Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Giới thuyết một số vấn đề về tiểu thuyết huynh đệ của nhà văn dư hoa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.28 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
TÊN TIỂU MỤC

TRANG

Phần A: Mở đầu

2- 4

1. Lý do chọn đề tài.

2

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.

3

3. Phương pháp nghiên cứu.

3

4. Giới hạn, nhiệm vụ nghiên cứu.

4

5. Bố cục đề tài

4

Phần B: Nội dung:


5- 18

I. Một vài nét về tác giả Dư Hoa:

5

II. Tiểu thuyết “Huynh đệ”:

6

1.Hoàn cảnh sáng tác:

6

2.Những đặc sắc về nội dung:

6-16

2.1 “Huynh đệ”- một bức tranh hiện thực sống động:

6

2.2. “Huynh đệ”- một tâm hồn trữ tình sâu lắng:

13

2.3. Có hay không vấn đề dâm tục trong “Huynh đệ”:

15


3. Những đặc sắc về nghệ thuật:

16

III. Một số ý kiến của các nhà nghiên cứu về nhà văn

17

Dư Hoa và tiểu thuyết “Huynh đệ”.
Phần C: Kết luận

19

Phần D: Tài liệu tham khảo.

20

Phần E: Chân dung nhà văn Dư Hoa:

21

1


A. MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài:
Nhà văn Dư Hoa là một trong những nhà văn thành công nhất trong nền
văn học Trung Quốc đương đại. Các tác phẩm của ông không những được bạn
đọc trong nước đón nhận một cách nồng nhiệt mà còn lan tầm ảnh hưởng sang
các nước khác trên thế giới trong đó có Việt Nam.

Năm 1995, sau khi cho ra đời hai cuốn tiểu thuyết “Phải sống” và
“Chuyện Hứa Tam Quan bán máu” làm vang dội văn đàn, ông đột ngột im lặng,
suốt gần 10 năm nay, ông dường như biến khỏi đời sống sáng tác văn học ở
Trung Quôc ngoài những mẩu chuyện tùy bút thi thoảng thấy trên vài tờ báo.
Độ tuổi 35-45 cơ bản là thời hoàng kim trong đời sáng tác của một nhà
văn, vậy mà nhà văn Dư Hoa sinh năm 1960 này lại lặn dài một hơi đầy khó
hiểu. Có người cho rằng sau tác phẩm đỉnh cao “Chuyện Hứa Tam Quan bán
máu” (Giải thưởng văn học Mao Thuẫn) Dư Hoa đã cạn kiệt tài năng rồi, kẻ
khác thì nghĩ là tiêu chí ơng dựng lên quá cao, khiến độc giả cũng bị mong chờ
quá lớn vào ông.
Và nay, việc ra đời “Huynh đệ” đã trả lời nghi vấn của độc giả. “Huynh
đệ” không những đã khôi phục trạng thái sáng tác tiểu thuyết tốt nhất của ông,
mà còn làm cho ông nhận ra những tài hoa mới của mình. Dư Hoa nói: “Sáng
tác không phải là một thứ đời sống, mà nó là thứ khám phá, nó thông qua một
sự việc nào đấy để huy động những tích lũy trước kia, đồng thời đem lại cho nó
bộ mặt c̣c sớng mới”.
“Huynh đệ” chính là ćn tiểu thút đại diện tiêu biều nhất cho quan
niệm sáng tác ấy của nhà văn. Song khi nó ra đời, đã gây một làn sóng mạnh me
xôn xao văn đàn Trung Quốc. Có nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí đới ngược
nhau về cuốn tiểu thuyết này.
Đến với bạn đọc Việt Nam lần đầu tiên vào tháng 11 năm 2005 với phần I
của dịch giả Vũ Công Hoan được xuất bản bởi nhà xuất bản Công an nhân dân,
“Huynh đệ” đã nhận được sự chào đón nồng nhiệt. Và phần II của “Huynh đệ”

2


nhanh chóng ra đời đáp ứng sự mong mỏi của độc giả vào tháng 2 năm 2006,
đến tháng 6 năm 2006 nó được xuất bản ở Việt Nam cũng bởi nhà xuất bản
Công an nhân dân với bản dịch của dịch giả Vũ Công Hoan.

Giới thuyết một vài nét về tiểu thuyết “Huynh đệ” của nhà văn Dư Hoa
se giúp chúng ta có cái nhìn tổng quan và đúng đắn hơn về nội dung, và đồng
thời chúng ta se càng khẳng định hơn về tài năng bậc thầy của Dư Hoa trong khi
cầm bút.
Chính vì lý do đó chúng tơi chọn đề tài: “Giới thuyết một số vấn đề về
tiểu thuyết Huynh đệ của nhà văn Dư Hoa” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
“Huynh đệ” là cuốn tiểu thuyết xuất sắc của nhà văn Dư Hoa và đã gây
một làn sóng ảnh hưởng mạnh me tới các nước khác. Và nó đã và đang được
nhiều bạn đọc yêu văn học quan tâm. Trên khắp các đất nước mà “Huynh đệ” đã
đi qua nó luôn để lại dấu ấn mạnh me, có rất nhiều bài nghiên cứu đã ra đời xoay
quanh nội dung của cuốn tiểu thuyết này như: Bốn mươi năm ở Trung Quốc cô
đọng bốn trăm năm ở phương Tây (“Thời báo ”Thụy Sĩ ngày 24 tháng 5 năm
2008), Một bộ tiểu thuyết lang thang khổng lồ kể chuyện Trung Quốc “Nhật báo
nước Bỉ tự do” ngày 30 tháng 5 năm 2008), Câu truyện nước ngoài – câu
truyện mê sảng trên thân một kẻ dâm đãng Trung Quốc (“Báo nghĩa vụ”
Montreal Ca Na Đa từ ngày 12 đến ngày 13 tháng 7 năm 2008), Dư Hoa bày ra
một xã hội Trung Quốc quá khứ và hơm nay (Tạp chí “Đọc sách” nước Pháp số
5 năm 2008)….
Tuy nhiên để tiếp xúc thực sự với một công trình nghiên cứu khoa học
văn học về nó thì hoàn toàn chưa có. Những nghiên cứu cũng chỉ mới dừng lại ở
các bài viết nhỏ hoặc các bài xã luận viết trên các tạp chí.
Ở Việt Nam, việc đặt ra nghiên cứu “Huynh đệ” giống như một đề tài để
nghiên cứu khoa học cũng hoàn toàn chưa xuất hiện.
3. Phương pháp nghiên cứu:

3


Trong việc nghiên cứu đề tài này chúng tôi đã sử dụng những phương

pháp nghiên cứu sau: Phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích, phương
pháp lơgic, phương pháp khái quát hóa.
Bên cạnh đó chúng tôi còn sử dụng các phương pháp liên ngành khác
như: Phương pháp thống kê, phương pháp lịch sử….
4. Giới hạn, nhiệm vụ nghiên cứu:
Đề tài giới thuyết một vài nét về tiểu thuyết “Huynh đệ” ở Việt Nam, đặc
biệt là vấn đề nội dung.
Để đạt được mục đích đó, chúng tơi phải nghiên cứu các vấn đề liên quan
như tiểu sử của tác giả, nghệ thuật viết tiểu thuyết của Dư Hoa, một số đánh giá
của các nhà nghiên cứu về “Huynh đệ” của Dư Hoa….
5. Bố cục đề tài:
Đề tài gồm:
Phần A: Mở đầu
6. Lý do chọn đề tài.
7. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
8. Phương pháp nghiên cứu.
9. Giới hạn, nhiệm vụ nghiên cứu.
10. Bố cục đề tài
Phần B: Nội dung:
I. Một vài nét về tác giả Dư Hoa:
II. Tiểu thuyết “Huynh đệ”:
1. Hoàn cảnh sáng tác:
2. Những đặc sắc về nội dung:
2.1. “Huynh đệ”- một bức tranh hiện thực sống động:
2.2. “Huynh đệ”- một tâm hồn trữ tình sâu lắng:
2.3. Có hay không vấn đề dâm tục trong “Huynh đệ”:
3. Những đặc sắc về nghệ thuật:

4



III. Một số ý kiến của các nhà nghiên cứu về nhà văn Dư Hoa và tiểu
thuyết “Huynh đệ”.
Phần C: Kết ḷn
Phần D: Tài liệu tham khảo.
B. NỢI DUNG:
I. Mợt vài nét về tác giả Dư Hoa:
Nhà văn Dư Hoa sinh ngày 03/ 04/ 1960 tại thành phố Hàng Châu, tỉnh
Triết Giang, Trung Quốc. Lên ba tuổi đã theo bố mẹ chuyển đến Hải Diêm. Tại
đây, ông theo học hết tiểu học và trung học, đã từng làm thầy thuốc chữa răng 5
năm,
Năm 1983 bắt đầu sáng tác, đến nay xuất bản 4 truyện dài, 6 tập truyện
vừa và truyện ngắn, 3 tập tùy bút. Tác phẩm chính có “Huynh đệ”, “Phải sống”,
“Chuyện Hứa Tam Quan bán máu”, “Hò hét trong mưa bụi”, “Tình yêu cổ điển”.
“Tôi không có tên”…
Tác phẩm của nhà văn Dư Hoa được dịch ra nhiều thứ tiếng và xuất bản
tại Mỹ, Pháp, Đức, Hà Lan, Thụy Điển, Nauy, Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc… và
Việt Nam ( tiểu thuyết “Phải sống”, tập truyện “Tình yêu cổ điển”, tiểu thuyết
“Huynh đệ” do Vũ Công Hoan dịch.).
Nhà văn Dư Hoa đã từng nhận được giải thưởng văn học Grinzane
Cavour của Italya (năm 1998), giải James Joyce Foundation Award của
Austraylia và Ireland (năm 2002), giải The Barnes and Noble Review Form
Discover Gret New Writers của Mỹ (năm 2004), huân chương kỵ sĩ văn học và
nghệ thuật Chevalirdel’ ordre des artset des lettres của Pháp (năm 2004) và giải
cống hiến đặc biệt sách Trung Hoa lần thứ nhất- Special Book Awards of China
(năm 2005).
Giới phê bình văn học Trung Quốc đã đánh giá nhà văn Dư Hoa rất cao:
“Dư Hoa là một nhà văn đầy cá tính và được xem là tài hoa bậc nhất văn đàn
Trung Quốc đương đại”; “Trong sáng tác tiểu thuyết thuộc trào lưu mới, thậm


5


chí trong toàn bộ nền văn học Trung Quốc, thì Dư Hoa là một người kế thừa và
phát triển tinh thần Lỗ Tấn tiêu biểu nhất”.
II. Tiểu thuyết “Huynh đệ”:
1.Hoàn cảnh sáng tác:
Khi trả lời một cuộc phỏng vấn về việc sáng tác tiểu thuyết “Huynh
đệ” nhà văn Dư Hoa đã nói:
“Cách đây 5 năm, tôi định bắt tay vào viết 1 cuốn tiểu thuyết,
nhưng viết không thấy thuận. Tháng 8 năm 2003 tôi sang Mỹ, rồi chạy loăng
quăng bên đó chừng 7 tháng. Khi trở lại Bắc Kinh, tôi nhận ra mình đã đánh
mất khát vọng được tự thuật miên man, tuy giờ đây nhìn vào những tình tiết
trong tiểu thuyết đều thấy rất hay, nhưng tôi lại không tìm nổi phương thức tự
thuật phù hợp với đề tài ấy, tôi đã xem nhẹ tầm ảnh hưởng của tùy bút đối với
tiểu thuyết.
Tôi muốn viết trước những cái ngắn đã, để khôi phục lại năng lực viết
tiểu thuyết của mình. Nhưng không ngờ khi viết “Huynh đệ”, tôi đã rơi vào một
trạng thái chưa từng có.Cấu tứ ban đầu chỉ là định viết cuốn chừng trên dưới
100 000 chữ, nhưng rồi tự thuật đã thống trị mất việc viết của tôi, làm trang khổ
vượt qua 400.000 chữ.”
Như vậy, việc sáng tạo nên “Huynh đệ” là cả một quá trình dài, bắt đầu từ
ý định có mục đích của tác giả, sau đó là đến quá trình phát triển tự nhiên của
cảm xúc. Với tài năng thiên bẩm về văn chương và quá trình lao động miệt mài
Dư Hoa đã tạo nên một tác phẩm gây xôn xao văn đàn thế giới.
2. Những đặc sắc về nội dung:
2.1. “Huynh đệ”- một bức tranh hiện thực sống động:
Khi giới thiệu với bạn đọc về “Huynh đệ”, tác giả Dư Hoa đã nói: “Đây
là cuốn tiểu thuyết được viết sau cuộc gặp nhau giữa hai thời đại. Phần một là
câu chuyện xảy ra trong cách mạng văn hóa, đó là thời đại của tinh thần cuồng

nhiệt, bản năng bị kìm nén và những số phận vô cùng thê thảm, không khác gì
thời kì Trung cổ ở Châu Âu. Phần hai là câu chuyện đang diễn ra hiện nay, đó

6


là một thời đại luân lí đảo điên, nôn nóng, buông thả, sống gấp và chúng sinh
bày ra muôn hình nuôn vẻ, còn hơn Châu Âu hiện nay. Một người phương Tây
phải sống bốn trăm năm mới trải qua hai thời đại khác nhau một trời một vực
này, nhưng một người Trung Quốc chỉ cần bốn mươi năm đã trải qua.”
Khi “Huynh đệ” ra đời nó đã gây một làn sóng tranh cãi mạnh me
trên khắp văn đàn Trung Quốc bởi chính nợi dung của nó. Có người đờng tình,
có người phản đối rất gay gắt, nhưng dù thế nào chăng nữa thì “Huynh đệ” cũng
đã khẳng định được những nét đặc sắc về nội dung mà chưa cuốn tiểu thuyết nào
trước đó có được.
"Huynh đệ" xoay quanh cuộc đời Lý Trọc, cậu bé mất cha khi chưa chào
đời và tuổi thơ ấu khốn khổ trong cách mạng văn hoá. Lý Trọc bất hạnh từ bé,
không bao giờ biết mặt cha, lên 5 thì mẹ cậu - công nhân nhà máy tơ tên Lý Lan
- đi bước nữa với thầy giáo Tống Phàm Bình. Hạnh phúc ngắn ngủi của hai
người nhanh chóng tan như bọt xà phòng bởi cách mạng văn hoá. Cũng vì thế
Lý Trọc và Tống Cương (con riêng của Tống Phàm Bình) vướng họa từ thuở lên
8. Bố bị bắt đi đấu tố vì lý lịch con nhà địa chủ, mẹ đi Thượng Hải chữa bệnh
không biết họa nhà. Tống Phàm Bình yêu vợ thương con, trong nhà giam chịu
đòn roi vẫn đều đặn viết thư động viên vợ yên tâm chữa bệnh. Hai đứa trẻ thần
tượng bớ, nhưng ći cùng chính chúng phải chứng kiến cái chết thảm khốc của
bố dưới gót giày hồng vệ binh.
Cũng trong những nỗi đau cùng kiệt của kiếp người, một tình yêu lớn lao
và đẹp cổ điển của họ đã ở lại cùng bạn đọc: Tống Phàm Bình hứa với Lý Lan,
khi nào vợ khỏi bệnh chính anh se đến Thượng Hải đón vợ. Trốn khỏi nhà giam
của hồng vệ binh, Phàm Bình ra bến xe khách mua vé, anh bị chặn đánh nhưng

vẫn cố nhoài người mua được vé và chỉ tắt thở khi chuyến xe cuối cùng đi
Thượng Hải chạy khuất. Hai đứa trẻ tám tuổi phải bám chân van lạy những
người qua đường chở xác cha về nhà. Còn Lý Lan chờ chồng cả ngày trước cửa
bệnh viện mà không thấy, chị không dám ngủ, không dám ăn vì sợ chồng qua
mà không thấy. Hôm sau, chị đi xe về một mình, chị không tin chồng đã chết,

7


chị không khóc, chị tắm rửa cho chồng, nằm gối đầu lên ngực chồng ngủ qua
đêm, gói những hạt bùn đen dính máu chờng vào tấm vải lụa, hơm sau mới đi
mua quan tài khâm liệm tiễn chồng. Chị để tang chồng bằng mái đầu 7 năm
không gội, để rồi đến khi gội xong thì mái tóc hoá bạc trắng và chị vui mừng khi
thấy sức mình sắp kiệt, vì sắp được đến bên chồng.
Hai anh em Lý Trọc và Tống Cương lớn lên trong tất cả những bạo lực,
nhiễu nhương và chứng kiến những người thân lần lượt ra đi trong bi phẫn. Mỗi
đứa mỗi tính, Tớng Cương hiền lành, giống bố vì đạo nghĩa, sẵn sàng hy sinh
cho em. Còn Lý Trọc thông minh, tinh quái, 14 tuổi đã nổi tiếng thị trấn vì tội
rình xem mông đàn bà. Nhưng cũng vì thế, Lý Trọc là người được ăn nhiều nhất
món mì Dương Xuân thượng hạng tại thị trấn, vì cậu biết tận dụng cái "bí mật
mơng Lâm Hồng" để bán cho những gã đàn ông háo sắc và biến thái. Chúng đã
lớn lên trong sự bi đát nhất của con người, từng nhìn thấy quá nhiều sự hắt hủi
của con người với đồng loại như mất hết nhân tính. Nhưng chúng vẫn trọng đạo
nghĩa làm người và bắt đầu một cuộc sống khác. Phần đầu của "Huynh đệ" khép
lại ở tuổi 15 của hai đứa trẻ, nhưng mở đầu là một Lý Trọc tỷ phú, một Tống
Cương đã thành tro xương mà Lý Trọc nghĩ "một cây bé tí tẹo đốt thành tro
cũng còn nhiều hơn tro xương của Tống Cương"… Nhưng cũng đến lúc ấy, Lý
Trọc chợt nhận ra mình chẳng còn ai ruột thịt trên cõi đời này.
Phải nói đến nội dung đầu tiên mà “Huynh đệ” mang tới đó chính là hiện
thực c̣c sớng. Tác giả đã từng khẳng định rằng những điều mà ông viết nên

trong tác phẩm về cuộc cách mạng văn hóa là những câu chuyện ông đã được
chứng kiến từ lúc còn nhỏ khi cuộc cách mạng văn hóa nổ ra.
“Huynh đệ” đã hiện lên một thế giới sống động về một quá khứ của Trung
Hoa- thời kỳ cách mạng văn hóa. Trong khi những đứa trẻ như Lý Trọc, Tống
Cương không hề biết nguyên nhân sâu xa của cuộc cách mạng này thì những sự
kiện của nó được phơi bày ra trong mắt chúng thật rõ nét. “Trên phố lớn của thị
trấn Lưu bắt đầu đông nghìn nghịt, ngày nào cũng có dòng người diễu phố đi
qua đi lại, ngày càng có nhiều người đeo băng đỏ ở cánh tay, đeo huy hiệu đỏ

8


Mao Trạch Đông ở trước ngực, tay cầm quyển bìa đỏ in những lời dạy của Mao
Chủ Tịch.”. Và trong khắp thị trấn đều tràn ngập tinh thần phê đấu. Tống Phàm
Bình ngày đầu tiên hiện lên là thần tượng của người dân thị trấn Lưu thì đến
ngày tiếp theo đã bị mang ra đấu tố, đầu đội mũ chóp, ngực đeo bảng gỗ. Và
khơng khí ấy ngày càng được nâng cao bởi tinh thần cách mạng của người dân
trong thị trấn và đội ngũ Hồng vệ binh. Dần dần trong thị trấn xuất hiện càng
nhiều người “Đội mũ chóp và đeo bảng gỗ trước ngực” với những “tội danh”
khác nhau: Tống Phàm Bình có bố là địa chủ nay đã sa sút, Bà Tô thì vì tội
không chồng mà có con, bớ Tơn Vĩ lại vì lí do ngày xưa bố ông có một cửa tiệm
bán hàng nay cũng đã đóng cửa từ lâu.
Cuộc cách mạng văn hóa còn được chi tiết hóa bằng những sự kiện mà
nếu như không được kể lại thì không ai biết. Đó là thời kì mà cái tôi con người,
cái bản năng con người bị kìm nén đến mức tối đa nhường chỗ cho khí thế cách
mạng. Con người đấu tớ lẫn nhau, tự đấu tớ chính bản thân mình. Bên cạnh đó
còn là những chính sách của chính những người làm cách mạng đề ra mà lại
mang một màu sắc bi thương và đáng sợ hơn bất cứ một tội ác nào khác. Những
cái chết trong cuộc cách mạng văn hóa đã góp một phần nào đó nói lên được
những hiện thực của xã hội bấy giờ. Đầu tiên là cái chết của Tống Phàm Bìnhbố dượng của Lý Trọc. Bị quy vào thành phần địa chủ mặc dù sau ngày thống

nhất bố của Tống Phàm Bình đã nộp lại toàn bộ đất đai và của cải cho nhà nước,
trở về cuộc sống nghèo khó, cùng quẫn; bị bắt giam vào nhà kho vì một câu nói
vô tình của Lý Trọc- một đứa trẻ lúc ấy chỉ mới lên 8. Vì tình yêu với vợ, Tống
Phàm Bình trốn khỏi nhà kho để ra bến xe bắt xe lên Thượng Hải đón Lý Lan
mà bị bọn Hồng vệ binh đánh đập giã man cho tới chết và chúng thản nhiên để
mặc xác chết ở đó mà bỏ đi. Tiếp đến là cái chết của Tơn Vĩ, chỉ vì thích để mái
tóc dài mà bị bọn Hồng vệ binh bắt lại, cầm kéo to cắt tóc và thản nhiên cắt vào
cổ Tôn Vĩ cho đến khi bị đứt mạch máu, “máu phun tới hai mét”mà chết. Cái
chết thứ ba, đó là cái chết của mẹ Tôn Vĩ, vì quá đau khổ trước cái chết của con
mà bà hóa điên, rồi sau đó biến mất hẳn khỏi thị trấn Lưu. Cuối cùng là cái chết

9


của bố Tôn Vĩ. Bố Tôn Vĩ bị đấu tố trong cách mạng văn hóa vì là con của một
tiểu thương từ trước ngày giải phóng bị giam vào nhà kho. Vì quá đau buồn
trước bi kịch gia đình ông đã lựa chọn một cái chết không tưởng: dùng một cái
đinh lớn tự đâm vào đỉnh đầu mình.
Tội ác của bọn Hồng vệ binh không chỉ thể hiện thông qua những cái chết
trong cách mạng văn hóa mà còn được Dư Hoa khắc họa qua những hành động
của chúng trong quá trình hành động vì cách mạng. Quy Tống Phàm Bình vì
nguồn gốc địa chủ chúng đã đến nhà anh đập phá để tìm giấy tờ mặc dù anh
chẳng còn một thứ giấy tờ đất đai nào khác, chúng đã đập phá nhà anh đến nỗi
không còn một cái bát và một đôi đũa nào để ăn cơm nguyên vẹn. Lúc bắt giam
những người bị đấu tố chúng đã tìm mọi cách tra tấn dã man: đánh đập Tống
Phàm Bình đến nỗi tay anh bị gãy; hành hạ bố của Tôn Vĩ bằng đủ kiểu dã man
trong đó có việc bắt ông phải ngồi lên điếu thuốc cháy dở đến nỗi hậu môn của
ông bị bỏng và bị nhiễm trùng đau đớn cùng cực,…
Cái tàn ác của hiện thực xã hội không chỉ hiện lên trong mối quan hệ giữa
những người cầm quyền với những người bị tội mà còn thể hiện trong mối quan

hệ giữa con người với con người và của chính con người với bản thân mình. Từ
một người cầm cờ đỏ đi tiên phong cho cách mạng được mọi người tôn sùng và
nhìn bằng ánh mắt ngưỡng mộ, Tống Phàm Bình trở thành người “đội mũ
chóp,đeo bảng gỗ” phải cúi đầu im lặng trước những hạch sách, bắt bớ của
những người xung quanh. Tôn Vĩ từ một cậu thiếu niên nghịch ngợm tiên phong
cho phong trào cách mạng biến thành một cậu bé không bè bạn vì bớ bị mang ra
đấu tớ. Cũng vì lí do đó, mẹ Tôn Vĩ từ một người phụ nữ nanh nọc trở thành
người “nói năng nhỏ nhẹ, trông thấy ai cũng toe toét cười”. Những người bị
đưa ra đấu tố trở thành nô lệ cho những người dân còn lại cho dù người ấy là ai,
là phụ nữ hay đàn ông, cao tuổi hay ít tuổi. Thậm chí, bố của Tôn Vĩ sau khi bị
đấu tố, khi nói chuyện với Lý Trọc- cậu bé còn thua tuổi con trai mình cũng phải
xưng “Con” và làm theo bất cứ “mệnh lệnh” nào cậu đưa ra. Một xã hội mà con
người dường như đánh mất hết tình người, mất hết cái gọi là bản ngã tưởng

10


chừng như chỉ xuất hiện trong thời Trung cổ ở Châu Âu nay lại hiện ra rõ nét
trong “Huynh đệ”.
Khi tự nhận mình đã hư cấu nên những tình tiết trong câu chuyện, Dư Hoa
vẫn không phủ nhận rằng tất cả đó chỉ là xuất phát từ trí tưởng tượng của mình.
Tác giả đã tâm sự khi trả lời phỏng vấn về vấn đề hiện thực trong cuốn tiểu
thuyết “Huynh đệ” như sau: “Tôi lớn lên trong những năm tháng đại cách mạng
văn hoá. Tôi và anh trai thường ra ngoài đường phố. Chúng tôi đã từng nhìn
thấy những cuộc đấu đá không đếm xuể giữa bọn lưu manh địa phương và rất
nhiều cuộc đấu tranh giữa “ phái tạo phản” và “hồng vệ binh” thuộc phe phái
khác nhau. Tôi thường xuyên nhìn thấy một số người chết hoặc bị công khai xử
chết. Trái lại, bọn trẻ con vẫn an toàn, có thể rong chơi khắp nơi. Chúng không
bị bất cứ nguy hiểm nào. Tôi nhớ rất rõ thời kỳ bị bạo lực nô dịch này. Không ai
có thể được bảo hộ lâu dài. Hôm nay bạn là tấm gương sáng của người cách

mạng, ngày mai bạn có thể trở thành phản cách mạng tệ hại nhất. Điểm này đều
bình đẳng đối với mọi người. Hình thái xã hội lúc bấy giờ vô cùng giản đơn, chỉ
có hai loại trắng và đen, không tồn tại trạng thái ở giữa. Giống như lời Mao
Chủ tịch đã nói: “Phàm cái gì kẻ thù phản đối thì chúng ta ủng hộ, phàm cái gì
kẻ thù ủng hộ thì chúng ta phản đối”.Người nào cũng vâng lệnh thi hành
nguyên tắc này.”
Hiện thực xã hội Trung Quốc trong “Huynh đệ” không chỉ dừng lại ở
những gì đã xảy ra mà còn thể hiện những gì đang xảy ra. Xã hội Trung Quốc
hiện đại được ve ra muôn hình muôn vẻ, với những cái tưởng chừng như phi lí:
c̣c sớng con người làm nơ lệ cho đồng tiền, những cái đẹp được tôn vinh lại
dường như đang bị chà đạp lên chính nó (c̣c thi: “Người đẹp trinh tiết toàn
quốc”)…Cả xã hội thu nhỏ được ve ra một cách sống động với những bon chen,
lọc lừa, dối trá.
Xã hội hiện đại trong những thập kỉ 80 của thế kỉ XX được Dư Hoa khắc
họa với đủ màu sắc trong phần II của cuốn tiểu thuyết. Không ở đâu sức mạnh
của đồng tiền lại được đưa ra đậm nét như trong “Huynh đệ”. Lý Trọc nhờ khéo

11


léo và ranh mãnh trong kinh doanh đã trở thành nhà siêu tỉ phú của thị trấn Lưu
và được mọi người ngưỡng mộ. Những tiếng tăm xấu ngút trời của y được bỏ
qua, y trở thành đại diện cho quyền lực của thị trấn. Và bắt đầu xung quanh xuất
hiện những kẻ ăn theo kiếm tiền. Sự kiện mấy chục người phụ nữ bế con đến
trước cổng công ty Lý Trọc để kiện y vì đã cướp mất đời con gái cũng như để
con nhận cha trong khi Lý Trọc đã thắt ống dẫn tinh từ lâu trước đó đã bày ra
trước mắt một hiện thực sinh động về lòng tham của con người trước sự cám giỗ
của đồng tiền. Hay sự kiện về cuộc thi “Người đẹp trinh tiết toàn quốc” cũng là
một minh chứng tiêu biểu cho cái xã hợi mà mọi ln lí đều đảo điên. Hình
tượng nhân vật Chu Du phiêu bạt giang hồ với mọi mánh khóe lừa lọc kiếm tiền

cũng là mợt ví dụ tiêu biểu cho sự tha hóa về đạo đức.
Có thể nói rằng không ở đâu hiện thực xã hội lại được đưa lên “mâm” một
cách đầy đủ, rõ ràng như trong “Huynh đệ”. Và cái hiện thực ấy được khai thác
đầy đủ trên mọi phương diện cả trong tình cảm lẫn cơng việc. Bằng ngòi bút dí
dỏm nhưng sắc sảo, Dư Hoa đã đưa đến cho chúng ta những điều dường như
khơng tưởng của chính xã hợi chúng ta đang sống.
Hiện thực xã hội trong “Huynh đệ” không chỉ dừng lại ở những sự kiện
xảy ra trong cuộc sống mà còn được thể hiện qua hệ thống các nhân vật được tác
giả khắc họa. Một nhà nghiên cứu đã nhận xét: “Dư Hoa là người kế thừa và
phát triển tinh thần Lỗ Tấn tiêu biểu nhất”. Tinh thần Lỗ Tấn hiện lên trong
“Huynh đệ” rõ ràng nhất đó chính là việc tác giả đã đưa ra được những “liệt căn
tính quốc dân” của người dân Trung Quốc ở cả hai thời đại: trong cách mạng
văn hóa và thời đại hiện nay.
Tiếp xúc với “Huynh đệ” ta dễ dàng bắt gặp những con người với những
nét tính cách quen tḥc từng xuất hiện nhiều trong truyện ngắn Lỗ Tấn. Đó là
những con người với những tính xấu tiêu biểu mà khơng phải ai cũng có dũng
cảm để tự đối diện với nó để nói ra. Đó là những con người thờ ơ trước cái chết
của đồng loại: cái chết của bố Lý Trọc, cái chết của Tống Phàm Bình…, những
con người luôn chỉ chờ đợi khuyết điểm của người khác bộc lộ mà cười chê: sự

12


kiện Lý Trọc bị bắt quả tang đang nhòm trộm mông đàn bà trong nhà vệ sinh,
hay những con người chỉ biết xu nịnh trước tiền tài vật chất: nhà văn Lưu, nhà
thơ Triệu….Những con người này hiện lên trong “Huynh đệ” thật sắc nét và
sống động với đủ hình hài, đủ nét tính cách nhưng đều hợi tụ ở một điểm chung
nhất đó là mắc những căn bệnh trầm kha của con người mà hầu như thời đại nào
cũng có.
Hiện thực cuộc sống với những biến cố của xã hợi và những tính cách đa

dạng đã làm nên thành công đầu tiên cho tiểu thuyết “Huynh đệ”. Song phải
khẳng định rằng “Huynh đệ” không chỉ thành công ở phương diện hiện thực mà
trong nó còn chứa đựng một chất trữ tình sâu lắng với vỏ bọc bên ngoài đầy hài
hước và châm biếm.
2.2.“Huynh đệ”- một tâm hồn trữ tình sâu lắng:
Bên cạnh hiện thực cuộc sống được tác giả tô ve, phóng đại đến mức hài
hước là một bản nhạc trữ tình với những tình cảm thiêng liêng tưởng như rất xa
xôi song cũng rất gần gũi trong cuộc sống.
“Huynh đệ” là bản tình ca đẹp với mối tình của Lý Lan và Tống Phàm
Bình. Chồng qua đời với tiếng xấu ngút trời, suốt một thời gian dài Lý Lan
không dám ngẩng đầu lên với tất cả những người dân trong thị trấn thì lúc đó
Tống Phàm Bình xuất hiện. Tống Phàm Bình đã cho Lý Lan thấy được cuộc
sống còn bao điều ý nghĩa và đẹp đe. Tình yêu của Tống Phàm Bình dành cho
Lý Lan là tình yêu vượt lên tất cả mọi khổ đau của kiếp người. Tuy là một gia
đình “chắp vá” nhưng gia đình bốn người ấy đã bên nhau thật hạnh phúc, Lý
Lan từng xấu hổ về người chồng trước bao nhiêu thì chị lại tự hào về Tống
Phàm Bình bấy nhiêu. Mặc cho mọi người dèm pha, dòm ngó Tống Phàm Bình
vẫn thể hiện tình yêu hết sức thoải mái và tự nhiên: ôm chầm lấy Lý Lan khi anh
thực hiện cú úp bóng trong cuộc thi đấu bóng rổ, gội đầu cho Lý Lan trong con
mắt hiếu kì của bà con hàng xóm…Bản tình ca ấy có le đẹp nhất vào những
ngày Lý Lan đi chữa bệnh ở Thượng Hải. Tuy bị giam cầm cùng cực, bị đánh

13


đập giã man trong nhà kho của thị trấn nhưng Tống Phàm Bình vẫn viết cho Lý
Lan những bức thư đầy niềm vui để chị an tâm chữa bệnh. Và vì lời hứa với chị:
lên Thượng Hải đón Lý Lan khi chị chữa bệnh xong mà Tống Phàm Bình phải
chịu một cái chết đau đớn, thảm khốc. Cái chết cũng không xóa nhòa được tình
yêu ấy, Lý Lan từng không dám ngẩng đầu lên trước cái chết của chồng cũ thì

nay đến cái chết của Tống Phàm Bình, Lý Lan đã đón nhận nó một cách rất
dũng cảm, chị luôn thể hiện niềm kiêu hãnh của một người vợ của Tống Phàm
Bình mặc dù anh là địa chủ đang bị phê đấu. Tình yêu ấy còn thể hiện trong cái
chết của Lý Lan, trong sự chuẩn bị cho cái chết của bà. Hai con người, hai số
phận nhưng họ đã gắn kết với nhau tạo nên một gia đình hoàn chỉnh với tất cả
những tình cảm thiêng liêng nhất: Tình yêu, tình phụ mẫu, tình huynh đệ.
Nét trữ tình trong “Huynh đệ” còn thể hiện ở một mái ấm gia đình. Một
gia đình không hoàn hảo, là bố dượng, là mẹ kế, là anh em không hề chung dòng
máu nhưng họ đã tạo nên một gia đình mà ai cũng ao ước. Tình cảm Tống Phàm
Bình dành cho Lý Trọc, tình cảm mà Lý Lan dành cho Tống Cương, hay tình
cảm giữa Lý Trọc và Tống Cương đều là những tình cảm thiêng liêng nhất của
con người. Và trước muôn vàn những khó khăn của cuộc sống, trước những cám
giỗ của vật chất tình cảm ấy vẫn tồn tại vẹn nguyên.
Dư Hoa đã tạo nên cho “Huynh đệ” những nét tính cách điển hình cho cái
xấu song cũng có những nhân vật trở nên là mẫu hình lý tưởng. Tống Phàm
Bình là nhân vật lý tưởng ấy. Ở anh hội tụ những nét tính cách mà bất cứ đâu
cũng được người ta ca ngợi. Trong anh là một tình cảm thiêng liêng với vợ, với
con; là chỗ dựa cho toàn gia đình trong những tình huống khó khăn nhất. Với
anh, niềm hạnh phúc của gia đình là tất cả và anh bất chấp cả cái chết để tạo nên
niềm vui cho gia đình.
Lý Trọc là một nhân vật điển hình cho giới kinh doanh Trung Quốc, nhờ
tinh ranh, lọc lõi mà anh trở thành người giàu có nhất thị trấn Lưu song bên cạnh
những tật xấu là nhân cách của một con người đáng để chúng ta học hỏi. Là một
người dám nghĩ dám làm, anh sống không vì những người xung quanh mà vì

14


bản thân mình. Qua nhân vật Lý Trọc tác giả đã thể hiện tính nhân văn sâu sắc
với những hành đợng, sở thích của cá nhân con người. Lý Trọc có một tình yêu

lớn với Lâm Hồng. Anh ta yêu Lâm Hồng từ thưở thiếu thời đến khi anh ta trở
thành siêu tỉ phú của thị trấn Lưu. Thất bại trong tình yêu với Lâm Hồng, anh ta
tới bệnh viện thắt ống dẫn tinh với một tuyên bố khiến chúng ta ngỡ ngàng:
“không có con trai, con gái với Lâm Hồng thì ta sẽ không có con trai, con gái
với bất cứ người đàn bà nào khác.” Tình yêu với Lâm Hồng đã làm cho anh một
lúc nào đó quên mất tình huynh đệ giữa anh và Tống Cương, trong khi Tống
Cương tìm đường làm giàu thì ở nhà anh đã gần như cưỡng bức Lâm Hồng vào
một cuộc tình ngang trái tạo nên một nhân tố gây ra cái chết của Tống Cương ở
cuối tác phẩm.
Lý Trọc không chỉ đẹp trong tình yêu. Ở anh, có le đẹp nhất vẫn là tình
cảm anh em với Tống Cương. Tuy không cùng cha, cùng mẹ nhưng tình cảm ấy
thật đẹp và đáng trân trọng. Cùng nhường cơm, sẻ áo và cùng đi qua những ngày
khó khăn nhất của cuộc sống. Tuy re ra hai con đường khác nhau và có lúc có
những mâu thuẫn lớn nhưng tình anh em đã vượt lên tất cả để cuối cùng chỉ còn
họ bên nhau người sống, kẻ chết trên con tàu vũ trụ.
Tình yêu, tình cảm gia đình, những ham muốn vật chất, sự lôi kéo của
đồng tiền đan xen, hòa quyện trong “Huynh đệ”. Thế giới loài người hiện lên
với tất cả cả mọi hỉ nộ ái ố, với tất cả những gì bình thường nhất, tuy đáng giận
nhưng cũng có những nét rất đáng ca ngợi.
“Huynh đệ” sở dĩ gây xôn xao văn đàn bởi còn mợt lí do nữa, gây tranh
cãi nhiều nhất xung quanh ćn tiểu thút này đó chính là có hay không vấn đề
dâm tục trong nó? Và cho đến bây giờ cuộc tranh cãi này vẫn không có hồi kết
bởi nhiều ý kiến khác nhau.
3.2. Có hay không vấn đề dâm tục trong “Huynh đệ”:
Trung Quốc trong tưởng tượng của Dư Hoa là một phiên bản đầy khôi hài
của thế giới thực tại. Đó là một xã hội điên đảo, không luân lý, không luật pháp,
nơi mà những trò tham nhũng, cờ bạc, đĩ điếm và buôn gian bán lận là chuyện

15



thường ngày ở huyện. Cuốn tiểu thuyết nhận được nhiều lời chỉ trích khá nặng
nề. Mợt sớ nhà phê bình tỏ ý thất vọng khi Dư Hoa - một trong những tác giả
đáng kính nhất tại Trung Q́c hiện nay - lại sản xuất ra một tác phẩm đáng gọi
là rác rưởi và mang đầy hơi hướng, kiểu cách Hollywood như vậy. Tuy nhiên,
khơng ít người lên tiếng tán dương cuốn sách, coi đây là một bức tranh sống
động về một xã hội Trung Quốc ngày càng thực dụng, buông thả và mất thăng
bằng.
Tiếp xúc với “Huynh đệ” ta dễ dàng nhận thấy một đặc điểm rất nổi bật
trong nó là vấn đề tình dục. Tình dục xuất hiện dày đặc, từ thưở thiếu thời của
Lý Trọc đến kết thúc tác phẩm.Tuy nhiên phải công bằng mà nói rằng tình dục
được nêu lên trong tác phẩm cũng tồn tại ở hai mặt.
Đầu tiên, đó là vấn đề tình dục trong tình yêu. Tình dục trong tình yêu và
gia đình là một vấn đề tất yếu, nó xuất hiện trong “Huynh đệ” ở tình yêu của
Tống Phàm Bình và Lý Lan, giữa nhà văn Lưu và người yêu. Thế nhưng bằng
ngòi bút hài hước tác giả đã miêu tả nó trở thành một chi tiết nghệ thuật để triển
khai những vấn đề tiếp theo.
Phải kể đến trong “Huynh đệ” nữa là vấn đề tình dục xuất hiện như một
minh chứng cho sự xuống cấp đạo đức. Tác giả đã viết nên câu chuyện về cuộc
thi “Người đẹp trinh tiết toàn quốc” như một vở hài kịch với tất cả những cung
bậc khác nhau mà trong đó con người đã đánh mất tất cả vì đồng tiền. Những
“người đẹp trinh tiết” lại là những người tiêu thụ nhiều nhất “màng trinh giả”
của tên lừa đảo giang hồ Chu Du mang tới. Ban giám khảo trong cuộc thi chấm
sắc đẹp lại dựa vào số lần người đẹp đã ngủ với mình. Hoa hậu của cuộc thi lại
là người phụ nữ đã có một đứa con lên ba. Tất cả những yếu tố tình dục khác
xuất hiện dày đặc trong “Huynh đệ” đều góp vào miêu tả cho một xã hội có lối
sống buông thả không phải là không có trong hiện thực.
Có thể nói rằng, có yếu tố tình dục và có những yếu tố tế nhị được tác giả
đưa vào trong tác phẩm song những yếu tố đó cũng chỉ là những yếu tố có thực
bên ngoài xã hội nhưng khi vào tác phẩm nó được tác giả biến chuyển bằng một


16


ngòi bút sắc sảo, hài hước giống như những câu chuyện đùa. Để có được cái
nhìn đúng đắn về nó chúng ta phải đặt tác phẩm trong mối tương quan với hiện
thực xã hội và trong mối tương quan với xu hướng sáng tác của văn học hiện
đại.
3. Những đặc sắc về nghệ thuật:
“Huynh đệ” của Dư Hoa là một tiểu thuyết thành công về mặt nội dung đó
là điều đã được khẳng định. Bên cạnh những phương diện về nội dung, “Huynh
đệ” còn là một thành công của Dư Hoa về phương diện nghệ thuật. Vì lý do tiếp
xúc với tác phẩm ở dạng bản dịch nên chúng ta không có cơ hội tìm hiểu kĩ tác
phẩm về phương diện nghệ thuật song qua bản dịch chúng ta cũng có thể hiểu
một phần nào đó về đặc sắc nghệ thuật trong tác phẩm.
Điều đầu tiên chúng ta dễ dàng nhận thấy đó là thành công của tác giả
trong nghệ thuật tả thực. Bức tranh xã hội với hai thời đại khác nhau trong lịch
sử Trung Quốc đã được tái hiện sống động và chân thực qua những tình huống,
những chi tiết và những nhân vật điển hình. Đó là xã hội với tất cả những biến
chuyển to lớn, những thay đổi của con người trước hoàn cảnh. Diễn biến tâm lý
trong “Huynh đệ” diễn ra khá đơn giản nhưng lại rất sâu sắc khiến cho người
đọc có cả giác gần gũi và dễ tiếp nhận.
Thứ hai, thành công của “Huynh đệ” phải kể đến là những chi tiết mang
tính biểu tượng, từ cảnh thủ dâm cho đến những cảnh chết chóc, đó là chưa kể
đến những trang viết miêu tả thói quen nhìn trộm phụ nữ của cánh đàn ông tại
các nhà vệ sinh công cộng. Những hình ảnh trên đã gây phản cảm với khơng ít
người nhưng nó đồng thời cũng đã tạo nên nét hấp dẫn khác thường trong tác
phẩm.
Phải kể đến thành công tiếp theo trong nghệ thuật của “Huynh đệ” đó là
việc xây dựng tình huống truyện. Cũng giống như các tác phẩm khác: “Phải

sống”, “Chuyện Hứa Tam Quan bán máu”,… Dư Hoa đã đẩy nhân vật của mình
đến tận cùng của những bi kịch xã hội, để rồi họ phải tự xử lý cuộc đời mình
theo những lối đi riêng.

17


Những đặc sắc về nghệ thuật đã góp phần tạo nên thành công lớn cho
“Huynh đệ”. Sự thay đổi về phong cách viết cũng như ngôn từ trong “Huynh
đệ” đã khiến cho chúng ta ngỡ ngàng khi so sánh nó với những tác phẩm trước
đó của Dư Hoa. Đồng thời cũng đã khẳng định cho tài năng của Dư Hoa- đa
dạng, thiên bẩm với tất cả các phong cách.
III. Một số ý kiến của các nhà nghiên cứu về nhà văn Dư Hoa và tiểu
thuyết “Huynh đệ”:
“Huynh đệ” ra đời sau mợt thời gian dài kín tiếng của nhà văn Dư Hoa
thực sự là một cú sốc lớn cho văn đàn hiện đại. Nó đã gây ra một sự tranh cãi
lớn đối với các nhà nghiên cứu. Có hai dòng ý kiến đối ngược nhau xung quanh
cuốn tiểu thuyết này.
Cuốn tiểu thuyết nhận được nhiều lời chỉ trích khá nặng nề. Một số nhà
phê bình tỏ ý thất vọng khi Dư Hoa - mợt trong những tác giả đáng kính nhất tại
Trung Quốc hiện nay - lại sản xuất ra một tác phẩm đáng gọi là rác rưởi và mang
đầy hơi hướng, kiểu cách Hollywood như vậy.Tuy nhiên, khơng ít người lên
tiếng tán dương cuốn sách, coi đây là một bức tranh sống động về một xã hội
Trung Quốc ngày càng thực dụng, buông thả và mất thăng bằng. "Về cơ bản, tôi
không đồng ý với các nhà phê bình. Đây là một tác phẩm lớn và Dư Hoa là một
trong những nhà văn Trung Quốc đương đại tài năng nhất”, Liu Kang, giáo sư
Đại học Duke tại Bắc Carolina, nhận xét.
Dẫu có như vậy, cuốn sách vẫn khiến cho nhiều người thấy chướng tai gai
mắt. "Tôi thực sự thấy thất vọng với Huynh đệ. Tôi không hiểu tại sao một nhà
văn quan trọng và nổi tiếng - tác giả của những tác phẩm kiệt xuất như vậy - lại

đi viết một cuốn tiểu thuyết lố bịch, thô tục, như một vở kịch uỷ mị, rẻ tiền đến
thế”, Sun Kai, biên tập viên tạp chí tiếng Trung Oriental Outlook, nhận xét. Một
số người khác so sánh Huynh đệ với Cô gái Thượng Hải hay Búp bê Bắc Kinh -

18


những cuốn tiểu thuyết bình dân của các cô gái trẻ, miêu tả một cách chi tiết đời
sống tình dục của chính mình.
Tuy có nhiều ý kiến khác nhau đi chăng nữa, chúng ta vẫn không thể phủ
nhận tài năng bậc thầy của Dư Hoa trên văn đàn thế giới. Nhà phê bình nổi tiếng
Trung Quốc Lý Cật nhận xét: "Trong sáng tác tiểu thuyết trào lưu mới, thậm chí
trong toàn bộ nền văn học Trung Quốc, thì Dư Hoa là một người kế thừa và
phát triển tinh thần Lỗ Tấn tiêu biểu nhất". Tiểu thuyết “Huynh đệ” trở thành
một bằng chứng sống động nhất cho “tinh thần Lỗ Tấn” trong các sáng tác của
Dư Hoa.

19


C. KẾT LUẬN:
Mặc cho mọi lời khen chê, những ý kiến trái ngược nhau xung quanh nó
thì tiểu thuyết “Huynh đệ” vẫn tờn tại mợt vị trí đáng kể trên văn đàn Trung
Quốc nói

riêng và trên văn đàn thế giới nói chung. Việc đi sâu vào tìm hiểu

những đặc sắc về nội dung cũng như về nghệ thuật của “Huynh đệ” giúp chúng
ta có cái nhìn đúng đắn và khách quan hơn về những gì mà nhà văn Dư Hoa
muốn gửi gắm.

Viết nên “Huynh đệ” là cả một quá trình miệt mài sáng tạo của Dư Hoa và
trong đó đan xen nhiều yếu tố, vừa có ý thức vừa vô thức. Những câu chuyện
được hư cấu trong cuộc cách mạng văn hóa của Dư Hoa trong tác phẩm lại là
những câu chuyện gần gũi với cuộc sống bên ngoài mà tuổi thơ tác giả đã từng
chứng kiến. Tác giả tâm sự trong một cuộc phỏng vấn tại Bắc Kinh: "Những câu
chuyện tôi kể hơi cực đoan, nhưng bạn hoàn toàn có thể tìm thấy chúng tại
Trung Quốc”. Viết về những sai lầm của chính qùn trong c̣c đại cách mạng
văn hóa vẫn là một vấn đề kiêng kị, việc dũng cảm đứng lên đưa nó vào trong
tác phẩm của mình đồng thời khẳng định về chất hiện thực có trong nó lại là một
vấn đề không phải ai cũng làm được. Chính bằng sự dũng cảm ấy, bằng tấm lòng
nhiệt thành với văn học ông đã tạo nên “Huynh đệ”- một bức tranh sống động về
cuộc sống cũng như tình người.
Cho dù thế nào đi nữa thì “Huynh đệ” cũng đã có một cuộc sống riêng tồn
tại độc lập với bản thân tác giả. Dù có nhiều ý kiến khác nhau nhưng “Huynh
đệ” đã và đang thu hút nhiều độc giả yêu thích văn học trên thế giới nói chung
và Việt Nam nói riêng. Việc tìm hiểu những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật
của nó là một việc làm hết sức cần thiết để chúng ta có thể dễ dàng tiếp nhận
một tác phẩm lớn như “Huynh đệ”.

20


D- TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Dư Hoa, Vũ Công Hoan dịch, tiểu thuyết “Huynh đệ” phần I, nxb
Công an nhân dân, HN, 2005.
2. Dư Hoa, Vũ Công Hoan dịch, tiểu thuyết “Huynh đệ” phần II, nxb
Công an nhân dân, HN, 2006.
3. David Bazboza, Hà Linh dịch, “Huynh đệ- tác phẩm lớn hay thứ rác
rưởi?”, báo Đời sống văn nghệ, ngày 06/ 09/ 2006.
4. Toàn Nguyễn, “Tiểu thuyết Huynh đệ chuẩn bị phát hành tại Việt

Nam”, báo Công an nhân dân, ngày 07/ 03/ 2006.
5. Vũ Trọng Tạo, “Huynh đệ của Dư Hoa được giải thưởng văn học
Pháp”, báo Tiền Phong, ngày 01/ 11/ 2008.
6. Phó Thiên Tùng, “Huynh đệ- cuốn tiểu thuyết làm xôn xao Trung
Quốc”, báo Tiền Phong. Ngày 27/ 08/ 2005.

21


Nhà văn Dư Hoa
(03/ 04/ 1960)

22



×