các bang Malay dưới sự bảo hộ của Anh.

Trong thời gian này, những người nổi dậy dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Malaya đã
tung ra các cuộc tấn cơng du kích nhằm đẩy lực lượng Anh khỏi Malaya. Tình trạng khẩn cấp
Malaya, như nó từng được gọi, kéo dài từ 1948 tới 1960, và dẫn tới một chiến dịch chống nổi dậy
kéo dài của quân đội Khối thịnh vượng chung Anh ở Malaya.[12] Chống lại tình hình này, nền độc
lập cho liên minh trong Khối thịnh vượng chung đã được trao ngày 31 tháng 8 năm 1957.[13]
Năm 1963 Liên bang được đổi tên thành Malaysia với sự chấp nhận của các thuộc địa khi ấy
của Anh là Singapore, Sabah (British North Borneo) và Sarawak. Vương quốc Hồi giáo Brunei, dù
ban đầu thể hiện ý muốn gia nhập Liên bang, đã rút khỏi kế hoạch hợp nhất vì sự chống đối từ một
số phe phái nhân dân cũng như những tranh cãi về việc chi trả các khoản đặc lợi dầu mỏ và vị thế
Vương quốc Hồi giáo của kế hoạch hợp nhất.[14][15]
Buổi đầu độc lập đã gặp trở ngại bởi cuộc xung đột với Indonesia (Konfrontasi) về việc thành
lập Malaysia, sự rút lui năm 1965 của Singapore và cuộc tranh giành sắc tộc dưới hình thức những
cuộc bạo loạn sắc tộc năm 1969.[8][16] Philippines cũng đưa ra tuyên bố chủ quyền với Sabah
trong giai đoạn đó vì Vương quốc Hồi giáo Brunei nhượng lại những lãnh thổ đông bắc của họ
cho Vương quốc Hồi giáo Sulu năm 1704. Tranh cãi lãnh thổ này vẫn đang tiếp diễn.[17] Sau
những vụ bạo loạn sắc tộc ngày 13 tháng 5 năm 1969, Chính sách Kinh tế Mới gây nhiều tranh cãi
– được dự định làm gia tăng phần sở hữu trong nền kinh tế của các bumiputra ("người bản xứ",
gồm cả cộng đồng người Malay đa số, nhưng không phải luôn là người bản xứ) đối lập với các
nhóm sắc tộc khác - được Thủ tướng Tun Abdul Razak đưa ra . Từ đó Malaysia đã duy trì một sự
cân bằng sắc tộc-chính trị mong manh, với một hệ thống chính phủ nỗ lực tổng hợp các lợi ích
phát triển kinh tế với chính trị và các chính sách kinh tế dành ưu tiên cho Bumiputra.[18]
Trong khoảng thập niên 1980 và giữa thập niên 1990, Malaysia trải qua thời kỳ tăng trưởng
kinh tế đáng kinh ngạc với Thủ tướng Tun Dr Mahathir bin Mohamad.[19] Giai đoạn này cũng là
sự chuyển đổi từ nền kinh tế dựa trên nông nghiệp sang chế tạo và công nghiệp trong những khu
vực như máy tính và hàng điện tử tiêu dùng. Cũng ở thời gian này, bộ mặt Malaysia đã thay đổi
với sự xuất hiện của nhiều dự án lớn. Đáng chú ý nhất là những dự án như Tháp đôi Petronas (khi
ấy là toà nhà cao nhất thế giới), Sân bay Quốc tế KL (KLIA), Đường cao tốc Bắc-Nam, Đường
đua F-1 Sepang, Siêu Hành lang Truyền thông (MSC), đập thuỷ điện Bakun và Putrajaya, một thủ
đơ hành chính liên bang mới.
Cuối thập niên 1990, Malaysia rung động bởi cuộc Khủng hoảng tài chính Châu Á cũng như

tình trạng chính trị bất ổn do việc sa thải phó thủ tướng Dato' Seri Anwar Ibrahim.[20] Năm 2003,
Tiến sĩ Mahathir, thủ tướng có thời gian cầm quyền dài nhất tại Malaysia về hưu, nhường chỗ cho
phó thủ tướng Abdullah Badawi.


[sửa] Chính trị
Bài chi tiết: Chính trị Malaysia
Malaysia là một Liên bang Quân chủ theo bầu cử lập hiến . Nguyên thủ quốc gia Liên bang
Malaysia là Yang di-Pertuan Agong, thường được gọi là Vua Malaysia. Yang di-Pertuan Agong
được bầu với nhiệm kỳ năm năm trong số chín người thừa kế các Quốc vương Hồi giáo của các
bang Malay; bốn bang kia, theo chế độ Thống đốc, không tham gia vào việc lựa chọn ngơi vua.
[21]
Hệ thống chính phủ tại Malaysia theo sát hình thức hệ thống nghị viện Westminster, một di
sản thời kỳ thuộc địa Anh. Tuy nhiên, trên thực tế quyền lực được trao nhiều hơn cho nhánh hành
pháp chứ không phải lập pháp, và tư pháp đã bị suy yếu sau những mưu toan của chính phủ thời
thủ tướng Mahathir. Từ khi độc lập năm 1957, Malaysia đã nằm dưới sự điều hành của một liên
minh đa đảng, được gọi là Barisan Nasional (trước kia gọi là Liên minh).[22]
Quyền lập pháp được phân chia giữa liên bang và các cơ quan lập pháp bang. Lưỡng viện gồm
hạ viện, Viện đại biểu hay Dewan Rakyat (dịch nghĩa "Viện Nhân dân") và thượng viện, Senate
hay Dewan Negara (dịch nghĩa "Viện Quốc gia").[23][24][25] 219 thành viên của Viện đại biểu
được bầu từ các đơn vị bầu cử một đại biểu được lập ra dựa trên số dân với nhiệm kỳ tối đa 5 năm.
Tất cả 70 thượng nghị sĩ có nhiệm kỳ 3 năm; 26 người được bầu bởi 13 quốc hội bang, 2 đại diện
cho lãnh thổ liên bang Kuala Lumpur, 1 cho mỗi lãnh thổ liên bang Labuan và Putrajaya, và 40 do
nhà vua chỉ định. Bên cạnh Nghị viện ở mức độ liên bang, mỗi bang đều có một viện lập pháp
riêng (Tiếng Malay:Dewan Undangan Negeri) đại biểu của các viện này được bầu từ các đơn vị
bầu cử một đại biểu. Bầu cử nghị viện được tổ chức ít nhất một lần mỗi năm năm, cuộc bầu cử
gần đây nhất diễn ra tháng 3 năm 2004.[22]
Quyền hành pháp thuộc nội các do thủ tướng lãnh đạo; hiến pháp Malaysia quy định thủ
tướng phải là một thành viên của hạ viện người, theo ý kiến của Yang di-Pertuan Agong, lãnh đạo
đa số trong nghị viện.[26] Nội các được lựa chọn trong những thành viên của cả hai viện và chịu

trách nhiệm trước viện của mình.[27]
Các chính phủ bang do các Thủ hiến lãnh đạo (Menteri Besar tại các bang Malay hay Ketua
Menteri tại các bang không do lãnh đạo do thừa kế cầm quyền). quốc hội bang (Dewan Undangan
Negeri) lựa chọn người lãnh đạo này có tham khảo ý kiến các quốc vương Hồi giáo hay các Thống
đốc. [cần dẫn nguồn]
[sửa] Địa lý


Bản đồ Bán đảo và Đông Malaysia
Bài chi tiết: Địa lý Malaysia
Diện tích của Malaysia là 330.000 km². Malaysia gồm hai phần:
Malaysia bán đảo, gọi là bán đảo Malaysia, phía bắc giáp Thái Lan, phía đơng giáp
Biển Đơng, phía nam giáp eo biển Singapore, phía đơng giáp eo biển Malacca.

Malaysia hải đảo, gồm hai bang Sabah và Sarawak ở phía bắc đảo Borneo, giáp Brunei
và Indonesia.


Hai phần này chia tách nhau bởi Biển Đơng và có nhiều đặc điểm địa hình tương tự ở cả Tây
và Đơng Malaysia với những đồng bằng ven biển xen giữa những đồi rừng dày đặc và núi non,
điểm cao nhất là Núi Kinabalu ở độ cao 4.095,2 mét (13.435,7 ft), cao nhất Đông Nam Á, trên đảo
Borneo. Khí hậu địa phương là khí hậu xích đạo đặc trưng bởi những cơn gió mùatây nam (tháng
4 tới tháng 10) và đông bắc (tháng 10 tới tháng 2).
Tanjung Piai, nằm ở bang phía nam Johor, là mũi cực nam của lục địa Châu Á.[28][29]
Eo Malacca, nằm giữa Sumatra và Bán đảo Malaysia, được cho là tuyến đường hàng hải quan
trọng nhất thế giới.[30]
Putrajaya là thủ đô hành chính mới được xây dựng của chính phủ liên bang Malaysia, với mục
đích một phần để giảm bớt sự chênh lệch phát triển giữa thành phố thủ đô Kuala Lumpur với các
vùng còn lại. Kuala Lumpur vẫn là nơi đóng trụ sở của nghị viện, cũng như thủ đơ thương mại và
tài chính quốc gia. Các thành phố lớn khác gồm Georgetown, Ipoh, Johor Bahru, Kuching, Kota

Kinabalu, Alor Star, Malacca Town, và Klang.
[sửa] Kinh tế


Bài chi tiết: Kinh tế Malaysia
Bán đảo Malay và cả Đông Nam Á từng là một trung tâm thương mại trong nhiều thế kỷ.
Nhiều đồ vật như gốm sứ và gia vị đã được bn bán thậm chí cả trước thời Malacca và Singapore
nổi lên giành ảnh hưởng. Ở thế kỷ 17 cao su đã xuất hiện tại nhiều bang Malay. Sau này, khi
người Anh bắt đầu nắm quyền kiểm soát Malaya, cây cao su và dầu cọ được canh tác cho mục
đích thương mại. Cùng với thời gian, Malaya đã trở thành nhà sản xuất thiếc, cao su, và dầu cọ lớn
trên thế giới.[31] Ba mặt hàng chính này, cộng với các loại nguyên liệu thô khác, đã trở thành căn
bản của nền kinh tế Malaysia giai đoạn giữa thế kỷ 20.
Thay vì dựa vào nguồn nhân lực người Malay bản xứ, người Anh đã đưa người Trung Quốc,
Ấn Độ tới làm việc tại những mỏ khai thác và trên những cánh đồng. Dù nhiều người trong số họ
sau đó đã quay về quê hương khi hết hạn hợp đồng, một số người đã ở lại Malaysia và định cư
vĩnh viễn.
Khi Malaya tiến tới độc lập, chính phủ bắt đầu đưa ra những kế hoạch kinh tế năm năm, bắt
đầu bằng Kế hoạch Năm năm Malaya lần thứ Nhất năm 1955. Ngay khi Malaysia thành lập, các
kế hoạch được đổi tên và đánh số lại, bắt đầu bằng Kế hoạch Malaysia lần thứ Nhất năm 1965.
Trong thập kỷ 1970, Malaysia bắt đầu bắt chước Những con Hổ Châu Á và bắt đầu quá trình
chuyển tiếp từ nền kinh tế phụ thuộc vào công nghiệp mỏ và nông nghiệp sang nền kinh tế chế
tạo. Với đầu tư từ Nhật Bản, các ngành cơng nghiệp nặng nhanh chóng phát triển trong vài năm.
Xuất khẩu của Malaysia trở thành khu vực mang lại tăng trưởng chủ yếu. Malaysia liên tục đạt
mức tăng trưởng GDP hơn 7% với tỷ lệ lạm phát thấp trong thập niên 1980 và 1990.
Cùng trong giai đoạn này, chính phủ đã tìm cách xóa bỏ nghèo đói với Chính sách Kinh tế
Mới (NEP) gây nhiều tranh cãi, sau vụ nổi loạn sắc tộc ngày 13 tháng 5 năm 1969. Mục tiêu chính
của nước này là xóa bỏ sự liên hệ sắc tộc với chức năng kinh tế, và kế hoạch năm năm đầu tiên áp
dụng Chính sách Kinh tế Mới là Kế hoạch Malaysia lần Hai. Thành công hay thất bại của Chính
sách Kinh tế mới là chủ đề của nhiều cuộc tranh luận, dù nó đã bị chính thức bãi bỏ năm 1990 và
được thay thế bởi Chính sách Phát triển Quốc gia (NDP).

Tuy nhiên, sự bùng nổ kinh tế đã dẫn tới nhiều vấn đề về cung cấp ngun liệu. Thiếu hụt
nhân cơng nhanh chóng dẫn tới làn sóng hàng triệu lao động nước ngồi tràn vào, nhiều người
trong số họ là lao động bất hợp pháp. Cash-rich PLC và các consortium giữa các nhà băng hăm hở
lao vào kiếm lợi nhuận từ những dự án hạ tầng lớn. Tất cả chúng đã chấm dứt khi cuộc Khủng
hoảng Kinh tế Châu Á xảy ra vào mùa thu năm 1997, gây rúng động nền kinh tế Malaysia.
Tương tự như các quốc gia khác bị ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng này, tình trạng bán ra
trước hạn (short-shelling) đồng tiền tệ Malaysia, đồngringgit diễn ra. Đầu tư trực tiếp nước ngồi
rơi xuống mức báo động, khi dịng vốn chảy ra khỏi đất nước, giá trị đồng ringgit giảm từ MYR


2.50 trên USD xuống còn, ở một thời điểm, MYR 4.80 trên USD. Chỉ số tổng hợp Thị trường
Chứng khoán Kuala Lumpur mất gần 1300 điểm xuống gần mức 400 sau vài tuần. Sau sự sa thải
gây tranh cãi bộ trưởng tài chính Anwar Ibrahim, một Hội đồng Hành động Kinh tế Quốc gia
được thành lập để giải quyết cuộc khủng hoảng tiền tệ. Ngân hàng Negara đặt ra các biện pháp
kiểm soát vốn và chốt giữ tỷ giá đồng ringgit Malaysia ở mức 3.80 trên Đô la Mỹ. Tuy nhiên,
Malaysia đã từ chối các gói hỗ trợ kinh tế từ Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới,
gây ngạc nhiên cho nhiều nhà phân tích.
Tháng 3 năm 2005, Hội nghị Liên hiệp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) đã xuất
bản báo cáo về các nguồn và các bước phục hồi kinh tế cho Malaysia, do Jomo K.S. thuộc Đại học
Malaya, Kuala Lumpur thực hiện. Văn bản này kết luận rằng những biện pháp kiểm sốt do chính
phủ Malaysia áp đặt khơng cản trở cũng không giúp nền kinh tế hồi phục. Yếu tố chủ chốt là sự
tăng trưởng xuất khẩu các sản phẩm điện tử, do sự gia tăng nhu cầu tại Hoa Kỳ, do lo ngại về
những hiệu ứng 2000 (Y2K) với các sản phẩm điện tử đời cũ.
Tuy nhiên, sự hạ giá sau sự kiện Y2K năm 2001 không ảnh hưởng tới Malaysia nhiều như các
quốc gia khác. Đây có thể là một bằng chứng cho thấy có những lý do và hiệu ứng khác thực sự
liên quan tới quá trình phục hồi hơn. Một nguyên nhân có thể là những nhà đầu cơ đã hết tiềm lực
tài chính sau vụ tấn công bất thành vào đồng dollar Hong Kong tháng 8 năm 1998 và sau khi đồng
Ruble Nga sụp đổ. (Xem George Soros)
Dù những lý lẽ về nguyên nhân/kết quả có thế nào chăng nữa, sự hồi phục của nền kinh tế xảy
ra đồng thời với chính sách chi tiêu mạnh của chính phủ và thâm hụt ngân sách trong những năm

sau khủng hoảng. Sau này, Malaysia đã có được sự phục hồi kinh tế tốt hơn các nước láng giềng.
Tuy nhiên, theo nhiều cách, đất nước này vẫn chưa đạt được mức độ trước khủng hoảng.
Tuy tốc độ phát triển hiện nay khơng cao, nhưng nó được coi là bền vững. Dù những biện
pháp kiểm soát và sự nắm chặt kinh tế có thể khơng phải là ngun nhân chính của sự hồi phục,
không nghi ngờ rằng lĩnh vực ngân hàng đã trở nên mau chóng phục hồi hơn sau những chấn động
từ bên ngoài. Tài khoản vãng lai cũng được đặt trong một thặng dư cơ cấu (The current account
has also settled into a structural surplus), cho phép làm giảm nhẹ sự rút lui của nguồn vốn. Giá tài
sản hiện chỉ bằng một phần nhỏ so với thời kỳ cao điểm trước khủng hoảng.
Tỷ giá hối đoái cố định đã bị bãi bỏ tháng 7 năm 2005 nhằm tạo thuận lợi cho một hệ thống tỷ
giá tự do có quản lý trong thời điểm Trung Quốc công bố cùng một động thái. Cùng trong tuần đó,
đồng ringgit đã tăng giá so với hầu hết các đồng tiền tệ chính và được cho là sẽ còn tăng thêm.
Tuy nhiên, tới tháng 12 năm 2005 những hy vọng đó đã mất khi dòng vốn rút đi vượt quá 10 tỷ
dollar Mỹ.[32]
Tháng 9 năm 2005, Ngài Howard J. Davies, giám đốc Trường Kinh tế London, trong một cuộc
gặp gỡ tại Kuala Lumpur, đã cảnh báo các quan chức Malaysia nếu họ muốn có một thị trường


vốn linh hoạt, họ sẽ phải dỡ bỏ lệnh cấm bán trước hạn (short-selling) đã được áp dụng trong cuộc
khủng hoảng. Tháng 3 năm 2006, Malaysia đã dỡ bỏ lệnh cấm này.[33]
[sửa] Tài nguyên thiên nhiên
Malaysia giàu các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong các lĩnh vực như nông nghiệp, lâm
nghiệp và khống sản. Về nơng nghiệp, Malaysia là nước xuất khẩu hàng đầu thế giới sản phẩm
cao su tự nhiên và dầu cọ, gỗ xẻ và gỗ nguyên liệu, cocoa, hạt tiêu, dứa và thuốc lá cũng là những
mặt hàng chủ lực trong lĩnh vực này. Dầu cọ là một nguồn thu ngoại tệ lớn.
Về các nguồn tài nguyên lâm nghiệp, cần lưu ý các sản phẩm gỗ chỉ bắt đầu trở thành mặt
hàng đóng góp lớn cho kinh tế trong thế kỷ mười chín. Ngày nay, ước tính 59% diện tích Malaysia
được rừng bao phủ. Sự mở rộng nhanh chóng của cơng nghiệp rừng, đặc biệt sau thập niên 1960,
đã mang lại những vấn đề về xói mịn nghiêm trọng với các nguồn tài nguyên rừng quốc gia. Tuy
nhiên, cùng với sự cam kết của chính phủ trong việc bảo vệ môi trường và hệ sinh thái, các nguồn
tài nguyên rừng đang được quản lý trên cơ sở bền vững và tỷ lệ cây bị khai thác đang giảm dần.

Ngoài ra, nhiều vùng rộng lớn đang được quản lý một các đúng đắn và việc tái trồng rừng tại
những vùng đất đã bị khai thác cũng đang được triển khai. Chính phủ Malaysia đã đưa ra kế hoạch
phủ xanh khoảng 312.30 kilômét vuông (120.5 dặm vuông) đất với loại cây mây theo những điều
kiện rừng tự nhiên và trồng xen cây cao su. Để tăng cường hơn nữa những nguồn tài nguyên thiên
nhiên, những loại cây mọc nhanh như meranti tembaga, merawan và sesenduk cũng đang được
trồng. Cùng lúc đó, những loại cây có giá trị cao như tếch và các loại cây nguyên liệu giấy giá trị
cao khác cũng được khuyến khích canh tác. Cao su, từng một thời là tâm điểm nền kinh tế
Malaysia, đã bị thay thế phần lớn bởi dầu cọ trở thành sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu hàng đầu
của Malaysia.
Thiếc và dầu mỏ là hai nguồn tài ngun khống sản có giá trị của kinh tế Malaysia. Malaysia
từng là nước sản xuất thiếc hàng đầu thế giới cho tới khi thị trường này sụp đổ đầu thập niên 1980.
Trong thế kỷ 19 và 20, thiếc đóng vai trị tối quan trọng trong nền kinh tế Malaysia. Chỉ tới năm
1972 dầu mỏ và khí tự nhiên mới thay thế thiếc trở thành mặt hàng chính trong lĩnh vực khai mỏ.
Trong lúc ấy, thị phần thiếc trong nền kinh tế đã suy giảm. Dầu mỏ và khí tự nhiên được tìm thấy
tại các mỏ dầu ngồi khơi Sabah, Sarawak và Terengganu đã có đóng góp lớn vào nền kinh tế
Malaysia đặc biệt tại các bang đó. Các sản phẩm khống sản khác cũng khá quan trọng gồm đồng,
vàng, bơ xít, quặng sắt và than cùng với các khống sản cơng nghiệp như đất sét, cao lanh, silica,
đá vôi, barite, phốt phát và các sản phẩm đá cắt như đá granite và đá mable khối hoặc tấm. Một
lượng nhỏ vàng được sản xuất tại đây.
Năm 2004, Chủ nhiệm văn phòng Thủ tướng, Datuk Mustapa Mohamed, đã tiết lộ trữ lượng
dầu khí Malaysia ở mức 4.84 tỷ barrels cịn trữ lượng khí thiên nhiên trên 89 nghìn tỉ Feet khối
(2.500 km³). Con số này tăng 7.2% so với dự đốn trước đó.[cần dẫn nguồn]


Những ước tính của chính phủ cho rằng ở mức sản xuất hiện nay Malaysia sẽ có khả năng
khai thác dầu thêm 18 năm và khí gas trong 35 năm nữa. Năm 2004 Malaysia được xếp hạng thứ
24 về trữ lượng dầu và 13 cho trữ lượng khí gas. 56% trữ lượng dầu nằm tại Bán đảo và 19% tại
Đông Malaysia. Chính phủ thu số tiền đặc lợi từ dầu khí, 5% trong số đó được trao lại cho các
bang và số cịn lại bị chính phủ liên bang thu giữ.[cần dẫn nguồn]
[sửa] Vận tải và viễn thông

Bài chi tiết: Vận tải Malaysia và Viễn thơng Malaysia
Malaysia có mạng lưới đường rộng lớn nối tất cả các thành phố và thị trấn chính trên bờ biển
phía tây Bán đảo Malaysia. Tổng chiều dài của mạng lưới đường cao tốc Malaysia là 1.192
kilơmét (740 dặm). Mạng lưới này nối tồn bộ các thành phố lớn và các khu đô thị như Thung
lũng Klang, Johor Bahru và Penang với nhau. Đường cao tốc chính, Đường cao tốc Bắc-Nam, trải
dài từ cực bắc tới cực nam Bán đảo Malaysia tại Bukit Kayu Hitam và Johor Bahru. Đây là một
phần của Mạng lưới đường cao tốc Châu Á, cũng kết nối cả Thái Lan và Singapore.
Đường xá tại Đơng Malaysia và bờ biển phía đơng Bán đảo Malaysia nói chung chưa được
phát triển. Chúng là những con đường rất quanh co xuyên qua các vùng núi non và nhiều đường
còn chưa được trải nhựa. Điều này dẫn tới việc các con sông thường được dùng làm đường vận tải
hàng hóa cho cư dân trong vùng.
Dịch vụ đường sắt tại Tây Malaysia do Keretapi Tanah Melayu (Malayan Railways) điều hành
và mạng lưới đường sắt lớn của nước này kết nối mọi thành phố và thị trấn lớn trên bán đảo, gồm
cả Singapore. Cũng có một tuyến đường sắt ngắn tại Sabah do North Borneo Railway điều hành
chủ yếu dùng để vận chuyển hàng.
Có các cảng biển tại Tanjong Kidurong, Kota Kinabalu, Kuching, Kuantan, Pasir Gudang,
Tanjung Pelepas, Penang, Cảng Klang, Sandakan và Tawau.
Những sân bay tầm vóc quốc tế, như Sân bay Quốc tế Kuala Lumpur tại Sepang, Sân bay
Quốc tế Penang tại Penang, Sân bay Quốc tế Kuching và Sân bay Quốc tế Langkawi phục vụ các
chuyến bay nội địa và quốc tế. Cũng có sân bay tại các thị trấn nhỏ cũng như đường băng nội địa
tại vùng nơng thơn Sabah và Sarawak. Có các chuyến bay hàng ngài giữa Đông và Tây Malaysia,
đây là các di chuyển duy nhất của hành khách giữa hai phần đất nước, cũng như các chuyến bay
thường xuyên tới nhiều điểm trên thế giới. Malaysia là nước có hãng hàng không giá rẻ đầu tiên
trong vùng, Air Asia. Kuala Lumpur là đầu mối của hãng và hãng này có nhiều đường bay quanh
khu vực Đơng Nam Á và Trung Quốc. Tại Kuala Lumpur.
Dịch vụ viễn thông liên thành phố trên Bán đảo Malaysia chủ yếu dùng vi sóng. Dịch vụ viễn
thông quốc tế được cung cấp qua các đường cáp quang biển và vệ tinh. Một trong những công ty


viễn thông lớn và quan trọng nhất tại Malaysia là Telekom Malaysia Berhad (TM), cung cấp các

sản phẩm và dịch vụ viễn thông cố định, di động cũng như kết nối internet dial-up và băng thông
rộng. Công ty này hầu như độc quyền về dịch vụ viễn thông cố định trong nước.
Tháng 12 năm 2004, Bộ trưởng Năng lượng, Nước và Viễn thông Datuk Seri Dr Lim Keng
Yaik đã thông báo rằng chỉ 0.85% hay 218.004 người tại Malaysia sử dụng dịch vụ băng thông
rộng. Tuy nhiên những con số đó dựa trên số lượng thuê bao, trong khi số phần trăm gia đình sẽ
phản ánh tình hình chính xác hơn. Con số này đã tăng từ 0.45% trong ba q. Ơng cũng bình luận
rằng chính phủ đặt mục tiêu con số người sử dụng đạt 5% năm 2006 và lên gấp đôi thành 10%
năm 2008. Lim Keng Yaik đã hối thúc các công ty viễn thông và cung cấp dịch vụ trong nước hạ
giá thành và mở rộng dịch vụ vì lợi ích người tiêu dùng.
[sửa] Chăm sóc sức khoẻ
Xem thêm: Danh sách bệnh viện tại Malaysia
Xã hội Malaysia đặt nặng tầm quan trọng trên việc mở rộng và phát triển dịch vụ chăm sóc
sức khoẻ, chi 5% ngân sách lĩnh vực phát triển cơng cộng chính phủ cho y tế — tăng 47% so với
trước đó. Con số này đồng nghĩa với mức tăng hơn 2 tỷ Ringgit Malaysia. Với số người cao tuổi
ngày càng lớn, chính phủ muốn cải thiện nhiều lĩnh vực gồm nâng cấp các bệnh viện sẵn có, xây
dựng và trang bị mới các bệnh viện, mở rộng số bệnh viện đa khoa, cải tiến đào tạo và mở rộng
chăm sóc sức khỏe từ xa. Trong vài năm vừa qua họ đã gia tăng đang kể nỗ lực nhằm cải thiện
những hệ thống sẵn có và thu hút thêm đầu tư nước ngồi.
Hệ thống y tế Malaysia đòi hỏi các bác sĩ phải làm việc 3 năm trong các bệnh viện công để
đảm bảo nguồn nhân lực cho các bệnh viện đó. Gần đây các bác sĩ nước ngồi cũng được khuyến
khích tới đây làm việc. Tuy nhiên, lĩnh vực này vẫn gặp phải khó khăn về nhân lực, đặc biệt các
chuyên gia có trình độ cao dẫn tới việc điều trị một số bệnh đặc biệt chỉ có thể được tiến hành tại
các thành phố lớn. Những nỗ lực gần đây nhằm đưa thêm cơ sở vật chất y tế về các vùng khác đã
gặp trở ngại bởi thiếu đội ngũ nhân viên có trình độ điều khiển những loại máy móc mới được
trang bị.
Đa số bệnh viện tư nằm tại các vùng thành thị và, không giống nhiều bệnh viện công, chúng
được trang bị máy móc chẩn đốn và hình ảnh hiện đại nhất. Các bệnh viện tư nói chung khơng
được coi là một hình thức đầu tư lý tưởng - thường mất tới 10 năm trước khi cơng ty có được bất
kỳ khoản lợi nhuận nào. Tuy nhiên, tình hình gần đây đã có thay đổi và các cơng ty lại đang để
mắt tới lĩnh vực này, đặc biệt trước viễn cảnh người nước ngoài đang tới Malaysia coi đây là địa

điểm chăm sóc sức khoẻ.
[sửa] Giáo dục


Bài chi tiết: Giáo dục tại Malaysia
Giáo dục tại Malaysia được quản lý bởi Bộ Giáo dục thuộc chính phủ Liên bang.[34]
Đa số trẻ em Malaysian bắt đầu tới trường trong độ tuổi từ 3 tới 6, tại các trường mầm non. Đa
số trường mầm non thuộc tư nhân, cũng có một số trường cơng.
Trẻ em bắt đầu đi học khi 7 tuổi và học sáu năm tiểu học. Có hai kiểu trường tiểu học do nhà
nước điều hành và do chính phủ hỗ trợ chính: các trường quốc gia (Sekolah Kebangsaan) dùng
tiếng Malay làm ngôn ngữ dạy học, và trường kiểu quốc gia (Sekolah Jenis Kebangsaan) dùng cả
tiếng Trung Quốc hay Tamil làm ngôn ngữ dạy. Trước khi lên cấp hai, học sinh năm thứ 6 phải trải
qua Ujian Pencapaian Sekolah Rendah (UPSR), hay Kỳ thi Đánh giá Tiểu học. Một kỳ thi được gọ
là Penilaian Tahap Satu (PTS), Đánh giá Mức độ thứ Nhất, từng được dùng để đánh giá khả năng
và trình độ học sinh, và cho phép học sinh chuyển từ Năm thứ 3 lên Năm thứ 5, bỏ qua Năm thứ
4.[35] Kỳ thi này đã bị hủy năm 2001.
Giáo dục cấp hai tại các trường cấp hai chính phủ kéo dài năm năm. Các trường cấp hai chính
phủ dùng tiếng Malay giảng dạy, ngồi ngơn ngữ, các mơn Tốn và Khoa học cũng được dạy.
Cuối năm thứ ba, học sinh trải qua kỳ thi Penilaian Menengah Rendah (PMR), Đánh giá Trung
học. Các môn học cho sinh viên Năm thứ 4 khác nhau tùy theo trường. Năm cuối (Năm thứ 5),
học sinh trải qua kỳ thi Sijil Pelajaran Malaysia (SPM), Chứng nhận Giáo dục Malaysia, tương
đương với British Ordinary hay Trình độ 'O', hiện được coi tương đương GCSE.
Các mơn Tốn học và Khoa học tại các trường cấp một, cấp hai chính phủ như Sinh học, Vật
lý, Hóa học được dạy bằng tiếng Anh. Lý do để giúp sinh viên không gặp trở ngại với giáo dục đại
học trong những môn như y và cơ khí.
Cũng có 60 Trường Trung học Độc lập Trung Quốc tại Malaysia, nơi đa số các môn được dạy
bằng tiếng Trung. Các trường này được quản lý và tuân thủ các tiêu chuẩn của Ủy ban Trường học
Thống Nhất Malaysia (UCSCAM, thường được gọi bằng tiếng Trung là Dong Zong 马马), tuy
nhiên, khơng giống các trường chính phủ, mọi trường độc lập tự do đưa ra quyết định của mình.
Việc học tập tại các trường độc lập kéo dài 6 năm, được chia làm 3 năm Trung học và 3 năm Cao

cấp. Học sinh phải trải qua một kỳ thi tiêu chuẩn hóa bởi Dong Zong và được gọi là Bằng Thi
Thống nhất (UEC) ở cấp Trung học (tương đương PMR) và Cao học (tương đương AO level). Một
số trường độc lập có các lớp dùng tiếng Malay và tiếng Anh ngoài tiếng Trung, cho phép học sinh
trải qua các kỳ thi PMR và SPM.
Sinh viên muốn vào các trường đại học cơng phải hồn thành một năm rưỡi học theo Form Six
và trải qua kỳ thi Sijil Tinggi Persekolahan Malaysia (STPM), Chứng nhận Trung học Malaysia;
tương đương trình độ Advanced Anh hay 'A' level.


Như đối với giáo dục cấp ba, có các trường đại học công như Đại học Malaya và Universiti
Kebangsaan Malaysia. Ngồi ra, 5 trường đại học quốc tế có uy tín đã thiết lập chi nhánh tại
Malaysia từ năm 1998. Một chi nhánh có thể được coi là một cơ sở ‘nước ngồi’ của trường, sử
dụng chương trình và văn bằng tương đương tại ‘mẫu quốc’. Cả các sinh viên bản địa và nước
ngồi đều có thể theo học và được cấp bằng nhưng với chi phí rẻ hơn tại Malaysia. Các chi nhánh
trường đại học nước ngoài tại Malaysia gồm: Đại học Monash (Sunway Campus), Đại học Công
nghệ Curtin (Sarawak Campus), Đại học Swinburne Chi nhánh Sarawak, Đại học Nottingham Chi
nhánh Malaysia và Đại học FTMS-De Monfort Chi nhánh Malaysia tại Kuala Lumpur.
Sinh viên có thể chọn lựa theo học các trường đại học tư sau khi hoàn thành cấp hai. Đa số
trường có liên kết giáo dục với các trường đại học nước ngoài, đặc biệt với Hoa Kỳ, Anh Quốc và
Australia. Sinh viên Malaysia ở nước ngoài chủ yếu học tại Anh Quốc, Hoa Kỳ, Australia, New
Zealand, Canada, Singapore, và Nhật Bản.
Ngồi Chương trình giảng dạy Quốc gia, Malaysia có nhiều trường quốc tế. Các trường quốc
tế trao cho sinh viên cơ hội theo học chương trình giảng dạy của quốc gia khác. Những trường đó
chủ yếu phục vụ cho số lượng người nước ngoài làm việc tại nước này. Những trường quốc tế
gồm - Trường Quốc tế Australia, Malaysia (Chương trình giảng dạy Australia), Trường Alice
Smith (Chương trình giảng dạy Anh), Trường Quốc tế Garden (Chương trình Anh), Trường Quốc
tế Lodge (Chương trình Anh), Trường Quốc tế Kuala Lumpur (Chương trình giảng dạy Mỹ và Tú
tài Quốc tế), Trường Nhật Kuala Lumpur (Chương trình Nhật), Trường Quốc tế Penang (Tú tài
Quốc tế và Chương trình Anh), Lycộe Franỗais de Kuala Lumpur (Chng trỡnh Phỏp) v cỏc
trng khác.

[sửa] Nhân khẩu
Bài chi tiết: Nhân khẩu Malaysia
Dân số Malaysia gồm nhiều nhóm sắc tộc, với nhóm người Malay nắm ưu thế chính trị chiếm
phần đơng, gần 52% dân số. Theo định nghĩa của hiến pháp, tất cả người Malay đều là tín đồ Hồi
giáo. Khoảng 30% dân số là người Malaysia gốc Hoa, nhóm người này từ lâu ln đóng vai trị
quan trọng trong thương mại. Người Malaysia gốc Ấn chiếm khoảng 8% dân số. Khoảng 90%
cộng đồng Ấn Độ là người Tamil nhưng nhiều nhóm khác hiện cũng có mặt, gồm Malayali,
Punjabi và Gujaratis. Có nhiều người khơng Malay được coi là người thổ dân, chủ yếu tại Đông
Malaysia. Họ chiếm khoảng 7% dân số. [cần dẫn nguồn]
Những nhóm thổ dân bản xứ khơng Malay chiếm hơn một nửa dân số bang Sarawak, khoảng
66% dân số bang Sabah, và cũng có mặt trên Bán Đảo tuy với số lượng nhỏ hơn, nơi họ được gọi
là Orang Asli. Người bản xứ khơng Malay được chia thành hàng chục nhóm sắc tộc, nhưng họ
cùng có nhiều điểm tương đồng văn hố. Các nhóm người Malaysia cũng được gộp vào đây gồm
con cháu của người Âu, Trung Đông, Campuchia, Thái và Việt Nam, cùng những người khác.


Người Âu và người lai Âu-Á gồm người Anh đã định cư tại Malaysia từ thời thuộc địa và một số
người Bồ Đào Nha, và đa số người Trung Đông là người Ả Rập. Một lượng nhỏ người Campuchia
và Việt Nam đã định cư tại Malaysia với tư cách người tị nạn chiến tranh. Sự phân bố dân cư
không đồng đều, với khoảng 20 triệu người tập trung trên Bán đảo Malay.
Ngày 13 tháng 5 năm 1969 đã xảy ra một cuộc nổi loạn dân sự liên quan tới sắc tộc khi ấy
được cho là vì tình trạng bất cơng bằng kinh tế-xã hội giữa các sắc tộc, dù nếu xem xét kỹ nó có
thể có ngun nhân chính trị do sự xúi giục từ phía cả chính phủ và các đảng đối lập, bởi bạo lực
chỉ xảy ra tại các vùng trong và ngồi thủ đơ, đại đa số đất nước vẫn ở tình trạng yên ổn. Vụ việc
này dẫn tới sự thơng qua Chính sách Kinh tế Mới với hai mục tiêu giải quyết sự bất bình đẳng sắc
tộc và kinh tế cũng như xóa bỏ tình trạng nghèo đói trong nước.
Vì sự phát triển của những ngành cơng nghiệp địi hỏi nhiều nhân cơng, Malaysia có 10 tới
20% nhân cơng nước ngồi nhưng con số này cũng chưa chính xác bởi một số lượng lớn nhân
cơng nước ngoài làm việc bất hợp pháp khác, chủ yếu là người Indonesia; có hàng triệu người lao
động nước ngồi bất hợp pháp và có lẽ khoảng một triệu người nước ngoài sinh sống bất hợp pháp

khác. Chỉ riêng bang Sabah có 25% trong số dân 2.7 triệu người được coi là lao động bất hợp
pháp trong cuộc điều tra dân số gần đây. Tuy nhiên, con số 25% chưa bằng một nửa con số do các
Tổ chức Phi Chính phủ đưa ra.[36] Người nước ngồi khơng có giấy phép sẽ bị phạt tới 10.000
Ringgit Malaysia và ngồi tù hai năm, trong khi người Malaysia sử dụng lao động bất hợp pháp
phải đối mặt với án tù một năm và khoản phạt lên tới 50.000 RM cho mỗi lao động bất hợp pháp
được thuê mướn, những người thuê từ năm người trở lên có thể bị phạt roi. Phạt roi là hình phạt
tiêu chuẩn cho hơn 40 loại tội phạm tại Malaysia, từ lạm dụng tình dụng cho tới sử dụng thuốc
phiện. Được thực hiện bởi một cây roi mây to, hình phạt này xé rách da và để lại các vết sẹo.
Khoảng 380.000 người nước ngồi khơng giấy phép đã rời nước này trong một thời hạn "ân
xá" bắt đầu năm 2004 và đã được kéo dài nhiều lần. Trong thời hạn này, người nước ngồi khơng
giấy phép có thể ra đi mà không bị phạt. Ngày 1 tháng 3 năm 2005, khoảng 300.000 cảnh sát và
560.000 Người tình nguyện Nhân dân đã bắt đầu lục tìm những người nước ngồi khơng giấy
phép cịn ở lại trong nước trong Chiến dịch Tegas; những người tình nguyện được nhận 100 RM
cho mỗi người nước ngồi họ bắt được.[37]
[sửa] Tơn giáo


Masjid Ubudiah một thánh đường lịch sử nổi tiếng tại Kuala Kangsar.
Malaysia là một xã hội đa tôn giáo và Đạo Hồi là tơn giáo chính thức của Malaysia. Theo cuộc
Điều tra Dân số và Nhà cửa năm 2000, xấp xỉ 60.4% dân số theo Đạo Hồi; 19.2% theo Phật giáo;
9.1% theo Thiên chúa giáo; và 6.3% theo Hindu giáo. 5% cịn lại được tính vào các đức tin khác,
gồm thuyết duy linh, shaman giáo, Đạo Sikh, Bahá'í, Đạo giáo, Khổng giáo, và các tôn giáo truyền
thống Trung Hoa khác.[38] Cho tới tận thế kỷ 20, những đức tin truyền thống, vẫn được coi là có
số người tin tưởng cao hơn con số chính thức của Malaysia. Những số liệu được đề cập ở trên có
thể khơng chính xác bởi chúng không ghi nhận thực tế tất cả người Malay đều chính thức bị coi là
tín đồ Hồi giáo, khơng phân biệt đức tin cá nhân.[39]
Dù theo lý thuyết hiến pháp Malaysia đảm bảo thực thi tự do tôn giáo, trên thực tế tình hình
lại khơng đơn giản như vậy (Xem Tình hình tự do tơn giáo tại Malaysia). Những đạo không phải
là Hồi giáo phải chịu nhiều hạn chế về hoạt động như xây dựng nơi hành đạo và tổ chức các sự
kiện tơn giáo của mình tại một số bang Hồi giáo.[40][41] Tuy nhiên, người Hồi giáo bị bắt buộc

tuân theo các quyết định của các toà án Hồi giáo Sharia. Theo pháp luật, người Hồi giáo có thể
khơng được tự do bỏ đạo, bởi làm việc đó đồng nghĩa với sự liên quan tới tòa án Hồi giáo. Tòa án
Hồi giáo do các thẩm phán được đào tạo luật Hồi giáo phân xử. Nói chung một người muốn rời bỏ
đạo Hồi phải đưa ra tuyên bố theo luật, nhưng việc này vẫn chưa được các tòa án dân sự Malaysia
cơng nhận. Họ phải có được tun bố bỏ đạo từ một tòa án Hồi giáo và tòa án sẽ chỉ cho phép rời
đạo sau khi đã bị thuyết phục hồn tồn rằng người đó khơng cịn đức tin vào Đạo Hồi nữa. Đây
được cho là cách ngăn chặn sự mất ảnh hưởng của Đạo Hồi.
Đây có thể bị coi là một lập trường rất khoan dung của tịa án Hồi giáo. Nói chung, lời tun
bố với một người Hồi giáo chỉ được đưa ra nếu hai người Hồi giáo khác chứng nhận rằng anh ta


đã mất đức tin và không phản đối công khai trong vòng một ngày. Rõ ràng, việc cho phép rời Đạo
Hồi hầu như không bao giờ được đưa ra, và như đã được thể hiện trong vụ Lina Joy.
Các vấn đề khác liên quan tới sự áp đặt luật Hồi giáo. Một nữ tín đồ Hồi giáo bị cấm kết hơn
với một người khơng phải tín đồ Hồi giáo trừ khi người đó cải theo Đạo Hồi, và nếu cơ ta tiếp tục
bất kỳ quan hệ với người không phải tín đồ Hồi giáo đó, sự trừng phạt theo luật Sharia sẽ là cái
chết. Nếu cơ ta có quan hệ tình dục, hình phạt sẽ là ném đá đến chết, một hình phạt hiện vẫn chưa
được chính thức bãi bỏ tại Malaysia. Nếu cơ ta có thai trong khi bị kết án, Đạo Hồi buộc cô ta
cùng chết với bào thai[cần dẫn nguồn]. Nếu đứa trẻ đã ra đời, hình phạt sẽ được thực hiện khi thời
gian cho bú kết thúc và sự chăm sóc đứa trẻ sẽ do nhà nước đảm nhiệm.
Người Malaysia thường có khuynh hướng tơn trọng đức tin tôn giáo của người khác, các vấn
đề tôn giáo bên trong thường chủ yếu xảy ra trong phạm vi chính trị. Tuy nhiên, hiện đang có sự
chia rẽ ngày càng lớn bởi nhiều người Trung Quốc và Ấn Độ cảm thấy bị đè nén sau nhiều chính
sách liên quan tới tơn giáo gần đây của chính phủ, đe dọa sự tự do tôn giáo.








Hồi giáo Malaysia
Phật giáo Malaysia
Thiên chúa giáo Malaysia
Hindu giáo Malaysia
Do thái giáo Malaysia
Tình hình tự do tơn giáo tại Malaysia

[sửa] Văn hố
Bài chi tiết: Văn hoá Malaysia
Malaysia là một xã hội đa sắc tộc, đa văn hóa và đa ngơn ngữ, gồm 52% người Malay và các
bộ tộc bản xứ khác, 30% người Trung Quốc, 8% người Ấn Độ.[cần dẫn nguồn] Người Malay, là
cộng đồng lớn nhất, được xác định là những tín đồ Hồi giáo trong Hiến pháp Malaysia. Người
Malay đóng vai trị thống trị trong chính trị và được tính gộp trong một nhóm gọi là bumiputra.
Tiếng mẹ đẻ của họ là tiếng Malay (Bahasa Melayu). Tiếng Malay là ngơn ngữ chính thức quốc
gia.[42]
Trong quá khứ, tiếng Malay thường được viết bằng ký tự Jawi, một ký tự dựa trên ngôn ngữ Ả
rập. Cùng với thời gian, ký tự Latinh hoá dần chiếm vị trí của Jawi trở thành ký tự phổ biến. Điều
này phần lớn vì sự ảnh hưởng của hệ thống giáo dục thuộc địa, vốn dạy trẻ em viết bằng ký tự
Latinh chứ khơng phải ký tự Ả rập.
Nhóm bản xứ không Malay lớn nhất là người Iban tại Sarawak với số lượng hơn 600.000
người. Một số người Iban vẫn sống trong các ngôi nhà dài truyền thống trong rừng già dọc theo


các con sông Rajang và Lupar và các phụ lưu của chúng, dù nhiều người đã tới sống tại các thành
phố. Người Bidayuh, số lượng khoảng 170.000 người, sống tập trung ở vùng phía tây nam
Sarawak. Bộ tộc bản xứ lớn nhất tại Sabah là Kadazan. Họ chủ yếu là những nông dân theo Thiên
chúa giáo. 140.000 người Orang Asli, hay những bộ tộc thổ dân, gồm một số cộng đồng sắc tộc
khác nhau sống trên Bán đảo Malaysia. Đa số những người sinh sống bằng nông nghiệp hay săn
bắn hái lượm du mục truyền thống, đã định cư và hòa nhập một phần vào xã hội hiện đại

Malaysia. Tuy nhiên, họ vẫn là nhóm nghèo nhất trong nước. [cần dẫn nguồn]
Người Trung Quốc tại Malaysia chủ yếu theo Phật giáo (phái Đại Thừa), Đạo giáo hay Thiên
chúa giáo. Người Trung Quốc tại Malaysia sử dụng nhiều loại tiếng địa phương Trung Quốc gồm
tiếng phổ thông, Hokkien/Fujian, Quảng Đông, Hakka và Teochew. Nhiều người Trung Quốc tại
Malaysia cũng sử dụng tiếng Anh như tiếng mẹ đẻ. Người Trung Quốc từ lâu đã chiếm vị trí quan
trọng trong cộng đồng thương mại Malaysia.
Người Ấn Độ tại Malaysia chủ yếu là người Hindu Tamil từ miền nam Ấn Độ nói tiếng Tamil,
cũng có các cộng đồng Ấn Độ khác nói tiếng Telugu, Malayalam và Hindi, sống chủ yếu tại các
thị trấn lớn ở ven biển phía tây bán đảo. Nhiều người Ấn Độ thuộc tầng lớp trung lưu và thượng
lưu sống tại Malaysia cũng dùng tiếng Anh như tiếng mẹ đẻ. Cũng có một cộng đồng người Sikh
khá lớn tại Malaysia với hơn 83.000 người. Đa số người Ấn Độ di cư tới đây đều là các thương
nhân, giáo viên và những thợ thủ cơng có chun mơn. Một số lượng lớn khác là những nhân công
nhập cư từ Ấn Độ ở thời thuộc địa Anh làm việc trong ngành lâm nghiệp[cần dẫn nguồn].
Người Âu Á, Campuchia, Việt Nam, và các bộ tộc bản xứ khác chiếm phần dân số còn lại.
Một số lượng nhỏ người Âu Á, hậu duệ người lai Bồ Đào Nha và Malay, nói một thứ thổ ngữ dựa
trên tiếng Bồ Đào Nha được gọi là Papiá Kristang. Cũng có những người Âu Á hậu duệ người lai
Philippines và Tây Ban Nha, chủ yếu sống tại Sabah. Là hậu duệ của những người nhập cư từ
Philippines, một số sử dụng tiếng Chavacano, thổ ngữ dựa trên tiếng Tây Ban Nha duy nhất tại
Châu Á. Người Campuchia và người Việt Nam chủ yếu theo Phật giáo (người Campuchia theo
Tiểu Thừa, người Việt Nam theo Đại Thừa).
Âm nhạc truyền thống Malaysia bị ảnh hưởng nhiều từ phong cách Trung Quốc và Hồi giáo.
Âm nhạc chủ yếu dựa quanh gendang (trống), nhưng ồm cả các nhạc cụ gõ khác (một số làm bằng
các loại vỏ và mai); rebab, một nhạc cụ dây hình cung; serunai, nhạc khí hai lưỡi như oboe; sáo,
và trumpet. Nước này có truyền thống múa và kịch múa lâu đời, một số có nguồn gốc Thái, Ấn
Độ, Bồ Đào Nha. Các hình thức nghệ thuật khác gồm wayang kulit (rối bóng), silat (một kiểu võ
thuật cách điệu hố) và đồ thủ cơng như batik, dệt, bạc và đồ đúc đồng.
[sửa] Quyền công dân
Bài chi tiết: Quyền công dân Malaysia



Đa số người Malaysia được trao quyền công dân theo jus soli (ở trên lãnh thổ).[43] Tất cả
người Malaysia là cơng dân liên bang mà khơng có quyền cơng dân chính thức bên trong các bang
riêng biệt ngoại trừ các bang và lãnh thổ liên bang tại Đông Malaysia nơi quyền cơng dân là ưu
tiên và có thể phân biệt với Bán đảo. Mọi công dân đều được sở hữu một chứng minh thư sinh trắc
học điện tử, được gọi là MyKad, ở độ tuổi 12, và phải mang nó theo mình. Một cơng dân được địi
hỏi phải trình thẻ của mình cho cảnh sát, hay trong trường hợp khẩn cấp, cho nhân viên quân sự,
để được xác minh. Nếu thẻ khơng được xuất trình ngay lập tức, cơng dân đó theo kỹ thuật có 24
giờ để mang nó đến trình diện tại đồn cảnh sát gần nhất.
[sửa] Phong tục
Phong tục và những điều cấm kỵ: khi gặp nhau người Malaysia thường có thói quen sờ vào
lịng bàn tay người kia, sau đó chắp hai bàn tay với nhau. Người Malaysia rất kỵ việc xoa đầu và
lưng người khác. Người Malaysia thường mặc áo dài bằng vải hoa, nam giới mặc áo sơ mi không
cổ và không được để hở cánh tay, đùi ở những nơi công cộng. Nữ thường mặc áo dài tay. Chủ đề
tốt nhất bàn luận ở Malaysia là công việc buôn bán, thành tựu xã hội, bóng đá, lịch sử... tránh nói
đến chủng tộc và chính trị, mức sống, mức thu nhập.
[sửa] Ngày lễ
Bài chi tiết: Ngày lễ tại Malaysia
Người Malaysia có nhiều ngày lễ hội suốt cả năm. Một số ngày lễ được liên bang coi là ngày
nghỉ lễ công cộng và một số ngày lễ khác chỉ được tổ chức tại từng bang riêng biệt. Các lễ hội
khác thuộc các nhóm sắc tộc và tôn giáo riêng biệt, nhưng không phải ngày lễ công cộng. Ngày lễ
quan trọng nhất là "Hari Merdeka" (Ngày độc lập) ngày 31 tháng 8 kỷ niệm nền độc lập của Liên
bang Malaya năm 1957, tuy Ngày Malaysia chỉ được tổ chức tại bang Sabah ngày 16 tháng 9 đều
kỷ niệm việc thành lập Malaysia năm 1963. Hari Merdeka, cũng như Ngày Quốc tế Lao động (1
tháng 5), ngày Sinh nhật Nhà Vua (thứ 7 đầu tiên của tháng 6) và một số ngày lễ khác được coi là
ngày lễ cơng cộng trên tồn liên bang.
Người Hồi giáo tại Malaysia (gồm tất cả người Malays và những người Hồi giáo không Malay
khác) kỷ niệm Những ngày lễ Hồi giáo. Lễ hội quan trọng nhất, Hari Raya Puasa (cũng được gọi
là Hari Raya Aidilfitri) là tên tiếng Malay của Eid ul-Fitr. Nói chung đây là một ngày lễ được tất
cả người Hồi giáo trên thế giới đón chào đánh dấu sự kết thúc của tháng chay Ramadan. Ngoài
Hari Raya Puasa, họ cũng tổ chức lễ Hari Raya Haji (cũng được gọi là Hari Raya Aidiladha, tên

dịch của Eid ul-Adha), Awal Muharram (Năm mới Hồi giáo) và Maulidul Rasul (Ngày sinh Nhà
tiên tri).
Người Trung Quốc tại Malaysia nói chung tổ chức những ngày lễ hội theo kiểu của tất cả
những người Trung Hoa khác trên thế giới. Năm mới Âm lịch là ngày lễ quan trọng nhất, kéo dài


mười lăm ngày và kết thúc với Chap Goh Mei. Những ngày lễ khác của người Trung Quốc gồm
Thanh Minh, Lễ Thuyền Rồng và Trung Thu. Ngoài những lễ hội truyền thống Trung Quốc,
những người Trung Quốc theo Phật giáo cũng tổ chức Vesak Day.
Đa số người Ấn Độ tại Malaysia là tín đồ Hindu giáo và họ tổ chức ngày lễ Deepavali
(Diwali), lễ hội ánh sáng, trong khi Thaipusam là lễ hội khi người hành hương từ khắp đất nước
đổ về Hang Batu. Ngoài người Hindu, người Sikhs tổ chức lễ Vaisaki, Năm mới của người Sikh.
Những ngày lễ khác như Thứ sáu Tuần Thánh (chỉ tại Đông Malaysia), Giáng sinh, Hari
Gawai của người Iban (Dayak), Pesta Menuai (Pesta Kaamatan) của người Kadazan-Dusun cũng
được tổ chức tại Malaysia.
Dù đa số lễ hội gắn liền với một sắc tộc hay tôn giáo nhất định, tất cả người Malaysia cùng
nhau chào mừng lễ hội không phân biệt tôn giáo và sắc tộc. Khi Hari Raya Puasa và Năm mới Âm
lịch trùng khớp, một khẩu hiệu, Kongsi Raya, tổng hợp Gong Xi Fa Cai, một câu chúc mừng được
dùng dịp Năm mới Âm lịch, và Hari Raya (cũng có thể có nghĩa "cùng nhau chúc mừng" trong
tiếng Malay). Những năm khi Hari Raya Puasa và Deepavali trùng khớp, khẩu hiệu Deepa Raya
cũng được tạo ra theo cách tương tự.

Khám Phá Malaysia
So với một Thái Lan với những món ăn nổi tiếng cay đến xé lưỡi, một Singapore hiện đại và
hào nhoáng, Malaysia dường như mang nét gì bí ẩn, sâu sắc mời gọi khám phá.
Đó là một trong những quốc gia dễ chịu và thanh bình nhất Đơng Nam Á, là mảnh đất của những
điều kinh ngạc với những tòa nhà cao chọc trời và cũng không thể thiếu những dãy nhà thấp bé
căn bản. Malaysia thấm đẫm nét thiên nhiên diệu kỳ, những bãi biển xinh đẹp vừa để dạo, ngắm
và thán phục, vừa để lặn, bơi và khoan khoái. Sự giàu có, nét sơi nổi ẩn hiện trong một nền văn
hóa trộn lẫn giữa người Malay, Trung Quốc, Ấn Độ và những tập tục đặc sắc.

Ở Malaysia, vừa có những thành phố lớn với những tịa tháp bằng kính lung linh của thế kỷ 21,
vừa có những bãi biệt tuyệt vời, vừa có những ngọn núi thăm thẳm và cả những công viên quốc
gia không thua kém bất cứ đâu.
Chơi gì ?
Malaysia thực sự đã trở thành điểm đến lý tưởng đối với người Việt Nam, đặc biệt trong bối
cảnh hiện nay, khi các hãng hàng không giá rẻ đang thi nhau ra đời và cạnh tranh về mọi mặt từ
giá cả đến dịch vụ. Đến Malaysia, tùy theo sở thích vui chơi, khám phá mà bạn có thể lựa chọn


cho mình một chương trình tour thực sự hài lịng và hợp lý.
Các điểm đến nổi tiếng nhất của Malaysia chủ yếu nằm rải rác ở bờ biển phía tây bán đảo. Nếu chỉ
có ít thời gian, bạn có thể chọn chơi khu vực hành lang này mà vẫn khám phá và tận hưởng hết
những di sản tuyệt với cũng như tham gia những hoạt động ngoài trời kỳ thú.
Kuala Lumpur, thủ đô của Malaysia, thực sự là con hổ châu Á đang trên đà sung sức. 150 năm
qua, KL đã trưởng thành từ khơng có gì đến một thành phố hiện đại và sống động. Với một vị
khách mới, các bảo tàng của thành phố, khu mua sắm và những bữa tối đặc sắc sẽ là cái bắt tay
tiếp khách đầy ấn tượng của văn hóa Malaysia. Đến đây, bạn sẽ được chiêm ngưỡng những tòa
nhà cao nhất thế giới, được khám phá nền văn hóa truyền thống trên những ngõ nhỏ của khu
Chinatown.
Thành phố Malacca ngái ngủ chỉ cách thủ đơ khoảng 2,5 giờ lái xe ln có đầy đủ nét duyên dáng
của một thế giới cổ, với dáng dấp của chính quyền thuộc địa Bồ Đào Nha, Hà Lan và Anh hịa trộn
với nền văn hóa Ả Rập, Ấn Độ và Trung Quốc.
Pulau Pangkor, hay đảo Pangkor, là hòn đảo tách biệt với những khu nghỉ nhiệt đới sôi nổi, chỉ
mất nửa giờ bay từ KL.
Xa hơn một chút về phía Bắc, Penang có lẽ là điểm đến nổi tiếng nhất Malaysia. Georgetown, thị
trấn chính của hịn đảo, nhộn nhịp và dịu dàng với những con đường hẹp, những ngơi nhà cổ,
những khu thờ cúng gợi tị mò và cả những thức ăn đường phố. Đến Penang, vừa có thể nếm chút
dư vị của nền văn hóa vừa có thể thư giãn trên bãi biển.
Cuối cùng nhưng không phải là đã hết, là Langkawi – bộ sưu tập của những khu nghỉ biển lộng
lẫy nhất. Nước biển nơi đây dường như tốt hơn tất cả những nơi khác – xanh và trong tựa pha lê.

Đến bằng gì ?
Malaysia có 6 sân bay quốc tế - tại Kuala Lumpur, Penang, Langkawi, Kota Kinabalu,
Kuching và Johor Bahru – và 14 sân bay nội địa. Tùy theo điểm đến của mình, bạn hãy tham khảo
thêm thơng tin về các chuyến bay.
Có hai hãng hàng khơng lớn để bạn chọn lựa là Malaysia Airlines và Vietnam Airlines, với mức
giá hiện nay khoảng 139 USD khứ hồi Hà Nội – Kuala Lumpur của Malaysia Airlines, và 160
USD của Vietnam Airlines. Còn xuất phát từ thành phố Hồ Chí Minh, 158 USD khứ hồi của
Vietnam Airlines và 265 USD của Malaysia Airlines.
Ngoài ra, bạn có thể chọn những hãng hàng khơng khác như Thai Airway chẳng hạn, song bạn sẽ


phải quá cảnh. Hiện nay, bạn cũng có thể tham khảo thêm mức giá của một số hãng hàng không
giá rẻ như Air Asia, …
Đi khi nào ?
Bạn nên đến Malaysia vào mùa đơng và mùa hè, đó cũng chính là mùa du lịch cao điểm của
Malaysia. Mùa đông sẽ bắt đầu từ tháng 12 đến hết tháng 1, với những lễ hội mùa đơng lớn như
Noel, năm mới. Cịn mùa hè của Malaysia sẽ rơi vào tháng 6, 7 và 8, thậm chí có thể kéo dài đến
giữa tháng 9. Suốt thời gian cao điểm, các khách sạn luôn chật cứng phòng và hầu hết khách đều
phải đặt trước để “giữ chỗ”.
Thời tiết hẳn sẽ đóng vai trị khá quan trọng trong kế hoạch du lịch của bạn. Khoảng giữa tháng 11
đến tháng 3, những cơn gió mùa khiến nước biển q lạnh, khơng thích hợp cho các mơn thể thao
dưới nước và các hoạt động ngoài bãi biển. Hơn nữa, trong thời gian này, nhiều khu nghỉ trên đảo
sẽ đóng cửa.
Nhiệt độ Malaysia dường như khá ổn định quanh năm. Nhiệt độ ban ngày là khoảng 21-32oC.
Trên đồi lạnh hơn với 210C ban ngày và 100C ban đêm.
Ngoài thời tiết, bạn cũng nên quan tâm đến những ngày lễ hội để chuyến đi thêm phần thú vị. Với
một cộng đồng dân cư đa tộc, khơng có gì ngạc nhiên khi hầu như tháng nào Malaysia cũng có
những ngày lễ hội khác nhau. Một số ngày lễ được xem là ngày lễ công cộng. Tuy nhiên, những
ngày lễ không cố định, và khác nhau mỗi năm, do đó tốt nhất bạn nên hỏi kỹ thông tin trước khi
chuẩn bị cho chuyến đi của mình.

Một vài lưu ý
- Người Việt Nam đi du lịch Malaysia trong vịng 30 ngày khơng cần visa.
- Tất cả các khách sạn tại Malaysia đều phải cộng thêm 10% phí dịch vụ và 5% thuế. Bạn không
cần phải thưởng tiền hoa hồng cho nhân viên.
- Bạn nên rửa tay trước khi vào bàn ăn, , và cố gắng sử dụng tay phải để ăn, bởi vì tay trái bị xem
là khơng sạch (người ta quan niệm tay trái luôn phải được rửa kỹ sau khi đi vệ sinh). Ngồi ra, đến
những thị trấn nhỏ khơng nên cho đá lạnh vào thức uống của mình bởi vì rất có thể đá lạnh được
làm từ nguồn nước không hợp vệ sinh.
- Bạn bị lạc đường và cần giúp đỡ? Hãy tìm một nhân viên cảnh sát du lịch. Các nhân viên cảnh
sát du lịch đeo băng kẻ ca rô trên mũ, mặc áo và quần màu xanh đậm, đặc biệt có chữ cái “I”
(information) trên băng màu đỏ và xanh ở trên túi ngực.
- Ngoài ra, để tránh “hiểu nhầm văn hóa”, bạn nhớ mặc quần áo gọn gàng, che kín tay chân, cởi
giày trước khi vào nhà hoặc những nơi thờ cúng. Đừng dùng chân để chỉ vào bất cứ ai. Khi cho
hoặc nhận tiền, quà với người Malaysia, hãy dùng tay phải để thực hiện.


Giới thiệu về đất nước Malaysia

Đất nước Malaysia
Malaysia là một trong những đất nước thân thiện và ổn định nhất Đông Nam Á. Nhiều thập kỷ
tăng trưởng kinh tế bền vững và ổn định chính trị đã khiến cho Malaysia trở thành một trong
những nước năng động và giàu có nhất trong khu vực.
Đất nước Malaysia được chi làm hai phần: bờ phía tây thường được gọi là bán đảo Maylaysia
và bờ phía đơng nằm trên đảo Borneo, được ngăn cách bởi khoang 750km đường biển Đơng. Bán
đảo Malaysia có chung biên giới với Singapore về phía đơng, là nơi tập trung 11 trên tổng số 13
bang của đất nước này: Perlis, Kedah, Terengganu, Kelantan, Penang, Perak, Malacca, Pahang,
Selangor, Johor và Negeri Sembilan. Thủ đô Kuala Lumpur là một trong ba vùng lãnh thổ của


Malaysia cùng với Lubuan và Putrajaya, nằm ở đây. Phía đơng Malaysia chỉ có hai bang Sabah và

Sarawak, có hcung đường biên giới biển với Thái Bình Dương về phía đông bắc.
Hầu hết du khách đến Malaysia đều nhắm đến phần bán đảo như một cái đích, nơi có thủ đô
hiện đại là biểu tượng của đất nước Malaysia phát triển với những toà nhà chọc trời Kuala
Lumpur; hay Malacca – thành phố lịch sử của Malaysia, nơi còn lưu giữ thật nhiều những di sản
văn hoá vật thể đặc sắc là dấu ấn cảu quá khứ hào hung; hay Penang với vẻ đẹp lộng lẫy của một
“hòn ngọc phương Đông”, vốn từ lâu đã được coi là điểm đến hấp dẫn nhất Đơng Nam Á; hay hịn
đảo thiên đường Langkawi – không chỉ mang vẻ đẹp rung động long người mà còn là một thiên
đường mua sắm miễn thuế; hay đến với rừng rậm nhiệt đới đã có mặt trên trái đất này từ 130 triệu
năm nay Taman Negara; hay đến với những khu giải trí tuyệt vời ln tràn ngập niềm vui và tiếng
cười: Genting, A’Famosa, Sunway Lagoon…
Tuy nhiên, phần phía đơng Malaysia cũng là một nơi xứng đáng cho một cuộc du ngoại của du
khách với thiên nhiên phong phú, sống động và hung vĩ, với điểm nhấn đặc biệt đối với những
người ưa thích mạo hiểm và khám phá, hay Niah – hang động dài nhất thế giới hứa đựng bao điều
huyền bí trong nó, hay thử sống trong một trong những mơ hình nhà độc đáo nhất thế giới của
người bản địa; nhà dài …
Hãy đến khám phá một đất nước được biết đến trên tồn thế giới như một “Châu Á đích thực”
một điểm đến lý tưởng nơi những kỳ quan thiên nhiên và kỳ quan kiến trúc nhân tạo kỳ vĩ cùng
hội tụ, nơi giải trí tuyệt vời mọi trị vui và nụ cười bất tận, nơi mua sắm là một thiên đường, nơi
hội ngộ ẩm thực của khu vực và toàn thế giới, nơi các nền văn hoá lớn kết tinh tộa ra sự đa dạng
dân tộc và văn hoá độc đáo, nơi mọi loại hình và nhu cầu du lịch đều được thoả mãn, từ nghỉ ngơi
thư giãn thuần tuý hay du lịch mạo hiểm đến du lịch kết hợp khám chữa bệnh hay hội thảo, hội
nghị hay du lịch kết ợp thăm thú các trường đại học để chọn một môi trường lý tưởng cho nền học
vấn của thế hệ tương lai, nơi người dân ln chào đón du khách bằng sự thân thiện và những nụ
cười.
Thăm Malaysia để có thể chiêm ngưỡng và trải nghiệm những gì tinh tuý, sống động và tuyệt
vời nhất của đất nước này.


Banh trang Roti canai



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×