Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

khóa luận dạy học làm văn THUYẾT MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (372.47 KB, 115 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
KHOA NGỮ VĂN
--------------

DẠY HỌC LÀM VĂN THUYẾT MINH
TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN LỚP 10
THPT

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NGỮ
VĂN

VINH, 2008

MỤC LỤC
Trang
1


MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài............................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề..............................................................................................3
3. Nhiệm vụ nghiên cứu....................................................................................7
4. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................7
5. Cấu trúc của khoá luận..................................................................................8
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ VĂN BẢN THUYẾT MINH VÀ ĐẶC
ĐIỂM PHẦN LÀM VĂN THUYẾT MINH TRONG CHƯƠNG TRÌNH
NGỮ VĂN LỚP 10 THPT............................................................................9
1.1. Khái quát về văn bản thuyết minh..........................................................9
1.1.1. Khái niệm văn bản thuyết minh..............................................................9
1.1.2. Đặc trưng của văn bản thuyết minh.......................................................12


1.1.3. Phân biệt văn bản thuyết minh với một số kiểu (dạng) văn bản khác.........19
1.1.4. Phân loại văn bản thuyết minh..............................................................23
1.2. Đặc điểm phần Làm văn thuyết minh trong chương trình Ngữ văn
lớp 10 THPT...................................................................................................26
1.2.1. Đặc điểm chương trình Làm văn lớp 10 THPT.....................................26
1.2.2. Đặc điểm phần Làm văn thuyết minh trong chương trình lớp 10 THPT........30
Chương 2: HƯỚNG DẪN DẠY HỌC LÀM VĂN THUYẾT MINH
TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN LỚP 10 THPT..............................37
2.1. Các nội dung lí thuyết và kĩ năng Làm văn thuyết minh cần hình
thành cho học sinh lớp 10 THPT..................................................................37
2.1.1. Các nội dung lí thuyết Làm văn thuyết minh cần hình thành cho học
sinh lớp 10 THPT............................................................................................37
2.1.2. Các kĩ năng Làm văn thuyết minh cần rèn luyện cho học sinh lớp 10 THPT....41
2.2. Các phương pháp và hình thức dạy học Làm văn thuyết minh trong
chương trình Ngữ văn lớp 10 THPT............................................................45
2


2.2.1. Phương pháp thơng báo - giải thích.......................................................46
2.2.2. Phương pháp gợi mở.............................................................................49
2.2.3. Phương pháp phân tích mẫu..................................................................53
2.2.4. Hình thức tổ chức hoạt động nhóm.......................................................59
2.2.5. Hình thức sử dụng SGK........................................................................64
2.2.6. Hình thức tổ chức cho học sinh làm bài tập ứng dụng..........................67
2.2.7. Hình thức sử dụng đồ dùng trực quan...................................................68
2.3. Tổ chức hoạt động thực hành tạo lập văn bản thuyết minh cho học
sinh lớp 10 THPT...........................................................................................69
2.3.1. Thực hành làm văn viết.........................................................................69
2.3.2. Thực hành làm văn miệng.....................................................................82
Chương 3: THIẾT KẾ GIÁO ÁN THỂ NGHIỆM......................................84

Bài 1: Tính chuẩn xác, hấp dẫn của văn bản thuyết minh.............................. 84
Bài 2: Các hình thức kết cấu của văn bản thuyết minh...................................92
KẾT LUẬN....................................................................................................99
Phụ lục 1........................................................................................................101
Phụ lục 2........................................................................................................104
Phụ lục 3........................................................................................................105
Tài liệu tham khảo.........................................................................................108

MỞ ĐẦU

3


1. Lí do chọn đề tài
1.1 Trong những năm gần đây, cùng với việc đổi mới chương trình và
SGK, đổi mới phương pháp dạy học đã và đang trở thành mối quan tâm hàng
đầu không chỉ của các nhà giáo dục, các cơ quan chức năng mà của toàn xã
hội. Trong tiến trình đó, do vai trị đặc thù của bộ mơn Ngữ văn trong việc
hình thành nhân cách cho học sinh, việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ
văn được xem là vấn đề trọng tâm của đổi mới phương pháp dạy học. Có thể
nói rằng, những thành tựu đạt được trong lĩnh vực này là hết sức to lớn, mang
lại một diện mạo mới cho việc dạy và học bộ môn Ngữ văn trong nhà trường
phổ thông hiện nay.
Tuy nhiên, nói như thế khơng có nghĩa rằng việc đổi mới phương pháp
dạy học Ngữ văn trong nhà trường đã được hồn thiện và khơng có gì phải
bàn nữa. Bởi vì trong thực tế dạy học hiện nay, tình trạng học sinh “chán” học
văn, “ngại” học văn, thậm chí “sợ” mơn văn vẫn chưa phải đã hồn tồn chấm
dứt. Và xét riêng trong nội bộ mơn Ngữ văn, có vẻ như Làm văn là phần ít
được học sinh quan tâm nhất, bị “ghẻ lạnh” nhiều nhất bởi tính chất “khó, khơ
và khổ” như nhiều người đã định kiến về nó. Dẫn đến tình trạng này có nhiều

ngun nhân: phương pháp dạy của giáo viên, thái độ học tập của học sinh, sự
bất cập và ít ỏi của mảng tài liệu chuyên sâu về vấn đề này, v.v... Trong số
những lí do đó, sự thiếu hụt tri thức phương pháp dạy học là một nguyên nhân
vô cùng quan trọng. Ở nhà trường phổ thơng hiện nay, vẫn cịn một bộ phận
khơng nhỏ giáo viên Ngữ văn chưa có được những phương pháp dạy học Làm
văn phù hợp và hiệu quả. Mặt khác, từ trước đến nay, các cơng trình nghiên
cứu dạy học Làm văn đa số vẫn chỉ chú trọng đến kiểu văn nghị luận, đặc biệt
là nghị luận văn học. Trong khi đó, với sự ra đời của bộ SGK Ngữ văn mới,
một số kiểu văn bản nhật dụng đã được đưa vào giảng dạy trong chương trình
phổ thơng như: văn bản quảng cáo, văn bản thuyết minh… Việc dạy và học
các kiểu văn bản này đang thực sự trở thành một thách thức đối với cả giáo
4


viên lẫn học sinh. Thực trạng trên đòi hỏi phải có những cơng trình có ý nghĩa
phương pháp luận để việc dạy và học các kiểu văn bản này có hiệu quả hơn.
Đó là một trong những lí do thúc đẩy chúng tơi đến với đề tài này: góp phần
vạch ra hướng đi cho việc dạy học một trong những kiểu văn bản đang được
xem là mới trong chương trình Ngữ văn THPT.
1.2. Việc lựa chọn đề tài này của chúng tơi cũng xuất phát từ vai trị của
kiểu văn bản thuyết minh trong đời sống hiện nay. Có thể thấy rằng, dù mới
được đưa vào chương trình kể từ bộ SGK Ngữ văn mới, nhưng trong thực tế,
văn bản thuyết minh lại rất phổ biến và cần thiết. Chúng ta có thể gặp kiểu văn
bản này trong bất cứ lĩnh vực nào của đời sống, từ đời sống khoa học đến cuộc
sống thường nhật; từ những nhà trí thức đến người lao động, từ nhà khoa học
đến người nông dân, bất cứ ai cũng có thể gặp và cần đến văn bản thuyết minh.
Xét riêng trong nhà trường phổ thơng, văn bản thuyết minh cũng đóng
một vai trị cực kì quan trọng. Trong chương trình Làm văn bấy lâu nay, do
nhấn mạnh chất “văn” một chiều, tư duy khoa học của học sinh ít được rèn
luyện. Hà Văn Tấn nhận định: “Trong điều kiện kinh tế, xã hội kém phát triển,

tư duy lí luận khơng phát triển, nhiều tàn dư nguyên thuỷ còn tồn tại (đặc biệt
trong nếp cảm, nếp nghĩ của mỗi người), thì đó là một khó khăn vơ cùng lớn,
địi hỏi phải có nỗ lực phi thường mới có thể khắc phục được, khi muốn biến
dân tộc ta thành một dân tộc hiện đại” (dẫn theo [21,46] ). Để “biến dân tộc ta
thành một dân tộc hiện đại”, ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, mỗi
người Việt Nam cần phải rèn luyện cho mình một tư duy mang tính khoa học.
Việc đưa văn bản thuyết minh vào chương trình Ngữ văn phổ thơng đã phần
nào đáp ứng được u cầu đó. Bởi vì văn bản thuyết minh đòi hỏi một tư duy
khoa học, và việc dạy học Làm văn thuyết minh cũng là dạy tư duy khoa học,
góp phần nâng cao dân trí một cách thiết thực nhất.
Từ vai trò quan trọng của văn bản thuyết minh trong đời sống và trong
nhà trường, từ sự thiếu hụt mảng tài liệu nghiên cứu phương pháp dạy học
5


kiểu văn bản này trong thực tiễn dạy học Ngữ văn hiện nay, chúng tơi quyết
định tiến hành tìm hiểu đề tài Dạy học Làm văn thuyết minh trong chương
trình Ngữ văn lớp 10 THPT.
2. Lịch sử vấn đề
1.1. Lịch sử vấn đề văn bản thuyết minh
Văn bản thuyết minh là kiểu văn bản rất thông dụng, được sử dụng rộng
rãi trong nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực của đời sống. Tuy nhiên, trước
đây, do chỉ nhấn mạnh chất “văn” một chiều, kiểu văn bản này hầu như bị bỏ
quên, rất hiếm khi được đề cập đến trong các tài liệu, các cơng trình nghiên
cứu chun ngành.
Chỉ từ khi được đưa vào chương trình Ngữ văn phổ thơng (2004) và cùng
với sự thay đổi quan niệm “văn” trong nhà trường, văn bản thuyết minh mới
được các nhà nghiên cứu, các nhà soạn sách thuộc chuyên ngành Ngữ văn
quan tâm tìm hiểu. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có một cơng trình nào
nghiên cứu kiểu văn bản này một cách thực sự bài bản, toàn diện. Trong

những tài liệu mà chúng tơi có được, văn bản thuyết minh mới chỉ được đề
cập đến một cách tương đối sơ lược. Có thể điểm qua một số cuốn sách như
sau:
Trước hết phải kể đến cuốn Sách giáo viên Ngữ văn 8 (2004), do Nxb
Giáo dục ấn hành. Đây là cuốn sách có tính chất cơng cụ, khơng thể thiếu đối
với giáo viên Ngữ văn THCS. Do văn thuyết minh được đưa vào chương trình
phổ thơng bắt đầu từ lớp 8, nên đây cũng là tài liệu đầu tiên trong hệ thống
Sách giáo viên đề cập đến kiểu văn bản này. Sách giáo viên Ngữ văn 8 đã bàn
đến văn bản thuyết minh trên một số nét khái quát như sau: khái niệm văn bản
thuyết minh, so sánh với một số kiểu (dạng) văn bản khác cùng có mặt trong
chương trình như văn bản tự sự, miêu tả, nghị luận. Tuy nhiên, do đây không
phải phần trọng tâm của bài học về văn bản thuyết minh nên việc phân biệt
vẫn nằm ở mức độ hết sức sơ lược và chưa đưa ra được một tiêu chí thật cụ
6


thể. Về các phương pháp tạo lập văn bản thuyết minh, Sách giáo viên Ngữ
văn 8 cũng chỉ điểm qua trên những nét cơ bản nhất. Mặc dù thế, đây vẫn là
tài liệu hết sức bổ ích và có ý nghĩa gợi ý rất lớn cho chúng tôi khi thực hiện
đề tài này.
Năm 2006, một loạt cuốn sách tham khảo theo chương trình Ngữ văn
mới cho học sinh THCS và THPT đã ra đời, đáp ứng nhu cầu đổi mới chương
trình và phương pháp dạy học bộ mơn. Trong các tài liệu này, văn bản thuyết
minh cũng được đề cập đến như một nội dung quan trọng. Chẳng hạn như
cuốn Bồi dưỡng Ngữ văn 8 của Nguyễn Kim Dung, Đỗ Kim Hảo… do Nxb
Giáo dục ấn hành. Trong cuốn sách này, ở phần Làm văn, các tác giả đã dành
hơn 10 trang để nói về văn thuyết minh: khái niệm văn bản thuyết minh, đặc
điểm chung của văn bản thuyết minh, giới thiệu một số phương pháp thuyết
minh, các dạng văn bản thuyết minh, v.v…
Cũng nằm trong hệ thống sách tham khảo Ngữ văn dành cho bậc THCS,

năm 2006, cuốn Kiến thức - kĩ năng cơ bản Tập làm văn THCS của tác giả
Huỳnh Thị Thu Ba đã được Nxb Giáo dục xuất bản. Trong nội dung Văn bản
thuyết minh thuộc phần hai của cuốn sách, tác giả Huỳnh Thị Thu Ba đã trình
bày một số đặc điểm của kiểu văn bản này như tính tri thức, tính khoa học…
và các phương pháp thuyết minh thường dùng. So với cuốn Bồi dưỡng Ngữ
văn 8, phần trình bày đặc điểm văn bản thuyết minh của cuốn sách này rõ
ràng hơn, khoa học hơn. Tuy nhiên, việc phân tích các đặc trưng văn bản
thuyết minh ở đây vẫn chưa thật thấu đáo. Mặc dù vậy, đây vẫn là một tài liệu
tham khảo bổ ích để chúng tơi hồn thành tốt chương 1 của khoá luận này.
Một tài liệu khác cũng đề cập đến phần văn bản thuyết minh, đó là cuốn
Dạy học Tập làm văn ở Trung học cơ sở của tác giả Nguyễn Trí (Nxb Giáo
dục, 2006). Trong cuốn sách này, sau khi giải thích thế nào là văn bản thuyết
minh, tác giả đã đi vào tìm hiểu đặc điểm của văn bản thuyết minh, bao gồm:
a) Văn bản thuyết minh đa dạng về đề tài và nội dung tri thức nhằm thoả mãn
7


nhu cầu tìm hiểu, mở mang tri thức… của người đọc; b) Sử dụng phương thức
trình bày, giới thiệu, giảng giải,... giải thích với nhiều phương pháp khác nhau
là đặc trưng của phương pháp viết của văn bản thuyết minh; c) Thông tin
trong văn bản thuyết minh phải khách quan, chính xác, chân thực, có ích và
được trình bày một cách rõ ràng, chặt chẽ, hấp dẫn [36,104-109].
Nói tóm lại, trong các liệu mà chúng tôi đã sưu tầm và khảo sát được ở
trên, văn bản thuyết minh đã được bàn đến như một nội dung quan trọng.
Nhìn chung, các tài liệu này đều thống nhất ở chỗ: đã đưa ra một cách hiểu
chung về khái niệm văn bản thuyết minh, và mặc dù cách diễn đạt có thể khác
nhau nhưng các tài liệu đó đều coi tính tri thức, tính khách quan, tính khoa
học, tính thực dụng là những đặc điểm nổi bật của văn bản thuyết minh.
Tuy nhiên, đây là những tài liệu tham khảo dành cho bậc THCS, hơn
nữa văn thuyết minh lại không phải là đối tượng duy nhất được đề cập đến.

Do đó, các tác giả chưa có điều kiện tìm hiểu một cách thấu đáo về kiểu văn
bản này. Mặc dù vậy, đó vẫn là những gợi ý hết sức bổ ích cho chúng tôi khi
thực hiện đề tài này.
2.2. Lịch sử vấn đề phương pháp dạy học Làm văn thuyết minh
Cũng như lịch sử vấn đề văn bản thuyết minh, việc tìm hiểu các phương
pháp, hình thức tổ chức dạy học kiểu văn bản này cũng mới chỉ bắt đầu từ năm
2004, thời điểm văn thuyết minh được đưa vào chương trình Ngữ văn lớp 8
THCS.
Đầu tiên vẫn phải kể đến SGV Ngữ văn 8. Trong cuốn sách này, bên cạnh
việc trình bày sơ lược về văn bản thuyết minh, các nhà biên soạn đã dành
phần lớn thời lượng dành cho kiểu văn này để định hướng cách dạy học
những bài Tập làm văn thuyết minh cụ thể trong chương trình.
Tiếp đó, năm 2005, Nxb Giáo dục tiếp tục xuất bản cuốn SGV Ngữ văn 9
do Nguyễn Khắc Phi chủ biên. Cuốn sách đề cập đến cách dạy đối với những
bài học về văn thuyết minh trong chương trình Ngữ văn 9, chẳng hạn như: Sử
8


dụng các biện pháp nghệ thuật trong văn bản thuyết minh, Sử dụng yếu tố
miêu tả trong văn bản thuyết minh.
Cùng trong hệ thống Sách giáo viên Ngữ văn, năm 2006, do yêu cầu của
chương trình, Nxb Giáo dục đã ấn hành hai bộ Sách giáo viên Ngữ văn dành
cho lớp 10 THPT, bao gồm cả SGV Ngữ văn 10 và SGV Ngữ văn 10 - nâng
cao do Phan Trọng Luận chủ biên.
Do đặc thù của loại sách có tính chất công cụ, hai bộ sách giáo viên trên
đây cũng chỉ nêu lên những định hướng dạy học Làm văn thuyết minh cho
những bài cụ thể, cịn để có được một cái nhìn có tính chất tổng qt về
phương pháp dạy học Làm văn thuyết minh thì tài liệu này vẫn chưa có điều
kiện đi sâu tìm hiểu.
Bên cạnh Sách giáo viên, hỗ trợ cho việc dạy học Làm văn thuyết minh

trong chương trình phổ thơng cịn có những cuốn sách tham khảo.
Đầu tiên, đó là cuốn Dạy học Tập làm văn Trung học cơ sở của tác giả
Nguyễn Trí (Nxb Giáo dục-2006). Trong chương hai của tài liệu này, tác giả
đã dành một phần thời lượng để đề cập đến cách dạy văn bản thuyết minh.
Tuy nhiên, do đây là cuốn sách viết cho bậc THCS nên nội dung này nói riêng
và tồn bộ cuốn sách nói chung vẫn chỉ có ý nghĩa phù hợp với chương trình
Tập làm văn THCS và ít có tính ứng dụng khi dạy học Làm văn thuyết minh
ở lớp 10 THPT.
Xét riêng những tài liệu có đề cập đến vấn đề phương pháp dạy học Làm
văn thuyết minh ở lớp 10 THPT thì lại càng ít ỏi. Trước tiên có thể kể đến các
tài liệu bồi dưỡng giáo viên Ngữ văn do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
Những tài liệu này đã tóm tắt lại kiến thức lí thuyết và xác định một số kĩ
năng làm văn thuyết minh cụ thể cần hình thành cho học sinh. Đây sẽ là cơ sở
để giáo viên xác định trọng tâm cho từng bài học cụ thể. Các nhà biên soạn
cũng đã bàn đến một số vấn đề phương pháp chung cho cả chương trình Ngữ
văn có khả năng áp dụng vào dạy học các nội dung Làm văn thuyết minh.
9


Ngoài ra, cũng cần nhắc đến những cuốn sách tham khảo Ngữ văn cho
giáo viên và học sinh lớp 10 THPT. Chẳng hạn như sách hướng dẫn thiết kế
giáo án, thiết kế bài giảng. Trong đó, các tác giả đã hướng dẫn cụ thể một số
thao tác để tiến hành một giờ dạy Làm văn. Tuy nhiên, cũng như SGV, các
cuốn sách thiết kế bài giảng, thiết kế giáo án thường chỉ đi vào những bài cụ
thể theo một hướng nhất định, chưa thể trở thành một tài liệu có ý nghĩa chỉ
đạo chung về mặt phương pháp cho việc dạy học toàn bộ phần Làm văn
thuyết minh ở lớp 10 THPT.
Tóm lại, lịch sử vấn đề văn bản thuyết minh và phương pháp giảng dạy
Làm văn thuyết minh trong nhà trường phổ thơng, đặc biệt ở lớp 10 THPT
cịn rất mới mẻ. Cho đến thời điểm mà chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài

này, vẫn chưa có một tài liệu nào nghiên cứu một cách chuyên sâu về vấn đề
văn bản thuyết minh và phương pháp dạy học Làm văn thuyết minh trong
chương trình lớp 10 THPT.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trong khố luận này, chúng tơi thực hiện những nhiệm vụ nghiên cứu sau:
3.1. Chỉ ra khái niệm, đặc trưng của văn bản thuyết minh.
3.2. Tìm hiểu đặc điểm chương trình Làm văn lớp 10 THPT, trong đó đặc
biệt chú ý đến phần Làm văn thuyết minh.
3.3. Đề xuất một số phương pháp và hình thức dạy học có thể áp dụng
trong dạy học Làm văn thuyết minh.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình tìm hiểu và triển khai đề tài này, chúng tôi đã sử dụng
một số phương pháp nghiên cứu sau:
4.1. Phương pháp điều tra - khảo sát.
4.2. Phương pháp so sánh - đối chiếu.
4.3. Phương pháp phân tích - tổng hợp.
4.4. Phương pháp thống kê.
10


5. Cấu trúc của khố luận
Ngồi phần mở đầu và phần kết luận, nội dung của khố luận gồm có 3
chương:
Chương 1: Khái quát về văn bản thuyết minh và đặc điểm phần Làm văn
thuyết minh trong chương trình Ngữ văn lớp 10 THPT
Chương 2: Hướng dẫn dạy học Làm văn thuyết minh trong chương trình
Ngữ văn lớp 10 THPT
Chương 3: Thiết kế giáo án thể nghiệm
Kết luận
Phụ lục

Tài liệu tham khảo

11


Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ VĂN BẢN THUYẾT MINH VÀ ĐẶC ĐIỂM PHẦN
LÀM VĂN THUYẾT MINH TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN
LỚP 10 THPT
1.1. Khái quát về văn bản thuyết minh
Văn bản thuyết minh là kiểu văn bản mới trong chương trình Ngữ văn
phổ thông. Năm 2004, với sự ra đời của bộ SGK Ngữ văn 8, kiểu văn bản này
lần đầu tiên được đưa vào chương trình Làm văn THCS và tiếp tục được nâng
cao, hoàn thiện kiến thức, kỹ năng trong chương trình Làm văn lớp 10 THPT.
Tuy nhiên, trong cuộc sống, văn bản thuyết minh lại là kiểu văn bản hết
sức thơng dụng và cần thiết, có phạm vi sử dụng rất rộng rãi, phổ biến trong
nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực. Chẳng hạn, khi mua một cái máy vi tính,
máy bơm, máy giặt,… chúng ta cần có văn bản thuyết minh để hiểu được tính
năng, cấu tạo, cách sử dụng, cách bảo quản loại máy đó; mua một hộp bánh,
trên đó cũng ghi xuất xứ, thành phần các chất làm nên bánh, ngày sản xuất,
hạn sử dụng…; đến thăm một danh lam thắng cảnh, trước cánh cổng ra vào,
thế nào ta cũng sẽ bắt gặp một tấm bảng ghi lời giới thiệu lai lịch, sơ đồ thắng
cảnh; ra ngoài phố, ta gặp các bảng quảng cáo giới thiệu sản phẩm; cầm một
quyển sách, bìa sau có thể có lời giới thiệu tóm tắt nội dung; trong SGK có
các bài trình bày thí nghiệm hoặc trình bày tiểu sử của các nhà văn, giới thiệu
tác phẩm được trích… Tất cả đều là văn bản thuyết minh. Như vậy, đời sống
hằng ngày của chúng ta không thể thiếu các văn bản thuyết minh.
Vậy văn bản thuyết minh là gì? Để trả lời được câu hỏi này, ta phải làm
rõ các khái niệm có liên quan: khái niệm văn bản và khái niệm thuyết minh.
1.1.1. Khái niệm văn bản thuyết minh

1.1.1.1. Khái niệm văn bản
12


Văn bản là khái niệm xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử nghiên cứu ngôn
ngữ học và văn bản học. Cũng như các đơn vị khác của ngôn ngữ (chẳng hạn
từ, câu…), văn bản là một trong những đơn vị rất phức tạp. Cho đến nay, đã
có rất nhiều cách hiểu và cách định nghĩa về khái niệm này, xuất phát từ
những góc nhìn và những quan điểm khác nhau. Diệp Quang Ban trong cuốn
Văn bản và liên kết trong tiếng Việt đã nhận xét: “Số lượng các định nghĩa đã
nhanh chóng lớn lên đến mức khơng dễ dàng kiểm nghiệm được” [6,15].
Tuy nhiên, nói như thế khơng có nghĩa rằng ngành Ngôn ngữ học đang
phải “sở hữu” một tập hợp hỗn độn các định nghĩa về văn bản. Ngược lại,
chúng ta vẫn có thể hệ thống hố các định nghĩa đó theo những góc độ khác
nhau. Chẳng hạn cách phân chia khái niệm văn bản thành 3 hướng khá phổ
biến hiện nay:
1. Hướng nhấn mạnh hình thức viết
Theo hướng này có ý kiến của các tác giả như L.Hjelmslev (1953),
R.Hasweg (1968), N.NuNan (1993)…
Tiêu biểu theo hướng quan niệm này, N.NuNan (1993) cho rằng: “Văn
bản là thuật ngữ để chỉ bất kì cái nào ghi bằng chữ viết của một sự kiện giao
tiếp”.
2. Hướng nhấn mạnh cả dạng viết, nội dung và cấu trúc
Theo hướng này có các định nghĩa của M.Halliday (1906), L.M.Loseva
(1980), Trần Ngọc Thêm (1985), Nguyễn Quang Ninh (1994)...
Tiêu biểu theo hướng quan niệm này, Nguyễn Quang Ninh cho rằng:
“Văn bản là một thể hoàn chỉnh về hình thức, trọn vẹn về nội dung, thống
nhất về cấu trúc và độc lập về giao tiếp. Dạng tồn tại điển hình của văn bản là
dạng viết”.
3. Hướng nhấn mạnh hình thức nói

Các tác giả định nghĩa văn bản theo hướng này gọi văn bản là “diễn
ngôn”. Tiêu biểu như định nghĩa của Barth(1970), Cook(1989), Crystl(1992),
13


Hồ Lê (1996)… Có thể dẫn ra một cách định nghĩa văn bản theo hướng này:
“Diễn ngôn là những chuỗi ngôn ngữ được nhận biết trọn nghĩa, được hợp
nhất lại và có mục đích” (Cook,1989) (dẫn theo [8,15-16]).
Tuy nhiên, trong khuôn khổ đề tài, chúng tôi không đi sâu vào vấn đề
này. Ở đây, trên cơ sở những cách định nghĩa đã tham khảo được, đặc biệt là
cách định nghĩa của SGK Ngữ văn 10, chúng tôi hiểu khái niệm này như sau:
Văn bản là sản phẩm của hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ; là một chỉnh
thể thống nhất về nội dung và hình thức, được tạo lập bởi sự liên kết các câu,
các đoạn…; mang tính phong cách và nhằm một mục đích nhất định. Đây
chính là một trong những khái niệm có tính chất tiền đề để chúng tơi tìm hiểu
đối tượng mà đề tài đang hướng tới: văn bản thuyết minh.
1.1.1.2. Khái niệm thuyết minh
Thuyết minh là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong nhiều ngành khoa
học: toán học, vật lý học, sinh vật học, sử học… Chẳng hạn: thuyết minh một
cách giải toán, thuyết minh một thí nghiệm vật lý, thuyết minh q trình sinh
trưởng của một loại cây trồng, v.v…
Ở đây, thuyết có nghĩa là “nói lí lẽ nhằm làm cho người ta nghe theo”,
còn minh nghĩa là “sáng tỏ” (minh xét, chứng minh…). Vậy có thể hiểu
thuyết minh là: “nói hoặc chú thích cho người ta hiểu rõ hơn về những sự vật,
sự việc hoặc hình ảnh đã được đưa ra” [23,935].
1.1.1.3. Khái niệm văn bản thuyết minh
Từ cách hiểu các khái niệm văn bản và thuyết minh trên chúng ta có thể
đi đến định nghĩa về văn bản thuyết minh như sau:
Văn bản thuyết minh là kiểu văn bản thông dụng trong mọi lĩnh vực đời
sống nhằm cung cấp tri thức khách quan về đặc điểm, tính chất, cấu tạo, cách

dùng cùng lí do phát sinh, qui luật phát triển, biến hoá,… của các sự vật, sự
việc, hiện tượng, giúp cho người tiếp nhận văn bản hiểu rõ đối tượng và biết
cách sử dụng chúng vào trong những mục đích có ích cho con người.
14


1.1.2. Đặc trưng của văn bản thuyết minh
1.1.2.1. Đặc trưng về nội dung
Mỗi kiểu văn bản có những đặc trưng riêng về mặt nội dung: Nội dung
của văn bản nghị luận là các vấn đề xã hội hay văn học được đưa ra bàn bạc,
phân tích, chứng minh…; nội dung của văn bản tự sự là câu chuyện, nội dung
của văn bản biểu cảm là cảm xúc đối với hiện thực… Văn bản thuyết minh
cũng có những đặc trưng riêng về mặt nội dung. Theo chúng tơi, những đặc
trưng đó là:
a. Tính tri thức
Như trên đã nói, văn bản thuyết minh được viết ra nhằm cung cấp những
tri thức khoa học mang tính khách quan về sự vật, sự việc, hiện tượng. Bị chi
phối bởi mục đích đó, nội dung của văn bản thuyết minh chủ yếu là trình bày
tính chất, đặc điểm, cấu tạo, cách dùng cùng lí do phát sinh, quy luật phát
triển, biến hoá của đối tượng. Do đó, có thể nói dung lượng tri thức khoa học
trong các văn bản thuộc kiểu này là rất lớn so với các kiểu văn bản khác. Một
bài văn thuyết minh muốn đạt u cầu thì trước hết nó phải cung cấp những
kiến thức nào đó thật tường tận cho độc giả. Đó chính là tính tri thức của văn
bản thuyết minh. Trong khi đó, với các kiểu văn bản khác như tự sự hay biểu
cảm, tính tri thức khơng được xem như một vấn đề cốt tử, nghĩa là những kiểu
văn bản này không được xem xét trước hết ở phương diện tri thức khoa học.
Tuy nhiên, nói như vậy khơng có nghĩa là những kiểu (dạng) văn bản
khác không mang lại tri thức cho người đọc. Ở đây cần hiểu rằng, với các
kiểu văn bản khác, việc truyền thụ tri thức khơng phải là nhiệm vụ chính.
Trong văn bản thuyết minh, ngược lại, nhiệm vụ chính lại là cung cấp tri thức

khách quan về đối tượng được thuyết minh. Để thấy rõ hơn điều này, chúng ta
sẽ đi vào tìm hiểu hai ví dụ sau đây:

15


Ví dụ 1:
“… Ở Bình Định, dừa là chủ yếu, dừa là tất cả. Dừa ở đây như rừng, dừa
mọc ven sông, men bờ ruộng, leo sườn đồi, rải theo bờ biển. Trên những
chặng đường dài suốt 50, 60 km, chúng ta chỉ gặp cây dừa: dừa xiêm thấp lè
tè, quả tròn, nước ngọt, dừa nếp lơ lửng giữa trời, quả vầng xanh mơn mởn,
dừa lửa lá đỏ, vỏ hồng… (dẫn theo [7,73]).
Ví dụ 2:
Dừa ơi
Tơi lớn lên đã thấy dừa trước ngõ
Dừa ru tôi giấc ngủ tuổi thơ
Mỗi buổi chiều nghe dừa reo trước gió
Tơi hỏi nội tơi: dừa có tự bao giờ ?
....
Dừa vẫn đứng hiên ngang cao vút
Lá vẫn xanh rất mực dịu dàng
Rễ dừa bám sâu vào lòng đất
Như dân làng bám chặt quê hương.
(Lê Anh Xuân - trích Hoa Dừa)
Trên đây là hai ví dụ thuộc hai kiểu văn bản khác nhau: văn bản thuyết
minh (ví dụ 1) và văn bản biểu cảm (ví dụ 2). Hai đoạn văn bản này có cùng
chung đối tượng là cây dừa, nhưng tính chất tri thức của chúng khác hẳn
nhau. Đoạn thơ trích từ bài thơ Dừa ơi của Lê Anh Xuân cốt không phải giúp
cho người đọc hiểu về đặc điểm cây dừa. Ở đây, mục đích chủ yếu là làm
rung động trái tim người đọc trước tinh thần kiên trung, bất khuất của con

người quê hương mà cây dừa là biểu tượng. Trong khi đó, đoạn văn thuyết
minh về cây dừa Bình Định lại chủ yếu tập trung vào mục đích cung cấp một

16


cách có hệ thống tri thức về loại cây này: sự phong phú, sức phát triển của cây
dừa, phân loại các giống dừa.
Từ hai ví dụ này, ta có thể một lần nữa khẳng định rằng: tính tri thức là
một trong những yêu cầu quan trọng và cũng là đặc trưng tiêu biểu nhất về
mặt nội dung của văn bản thuyết minh.
b. Tính khoa học
Bị chi phối bởi mục đích truyền thụ tri thức cho người tiếp nhận, văn bản
thuyết minh cần phải đảm bảo tính khoa học. Ở đây tính khoa học được hiểu
theo nghĩa: tính khoa học của tri thức. Nói một cách cụ thể hơn, các kiến thức
được đưa vào trong văn bản thuyết minh nhất thiết phải chính xác, phù hợp
với thực tế khách quan. Văn bản thuyết minh không cho phép thêm thắt, bịa
đặt thông tin, mặc dù vẫn có thể sử dụng phương thức miêu tả hay tự sự để
việc truyền tải nội dung trở nên hấp dẫn hơn. Tham khảo đoạn văn sau, chúng
ta sẽ thấy rõ hơn điều đó:
“Bà tơi thường kể cho tơi nghe rằng, chim cú kêu là có ma tới. Tơi hỏi vì
sao thì bà giải thích: “Thế cháu không nghe tiếng cú kêu thường vọng từ bãi
tha ma đến hay sao?” Sau này học môn Sinh học tôi mới biết là khơng phải
vậy. Chim cú là lồi chim ăn thịt, thường ăn thịt lũ chuột đồng, kẻ phá hoại
mùa màng. Chim cú là giống vật có lợi, là bạn của nhà nông. Sở dĩ, chim cú
thường hay tới bãi tha ma là vì ở đó có lũ chuột đồng đào hang. Bây giờ mỗi
lần nghe tiếng chim cú, tơi chẳng những khơng sợ mà cịn vui vì biết rằng bạn
của nhà nông đang hoạt động” (dẫn theo [27,15]).
Mặc dù được thể hiện bằng hình thức kể chuyện, đoạn văn trên vẫn được
viết theo phương thức thuyết minh. Ở đây, câu chuyện “bà tôi” kể chỉ là cái

cớ để người viết có cơ hội trình bày những tri thức về đối tượng thuyết minh
của mình. Rõ ràng, việc sử dụng yếu tố tự sự ở đây chỉ có tác dụng làm tăng
thêm sức hấp dẫn cho văn bản thuyết minh chứ khơng hề làm tổn hại đến tính
khoa học của tri thức, cụ thể là những tri thức về lợi ích của lồi chim cú.
17


Tóm lại, tính khoa học là một u cầu bắt buộc đối với văn bản thuyết
minh. Nó địi hỏi thơng tin trong kiểu văn bản này phải phản ánh đúng bản
chất và quy luật của đối tượng một cách chân thật như vốn có. Việc sử dụng
các yếu tố nghệ thuật như miêu tả hay tự sự không được phép làm ảnh hưởng
đến tính khoa học của văn bản thuyết minh.
c. Tính khách quan
Khơng giống với một số kiểu văn bản như nghị luận, miêu tả hay tự sự thường
mang tính chất chủ quan, văn bản thuyết minh là kiểu văn bản khách quan. Tính
khách quan ở đây cần được hiểu ở hai phương diện: một là tính khách quan trong
thái độ của người viết, hai là tri thức của bài văn thuyết minh phải phù hợp với thực
tế khách quan như chúng ta đã đề cập trong tính khoa học.
Ở phương diện thứ nhất, tính khách quan được hiểu là thái độ trung thực,
bình thản của người viết trước đối tượng thuyết minh. Điều này hoàn toàn
khác với kiểu văn bản tự sự, biểu cảm hay nghị luận vốn được viết ra để thể
hiện tình cảm, cảm xúc, tư tưởng… mang tính chủ quan của người viết. Dĩ
nhiên, nói như thế khơng có nghĩa là trong văn bản thuyết minh, người viết
phải tỏ ra vô cảm, thờ ơ với đối tượng. Ở đây, tính khách quan trong thái độ
của người viết cần được hiểu một cách tương đối và uyển chuyển hơn. Bởi vì
trong một số văn bản thuyết minh, ví dụ thuyết minh về một danh lam thắng
cảnh, một tác giả văn học…, người viết vẫn có quyền bày tỏ cảm xúc của
mình thơng qua những mơ tả, cảm nhận về đối tượng đó. Tuy nhiên, cách thể
hiện thường kín đáo và gián tiếp; và quan trọng hơn, đó cũng khơng phải là
mục đích chính của văn bản thuyết minh.

Ở phương diện thứ hai, tính khách quan thể hiện ở sự phù hợp của tri
thức trong văn bản với quy luật vận động, phát triển của đối tượng. Người
viết có thể thích hay khơng thích đối tượng mà mình đang thuyết minh, nhưng
khơng có quyền thay đổi, thêm thắt hay bóp méo những thơng tin về nó.
d. Tính thực dụng
18


Văn bản thuyết minh nằm trong loại văn bản nhật dụng, nghĩa là nó được
sử dụng phổ biến trong đời sống thường nhật của chúng ta, nó đáp ứng những
yêu cầu đơi khi thuần t mang tính vật chất của con người. Do đó có thể nói
rằng: tính thực dụng (hiểu theo nghĩa là sự chú trọng đến những mục đích
thực tế, những lợi ích cụ thể, thiết thực, những giá trị ứng dụng, sử dụng trước
mắt), là một đặc trưng quan trọng của văn bản thuyết minh.
Tuy nhiên, cần chú ý rằng khơng chỉ có văn bản thuyết minh mới có tính
thực dụng. Vấn đề là ở chỗ mức độ đậm, nhạt của đặc điểm này trong mỗi
loại văn bản như thế nào. Chẳng hạn, văn bản nghệ thuật cũng có tính thực
dụng, nhưng nó chỉ dừng lại ở chỗ tác động lên tình cảm của con người bằng
sức truyền cảm của hình tượng nghệ thuật, từ đó có thể biến đổi nhận thức của
người tiếp nhận. Cịn tính thực dụng của văn bản nghị luận lại thể hiện ở chỗ
nó trực tiếp tác động tới trí tuệ, thuyết phục người đọc bằng một hệ thống lí lẽ
và dẫn chứng.
Trong khi đó, tính thực dụng của văn bản thuyết minh rất rộng lớn. Nó
trực tiếp giới thiệu, cung cấp tri thức nhằm chỉ đạo thực tiễn trong mọi lĩnh
vực của đời sống con người. Chẳng hạn, những cuốn sách dạy nấu ăn sẽ giúp
chúng ta dễ dàng chế biến các món ăn, những bài giới thiệu về danh lam
thắng cảnh giúp ta hình dung được nơi đó dù chưa một lần đến, một bản giới
thiệu về thuốc chữa bệnh sẽ cho ta biết phải dùng loại thuốc đó như thế nào
cho hiệu quả... Việc văn bản thuyết minh được sử dụng rộng rãi trong đời
sống như chúng tôi đã trình bày ở phần đầu chương 1 của khố luận này cũng

là một minh chứng cho tính thực dụng của kiểu văn bản này trong thực tế.
Từ những điều đã phân tích ở trên, có thể khái qt đặc trưng về mặt nội
dung của văn bản thuyết minh trên những nét chính sau: tính tri thức, tính
khách quan, tính khoa học và tính thực dụng. Những đặc trưng trên góp phần
làm nên diện mạo riêng cho kiểu văn bản này. Và cũng cần phải thấy một điều
rằng: sự phân tách các đặc điểm này có ý nghĩa như một thao tác cần thiết
19


giúp chúng ta có một cái nhìn cụ thể và tồn diện về khách thể của đề tài, cịn
trên thực tế, chúng xuyên thấm, thẩm thấu vào nhau trong từng câu, từng đoạn
văn của mỗi văn bản thuyết minh.
Mặt khác, triết học Mác-xít đã chỉ ra rằng: nội dung và hình thức là hai
mặt của một vấn đề mà nằm ngồi nhau, chúng khơng thể tồn tại. Do đó, khi
nói đến nội dung của văn bản thuyết minh thì chúng ta khơng thể khơng quan
tâm đến mặt hình thức thể hiện nội dung đó. Vì thế, trong phần sau, chúng tơi
sẽ trình bày những đặc trưng về mặt hình thức của văn bản thuyết minh.
1.1.2.2. Đặc trưng về hình thức
a. Về bố cục
Bố cục của văn bản thuyết minh tương đối linh hoạt. Một văn bản thuyết
minh thông thường cũng có bố cục ba phần như các loại văn bản khác, đó là
phần mở đầu, phần triển khai nội dung và phần kết thúc. Tuy nhiên, trên thực
tế, có những loại văn bản thuyết minh hết sức ngắn gọn, không tuân thủ theo
bố cục này, ví dụ: văn bản hướng dẫn cách sử dụng các loại đồ dùng, các loại
thuốc... Chẳng hạn, trên một lọ thuốc chữa bệnh có ghi những thông tin về nơi
sản xuất, số lượng thuốc, chỉ định, thành phần, liều lượng dùng... thì đây cũng
là một dạng văn bản thuyết minh. Văn bản này khơng có bố cục như một văn
bản thông thường, mà các thông tin lại được trình bày dưới hình thức các mục
rất ngắn gọn. Những văn bản thuyết minh như thế khá phổ biến trong đời
sống. Điều này hoàn toàn khác với văn bản tự sự, miêu tả hay nghị luận là

những kiểu văn bản khơng cho phép trình bày theo bố cục như trên.
Ngay cả trong những văn bản thuyết minh sử dụng bố cục ba phần thì nội
dung của mỗi phần cũng không giống với kiểu văn bản tự sự, miêu tả hay
nghị luận. Chẳng hạn, bố cục ba phần của văn bản tự sự là: mở đầu câu
chuyện (giới thiệu thời gian, địa điểm, nhân vật...), diễn biến các tình tiết
truyện, kết thúc truyện (kết quả, ý nghĩa câu chuyện...). Hay bố cục của một
văn bản nghị luận là: phần mở đầu nêu lên vấn đề cần bàn bạc, phần triển khai
20


nghị luận, thuyết phục người nghe, phần kết thúc khẳng định lại và nêu ý
nghĩa vấn đề. Trong khi đó, ba phần của một văn bản thuyết minh thông
thường là:
- Phần mở đầu: giới thiệu đối tượng, làm cho người đọc xác định được
kiểu văn bản mà người viết đang sử dụng.
- Phần triển khai: thuyết minh về đối tượng.
- Phần kết thúc: nêu công dụng, ý nghĩa thực tiễn của đối tượng.
Sự khác nhau về nội dung từng phần như trên giữa văn bản thuyết minh
với các kiểu văn bản khác cũng góp phần làm nên diện mạo riêng cho kiểu
văn bản này.
b. Về kết cấu
Nội dung của văn bản thuyết minh thường rất phong phú, chứa hàm
lượng thông tin cao. Do đó, người viết phải biết cách trình bày nội dung theo
những trình tự nhất định. Trình tự ấy làm thành kết cấu của văn bản thuyết
minh. Nhìn chung, văn bản thuyết minh thường sử dụng một số kết cấu mang
tính chất ổn định, tạo thành những khn mẫu: kết cấu theo trình tự thời gian,
kết cấu theo trật tự không gian, kết cấu theo trật tự logic của đối tượng. Nếu
như văn bản tự sự thường sử dụng kiểu kết cấu theo trình tự thời gian sự kiện,
văn bản miêu tả thường kết cấu theo trình tự không gian, văn bản nghị luận
được kết cấu theo các luận điểm, các khía cạnh của vấn đề; thì văn bản thuyết

minh lại sử dụng tất cả các kiểu kết cấu trên. Đó chính là điểm độc đáo và
cũng là một đặc trưng hình thức của kiểu văn bản này.
c. Về ngơn ngữ
Ngồi những u cầu chung như tính chính xác, trong sáng... mà bất cứ
văn bản nào cũng phải đạt được, mỗi kiểu văn bản cịn có những đặc trưng
riêng về mặt ngôn ngữ. Ngôn ngữ của một văn bản bao giờ cũng phải phù hợp
với đặc điểm của kiểu loại văn bản mà trong đó nó tồn tại. Chẳng hạn, đối với
văn bản nghệ thuật (tự sự, miêu tả), ngơn ngữ phải giàu cảm xúc, giàu tính
21


hình tượng; ngơn ngữ của văn bản nghị luận lại địi hỏi cao ở tính chặt chẽ,
logic và mang màu sắc cá nhân… Riêng đối với văn bản thuyết minh là kiểu
văn bản trình bày tri thức khách quan về sự vật hiện tượng thì ngơn ngữ phải
mang tính khách quan, chính xác và thường đơn nghĩa để tránh bị hiểu nhầm.
Những đặc trưng trên đây của văn bản thuyết minh sẽ là cơ sở giúp
chúng ta có thể phân biệt kiểu văn bản này với các kiểu văn bản khác. Vấn đề
này sẽ được chúng tơi tiếp tục trình bày ở phần sau.
1.1.3. Phân biệt văn bản thuyết minh với một số kiểu (dạng) văn bản khác
Mỗi kiểu (dạng) văn bản có những đặc trưng riêng về nội dung và hình
thức. Và dựa vào đó, ta có thể phân biệt kiểu (dạng) văn bản này với kiểu
(dạng) văn bản khác. Trong khuôn khổ đề tài này, chúng tôi chỉ tiến hành
phân biệt văn bản thuyết minh với một số kiểu (dạng) văn bản khác cùng có
mặt trong chương trình phổ thông như: văn bản tự sự, văn bản miêu tả, văn
bản nghị luận... trên những nét cơ bản nhất.
1.1.3.1. Phân biệt văn bản thuyết minh với văn bản nghị luận
Hiện nay đã có khá nhiều cách định nghĩa về văn bản nghị luận mà mỗi
cách định nghĩa đều có những ưu điểm và hạn chế riêng. Trên cơ sở tiếp thu
có chọn lọc những ý kiến đó, chúng tơi sẽ đưa ra cách hiểu của mình về khái
niệm này như sau:

Văn bản nghị luận là kiểu văn bản trong đó người viết (người nói) trình
bày ý kiến của mình bằng cách dùng lí luận (bao gồm cả dẫn chứng và lí lẽ)
để làm sáng rõ một vấn đề nào đó, nhằm làm cho người đọc (người nghe)
hiểu, tin, đồng tình với ý kiến của mình và hành động theo những điều mà
mình đề xuất.
Như thế, mục đích của văn bản nghị luận là nhằm xác lập cho người đọc,
người nghe một tư tưởng, quan điểm nào đó. Đối tượng mà văn bản nghị luận
hướng tới thể hiện là các vấn đề chính trị - xã hội và văn học. Về nội dung,
văn bản nghị luận thiên về trình bày các ý kiến, các lý lẽ để giải thích, chứng
22


minh, phân tích, bình luận một vấn đề nào đó. Những ý kiến, lí lẽ đó được tổ
chức thành các luận điểm, luận cứ. Như thế, điểm mấu chốt của một văn bản
nghị luận là ở các luận điểm, luận cứ. Khơng có luận điểm, luận cứ thì khơng
thành văn bản nghị luận. Về mặt ngôn ngữ, kiểu văn bản này mang phong
cách ngơn ngữ nghị luận. Nó chú trọng sự chính xác, chặt chẽ, vì mục đích
của diễn đạt trong văn nghị luận là nhằm phản ánh rõ ràng, chính xác q
trình tư duy để đạt đến việc nhận thức chân lí. Tuy nhiên ngơn ngữ của văn
nghị luận cũng cần có sự hấp dẫn, lơi cuốn bằng chính cảm xúc của người viết
thể hiện trong đó chứ khơng chấp nhận sự khô khan, đơn điệu, nhất là khi đối
tượng nghị luận là một vấn đề văn học.
Từ cách hiểu về văn bản nghị luận như trên và đặt nó trong sự so sánh
với văn bản thuyết minh, chúng tơi nhận thấy giữa hai kiểu văn bản này có
những điểm khác nhau cơ bản. Cụ thể là:
Về mục đích, trong khi văn bản nghị luận được viết ra nhằm xác lập cho
người đọc, người nghe một tư tưởng, quan điểm nào đó thì văn bản thuyết
minh lại hướng tới mục đích cung cấp cho người đọc, người nghe những tri
thức cụ thể, xác thực về đối tượng thuyết minh, giúp họ biết cách sử dụng
những đối tượng đó vào mục đích hữu ích cho con người.

Từ sự khác nhau về mục đích đã dẫn tới sự khác nhau về nội dung giữa
hai kiểu văn bản này. Nội dung của văn bản nghị luận là ý kiến, quan điểm
của người viết về một vấn đề được tổ chức thành các luận điểm, luận cứ. Còn
văn bản thuyết minh chỉ đơn thuần trình bày tri thức, bao gồm các đặc điểm,
tính chất, ngun lí, qui luật, q trình phát sinh, hình thành và phát triển của
đối tượng thuyết minh.
Mặt khác, nếu như văn bản nghị luận mang tính chủ quan sâu sắc thì văn
bản thuyết minh lại là kiểu văn bản khách quan. Tính chủ quan, khách quan ở
đây được hiểu theo nghĩa: thái độ của người viết thể hiện trong mỗi kiểu
(dạng) văn bản như thế nào. Đối với văn bản nghị luận, cảm xúc chủ quan của
23


người viết được xem là một vấn đề có tính ngun tắc, bởi vì nếu ngay cả
người viết (người nói) cũng khơng có tình cảm, cảm xúc, khơng tin vào
những tư tưởng, quan điểm mà mình đưa ra trong văn bản thì làm sao có thể
khiến cho người đọc (người nghe) hiểu và tin theo. Và như thế, mục đích của
văn bản nghị luận không thể đạt được như mong muốn. Trong khi đó, như
chúng tơi đã phân tích ở phần trước, một trong những đặc điểm của văn bản
thuyết minh là tính khách quan, trong đó bao hàm ý nghĩa sự khách quan
trong thái độ của người tạo lập văn bản. Người tạo lập văn bản thuyết minh
cần phải có thái độ điềm tĩnh, bình thản trước đối tượng mà mình đang trình
bày, giới thiệu.
Tuy nhiên, sự phân biệt ở đây cần được hiểu một cách tương đối. Trên
thực tế, trong nhiều văn bản thuyết minh, đặc biệt là các văn bản thuyết minh
văn học, vẫn phần nào chứa đựng trong đó màu sắc biểu cảm và cảm xúc chủ
quan của người viết. Sự phân biệt của chúng tôi chủ yếu dừng lại trên cấp độ
khái quát, nhằm vạch ra một ranh giới rõ nét nhất giữa hai kiểu văn bản này.
1.1.3.2. Phân biệt văn bản thuyết minh với văn bản tự sự
Văn bản tự sự là kiểu văn bản trong đó người viết sử dụng phương thức

tự sự để trình bày một chuỗi các sự việc theo trình tự diễn biến nhất định, tạo
thành một câu chuyện. Qua đó, người viết bày tỏ thái độ của mình trước hiện
thực khách quan được tái hiện qua nội dung văn bản.
Từ đó, có thể xác định được đặc trưng của dạng văn bản này như sau:
Văn bản tự sự có nội dung là câu chuyện được kể, được viết ra với mục đích
kể lại câu chuyện đó, đồng thời bày tỏ thái độ của người viết đối với hiện thực
khách quan. Mặt khác, vì là văn bản kể chuyện nên phương thức biểu đạt chủ
yếu ở đây là hư cấu, tưởng tượng. Văn bản tự sự được viết bằng ngôn ngữ
thuộc phong cách ngơn ngữ nghệ thuật mang tính đa nghĩa, tính hình tượng và
tính thẩm mĩ cao.

24


Qua việc xác lập một cách hiểu về văn bản tự sự như trên, đồng thời từ
quá trình tìm hiểu đặc trưng của văn bản thuyết minh, chúng tôi nhận thấy
giữa hai kiểu văn bản này có khá nhiều điểm khác nhau.
Trước hết, về nội dung và mục đích. Nếu như văn bản tự sự được viết ra
nhằm kể lại câu chuyện và qua đó, gửi gắm thái độ của người viết thì văn bản
thuyết minh lại chủ yếu trình bày tri thức, làm cho người đọc (người nghe)
hiểu thấu đáo về đối tượng. Mặt khác, văn bản thuyết minh khơng có nhân
vật, cốt truyện, diễn biến các tình tiết như văn bản tự sự mà chỉ có tri thức
khách quan.
Một điểm khác nhau nữa, như chúng tơi đã nói ở trên, hư cấu tưởng
tượng là đặc điểm nổi bật của văn bản tự sự. Với văn bản tự sự, hư cấu khơng
chỉ là phương tiện mà cịn là mục đích, thể hiện ý đồ nghệ thuật của nhà văn.
Trong khi đó, đối với văn bản thuyết minh, hư cấu tưởng tượng là yếu tố chỉ
được sử dụng một cách rất hạn chế, nếu có cũng chỉ là phương tiện để việc
chuyển tải tri thức trở nên nhẹ nhàng, lôi cuốn hơn. Bởi vì một trong những
đặc trưng và cũng là yêu cầu thiết yếu của văn bản thuyết minh là tính khoa

học, nghĩa là tri thức thuyết minh phải chính xác, phản ánh đúng quy luật của
thực tế khách quan.
Đặc điểm ngôn ngữ của hai kiểu văn bản này cũng khác nhau. Văn
phong thuyết minh là văn phong khoa học với những u cầu về tính chặt chẽ,
lơgic, đơn nghĩa; khác với văn phong tự sự là văn phong nghệ thuật vốn hết
sức linh hoạt, giàu hình tượng và thường đa nghĩa.
1.1.3.3. Phân biệt văn bản thuyết minh với văn bản miêu tả
Văn bản miêu tả đã trở nên rất quen thuộc đối với học sinh phổ thông.
Ngay từ bậc tiểu học, các em đã được làm quen với kiểu văn bản này. SGK
Ngữ văn 6, tập 2 đã định nghĩa kiểu văn bản này như sau: Văn miêu tả là loại
văn nhằm giúp người đọc, người nghe hình dung những đặc điểm, tính chất

25


×