Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Giáo dục tinh thần yêu nước cho sinh viên trường cao đẳng sư phạm bình phước trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (720.88 KB, 99 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
____________________________________________________

NGUYỄN THỊ HẢI

GIÁO DỤC TINH THẦN YÊU NƯỚC CHO SINH VIÊN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM BÌNH PHƯỚC
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

NGHỆ AN - 2016


1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
____________________________________________________

NGUYỄN THỊ HẢI

GIÁO DỤC TINH THẦN YÊU NƯỚC CHO SINH VIÊN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM BÌNH PHƯỚC
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành: LL& PPDH Bộ mơn Giáo dục Chính trị
Mã số: 60. 14.01.11

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC


Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. GVCC. ĐOÀN MINH DUỆ

NGHỆ AN - 2016


2
LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện đề tài “Giáo dục tinh thần yêu nước cho sinh viên Trường
Cao đẳng Sư phạm Bình Phước trong giai đoạn hiện nay”, Tơi xin chân thành
cảm ơn đến tập thể Thầy, Cô Khoa Giáo dục Chính trị trường Đại học Vinh đã
tận tâm truyền đạt, nhiệt tình giảng dạy để tơi có thể hồn thành được khóa học
này, cảm ơn Khoa Sau Đại học Trường Đại học Vinh đã tạo mọi điều kiện để tôi
học tập đạt kết quả tốt nhất.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới giáo viên hướng dẫn
là PGS.TS. Đoàn Minh Duệ, người đã tận tâm, nhiệt tình, hết lịng chỉ dẫn, góp
ý, truyền đạt những kinh nghiệm, tri thức quý báu, giúp đỡ để tôi hoàn thành
Luận văn này.
Nghệ An, tháng 8 năm 2016
Tác giả

Nguyễn Thị Hải


3
MỤC LỤC
Trang
TRANG BÌA PHỤ ................................................................................................ 1
LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... 2
MỤC LỤC ............................................................................................................. 3

DANH MỤC QUY ĐỊNH CHỮ VIẾT TẮT ........................................................ 4
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 5
NỘI DUNG ......................................................................................................... 10
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC TINH THẦN YÊU
NƯỚC CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM............... 10
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài .................................................... 10
1.2. Nội dung tinh thần yêu nước cần giáo dục cho sinh viên Cao đẳng Sư
phạm .............................................................................................................. 14
1.3. Những hình thức và phương pháp giáo dục tinh thần yêu nước cho sinh
viên Cao đẳng Sư phạm hiện nay .................................................................. 26
1.4. Sự cần thiết của việc giáo dục tinh thần yêu nước cho sinh viên Cao
đẳng Sư phạm ................................................................................................ 32
Chương 2 THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
GIÁO DỤC TINH THẦN YÊU NƯỚC CHO SINH VIÊN TRƯỜNG CAO
ĐẲNG SƯ PHẠM BÌNH PHƯỚC TRONG THỜI GIAN QUA ...................... 48
2.1. Thực trạng giáo dục tinh thần yêu nước cho sinh viên Trường Cao đẳng
Sư phạm Bình Phước ..................................................................................... 48
2.2. Phương hướng giáo dục tinh thần yêu nước cho sinh viên Trường Cao
đẳng Sư phạm Bình Phước giai đoạn hiện nay ............................................. 66
2.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục tinh thần yêu nước
cho sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm Bình Phước ................................. 72
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 94
E. PHỤ LỤC ....................................................................................................... 99


4
DANH MỤC QUY ĐỊNH CHỮ VIẾT TẮT

BVTQ


:

Bảo vệ tổ quốc

CĐSP

:

Cao đẳng Sư phạm

CNH, HĐH

:

Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNXH

:

Chủ nghĩa xã hội

SV

:

Sinh viên

XHCN


:

Xã hội chủ nghĩa


5
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong “Di chúc” Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt lưu ý “Giáo dục thế hệ
cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết”. Lời căn dặn của
chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành chiến lược đào tạo con người của Đảng và
nhà nước ta. Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
ln xác định vị trí, vai trị và tầm quan trọng của thế hệ trẻ đối với tương lai,
vận mệnh của đất nước, phải thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo thế hệ
trẻ, coi đó là một trong những nhiệm vụ chiến lược quyết định sự thành bại của
cách mạng Việt Nam. Một trong những nội dung quan trọng của sự nghiệp giáo
dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ đó là giáo dục tinh thần yêu nước. Đây là nhiệm vụ
vừa cơ bản, vừa cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Tinh thần u nước có vai
trị rất to lớn, nó chi phối các phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và nhân
cách của sinh viên, với tư cách là một trong những bộ phận ưu tú nhất của tuổi
trẻ Việt Nam.
Nhưng đứng trước bối cảnh lịch sử thế giới hiện nay diễn ra ngày càng
phức tạp, từ những cuộc chiến tranh cục bộ, tranh giành chủ quyền về biển đảo,
xung đột tôn giáo, khủng bố cực đoan, tội phạm xun quốc gia, cùng với đó là
tính chất của thời kỳ quá độ, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường và
mặt trái của nó… đã tác động khơng nhỏ đến tâm tư, tình cảm cách mạng của
một bộ phận quần chúng nhân dân, trong đó có sinh viên. Một bộ phận quần
chúng nhân dân nói chung, trong đó có sinh viên nói riêng đã có những biểu
hiện như: chưa thể hiện đúng mức tình yêu đối với tổ quốc, với nhân dân, thờ ơ,

thậm chí xem nhẹ các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc; Thiếu ý thức tu
dưỡng, rèn luyện trong học tập, lao động, có lối sống thực dụng, đua địi. Khơng
ít sinh viên chưa nhận thức đúng đắn về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản đối
với cách mạng nước ta, nhất là trong giai đoạn hiện nay; Hoài nghi về CNXH và


6
con đường đi lên CNXH của đất nước; Chưa ý thức đầy đủ trách nhiệm công
dân - sinh viên đối với sự nghiệp CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ tổ quốc
XHCN… Do vậy, hơn lúc nào hết, việc giáo dục, bồi dưỡng và phát huy tinh
thần yêu nước cho sinh viên là một trong những việc làm có tính cấp bách trong
giai đoạn hiện nay. Trường Cao đẳng Sư phạm Bình Phước là một trong những
Trường Cao đẳng trọng điểm của tỉnh. Hàng năm, nhà trường đào tạo ra hàng
trăm giáo viên có chun mơn. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được
trên lĩnh vực đào tạo chuyên mơn, nghề nghiệp cho sinh viên thì cơng tác giáo
dục nhận thức, thái độ, niềm tin và hành vi yêu nước cho sinh viên vẫn còn
nhiều hạn chế.
Là một giáo viên trực tiếp tham gia sự nghiệp “trồng người”, với mong
muốn góp phần nâng cao chất lượng giáo dục tinh thần yêu nước cho sinh viên
Trường Cao đẳng Sư phạm Bình Phước, từ đó nâng cao tinh thần u nước cho
các em, chúng tôi đã chọn vấn đề: “Giáo dục tinh thần yêu nước cho sinh viên
Trường Cao đẳng Sư phạm Bình Phước giai đoạn hiện nay”, làm đề tài luận
văn cao học thạc sĩ, chuyên ngành LL&PPDH bộ môn chính trị.
Tinh thần yêu nước, chủ nghĩa yêu nước, và giáo dục chủ nghĩa yêu nước
cho thế hệ trẻ là một trong những đề tài có sức thu hút đối với các nhà nghiên
cứu cả trong và ngoài nước. Đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu được cơng
bố. Đó là những văn kiện của Đảng, những bài viết, bài nói của chủ tịch Hồ Chí
Minh, của các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước, của các nhà nghiên cứu.
Tác phẩm: “Chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội” của cố Thủ tướng
Phạm Văn Đồng, Nxb Sự thật, Hà Nội 1959, đã khẳng định thời đại của chúng

ta là thời đại của chủ nghĩa yêu nước, yêu CNXH.
Đi sâu nghiên cứu về tinh thần yêu nước trong mối quan hệ với chủ nghĩa
quốc tế vô sản phải kể đến tác phẩm: “Chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế
vô sản” của tác giả Trần Xuân Trường, Nxb Sự thật, 1981. Tác phẩm đã tập


7
trung phác họa mối quan hệ biện chứng giữa chủ nghĩa u nước chân chính với
chủ nghĩa quốc tế vơ sản là khơng tách rời mà gắn bó liền với nhau. GS.Trần
Văn Giàu “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam”, Nxb KHXH,
Hà Nội 1980, tác phẩm này đã cho chúng ta cái nhìn khái quát về các giá trị tinh
thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, trong đó truyền thống yêu nước là giá
trị cao nhất trong hệ giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam; TS. Trần Nam Tiến
“Khi tổ quốc cần Thanh niên hành động”, Nxb Trẻ 2008, nói về những trang sử
vẻ vang của Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục là
những người làm nên sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
Ngồi ra có thể kể đến một số tác phẩm như: Dương Tự Đàm “Giáo dục
thanh niên kế thừa nhân cách Hồ Chí Minh để trưởng thành và phát triển”, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008; Trần Quy Nhơn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”, Nxb Giáo dục, 2005; “Mấy vấn đề về
xây dựng lý tưởng cách mạng” của Vũ Oanh, Tạp chí Cộng sản số 11 tháng 6
năm 1996, tr. 3- 6. Các tác giả nêu trên đều có điểm chung là khẳng định vị trí,
vai trị của tuổi trẻ đối với tương lai, vận mệnh của đất nước. Các tác giả cũng
đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ trong việc chăm lo, giáo dục, định hướng lý tưởng cho
thế hệ trẻ.
Bên cạnh đó, một số luận án tiến sĩ, thạc sỹ cũng đã đề cập đến những vấn
đề gần gũi với vấn đề giáo dục tinh thần yêu nước cho thế hệ trẻ như: “Giáo dục
đạo đức với việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên học sinh Việt Nam
hiện nay” của Trần Sỹ Phán (1999); “Giáo dục đạo đức cho thanh niên học sinh
theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở nước ta hiện nay” của Trần Minh Đoàn (2002);

Nguyễn Thị Thu Hà, Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX, luận văn thạc sỹ Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố
Hồ Chí Minh; Bùi Thị Huyền (2008), Đảng Cộng sản Việt Nam với việc phát
huy chủ nghĩa u nước trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất


8
nước, luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thành
phố Hồ Chí Minh; Trần Thị Thảo Hiền (2015), Nâng cao tinh thần yêu nước cho
sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm kỹ thuật Vĩnh Long thông qua giảng dạy
học phần “Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam”, Luận văn thạc
sỹ Trường Đại học Vinh…
Các cơng trình kể trên đã nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau như: lý
tưởng của thanh niên, vai trò của giáo dục đạo đức, truyền thống, tinh thần yêu
nước cho thế hệ trẻ và từ đó đã đưa ra phương hướng và giải pháp để giáo dục,
bồi dưỡng, phát triển đạo đức, lối sống cũng như tinh thần yêu nước của thanh
niên, học sinh, sinh viên thiết thực, hiệu quả hơn trong giai đoạn hiện nay.
Nhìn chung, những cơng trình nghiên cứu, bài viết trên đều có ý nghĩa
giúp cho chúng tơi có kế thừa trong quá trình sưu tầm tư liệu viết luận văn. Tuy
nhiên, chúng tơi cũng hiểu rằng, hiện chưa có cơng trình nào nghiên cứu một
cách đầy đủ, chuyên sâu, trực tiếp và có hệ thống việc giáo dục tinh thần yêu
nước cho sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm Bình Phước. Vì vậy, chúng tơi
một mặt kế thừa các giá trị khoa học của các nghiên cứu trên, mặt khác cố gắng
nghiên cứu để tìm ra những phương hướng và giải pháp phù hợp cho công tác
giáo dục tinh thần yêu nước cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng giáo dục truyền thống yêu nước cho sinh viên tại
Trường Cao đẳng Sư phạm Bình Phước, từ đó đưa ra những phương hướng và
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục tinh thần yêu nước cho sinh viên
Trường Cao đẳng Sư phạm Bình Phước.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Góp phần làm rõ cơ sở lý luận của công tác giáo dục tinh thần yêu nước
cho sinh viên


9
- Đánh giá thực trạng công tác giáo dục tinh thần yêu nước cho sinh viên
Trường Cao đẳng Sư phạm Bình Phước hiện nay.
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
giáo dục tinh thần yêu nước cho sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm Bình
Phước hiện nay
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Tinh thần yêu nước và công tác giáo dục tinh thần yêu nước cho sinh viên
hệ cao đẳng sư phạm đang học tập và rèn luyện tại Trường Cao đẳng Sư phạm
Bình Phước hiện nay
4.2. Phạm vi
Đề tài chỉ tập trung đi sâu nghiên cứu công tác giáo dục tinh thần yêu
nước cho sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm Bình Phước (hệ cao đẳng chính
quy) trong giai đoạn hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ trên, luận văn dựa trên cơ sở thế
giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về công tác giáo
dục và đào tạo nói chung, giáo dục tinh thần yêu nước cho sinh viên nói riêng.
- Đồng thời tác giả luận văn còn sử dụng tổng hợp các phương pháp khác
như: phân tích và tổng hợp, trừu tượng và cụ thể, logic và lịch sử, so sánh, điều
tra… để nghiên cứu và trình bày luận văn.
6. Bố cục đề tài

Ngồi phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
được chia làm 2 chương, 6 tiết.


10
NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC TINH THẦN YÊU NƯỚC
CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1. Khái niệm tinh thần yêu nước
Tinh thần yêu nước là giá trị cơ bản trong hệ giá trị truyền thống của
dân tộc Việt Nam ta... Đã có rất nhiều nhà nghiên cứu đưa ra khái niệm khoa
học, đúng đắn và logic về khái niệm “yêu nước”. Theo tác giả Trần Văn Giàu
thì “yêu nước được hình thành từ hai khái niệm “yêu” và “nước”. “Yêu” theo
nghĩa chung nhất, là trạng thái tình cảm của chủ thể này đối với một chủ thể
khác ở mức cao và được gắn kết với chủ thể đó ở một khía cạnh hay mức độ
nhất định. “Nước” ở đây có nghĩa là đất nước, quê hương, Tổ quốc, quốc gia,
non sông” [20, tr.38].
Trong tư duy, tình cảm của người Việt Nam, khái niệm “yêu nước” có
liên quan đến khái niệm “đất nước”, “đất nước”, là để chỉ vùng đất, khu vực
thuộc về một cộng đồng sinh sống, cư trú, làm chủ, Đất nước hay Tổ quốc, Quốc
gia… đều mang hàm nghĩa chung như vậy
Bàn về khái niệm “Nước”, trong cuốn “Từ chủ nghĩa yêu nước truyền
thống đến chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh”, giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Hùng Hậu
có cách giải thích với những nội dung: Về phương diện thiên nhiên, địa lý: Nước
chỉ non sơng, giang sơn gấm vóc, chỉ lãnh thổ với biên giới, cương vực rạch ròi,
chỉ đất nước; Nhưng nếu chỉ có thiên nhiên, mảnh đất thuần túy khơng thơi thì
cũng chưa thể gọi là nước, muốn có nước phải có những tộc người sống trên đó
và quan hệ giữa họ với nhau, bởi vậy nước còn chỉ tộc người, dân tộc và sự đoàn

kết giữa các dân tộc; cụ thể hơn, phải có những con người- chủ nhân đứng trên
mảnh đất này, nên nước còn bao gồm những con người, người dân, nhân dân cái


11
mà ở Việt Nam gọi là đồng bào, con người nắm chủ quyền trên lãnh thổ của
mình; Từ con người hình thành nên gia đình, xã hội với những thiết chế chính trị
kinh tế của mình, bởi vậy, nước cịn bao gồm cả làng xã, quê hương, quốc gia,
Tổ quốc, các tầng lớp, giai cấp với những chế độ chính trị xã hội nhất định trong
mỗi thời kỳ; một trong những yếu tố không thể thiếu để tạo nên diện mạo một
nước, đó là văn hóa, bởi vậy, nước cịn bao gồm cả những phong tục, tập quán,
ngôn ngữ, truyền thống, lịch sử… Năm yếu tố này liên hệ mật thiết với nhau,
nếu thiếu một trong những yếu tố này thì cũng khó có thể gọi là nước. Tóm lại,
“nước” Việt Nam bao gồm tổng hòa những yếu tố đất nước, dân tộc, con người,
nhân dân, đồng bào, quê hương, quốc gia, Tổ quốc, văn hóa, ngơn ngữ, phong
tục, tập quán, lịch sử truyền thống.
Về khái niệm “yêu nước”, V.I.Lênin cho rằng, yêu nước là một trong
những tình cảm sâu sắc nhất được cũng cố qua hàng trăm năm, hàng nghìn năm
tồn tại của các tổ quốc biệt lập. Như vậy, yêu nước mang tính phổ biến của nhân
dân các quốc gia, các dân tộc trên thế giới. Đối với dân tộc Việt Nam, yêu nước
là một truyền thống cực kỳ quý báu được hình thành trong quá trình lịch sử lâu
dài dựng nước và giữ nước, trở thành tình cảm thiêng liêng cao quí nhất trong
mỗi người Việt Nam. Tuy nhiên, u nước khơng chỉ là tình cảm đơn thuần của
con người đối với quê hương, đất nước, đồng bào mình mà cịn lý trí, tức là dựa
trên cơ sở suy xét, trình độ hiểu biết và những tri thức. Nếu u nước chỉ dựa
vào tình cảm cảm tính thì tình u đó chưa có cơ sở chắc chắn, sẽ dẫn đến mù
quáng, dễ bị lung lay thậm chí mất đi trước những khó khăn, thử thách. Yêu
nước trên cơ sở hiểu biết thì tình u đó mới sâu sắc và có thể đứng vững trước
mọi khó khăn. Song nếu chỉ có lý tính mà khơng có tình cảm thì khơng phải là
u nước. Như vậy, u nước phải là sự kết hợp hài hịa giữa cảm tính và lý

tính, đó mới thực sự là tình u nước chân chính và hồn hảo. Ở một khía cạnh
khác, u nước khơng chỉ thể hiện ở lời nói, ý thức mà phải thể hiện qua hành


12
động. Lời nói cũng thể hiện tình u, hành động cũng thể hiện tình u, song
tình u chân chính phải là sự hịa quyện giữa lời nói và hành động. u nước
khơng chỉ dừng lại ở lời nói mà phải thơng qua những hành động dám hy sinh vì
dân, vì nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, đã là người Việt Nam, đã là con Lạc
cháu Hồng thì ít hay nhiều, ai cũng có lịng u nước. Và người đã tổng kết:
“Dân ta có một lịng nồng nàn u nước. Đó là truyền thống quý báu của dân tộc
ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó
kết thành làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó
khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” 31, tr.171]. Với Người
thì lịng u nước cũng chính là tinh thần u nước, lòng yêu nước, tinh thần yêu
nước còn bao gồm trong đó tri thức chứ khơng chỉ có tình cảm đơn thuần.
Như vậy, có thể khái quát: Yêu nước là yêu non sông, đất nước, yêu con
người, yêu nhân dân, yêu đồng bào, yêu quê hương, Tổ quốc, yêu truyền thống
lịch sử văn hóa. u nước khơng chỉ ở lời nói mà phải bằng hành động, khơng
chỉ bằng tình cảm mà bằng cả lý trí sáng suốt.
1.1.2. Giáo dục tinh thần yêu nước
Theo Giáo sư Trần Văn Giàu “tình cảm và tư tưởng yêu nước là tình cảm
và tư tưởng lớn nhất của nhân dân, của dân tộc Việt Nam” [20, tr.167]. u
nước là phạm trù có tính chất đánh giá mang tính đạo đức đối với chủ thể (cá
nhân, cộng đồng) trước nghĩa vụ, trách nhiệm đất nước đặt ra. Giáo dục tinh
thần yêu nước cho sinh viên là mối quan tâm, là nhiệm vụ cách mạng, là đáp
ứng nhu cầu tự thân của mỗi người trẻ tuổi.
Giáo dục là q trình được tổ chức có ý thức, hướng tới mục đích khơi
gợi hoặc biến đổi nhận thức, năng lực, tình cảm,thái độ của người dạy và người

học theo hướng tích cực, nghĩa là góp phần hồn thiện nhân cách người học
bằng những tác động có ý thức từ bên ngoài, đáp ứng các nhu cầu tồn tại và phát
triển của con người trong xã hội.


13
Hay nói cách khác q trình giáo dục là q trình mà dưới sự tổ chức, chỉ
đạo có mục đích các loại hình hoạt động phong phú, các mối quan hệ nhiều mặt
của người được giáo dục đối với người khác, với thế giới xung quanh, các dạng
giao lưu đa dạng giữa họ với nhau và giữa họ đối với những người lớn tuổi khác,
nhằm hình thành cho người được giáo dục quan điểm, niềm tin, định hướng giá
trị, lý tưởng, động cơ, thái độ, kỹ năng, kỹ xảo, thói quen ứng xử đúng đắn trong
các quan hệ đạo đức, chính trị, pháp luật, thẩm mỹ, lao động, vệ sinh… thuộc
các lĩnh vực đời sống xã hội.
Giáo dục bao gồm việc dạy và học, và đơi khi nó cũng mang ý nghĩa như
là quá trình truyền thụ, phổ biến tri thức, truyền thụ sự suy luận đúng đắn, truyền
thụ sự hiểu biết. Giáo dục là nền tảng cho việc truyền thụ, phổ biến văn hóa từ
thế hệ này đến thế hệ khác. Giáo dục là phương tiện để đánh thức và nhận ra khả
năng, năng lực tiềm ẩn của chính mỗi cá nhân, đánh thức trí tuệ của mỗi người.
Dạy học là một hình thức giáo dục đặc biệt quan trọng và cần thiết cho sự phát
triển trí tuệ, hồn thiện nhân cách học sinh. Q trình dạy học nói riêng và q
trình giáo dục nói chung ln gồm các thành tố có liên hệ mang tính hệ thống
với nhau: Mục tiêu giáo dục, phương tiện giáo dục, hình thức tổ chức và chỉ tiêu
đánh giá.
Giáo dục tinh thần yêu nước cho sinh viên Cao đẳng Sư phạm trong giai
đoạn hiện nay chính là nhằm khơi dậy và phát huy tinh thần và nghị lực, trí tuệ
và tài năng của thế hệ trẻ để tập trung phát triển kinh tế, xây dựng đất nước ngày
càng giàu mạnh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc thân yêu và thành quả cách mạng,
gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, giữ vững định hướng chủ nghĩa xã hội,
bảo vệ và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao uy tín và vị thế của Việt

Nam trên trường quốc tế. Giáo dục tinh thần yêu nước cho sinh viên viên trong
thời kỳ mới là giáo dục cho họ dù ở hoàn cảnh nào cũng phải nỗ lực hoàn thành
tốt nhiệm vụ của mình, thực hiện tốt nghĩa vụ và trách nhiệm cơng dân, phấn
đấu góp phần đưa nước ta thốt khỏi nghèo nàn, lạc hậu, từng bước vươn lên


14
theo kịp các nước trong khu vực và thế giới. khơng ngừng nâng cao lịng tự hào
dân tộc, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và tương lai
tươi sáng của đất nước, tiền đồ của dân tộc; trung thành với mục tiêu lý tưởng là
độc lập dân tộc và CNXH; tự giác chấp hành nghiêm chỉnh mọi chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước.
Sinh viên tiêu biểu cho sức sống, sức phát triển của dân tộc. Nếu được
chăm sóc, giáo dục, rèn luyện thì sinh viên có khả năng “rời non, lấp bể” trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Hiện nay, nước ta đang trong thời kỳ
mới- thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước tiến lên
CNXH. Đây là sự nghiệp vĩ đại, hết sức vẻ vang nhưng đầy khó khăn, gian khổ,
phức tạp. Để hồn thành sự nghiệp vẻ vang này, động lực quan trọng hàng đầu
là phát huy cao độ tinh thần yêu nước trong toàn dân, xây dựng khối đại đoàn
kết dân tộc, thống nhất ý chí và hành động, năng động, sáng tạo, gian khổ phấn
đấu, thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới do Đảng đề ra. Mà tinh thần yêu
nước là giá trị thiêng liêng chung của toàn dân Việt Nam, là sức mạnh tiềm tàng
thường trực trong lòng dân tộc, là nguồn lực không bao giờ cạn trong suốt chiều
dài lịch sử đất nước và là đặc trưng tiêu biểu của tính cách con người Việt Nam.
Nhưng bất cứ tiềm năng tinh thần dù lớn lao bao nhiêu muốn biến thành sức
mạnh vật chất đều cần phải biết thường xuyên khơi dậy, phát huy. Vì vậy, trong
sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo, việc phát huy tình thần yêu nước của dân
tộc ta trở thành yêu cầu khách quan bức thiết.
1.2. Nội dung tinh thần yêu nước cần giáo dục cho sinh viên Cao đẳng

Sư phạm
1.2.1. Giáo dục tình yêu quê hương, xứ sở, gắn bó trong cộng
đồng dân tộc
Khác với các nước khu vực Đông Nam Á, Việt Nam bước vào thời đại
dựng nước khá sớm. Nhà nước Văn Lang ra đời như một đáp ứng khách quan nhu


15
cầu liên kết của làng xã trong công cuộc đắp đê trị thủy và chống xâm lấn. Ngay
từ buổi đầu, Làng với Nước đã gắn chặt với nhau trong mối quan hệ hữu cơ
không thể tách rời. Cùng với những quan hệ cộng cư vốn có trong từng làng, đã
hình thành sự liên kết giữa các làng và vì những lợi ích chung, mối quan hệ có
tính bao trùm mà các nhà nghiên cứu gọi là “siêu làng”, cũng dần được xác lập.
Khái niệm Nước của người Việt cổ đã ra đời trong hồn cảnh như vậy. Cũng
chính vì lẽ đó mà nội dung lịng u nước của người Việt trước hết thể hiện khá
đậm nét trong tình yêu đối với q hương xứ sở, tình cảm gắn bó với Làng.
Trong tâm thức người Việt, bám đất bám làng trong bất kỳ hồn cảnh nào
cũng ln là một chuẩn mực đạo lý. Mất độc lập chủ quyền vào tay phong kiến
phương Bắc và trong suốt hơn một nghìn năm chịu sức ép của chính sách đơ hộ
tàn bạo, người Việt vẫn kiên cường bám trụ để cuối cùng giành lại được độc lập.
Truyền thống đó được duy trì và khơng ngừng phát triển trong các giai đoạn lịch
sử tiếp theo.
Đến thời hiện đại, khi cả dân tộc phải cầm súng đứng lên chống giặc
ngoại xâm, khẩu hiệu “Một tấc không đi, một li không rời” thách đố hiên ngang
chống lại chính sách dồn dân, lập ấp chiến lược của Mỹ và chính quyền Sài Gịn.
Đó chính là sự tiếp nối những nội dung của truyền thống yêu nước.
Quan hệ “siêu làng” vốn tự nó đã hàm nghĩa liên kết, đồn kết. Do điều
kiện tự nhiên khắc nghiệt nên đoàn kết tương trợ để ứng phó với thiên tai trở
thành nhu cầu thiết yếu. Hơn nữa, do ở vào vị trí địa lý quan trọng, sự cố kết để
bảo vệ giống nịi trở thành lẽ sinh tồn. Với ý nghĩa đó, yêu nước của người Việt

Nam luôn gắn liền với thương nịi. Đồn kết, thương u nhau, tương trợ giúp
đỡ nhau, nhất là những lúc gặp khó khăn, hoạn nạn đã vượt qua giới hạn của
quan niệm nhân đạo thông thường, trở thành một quy phạm đạo đức.
Như vậy, yêu nước xuất phát từ tình yêu quê hương, xứ sở, nơi chơn rau
cắt rốn của mình. Đối với người Việt Nam, quê hương xứ sở trước hết là xóm,
làng, ở đó có cha mẹ, anh chị em, có mồ mả ơng bà. Quê hương lớn là nước nhà,


16
ở đó có tất cả đồng bào cùng tiếng nói, phong tục, có tồn bộ lịch sử dân tộc.
Q hương lớn cũng gọi là Tổ quốc. Yêu quê hương, xứ sở là tình cảm gắn liền
với thiên nhiên và con người ở quê hương, gắn với cộng đồng. Và tình yêu xứ sở
của người Việt Nam còn được mở rộng trên cơ sở từ làng đến nước, giữ làng là
để giữ nước, có làng có nước.Trong văn hóa truyền thống của người Việt thì yêu
nước là yêu nhà, yêu làng xóm quê hương. Nó trở thành “tiêu điểm của các tiêu
điểm, giá trị của các giá trị”, là “động lực tình cảm lớn nhất của đời sống dân
tộc, đồng thời là bậc thang cao nhất trong hệ thống các giá trị đạo đức của dân
tộc ta” [20, tr.94].
1.2.2. Giáo dục ý thức bảo vệ chủ qùn non sơng đất nước
Nói tới đất nước phải nói tới lãnh thổ quốc gia. Ở bất cứ đâu, ý thức bảo
vệ chủ quyền lãnh thổ cũng là một trong những nội dung quan trọng của lịng
u nước. Nhưng thật hiếm có nơi nào trên thế giới, mỗi tấc di sản lãnh thổ lại
đẫm mồ hôi và máu như ở Việt Nam. Nguyên nhân của thực tế này bắt nguồn từ
việc dân tộc ta phải liên tục chống lại nhiều thế lực xâm lược hùng mạnh hơn
mình gấp nhiều lần và người Việt từ thế hệ này sang thế hệ khác đã phải vật lộn
với thiên nhiên khắc nghiệt để khai phá đất đai, không quản hiểm nguy vượt
biển khơi để làm chủ các hải đảo xa xôi và bao phen phải hy sinh xương máu để
bảo vệ từng tấc đất, thước sơng. Vì thế, hơn ai hết, họ biết quý trọng, nâng niu
những thành quả mà lớp lớp các thế hệ người Việt Nam khơng chỉ đổ mồ hơi mà
cịn cả máu xương mới tạo ra được và hình thành ý thức bảo vệ các thành quả

đó. Lãnh thổ và chủ quyền quốc gia đối với người Việt Nam là biểu tượng
thiêng liêng, không thể đo đếm được bằng các giá trị vật chất. Yêu nước là phải
giữ gìn nền độc lập, tự chủ của đất nước, “khơng có gì q hơn độc lập tự do”.
Mỗi khi tổ quốc lâm nguy, ý thức độc lập tự chủ lại dâng lên mạnh mẽ.
Ý thức độc lập tự chủ gắn liền với trách nhiệm bảo vệ chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Tình yêu quê hương xứ sở phát triển thành


17
yêu quê hương đất nước và trách nhiệm bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Ý
thức bảo vệ chủ quyền quốc gia đã đi vào huyền thoại, ngự trị trong tâm thức
con người, hình thành một lối sống, một cách ứng xử mà trong hồn cảnh nào,
lợi ích Tổ quốc cũng đặt lên hàng đầu. Đó là cội nguồn sâu xa của câu chuyện
Thánh Gióng mà người Việt Nam sáng tạo ra, yêu quý nhân vật Thánh Gióng
xem Thánh Gióng là cốt cách của dân tộc, là biểu tượng cao đẹp về tình yêu quê
hương, đất nước và ý chí chống giặc ngoại xâm. Khơng chỉ tồn tại trong huyền
thoại, ý thức bảo vệ chủ quyền quốc gia của người Việt Nam còn hiện diện trong
cuộc sống hàng ngày, thơi thúc con người hành động vì Tổ quốc. Bài thơ thần
của Lý Thường Kiệt, Hịch tướng Sỹ của Trần Hưng Đạo hay Bình Ngơ Đại cáo
của Nguyễn Trãi đã khẳng định thực tế đó. Nội dung nổi trội nhất của lòng yêu
nước là tinh thần độc lập dân tộc. Vì từng nhiều phen phải sống trong cảnh tủi
nhục của thân phận nô lệ khi đất nước mất quyền độc lập, người Việt Nam thấu
hiểu hơn ai hết giá trị của độc lập, tự do. Tinh thần bất khuất trước kẻ thù, quyết
tâm bảo vệ chủ quyền độc lập của tổ quốc chính là đỉnh cao của lịng u nước
Việt Nam.
Thế giới ngày nay là một “thế giới phẳng”, không có một quốc gia nào có
thể tự mình giải quyết mọi vấn đề trong đời sống của con người. Tuy nhiên, các
thế lực thù địch vẫn không chịu từ bỏ dã tâm chống phá và tiêu diệt các lực
lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Vì vậy, yêu
nước là phải giữ vững độc lập dân tộc, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, với sinh viên khơng chỉ
xem đó là nghĩa vụ mà cịn phải xem đó là quyền lợi, trách nhiệm, vinh dự cao
cả của mình. Lịng trung thành của người sinh viên phải được nâng lên thành
đức hy sinh, sẵn sàng xả thân vì độc lập tự do của dân tộc và vì chủ nghĩa xã
hội. Khơng có đức hy sinh cao cả đó thì chưa phải là người sinh viên có tinh
thần yêu nước sâu sắc. Xây dựng đức tính hy sinh, qn thân mình vì sự nghiệp


18
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là yêu cầu thường trực đối với
sinh viên trong thời kỳ đất nước có chiến tranh cũng như trong thời kỳ đất nước
hịa bình.
1.2.3. Giáo dục tinh thần đồn kết, kỷ luật, tuân thủ pháp luật và ý thức
hội nhập thế giới theo tinh thần chủ nghĩa quốc tế của giai cấp cơng nhân
Ở vào vị trí giao tiếp văn hóa, ngay từ buổi đầu dựng nước, cư dân của
nước Việt đã là một cộng đồng bao gồm nhiều thành phần dân tộc. Cho đến nay,
trên dãi đất Việt Nam có tới 54 dân tộc anh em cùng chung sống. Tuy ngơn ngữ,
truyền thống văn hóa rất khác nhau nhưng các dân tộc thành viên đều có chung
một tình cảm u Tổ quốc Việt Nam và vì vậy, lịng u nước Việt Nam cịn
hàm chứa tình u thương nhau của những người trong cùng một nước.
Nhờ đoàn kết, cha ông ta đã tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả cộng đồng
dân tộc trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đoàn kết là điều kiện tất yếu để bảo
tồn dân tộc, nhất là khi đất nước có giặc ngoại xâm. Nhờ đồn kết mà cha ơng ta
đã sáng tạo ra nền văn minh sông Hồng, đặt cơ sở cho tồn bộ tiến trình phát
triển về sau của đất nước. Đoàn kết đã giúp nhân dân ta vượt qua những thử
thách khắc nghiệt của thiên nhiên, phát triển sản xuất để phục vụ đời sống của
mình. Từ kinh nghiệm thực tế, cha ông ta nhận thức sâu sắc rằng “Đồn kết thì
sống, chia rẽ thì chết”, “Một cây làm chẳng nên non, Ba cây chụm lại nên hòn
núi cao”. Tinh thần đoàn kết của toàn dân là nguồn sức mạnh lớn lao để nhân
dân ta đánh thắng mọi thế lực ngoại xâm.

Lịch sử dân tộc cho thấy rằng, đứng trước các thế lực ngoại xâm mà
khơng thực hiện đồn kết toàn dân, để cho mầm chia rẽ làm suy yếu đất nước thì
sự nghiệp giữ nước sẽ thất bại. Ý thức cộng đồng, tinh thần đoàn kết của nhân
dân ta là một điểm tựa tinh thần vững chắc, một động lực mạnh mẽ trong sự
nghiệp giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp cách mạng XHCN ở nước
ta, Hồ Chí Minh khẳng định “Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết, thành cơng,


19
thành cơng, đại thành cơng”. Giáo dục tinh thần đồn kết, làm cho sinh viên
nhận rõ được vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế
trong lịch sử dân tộc cũng như trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước,
bởi đây là vốn quý, là tài sản, là sức mạnh của dân tộc và động lực phát triển đất
nước. Sinh viên có trách nhiệm giữ gìn, củng cố và phát triển khối đại đoàn kết
toàn dân tộc theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Truyền thống đồn kết hiệp lực vì nghĩa lớn là nét đẹp truyền thống độc
đáo nhất của dân tộc Việt Nam. Trong cuộc sống, sinh hoạt cũng như trong học
tập của sinh viên không thể thiếu đi tinh thần đồn kết. Vì vậy, giáo dục truyền
thống đồn kết cộng đồng cho sinh viên phải được xem là một nội dung quan
trọng, từng bước xây dựng cho sinh viên ý thức tập thể, đoàn kết cá nhân với tập
thể hòa chung vào các phong trào của tập thể từ lớp, khoa, đến trường và rộng ra
nữa thì đó là quyết mối quan hệ cá nhân với tập thể, cá nhân với xã hội, biết đặt
lợi ích tập thể, lợi ích xã hội lên trên lợi ích cá nhân, biết hy sinh cái riêng để
phục vụ cái chung. Đây không chỉ là tình cảm mà cịn là trách nhiệm cao quý
của sinh viên. Nó thể hiện mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa sinh viên với tổ
chức Đồn, trong tập thể và trong xã hội, đoàn kết bên nhau, giúp đỡ nhau trong
khó khăn hoạn nạn với ý thức tình nguyện. Chính sự đồn kết thống nhất này là
động lực quan trọng để sinh viên từng bước trưởng thành, là cơ sở để gắn kết họ
với tập thể và với xã hội trong học tập và trong công tác sau này. Trong thời đại
ngày nay, đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế trở thành nhân tố của sự ổn định,

động lực của sự phát triển. Xây dựng và cũng cố khối đại đoàn kết dân tộc và
quốc tế trên lập trường của giai cấp vô sản là định hướng giá trị và lý tưởng sống
của tuổi trẻ, chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Tinh thần yêu nước chân
chính khác hẳn với tinh thần ái quốc của bọn đế quốc phản động. Nó là một bộ
phận của tinh thần quốc tế” [30, tr.172].
Đất nước ta đang trên con đường hội nhập kinh tế, đó là cơ hội để chúng
ta giao lưu học hỏi, hợp tác với các quốc gia trên thế giới nhằm phiển toàn diện


20
trên mọi lĩnh vực. Tuy nhiên, để làm được điều đó địi hỏi sự cố gắng của tồn
Đảng, tồn dân, trong đó, lực lượng sinh viên Việt Nam - những tri thức trẻ của
đất nước cần phải đi tiên phong, tự tin hội nhập, nắm bắt nhiều cơ hội phát
triển bản thân, quảng bá hình ảnh của Việt Nam với bạn bè quốc tế, góp phần
nâng vị trí của đất nước sánh với các cường quốc trên thế giới. Hội nhập tốt là
một nhân tố quyết định thành công của mỗi sinh viên trên con đường tu thân
lập nghiệp trong thời đại ngày nay. Bởi vậy, đây cũng chính là tiêu chí quan
trọng để bầu chọn sinh viên đạt danh hiệu Sinh viên năm tốt do Hội sinh viên
Việt Nam trao tặng.
1.2.4. Giáo dục lòng tự hào, ý thức trân trọng và góp phần làm giàu
truyền thống văn hóa, lịch sử, phong tục, tập quán của dân tộc
Niềm tự hào về các giá trị chân chính ln ln là động lực tinh thần to
lớn, kích thích hoạt động thực tiễn của mỗi con người. Phải xây dựng cho sinh
viên lòng tự hào về đất nước Việt Nam tươi đẹp, non sơng hùng vĩ; Về trang sử
vẻ vang chói lọi của dân tộc ta qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước; Tự
hào về Đảng quan vinh và Bác Hồ vĩ đại đã lãnh đạo nhân dân dân ta vượt qua
mọi khó khăn giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Bên cạnh
đó, cũng cần phải giáo dục ý thức bảo tồn các giá trị văn hóa của dân tộc. Bởi
đánh mất bản sắc văn hóa là đánh mất cội nguồn, đánh mất hồn thiêng của dân
tộc. u nước cịn là u và sự gìn giữ truyền thống, phong tục tập quán, bản

sắc văn hóa của dân tộc. Vì biểu hiện thường xun của lịng u nước Việt
Nam còn là ý thức trân trọng và quyết tâm bảo vệ di sản văn hóa dân tộc. Trước
hết, phải giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt; Hay tục thờ cúng tổ tiên vốn là
một tín ngưỡng phổ biến, nhưng hiếm có nơi đâu phong tục này có sức sống
mạnh mẽ và có ảnh hưởng rộng lớn như ở Việt Nam. Điều đặc biệt là tín
ngưỡng này có xu hướng phát triển thành quốc đạo, toàn dân lấy ngày 10 tháng
3 âm lịch hằng năm làm ngày Giỗ tổ Hùng Vương.


21
Cùng với việc thờ cúng tổ tiên, tục thờ cúng anh hùng cũng là biểu hiện
của lòng yêu nước. Trong suy nghĩ của người Việt ta, bất luận thế nào, nếu là
người có cơng đánh giặc, cứu nước đều có thể trở thành thần linh, được nhân
dân thờ cúng. Các vị nhân - thần này xuất hiện ngay từ buổi đầu dựng nước. Đó
là đức Phù Đổng Thiên Vương có cơng dẹp giặc Ân. Tiếp đó là Hai Bà Trưng,
Bà Triêu, Lý Nam Đế, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng… những người đã hy sinh
xương máu vì sự nghiệp giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ của phong kiến
phương Bắc. Từ đó về sau, cùng với những trang sử chống ngoại xâm của dân
tộc mỗi ngày một dày, danh sách các vị anh hùng xã thân cứu nước là nét đẹp
văn hóa của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam…
Bất kể dân tộc nào cũng yêu quý và trân trọng những giá trị văn hóa của
mình. Nhưng đối với người Việt Nam, điều đó khơng cịn dừng lại ở tình cảm tự
nhiên. Trãi qua những hoàn cảnh hết sức đặc biệt, để giữ gìn được bản sắc văn
hóa, bảo vệ lối sống riêng của mình, người Việt Nam đã phải trả giá bằng xương
máu. Thế kỷ XVIII, Quang Trung, Nguyễn Huệ viết: “Đánh cho để dài tóc, đánh
cho để răng đen”. Tóc dài, răng đen ở đây chính là hình tượng văn hóa dân tộc.
Hơn 4.000 năm lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã xây
dựng nên những truyền thống vơ cùng q báu, đó là cốt cách, là bản sắc văn
hóa của người dân Việt, điển hình như: tinh thần u nước nồng nàn, lịng căm
thù giặc sâu sắc, ý thức độc lập tự chủ, tự lực tự cường, tinh thần đoàn kết keo

sơn, anh dũng, kiên cường…Đảng ta ln chủ trương giữ gìn, kế thừa và phát
huy các giá trị truyền thống dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ, Đảng
ta đã nêu rõ: “Kế thừa và phát huy các giá trị tinh thần, đạo đức và thẩm mỹ, các
giá trị văn hóa, nghệ thuật của dân tộc” [10, tr.119].
Chính nhờ có sự kết hợp truyền thống dân tộc với sức mạnh thời đại đã
tạo nên sức mạnh tổng hợp - Sức mạnh Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến
trường kỳ giành thắng lợi vẻ vang, cũng như đạt được những thành tựu vượt bậc


22
trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Chính Mc.Namara- Nguyên Bộ trưởng Bộ
Quốc phòng Mỹ, một kẻ chống cộng điên cuồng đã phải thú nhận thất bại trong
chiến tranh ở Việt Nam là do: không đánh giá đúng sức mạnh tinh thần và sức
mạnh đoàn kết của dân tộc Việt Nam chiến đấu và hy sinh vì niềm tin và giá trị
cao cả; không hiểu hết lịch sử hào hùng, và nền văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước ta theo định
hướng XHCN, truyền thống quý báu đó của dân tộc ta vẫn là một giá trị văn
hóa có sức mạnh hết sức to lớn cả trong xây dựng, cũng như bảo vệ tổ quốc
Việt Nam XHCN.
Hơn 80 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, các
thế hệ thanh niên- sinh viên Việt Nam là những người có trách nhiệm hết sức
nặng nề là giữ gìn và phát huy những truyền thống quý báu ngàn đời của dân
tộc và phẩm chất tốt đẹp của người thanh niên thời đại Hồ Chí Minh trong
tình hình mới.
Trong xã hội hiện đại, nhất là khi tồn cầu hóa diễn ra với tốc độ nhanh,
nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa vẫn là một trong những hiểm họa mà các dân
tộc đang phải đối mặt. Đây đó trên hành tinh, âm mưu và thủ đoạn nhằm tiến
hành các cuộc xâm lăng văn hóa vẫn ngự trị trong suy nghĩ và hành động của
các thế lực cường quyền. Bảo tồn các giá trị văn hóa của dân tộc trở thành một
trong những nhiệm vụ trọng yếu của các quốc gia. Bởi đánh mất bản sắc văn hóa

là đánh mất cội nguồn, đánh mất hồn thiêng của dân tộc. Yêu nước cịn là u và
sự gìn giữ truyền thống, phong tục tập quán, bản sắc văn hóa của dân tộc.
Như vậy, bản chất cách mạng, truyền thống tốt đẹp của dân tộc là điểm
tựa cho sự phát triển mọi mặt của thanh niên- sinh viên; là cơ sở để xây dựng và
củng cố tình cảm cách mạng, lịng tự hào và ý thức tự tơn, tự trọng của mỗi sinh
viên. Đó cũng là điểm hội tụ của tri thức, trí tuệ và niềm tin cộng sản bên trong
mỗi con người, làm cơ sở vững chắc cho tình yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu


23
chế độ XHCN của sinh viên. Những điều này được bắt nguồn và nuôi dưỡng từ
truyền thống dân tộc, từ giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Vì vậy, cần phải phát triển, mở rộng lịng tự hào, tự trọng thành ý thức tơn trọng,
giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống dân tộc trong điều kiện mới hiện
nay. Biểu hiện ở tinh thần tích cực, chủ động, sáng tạo, vượt qua mọi thử thách
khó khăn, ra sức học tập, tu dưỡng, rèn luyện để nắm bắt, làm chủ khoa họccông nghệ hiện đại, phát huy cao nhất hiệu quả của nó trong xây dựng và bảo vệ
tổ quốc. Có ý chí vươn lên, phấn đấu trở thành Đoàn viên, sinh viên ưu tú, đảng
viên của Đảng Cộng sản Việt Nam, kế tục sự nghiệp của cha anh, giữ gìn và
phát huy truyền thống của gia đình, quê hương và đất nước. Tinh thần tự cường
dân tộc của sinh viên ngày nay không chỉ là sự tiếp nối ý chí, quyết tâm của
nhiều lớp ông cha đi trước mà trong bối cảnh mới ngày nay, còn được mở rộng
ra ở tinh thần năng động, óc tư duy sáng tạo độc lập, thái độ tự tin, đàng hoàng
của sinh viên trong bối cảnh quốc tế hiện nay.
1.2.5. Giáo dục lý tưởng phấn đấu vì “Dân giàu, nước mạnh, xã hội
dân chủ, công bằng, văn minh” theo con đường xã hội chủ nghĩa dưới sự
lãnh đạo của Đảng
Lòng yêu nước của nhân dân ta thời nào cũng có, song khơng chỉ dừng lại
ở tình cảm mà cịn trở thành động lực thơi thúc con người hành động vì Tổ quốc.
Do vậy, biểu hiện cao nhất của lịng u nước là hành động xả thân vì lợi ích của
đất nước. Người Việt Nam tôn vinh Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê

Lợi, Quang Trung… bởi họ là hiện thân khơng chỉ của khát vọng, tình cảm mà
còn là hiện thân của những hành động anh hùng vì đất nước. Trong số họ, chủ
tịch Hồ Chí Minh là biểu hiện vinh quang và chói lọi nhất, bởi Người là sự hội
tụ những gì tinh hoa nhất của truyền thống Việt Nam. Người khơng chỉ có tình
u Tổ quốc nồng nàn mà cịn có một ý chí, một quyết tâm cứu nước cháy bỏng.
Tình cảm ấy, ý chí ấy đã đưa Người đến những hành động thực tế, làm thay đổi


24
thân phận nô lệ của đất nước, làm cho chủ nghĩa yêu nước Việt Nam có sức
mạnh hiện thực để giải quyết các yêu cầu mà dân tộc đặt ra.
Trãi qua bao nhiêu khó khăn, gian khổ, mất mát, hy sinh, chúng ta đã
giành được độc lập, thống nhất tổ quốc, cả nước cùng phấn đấu xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Mục tiêu, lý tưởng của Đảng ta, của dân tộc ta là độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, con người của thời kỳ mới, yêu nước là một lịng
vì nước vì dân; Làm cho đất nước thoát khỏi nỗi nhục nghèo nàn, lạc hậu. Trong
mỗi việc làm vì tổ quốc cần nêu cao tinh thần lao động quên mình, “mình vì mọi
người, mọi người vì mình”. Lịng u nước khơng chấp nhận những con người
chỉ lo vun vén cho cá nhân và gia đình, họ tộc, tham nhũng, hối lộ, quan liêu,
hống hách, mang nặng chủ nghĩa cá nhân.
Để nhận thức và làm được điều đó, thanh niên phải trung thành tuyệt đối
với Đảng cộng sản Việt Nam, với Tổ quốc, với chế độ, với nhân dân, sẵn sàng
chiến đấu, hy sinh cả cuộc đời mình cho lý tưởng XHCN. Lịng trung thành của
người thanh niên - sinh viên phải được nâng lên thành đức tính hy sinh, sẵn sàng
xả thân vì độc lập dân tộc và CNXH, được thể hiện cao nhất là cống hiến cả trí
tuệ, sức lực và khi cần dám hy sinh cả tính mạng của mình cho sự nghiệp xây
dựng và BVTQ.
Hiện nay, sự hy sinh của thanh niên không phải chỉ bằng xương máu, mà
còn phải sẵn sàng chịu đựng mọi khó khăn, gian khổ, sẵn sàng chấp nhận một
cách tự nguyện mọi sự thiếu thốn về tình cảm, sự thua kém bạn bè về điều kiện

vật chất, sẵn sàng đến những nơi gian khổ, khó khăn để cống hiến trí tuệ, sức
lực, tuổi trẻ của mình cho đất nước. Họ khơng coi đó là sự thiệt thịi, mà trái lại
coi đó là niềm vinh dự to lớn của tuổi trẻ.
Trước đây, khi đất nước còn chiến tranh, người thanh niên u nước là
người có ý chí căm thù quân cướp nước, biết cầm súng lên đường bảo vệ tổ
quốc, góp phần hy sinh xương máu cho đất nước sạch bóng quân thù. Ngày nay


×