Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Quy định của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp và thực tiễn áp dụng tại thành phố thanh hóa, tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (673.33 KB, 64 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH
KHOA LUẬT
___________________

LÊ THỊ HƢƠNG

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM
THẤT NGHIỆP VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TẠI THÀNH PHỐ THANH HÓA,
TỈNH THANH HÓA

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH LUẬT (KINH TẾ - QUỐC TẾ)

Nghệ An, tháng 5 năm 2014

1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH
KHOA LUẬT
___________________

LÊ THỊ HƢƠNG

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM
THẤT NGHIỆP VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TẠI THÀNH PHỐ THANH HÓA,
TỈNH THANH HÓA


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH LUẬT (KINH TẾ - QUỐC TẾ)

Giảng viên hƣớng dẫn: ThS. LÊ VĂN ĐỨC

Nghệ An, tháng 5 năm 2014

2


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan bài khóa luận là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi.
Trong q trình thực hiện và hồn thành bài khóa luận này, tơi có tham khảo,
tìm hiểu một số các bài viết, đề tài có liên quan, tài liệu từ các sách báo, hay
website của các tác giả khác, các nguồn trích dẫn, tham khảo đã đƣợc chỉ ra
trong tài liệu tham khảo. Các số liệu và trích dẫn trong khóa luận đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực.

Sinh viên

Lê Thị Hương

3


LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình học tập và thực hiện bài khóa luận tốt nghiệp của
mình, tơi đã nhận đƣợc sự giúp đỡ nhiệt tình và vơ cùng q báu từ thầy cơ,

gia đình và bạn bè.
Tơi xin trân trọng cảm ơn sự hƣớng dẫn nghiêm túc, nhiệt tình và khoa
học của Thầy giáo Thạc sĩ Lê Văn Đức.
Xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của các thầy cô giáo Khoa Luật,
trƣờng Đại học Vinh và các bạn sinh viên khóa 51 khoa Luật đã giúp đỡ nhiệt
tình, tận tụy, tạo điều kiện thuận lợi để tôi thực hiện và hồn thành khóa luận
tốt nghiệp này.

4


MỤC LỤC

A. PHẦN MỞ ĐẦU....................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................. 8
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ................................................. 9
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài ........................................... 11
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài ........................................... 11
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài ......................................................... 11
6. Bố cục của đề tài ...................................................................................... 12
B. PHẦN NỘI DUNG ................................................................................. 13
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
HIỆN NAY VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP............................................. 13
1.1. Khái quát chung về bảo hiểm thất nghiệp ............................................. 13
1.1.1. Khái niệm về ngƣời thất nghiệp ......................................................... 13
1.1.2. Khái niệm chế độ bảo hiểm thất nghiệp ............................................. 17
1.1.3. Đặc điểm của bảo hiểm thất nghiệp ................................................... 20
1.1.4. Vai trò của bảo hiểm thất nghiệp ....................................................... 22
1.2. Nội dung của pháp luật Việt Nam hiện nay về bảo hiểm thất nghiệp ..... 26
1.2.1. Đối tƣợng áp dụng bảo hiểm thất nghiệp ........................................... 26

1.2.2. Điều kiện hƣởng bảo hiểm thất nghiệp .............................................. 27
1.2.3. Mức đóng góp bảo hiểm thất nghiệp.................................................. 32
1.2.4. Mức hƣởng, thời gian hƣởng trợ cấp thất nghiệp theo quy định của
pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ............................................................... 33
1.2.5. Tạm dừng và chấm dứt hƣởng trợ cấp thất nghiệp theo quy định của
pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ............................................................... 35
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG VÀ ĐÁNH GIÁ VIỆC THỰC HIỆN BẢO
HIỂM THẤT NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ THANH HÓA,
TỈNH THANH HÓA ................................................................................... 39

5


2.1. Khái qt tình hình thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp tại thành
phố Thanh Hóa ............................................................................................ 39
2.2. Thực tiễn áp dụng bảo hiểm thất nghiệp tại thành phố Thanh Hóa ... 42
2.2.1. Những kết quả đã đạt đƣợc ................................................................ 43
2.2.2. Khó khăn tồn tại trong việc thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp .. 46
2.3. Nguyên nhân của thực trạng trên .......................................................... 48
2.4. Đánh giá về việc thực hiện những quy định của pháp luật về bảo hiểm
thất nghiệp ................................................................................................... 49
Chƣơng 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP ................................. 53
3.1. Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo hiểm thất
nghiệp .......................................................................................................... 53
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi bảo hiểm thất nghiệp ................. 57
C. PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................. 61
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................ 62

6



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLĐTB & XH

:

Bộ Lao động Thƣơng binh và Xã hội

BHXH

:

Bảo hiểm xã hội

BHTN

:

Bảo hiểm thất nghiệp

CSXH

:

Chính sách xã hội

CP

:


Chính phủ

HĐLĐ

:

Hợp đồng lao động



:

Nghị định

NXB

:

Nhà xuất bản

QH

:

Quốc hội

TT

:


Thông tƣ

7


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thất nghiệp là một hiện tƣợng kinh tế - xã hội diễn ra ở hầu hết các
nƣớc trên thế giới trong đó có Việt Nam. Trong nền kinh tế thị trƣờng, thất
nghiệp là một hiện tƣợng khách quan và nó đƣợc biểu hiện nhƣ một đặc trƣng
vốn có của nền kinh tế thị trƣờng. Thất nghiệp có ảnh hƣởng rất lớn đến sự
phát triển kinh tế của đất nƣớc, đến sự ổn định chính trị - xã hội của một quốc
gia. Khơng những thế, thất nghiệp cịn ảnh hƣởng trực tiếp đến bản thân
ngƣời lao động và gia đình của họ, đẩy ngƣời lao động bị thất nghiệp lâm vào
tình cảnh khó khăn nghiêm trọng. Thất nghiệp gắn với việc mất mát thu nhập
làm cho ngƣời lao động lâm vào cuộc sống túng quẫn, đời sống dƣới mức
sống tiêu chuẩn chung. Hơn thế nữa một lực lƣợng lao động bị lãng phí nó là
một trong những ngun nhân cơ bản làm cho nền kinh tế bị đình trệ. Bên
cạnh đó, thất nghiệp diễn ra kéo dài cịn làm cho tình hình chính trị trở nên
bất ổn, rối loạn nếu khơng đƣợc can thiệp, giải quyết kịp thời. Có thể xảy ra
các cuộc biểu tình, đình cơng và là cơ hội cho các thế lực thù địch tiến hành
chống phá Đảng và Nhà nƣớc. Thất nghiệp làm cho ngƣời lao động giảm lòng
tin vào chế độ, giảm lòng tin vào khả năng lãnh đạo của Đảng và Nhà nƣớc,
thất nghiệp dẫn đến những thiệt hại nghiêm trọng về thu nhập của nền kinh tế
quốc dân, nguồn nhân lực bị lãng phí do thất nghiệp gia tăng, do số lƣợng
ngƣời lao động không có việc làm, khơng tham gia lao động sản xuất.
Vì vậy, vấn đề đặt ra cấp thiết hiện nay là làm thế nào để hạn chế thấp
nhất tình trạng thất nghiệp và đảm bảo cuộc sống cho số lƣợng ngƣời lao
động lâm vào tình trạng thất nghiệp là mục tiêu chung cơ bản của các quốc

gia, các tổ chức quốc tế và khu vực. Việt Nam cũng là một trong những quốc
gia đã và đang từng bƣớc giải quyết một cách có hiệu quả những ảnh hƣởng
xấu của thất nghiệp trong thời gian qua. Từ rất sớm khi đất nƣớc chuyển sang
nền kinh tế thị trƣờng tại Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII, năm 1996
8


Đảng ta đã khẳng định: “Từng bước hình thành quỹ bảo trợ thất nghiệp ở
thành thị, đảm bảo công ăn việc làm cho dân là mục tiêu hàng đầu, không để
thất nghiệp là căn bệnh kinh niên”. Tiếp đó, vấn đề thất nghiệp và bảo trợ
thất nghiệp đã và đang đƣợc khẳng định trong nhiều văn kiện của Đảng và
đƣợc cụ thể hóa bằng nhiều chính sách cụ thể đối với vấn đề này. Đặc biệt,
Bộ luật lao động và Luật Bảo hiểm xã hội ra đời là những văn bản pháp lý
quan trọng có liên quan đến bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam. Kể từ ngày
01/01/2009 Việt Nam chính thức thực hiện bảo hiểm thất nghiệp, qua một
thời gian thực hiện đến nay những quy định về bảo hiểm thất nghiệp đã và
đang đƣợc thực hiện áp dụng trên thực tế. Bên cạnh những kết quả đạt đƣợc
thì những quy định về bảo hiểm thất nghiệp hiện nay vẫn cịn một số bất cập
và khó khăn trong q trình triển khai thực hiện. Điều này cho thấy việc triển
khai thực hiện cần có những nghiên cứu nhiều hơn nữa về quy định của pháp
luật về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam hiện nay để thực hiện một cách có
hiệu quả những quy định của pháp luật. Bởi vậy, đây là một yêu cầu cấp thiết
cần đƣợc nhanh chóng triển khai sâu rộng.
Với vai trị là một sinh viên Luật đƣợc tiếp cận với những kiến thức cơ
bản liên quan đến vấn đề bảo hiểm thất nghiệp tôi rất mong muốn đƣợc tìm
hiểu kỹ hơn về vấn đề này. Bởi vậy, tôi đã quyết định lựa chọn đề tài: “Quy
định của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp và thực tiễn áp dụng tại thành
phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa” làm đề tài nghiên cứu của mình. Mong
rằng từ đề tài này tơi sẽ tích lũy đƣợc nhiều hơn nữa kiến thức cho bản thân
cũng nhƣ trình bày cho ngƣời đọc thấy đƣợc những quy định liên quan đến

bảo hiểm thất nghiệp hiện nay ở nƣớc ta. Để việc thực hiện các quy định của
pháp luật về ảo hiểm thất nghiệp đƣợc sát thực và có hiệu quả cao.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ở Việt Nam, Bảo hiểm thất nghiệp là một vấn đề mới cho nên các
cơng trình nghiên cứu chƣa nhiều mà chủ yếu là những đề tài, bài viết về
thất nghiệp, xây dựng chế độ bảo hiểm thất nghiệp. Trong đó, có thể đề
9


cập đến một số đề tài, bài viết, cuốn sách nhƣ sau: Cuốn sách “Bảo hiểm
xã hội - những điều cần biết” do Nhà xuất bản Thống kê sản xuất năm
2000; “Tổ chức Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế
thị trường” của TS. Nguyễn Văn Định và các cộng sự Bộ môn kinh tế
Bảo hiểm - Trƣờng Đại học kinh tế quốc dân năm 2000; PGS.TS. Nguyễn
Văn Ký đã có một bài viết “Luật Bảo hiểm xã hội và vấn đề Bảo hiểm
thất nghiệp”; “Những vấn đề lý luận và thực tiễn để xây dựng chính sách
Bảo hiểm thất nghiệp” (thực hiện năm 1999) và “Cơ chế tạo nguồn và tổ
chức thực hiện Bảo hiểm thất nghiệp” (thực hiện năm 2003) của Vụ chính
sách Lao động và Việc làm, Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội;
“Nghiên cứu xây dựng chế độ Bảo hiểm thất nghiệp theo Luật lao động
sửa đổi, bổ sung” của Vụ Bảo hiểm xã hội, Bộ Lao động - Thƣơng binh
và xã hội (thực hiện năm 2002); “Nghiên cứu những nội dung cơ bản của
Bảo hiểm thất nghiệp hiện đại - vấn đề lựa chọn hình thức trợ cấp thất
nghiệp ở Việt Nam” (thực hiện năm 2004) do TS. Nguyễn Huy Ban và các
cộng sự tại Bảo hiểm xã hội Việt Nam; “Tổ chức bảo hiểm thất nghiệp ở
Việt Nam” của tác giả PGS.TS. Nguyễn Văn Định, Trƣờng Đại học Kinh
tế quốc dân năm 2008.
Hầu hết các cơng trình nghiên cứu và bài viết trên đề cập đến từng khía
cạnh riêng lẻ, bức xúc trong lĩnh vực việc làm, thất nghiệp và Bảo hiểm thất
nghiệp trong điều kiện nƣớc ta chƣa thực hiện chính sách Bảo hiểm thất

nghiệp (khi đó Bảo hiểm thất nghiệp chƣa đƣợc triển khai thực hiện có hiệu
lực trong Luật Bảo hiểm xã hội). Kế thừa các nghiên cứu trên, bằng những
kinh nghiệm cá nhân trong quá trình tìm hiểu các tài liệu, sách báo đề tài
nghiên cứu của tơi có một số điểm mới so với các cơng trình nghiên cứu trƣớc
đó. Đề tài chủ yếu tập trung nhiều vào các quy định của pháp luật hiện nay về
bảo hiểm thất nghiệp từ đó đánh giá về quy định của pháp luật đã phù hợp với
thực tiễn áp dụng hiện nay bằng việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng tại thành
phố Thanh Hóa một địa phƣơng cụ thể tại Việt Nam.
10


3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là vấn đề bảo hiểm thất nghiệp và thực
tiễn áp dụng bảo hiểm thất nghiệp tại thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Phạm vi nghiên cứu của đề tài trên địa bàn thành phố Thanh Hóa,
tỉnh Thanh Hóa bao gồm tình hình tiếp nhận và giải quyết chế độ Bảo
hiểm thất nghiệp ở nhiều nội dung khác nhau trong thời gian từ năm 2010
đến năm 2013.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Đề tài có mục đích phân tích và làm rõ một số cơ sở lý luận về quy
định của pháp luật về Bảo hiểm thất nghiệp, thực tiễn về vấn đề áp dụng bảo
hiểm thất nghiệp tại thành phố Thanh Hóa. Từ đó, đề xuất một số giải pháp
chủ yếu hồn thiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam trong thời
gian tới.
Để thực hiện mục đích trên đề tài có nhiệm vụ nhƣ sau: Hệ thống hóa
và làm rõ các quy định của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp; phân tích thực
trạng áp dụng chế độ bảo hiểm thất nghiệp tại thành phố Thanh Hóa; chỉ ra
một số kết quả đã đạt đƣợc cũng nhƣ một số khó khăn, bất cập trong q trình

áp dụng chính sách bảo hiểm thất nghiệp ngay trên địa bàn thành phố Thanh
Hóa, từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện chính sách bảo
hiểm thất nghiệp của Việt Nam hiện nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Để giải quyết đề tài, phép biện chứng duy vật của triết học Mác –
Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh đƣợc sử dụng với tƣ cách là phƣơng
pháp luận cho việc nghiên cứu. Ngoài ra, để phù hợp với từng vấn đề cụ
thể đề tài cịn sử dụng các phƣơng pháp: phân tích, so sánh, tổng hợp.
khái quát hóa.

11


6. Bố cục của đề tài
Bố cục của khóa luận đƣợc xây dựng trên cơ sở phù hợp với mục đích,
nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài. Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết
luận và danh mục tài liệu tham khảo, thì khóa luận bao gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và các quy định của pháp luật hiện nay về bảo
hiểm thất nghiệp;
Chƣơng 2: Thực trạng và đánh giá việc thực hiện bảo hiểm thất nghiệp
trên địa bàn thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa;
Chƣơng 3: Một số giải pháp nhằm hồn thiện các quy định của
pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp.

12


B. PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CÁC QUY ĐỊNH CỦA

PHÁP LUẬT HIỆN NAY VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP

1.1. Khái quát chung về bảo hiểm thất nghiệp
1.1.1. Khái niệm về người thất nghiệp
Thất nghiệp là hiện tƣợng kinh tế - xã hội tồn tại ở hầu hết các quốc
gia khi phát triển theo mơ hình kinh tế thị trƣờng. Theo cách hiểu chung
nhất chúng ta có thể nói thất nghiệp là tình trạng tồn tại của một bộ phận
người lao động muốn làm việc nhưng khơng có việc làm [13, 13]. Theo
quan điểm của Tổ chức lao động quốc tế (ILO), thất nghiệp là tình trạng
một số người trong lực lao động muốn tìm việc làm nhưng khơng thể tìm
được việc làm ở mức tiền cơng đang thịnh hành [14, 198].
Nhƣ vậy, thất nghiệp có thể hiểu là tình trạng phát sinh khi “tổng
cung về lao động của những người lao động muốn làm việc với mức tiền
lương danh nghĩa tại một thời điểm lớn hơn khối lượng việc làm hiện có”
[15, 35].
Cịn về “Người thất nghiệp” theo quan điểm đƣa ra của Tổ chức lao
động quốc tế (ILO) đƣa ra tại Hội Nghị lần thứ 13 các nhà Thống kê lao động
quốc tế vào tháng 10 năm 1982 có đƣa ra: Người thất nghiệp là những người
trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, hiện tại khơng có việc làm,
muốn làm việc và hiện rất sẵn sàng để làm việc đang tích cực để tìm kiếm
việc làm [13, 13].
Văn phòng lao động quốc tế (BIT) đã đƣa ra khái niệm về ngƣời thất
nghiệp nhƣ sau: Người thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động, có khả
năng lao động nhưng khơng có việc làm. Họ có thể là người chưa có việc làm
hoặc có việc làm nhưng đã thơi việc và đang cần tìm việc làm có thu nhập
[14, 198].
13


Từ các định nghĩa trên có thể thấy khơng phải ngƣời nào khơng có việc

làm thì đƣợc xếp vào nhóm “người thất nghiệp”, mà chỉ những ngƣời trong
độ tuổi lao động, có khả năng lao động, đang khơng có việc làm, đang tìm
việc làm, thì mới đƣợc coi là ngƣời thất nghiệp. Sở dĩ, ngƣời thất nghiệp phải
là ngƣời trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động là vì nhƣ chúng ta đã
biết con ngƣời chỉ có thể lao động, làm việc đƣợc khi đạt đƣợc một thể lực
nhất định tức là đến một độ tuổi nào đó mới có thể lao động cũng nhƣ làm
việc để tạo ra thu nhập đáp ứng cuộc sống hàng ngày. Bên cạnh đó, chúng ta
cũng phải đề cập đến một số trƣờng hợp có những ngƣời trong độ tuổi lao
động nhƣng họ không thể lao động đƣợc do gặp một số hồn cảnh rủi ro ví dụ
nhƣ: tàn tật, tai nạn, ốm đau nặng… dẫn đến khơng có khả năng lao động
đƣợc nữa.
Việc xác định tiêu chí để đƣợc coi là “người thất nghiệp” ở các quốc
gia có thể là khơng giống nhau. Cộng hòa liên bang Đức quan niệm người
thất nghiệp là người lao động tạm thời khơng có quan hệ lao động hoặc chỉ
thực hiện công việc ngắn hạn [14, 198]. Cộng hịa Pháp thì cho rằng người
thất nghiệp là người có đủ điều kiện để làm việc nhưng khơng có việc làm và
đang tìm việc [14, 198-199] . Nhật Bản quan niệm người thất nghiệp là người
khơng có việc làm trong tuần lễ điều tra thất nghiệp, có khả năng làm việc,
đang tích cực tìm việc làm hoặc chờ kết quả xin việc làm…[14, 199]. Nhìn
chung, dù cịn chƣa hoàn toàn thống nhất quan điểm về ngƣời thất nghiệp
nhƣng đa số các quốc gia đều cho rằng để đƣợc coi là ngƣời thất nghiệp phải
đảm bảo ít nhất những tiêu chí sau đây: có khả năng lao động; khơng có việc
làm; đang tích cực tìm kiếm việc làm.
Ngồi ra, với cơ chế quản lý nguồn lao động của từng quốc gia nhƣ
hiện nay để phù hợp và đạt hiệu quả trong việc chi trả bảo hiểm thất nghiệp,
khuyến khích ngƣời lao động chủ động tìm kiếm việc làm, các quốc gia có thể
đƣa ra các điều kiện bổ sung để đƣợc công nhận là ngƣời thất nghiệp nhƣ: đã
đăng ký tìm việc làm ở cơ quan quản lý lao động; khơng có nguồn thu nhập
14



dƣới dạng tiền hƣu trí, tiền mất sức lao động hay nguồn thu nhập khác do
ngƣời sử dụng lao động trả; giới hạn về độ tuổi; sẵn sàng làm việc theo sự
giới thiệu của cơ quan lao động dƣới mọi hình thức (làm việc cơng cộng, việc
làm tạm thời, việc làm phù hợp hay không phù hợp với chuyên môn…).
Do mỗi một quốc gia khác nhau có đặc điểm xã hội và những chính
sách kinh tế khác nhau nên khái niệm “người thất nghiệp” cũng có cách hiểu
có phần cũng không đƣợc giống nhau. Ngay tại một quốc gia, trong từng giai
đoạn phát triển kinh tế - xã hội cũng đƣa ra các khái niệm khác nhau về ngƣời
thất nghiệp. Chúng ta có thể lấy một ví dụ điển hình nhƣ tại vƣơng quốc Anh
trong vòng 20 năm, khái niệm ngƣời thất nghiệp đƣợc thay đổi tới 32 lần.
Trong quá trình nghiên cứu mơ hình chính sách để thực hiện bảo hiểm
thất nghiệp ở Việt Nam, tiến tới ban hành các văn bản pháp luật về bảo hiểm
thất nghiệp đa số các ý kiến đều thống nhất khi đƣa ra khái niệm về ngƣời
thất nghiệp nhƣ sau: “Người thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động, có
khả năng lao động, trong khoảng thời gian xác định khơng có việc làm,
đang tìm việc làm, đã đăng ký thất nghiệp theo quy định” [4, 7]. Theo quy
định tại khoản 4, điều 3 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 thì “Người thất
nghiệp là người đang đóng bảo hiểm thất nghiệp mà bị mất việc làm hoặc
chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc nhưng chưa tìm được việc
làm”. Nhƣ vậy, một cá nhân đƣợc coi là ngƣời thất nghiệp khi đảm bảo các
điều kiện sau đây:
Là ngƣời trong độ tuổi lao động. Theo quy định hiện hành của pháp
luật lao động Việt Nam, độ tuổi lao động tối thiểu là đủ 15 tuổi và tối đa là đủ
60 tuổi (đối với nam), 55 tuổi (đối với nữ). [Điều 6 Bộ luật lao động năm
1994, sửa đổi bổ sung 2002, 2006, 2007; Điều 3 Bộ luật lao động năm 2012].
“Có khả năng lao động”. Đƣợc hiểu là khả năng của ngƣời lao động
bằng hành vi của mình, có thể thực hiện các cơng việc phù hợp với thể lực và
trí lực. Có thể nói, khả năng của ngƣời lao động đóng vai trị quan trọng nhờ
có một thể lực tốt mà ngƣời lao động có thể làm những cơng việc khác nhau

15


phù hợp với sức khỏe. Ngoài ra, hiện nay khả năng của ngƣời lao động cịn có
thể đƣợc xác định thơng qua năng lực, trình độ chun mơn, hiểu biết của
ngƣời lao động bằng kiến thức, khả năng của bản thân để thực hiện các công
việc đạt hiệu quả cao nhất.
Trong khoảng thời gian đƣợc xác định hƣởng bảo hiểm thất nghiệp là
ngƣời khơng có việc làm. Theo quy định tại điều 9 Bộ luật lao động năm 2012
đã quy định: “Việc làm là hoạt động lao động tạo ra thu nhập mà khơng bị
pháp luật cấm”. Vì vậy, tình trạng khơng có việc làm của những ngƣời thất
nghiệp đƣợc hiểu là họ khơng có các nguồn thu nhập dƣới dạng tiền lƣơng do
không tham gia các quan hệ lao động.
Đang tích cực tìm việc làm. Đây là điều kiện quan trọng để phân biệt
ngƣời thất nghiệp và ngƣời không có việc làm. Khái niệm ngƣời khơng có
việc làm bao gồm: Những ngƣời khơng có việc làm nhƣng khơng muốn làm
việc và do đó khơng tích cực tìm kiếm việc làm. Những ngƣời khơng có việc
làm, đang tích cực tìm kiếm việc làm và sẵn sàng đi làm khi đƣợc giới thiệu.
Chỉ những ngƣời thuộc nhóm những ngƣời khơng có việc làm, đang tích cực
tìm kiếm việc làm và sẵn sàng đi làm khi đƣợc giới thiệu mới đƣợc coi là
ngƣời thất nghiệp thuộc đối tƣợng áp dụng chế độ bảo hiểm thất nghiệp.
Đã đăng ký thất nghiệp. Thông thƣờng ở các quốc gia phát triển việc
đăng ký thất nghiệp đƣợc tiến hành tại cơ quan giới thiệu việc làm và đƣợc
đặt dƣới sự quản lý trực tiếp của các cơ quan lao động từ Trung ƣơng đến
địa phƣơng. Việc đăng ký thất nghiệp không những giúp các cơ quan chức
năng chủ động tìm kiếm và giới thiệu việc làm cho ngƣời thất nghiệp mà
còn giúp Nhà nƣớc thống kê số lƣợng ngƣời thất nghiệp để có thể điều
chỉnh kịp thời đối với chính sách thất nghiệp. Tại Việt Nam hiện nay thị
trƣờng lao động vận hành chƣa đồng bộ mạng lƣới đăng ký dịch vụ việc
làm chƣa đƣợc tổ chức tốt, ngƣời lao động chủ yếu tự tìm việc làm là

chính. Do đó, nếu pháp luật quy định “người thất nghiệp phải đăng ký thất
nghiệp” thì có thể số ngƣời đến đăng ký thất nghiệp sẽ ít hơn số ngƣời thất
16


nghiệp trên thực tế. Nhƣng để thực hiện tốt việc quản lý, giới thiệu việc
làm và chi trả trợ cấp thất nghiệp tiêu thức “đã đăng ký thất nghiệp” vẫn
đƣợc đề cập trong khái niệm người thất nghiệp.
Việc xác định khái niệm “người thất nghiệp” là vấn đề rất quan trọng
vì liên quan đến nhiều vấn đề, trong đó quan trọng nhất là xác định phạm vi,
đối tƣợng điều chỉnh của chế độ bảo hiểm thất nghiệp. Trong từng thời kỳ phụ
thuộc vào chủ trƣơng mở rộng phạm vi, đối tƣợng điều chỉnh của chế độ bảo
hiểm thất nghiệp, Nhà nƣớc nên cân nhắc kỹ những đối tƣợng cụ thể đƣợc
quyền tham gia bảo hiểm thất nghiệp.
1.1.2. Khái niệm chế độ bảo hiểm thất nghiệp
Để giải quyết tình trạng thất nghiệp, nhiều biện pháp đã đƣợc thực hiện
nhằm trợ giúp kịp thời cho những ngƣời thất nghiệp trong thời gian chƣa tìm
đƣợc việc làm và tạo cơ hội cho họ học nghề, tìm kiếm cơng việc mới. Một
trong số các biện pháp đó là xây dựng và thực hiện chế độ bảo hiểm thất
nghiệp. Cho đến nay có khoảng 70 quốc gia thực hiện chế độ bảo hiểm thất
nghiệp nhƣ Anh (bắt đầu thực hiện từ năm 1911), Mỹ (1935), Italia (1937),
Pháp (1958), Trung Quốc (1968)…
Khái niệm “bảo hiểm thất nghiệp” hiện nay đƣợc tiếp cận ở nhiều góc
độ khác nhau. Để có thể tìm hiểu đƣợc đầy đủ và tồn diện khái niệm bảo
hiểm thất nghiệp chúng ta có thể xem xét một số góc độ dƣới đây:
Dƣới góc độ kinh tế - xã hội, “bảo hiểm thất nghiệp được hiểu là giải
pháp nhằm khắc phục hậu quả của tình trạng thất nghiệp, giúp người thất
nghiệp tạm thời đảm bảo cuộc sống và tìm kiếm việc làm thơng qua việc tạo
lập và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung” [14, 202]. Qũy này đƣợc hình thành do
sự đóng góp của ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động, bên cạnh đó cịn

có sự hỗ trợ của Nhà nƣớc, đƣợc sử dụng để trả trợ cấp cho ngƣời thất nghiệp,
cũng nhƣ tiến hành các biện pháp nhằm giúp cho ngƣời thất nghiệp có đƣợc
việc làm mới. Khoản tiền trợ giúp trích từ quỹ bảo hiểm thất nghiệp nhằm
đảm bảo cuộc sống cho ngƣời lao động trong thời gian mất việc làm đƣợc gọi
17


là trợ cấp thất nghiệp. Về bản chất, tiền trợ cấp thất nghiệp đƣợc coi là hình
thức bù đắp một phần sự mất mát thu nhập do hậu quả của tình trạng thất
nghiệp và giúp ngƣời thất nghiệp học nghề, tìm kiếm việc làm mới.
Dƣới góc độ pháp lý, “chế độ bảo hiểm thất nghiệp là tổng thể các quy
phạm pháp luật quy định việc đóng góp và sử dụng quỹ bảo hiểm thất nghiệp,
chi trả trợ cấp thất nghiệp để bù đắp thu nhập cho người lao động bị mất việc
làm và thực hiện các biện pháp đưa người thất nghiệp trở lại làm việc” [14,
203]. Bảo hiểm thất nghiệp vì thế thƣờng đƣợc hiểu là một chế độ trong hệ
thống các chế độ bảo hiểm xã hội, có mục đích hỗ trợ thu nhập cho ngƣời lao
động mất thu nhập do thất nghiệp.
Theo Công ƣớc số 102 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO), bảo hiểm
thất nghiệp là một trong 9 nhánh của bảo hiểm xã hội. Việc chi trả trợ cấp
thất nghiệp nhằm hỗ trợ một phần thu nhập cho ngƣời lao động bị mất việc
làm và giúp họ có điều kiện học nghề, tạo cơ hội tiếp tục tham gia thị trƣờng
lao động. Cùng với các chế độ bảo hiểm xã hội khác, chế độ bảo hiểm thất
nghiệp đã góp phần hồn thiện và nâng cao khả năng bảo vệ ngƣời lao động
của hệ thống pháp luật bảo hiểm xã hội. Hiện nay, có 69/153 quốc gia có hệ
thống bảo hiểm xã hội đã ban hành và thực hiện chế độ bảo hiểm thất
nghiệp. Tuy nhiên, quan điểm của các nƣớc về vị trí của bảo hiểm thất
nghiệp trong hệ thống pháp luật quốc gia khơng hồn tồn giống nhau. Đa số
các nƣớc cho rằng bảo hiểm thất nghiệp là một bộ phận của hệ thống bảo
hiểm xã hội và đƣợc quy định trong Luật bảo hiểm xã hội của quốc gia
(Anh, Mỹ, Thụy Điển…). Một số ít các quốc gia khác (nhƣ Ba Lan, Nhật

Bản, Hàn Quốc…) xuất phát từ quan điểm không coi bảo hiểm thất nghiệp là
biện pháp giải quyết hậu qủa thất nghiệp một cách bị động, nhằm nhấn mạnh
vai trò chủ động của bảo hiểm thất nghiệp trong việc thúc đẩy sự chuyển đổi
cơ cấu ngành nghề, giảm thất nghiệp, tìm và tạo việc làm cho ngƣời lao
động… đã ban hành luật về việc làm, trong đó quy định về trợ cấp thất
nghiệp. Tại các nƣớc này các quy định về bảo hiểm thất nghiệp không thuộc
18


hệ thống pháp luật về bảo hiểm xã hội mà là một chế định trong hệ thống
pháp luật về việc làm.
Để phù hợp với Công ƣớc của Tổ chức lao động quốc tế (ILO), để
đảm bảo tính thống nhất và đồng bộ của hệ thống pháp luật lao động, phù
hợp với mục đích của bảo hiểm thất nghiệp, trong định hƣớng xây dựng chế
độ bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam bảo hiểm thất nghiệp đƣợc coi là một
chế độ của bảo hiểm xã hội. Theo đó, “Bảo hiểm thất nghiệp là tổng thể các
quy phạm pháp luật quy định về việc đóng góp và sử dụng quỹ bảo hiểm thất
nghiệp, chi trả trợ cấp thất nghiệp để bù đắp cho người lao động bị mất việc
làm và thực hiện các biện pháp đưa người thất nghiệp trở lại làm việc” [13,
57]. Bảo hiểm thất nghiệp vì thế đƣợc hiểu là một chế độ trong hệ thống các
chế độ bảo hiểm xã hội, có mục đích hỗ trợ thu nhập cho ngƣời lao động bị
mất thu nhập do thất nghiệp. Trong hệ thống các chế độ Bảo hiểm xã hội,
chế độ bảo hiểm thất nghiệp đƣợc coi là một chế độ quan trọng. Ngƣời lao
động tham gia bảo hiểm xã hội khi bị thất nghiệp sẽ đƣợc nhận trợ cấp bảo
hiểm thất nghiệp do cơ quan bảo hiểm xã hội chi trả. Mức trợ cấp bao giờ
cũng thấp hơn tiền lƣơng, tiền công lúc đang công tác và phụ thuộc vào thời
gian đóng bảo hiểm thất nghiệp và khả năng chi trả của quỹ Bảo hiểm xã
hội. Dựa trên đóng góp của ngƣời lao động để có mức hỗ trợ thu nhập cho
ngƣời lao động phù hợp hơn. Bên cạnh việc hỗ trợ về tài chính giúp ngƣời
lao động ổn định cuộc sống nhờ có đóng góp quỹ bảo hiểm thất nghiệp

ngƣời lao động cịn có cơ hội đƣợc tƣ vấn giới thiệu việc làm, đào tạo dạy
nghề để nhanh chóng tìm đƣợc cơng việc mới ổn định cuộc sống. Nhƣ vậy,
có thể thấy chính sách bảo hiểm thất nghiệp có một vai trị cực kỳ quan
trọng giúp ngƣời lao động bị thất nghiệp có cơ hội tìm đƣợc việc làm cũng
nhƣ hỗ trợ bƣớc đầu cho ngƣời lao động nhanh chóng có cơ hội trở lại thị
trƣờng lao động. Đây là chính sách mang tính thiết thực và gắn với thực tiễn
của Việt Nam.

19


1.1.3. Đặc điểm của bảo hiểm thất nghiệp
Bảo hiểm thất nghiệp cũng giống nhƣ các chế độ bảo hiểm xã hội khác
tức là cũng đều xuất phát từ quan hệ lao động. Nhƣ chúng ta đã biết trong
quan hệ lao động giữa ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động bảo hiểm
thất nghiệp đƣợc thiết lập góp phần bảo vệ quyền lợi cho ngƣời lao động, có
mục đích bù đắp thu nhập cho ngƣời lao động.
Bên cạnh đó, bảo hiểm thất nghiệp cũng mang những đặc điểm riêng
nhƣ sau:
Bảo hiểm thất nghiệp xuất phát từ quan hệ lao động nhƣng khi thực
hiện chủ yếu thuộc về lĩnh vực việc làm. Việc thực hiện chi trả trợ cấp thất
nghiệp luôn đƣợc gắn với vấn đề giải quyết việc làm cho ngƣời lao động. Bảo
hiểm thất nghiệp do đó vừa có chức năng hỗ trợ khó khăn cho ngƣời thất
nghiệp khi tạm thời mất thu nhập vừa có chức năng xúc tiến những hoạt động
tìm kiếm và tạo việc làm cho ngƣời thất nghiệp.
Bảo hiểm thất nghiệp không chỉ thu và chi trả trợ cấp thất nghiệp mà
còn thực hiện các biện pháp để đƣa ngƣời lao động trở lại thị trƣờng lao động.
Do đó, cơ quan bảo hiểm thất nghiệp vừa có trách nhiệm nhận đăng ký thất
nghiệp, kiểm tra các điều kiện của ngƣời lao động trƣớc khi trả trợ cấp thất
nghiệp vừa phải kịp thời nắm bắt các thông tin về thị trƣờng lao động để giới

thiệu việc làm, đào tạo nghề phù hợp cho ngƣời thất nghiệp. Đây là điểm khác
biệt của hoạt động quản lý bảo hiểm thất nghiệp so với các loại hình bảo hiểm
xã hội khác. Đồng thời, vấn đề này cũng tạo nên những quan điểm không
thống nhất về việc nên giao cho cơ quan nào chịu trách nhiệm quản lý hoạt
động bảo hiểm thất nghiệp. Có ý kiến cho rằng nên giao cho cơ quan bảo
hiểm xã hội thống nhất quản lý các chế độ bảo hiểm xã hội trong đó có bảo
hiểm thất nghiệp. Nhƣng cũng có ý kiến cho rằng nên giao cho cơ quan quản
lý lao động các cấp quản lý để chủ động thực hiện chức năng đăng ký thất
nghiệp, chi trả trợ cấp thất nghiệp, cũng nhƣ tiến hành các hoạt động tìm kiếm
và giới thiệu việc làm.
20


Nhƣ vậy, khác với các cơ quan quản lý bảo hiểm thông thƣờng chỉ thực
hiện chức năng thu, chi bảo hiểm xã hội, các cơ quan bảo hiểm thất nghiệp
còn phải tiến hành các hoạt động nghiệp vụ nhằm giải quyết việc làm, bên
cạnh các nghiệp vụ bảo hiểm xã hội thuần túy.
Đối tƣợng áp dụng chế độ bảo hiểm thất nghiệp là những ngƣời lao
động, có sức lao động nhƣng bị mất việc làm, tạm thời khơng có thu nhập và
sẵn sàng trở lại làm việc. Nhƣ vậy, đối tƣợng hƣởng bảo hiểm thất nghiệp là
những ngƣời lao động bị chấm dứt quan hệ lao động một cách không tự
nguyện (nằm ngồi ý chí chủ quan của họ) và vẫn có khả năng lao động. Cịn
đối tƣợng của các chế độ bảo hiểm xã hội khác là những ngƣời lao động vẫn
đang tồn tại quan hệ lao động (chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản) hoặc chấm dứt
quan hệ lao động do khơng có khả năng tiếp tục làm việc (hƣu trí, tử tuất).
Việc thực hiện chế độ bảo hiểm thất nghiệp rất phức tạp và khó quản
lý. Quy mô và tỷ lệ thất nghiệp không thể dự đốn chính xác, gây khó khăn
rất lớn trong việc hạch toán và cân đối thu chi của quỹ bảo hiểm thất nghiệp.
Hoạt động của bảo hiểm thất nghiệp lại có mối liên quan mật thiết với hệ
thống đào tạo nghề, các trung tâm giới thiệu việc làm và chƣơng trình quốc

gia về việc làm địi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ của cơ quan quản lý bảo
hiểm thất nghiệp với các cơ quan chức năng khác trong lĩnh vực lao động việc
làm. Bảo hiểm thất nghiệp không chỉ bó hẹp trong việc thực hiện các nghiệp
vụ bảo hiểm xã hội thuần túy mà còn phải giúp ngƣời lao động tìm kiếm và
tạo việc làm. Đây là hai chức năng cơ bản của bảo hiểm thất nghiệp và cũng
là điểm khác biệt cơ bản của bảo hiểm thất nghiệp so với các chế độ bảo hiểm
xã hội khác.
Việc xác định điều kiện hƣởng trợ cấp thất nghiệp khó khăn hơn so với
các chế độ bảo hiểm xã hội khác. Bởi vì ranh giới để phân định giữa có việc
làm và khơng có việc làm, giữa có thu nhập và khơng có thu nhập khơng rõ
ràng khó xác định và kiểm tra trong thực tế. Vì vậy, việc xác định đúng các
đối tƣợng đủ điều kiện để chi trả trợ cấp thất nghiệp trong thực tế gặp nhiều
21


khó khăn. Là một trong những chế độ bảo hiểm xã hội, chế độ bảo hiểm thất
nghiệp cũng giống với các chế độ bảo hiểm khác. Nhƣng cũng có những điểm
cần lƣu ý trong quá trình xây dựng và thực hiện chế độ bảo hiểm thất nghiệp
nhằm vừa đảm bảo ý nghĩa của bảo hiểm thất nghiệp vừa tạo sự thống nhất
trong hệ thống bảo hiểm xã hội nói chung.
1.1.4. Vai trò của bảo hiểm thất nghiệp
Bảo hiểm thất nghiệp là một chế định quan trọng trong nền kinh tế thị
trƣờng. Nó góp phần tạo nên sự phát triển hài hịa khơng chỉ cho ngƣời lao
động mà cịn cho cả ngƣời sử dụng lao động bởi vậy mà nó có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng trong hoạt động phát triển của nền kinh tế nhƣ hiện nay. Đây
là một điểm mới và cần thiết, việc thực hiện bảo hiểm thất nghiệp góp phần
đáp ứng nguyện vọng của đơng đảo ngƣời lao động khơng những thế cũng
góp phần thực hiện tốt mục tiêu an sinh xã hội của đất nƣớc ta trong những
năm qua. Đặc biệt là trong nền kinh tế thị trƣờng khi mà tình trạng thất
nghiệp diễn ra ngày một thƣờng xuyên và phổ biến. Khi đó, bảo hiểm thất

nghiệp sẽ đóng vai trị hỗ trợ ngƣời lao động trong thời gian bị mất việc làm
và là cơ sở từng bƣớc đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế khi Việt
Nam đã gia nhập là thành viên của Tổ chức thƣơng mại thế giới (WTO).
Cùng với các chế độ bảo hiểm xã hội khác, bảo hiểm thất nghiệp khi ra
đời cũng đóng vai trị cực kỳ quan trọng. Đặc biệt, là vai trò giúp đỡ và bảo vệ
ngƣời lao động. Nhƣ chúng ta đã biết trong quan hệ lao động, ngƣời lao động
là đối tƣợng luôn phải trải qua những rủi ro cũng nhƣ những khó khăn trong
suốt quá trình lao động và làm việc. Và để giúp đỡ bảo vệ ngƣời lao động,
bảo hiểm thất nghiệp đƣợc xem là nịng cốt tạo điểm tựa an tồn cho ngƣời
lao động vƣợt qua khó khăn. Khơng những thế bảo hiểm thất nghiệp cịn góp
phần đảm bảo cuộc sống cho ngƣời thất nghiệp, giúp họ đƣợc quay trở lại làm
việc để có thu nhập ổn định cuộc sống. Bên cạnh đó, bảo hiểm thất nghiệp
cịn góp phần tạo nên sự ổn định trong xã hội. Bởi lẽ, xã hội có đƣợc ổn định
hay khơng một phần cũng nhờ những thành viên trong xã hội đó có cuộc sống
22


ổn định để ni sống bản thân và gia đình. Khi tất cả những ngƣời lao động
có việc làm, có sức khỏe năng suất ngày càng cao tạo điều kiện cho sự phát
triển ngày càng cao của kinh tế cũng nhƣ sự phát triển của một đất nƣớc.
Đối với ngƣời lao động. Ngƣời lao động khi làm việc luôn mong muốn
có đƣợc cơng việc ổn định. Thế nhƣng, trong quan hệ lao động ngƣời lao
động luôn phải đối mặt với nguy cơ mất việc làm dẫn đến thất nghiệp. Bởi
vậy, ngƣời lao động ln cần một “lưới an tồn” để bảo vệ bản thân và bảo
hiểm thất nghiệp đã thực hiện vai trị này. Trong đó, bảo hiểm thất nghiệp vừa
giúp đỡ ngƣời lao động ổn định cuộc sống khi họ bị mất việc làm thông qua
trả trợ cấp thất nghiệp và tạo cơ hội để ngƣời lao động có thể tiếp tục trở lại
làm việc tham gia vào thị trƣờng lao động để có thu nhập ổn định cuộc sống
của bản thân và gia đình. Nhƣ vậy, qua đây một lần nữa có thể thấy bảo hiểm
thất nghiệp có vai trò quan trọng một mặt giữ vai trò là biện pháp giải quyết

thất nghiệp, mặt khác là chính sách cũng nhƣ chỗ dựa về vật chất và tinh thần
cho ngƣời lao động.
Đối với ngƣời sử dụng lao động. Bảo hiểm thất nghiệp khơng chỉ
đóng vai trị quan trọng đối với ngƣời lao động, mà cịn đóng vai trị khơng
thể thiếu đối với ngƣời sử dụng lao động. Hiện nay, tại các doanh nghiệp
số lƣợng ngƣời lao động ngày càng đơng, trong khi đó sản phẩm mà ngƣời
lao động làm ra tiêu thụ trên trƣờng lại ít. Nên buộc các doanh nghiệp phải
thực hiện biện pháp cắt giảm số lƣợng ngƣời lao động. Nhờ có chế độ bảo
hiểm thất nghiệp nên khi ngƣời lao động tại các doanh nghiệp bị mất việc
làm, ngƣời sử dụng lao động không phải bỏ ra một khoản chi phí lớn nào
để giải quyết các chế độ cho ngƣời lao động khi bị mất việc làm. Vì vậy,
mà các doanh nghiệp - ngƣời sử dụng lao động đƣợc san sẻ cũng nhƣ giảm
bớt gánh nặng về tài chính. Đặc biệt là trong giai đoạn khi mà ngƣời sử
dụng lao động đang phải trải qua thời gian khó khăn khi một mặt vừa phải
đảm bảo năng suất, chất lƣợng, hiệu quả lao động của công ty, một mặt vừa

23


phải thu hẹp đƣợc số lƣợng ngƣời lao động nhƣng năng suất cũng phải đảm
bảo đƣợc hiệu quả.
Hơn nữa, khi tham gia bảo hiểm thất nghiệp và biết rõ quyền đƣợc trợ
cấp thất nghiệp ngƣời lao động sẽ tham gia ngày càng đông cũng nhƣ sẽ yên
tâm hơn trong quá trình lao động, làm việc bằng hết khả năng, năng lực của
bản thân trong công việc, tạo ra năng suất chất lƣợng cao cho ngƣời sử dụng
lao động. Bởi vậy, mà lợi nhuận của ngƣời sử dụng lao động cũng đạt ở mức
tối đa. Vì vậy, vừa có lợi cho ngƣời sử dụng lao động, vừa đảm bảo thu nhập
cho ngƣời lao động.
Đối với Nhà nƣớc. Bảo hiểm thất nghiệp khơng những có vai trị quan
trọng đối với ngƣời lao động, ngƣời sử dụng lao động, mà nó cịn có vai trò

quan trọng đối với Nhà nƣớc. Hiện nay, Việt Nam cũng nhƣ bất kỳ một quốc
gia nào trên thế giới hàng năm luôn thống kê đƣợc những con số cụ thể về tỷ
lệ ngƣời thất nghiệp. Đứng trƣớc tình trạng thất nghiệp đó mỗi Quốc gia trong
đó có Việt Nam đã và đang xem đây là vấn đề quan trọng cần có biện pháp để
giải quyết trong chính sách xã hội của Nhà nƣớc. Nhờ có sự ra đời của bảo
hiểm thất nghiệp mà vấn đề chi trả trợ cấp thất nghiệp cho ngƣời lao động
đƣợc khắc phục khi ngân sách Nhà nƣớc để sử dụng cho vấn đề chi trả trợ cấp
thất nghiệp sẽ giảm bớt. Bởi hiện nay Việt Nam cũng nhƣ các quốc gia đã và
đang trải qua tình trạng khủng hoảng về kinh tế, khi đó chi phí dành cho phát
triển kinh tế là rất cần thiết. Từ đó, tạo sự chủ động về tài chính cho Nhà
nƣớc, Nhà nƣớc sẽ giảm bớt một khoản chi phí để đầu tƣ vào trong hoạt động
phát triển kinh tế của đất nƣớc. Còn đối với ngƣời lao động nhờ đƣợc hỗ trợ
khó khăn một phần khi bị mất việc làm, quan hệ giữa ngƣời lao động và
ngƣời sử dụng lao động (doanh nghiệp) và Nhà nƣớc sẽ giảm bớt những căng
thẳng. Từ đó mà các cuộc biểu tình, bãi cơng cũng giảm và hạn chế về mặt số
lƣợng. Bởi vậy, Nhà nƣớc giảm bớt một mối lo khi ln phải tìm cách đối mặt
với những bất ổn gia tăng về chính trị và xã hội. Các tệ nạn xã hội và tình

24


trạng phạm tội do hậu quả của thất nghiệp gây ra cũng đƣợc hạn chế ở một
mức độ nhất định.
Đặc biệt, đối với những nƣớc phát triển theo cơ chế kinh tế thị trƣờng,
thì vai trị của bảo hiểm thất nghiệp thực sự trở nên quan trọng trong việc ổn
định nền kinh tế, hạn chế những tác động tiêu cực đƣợc coi là “mặt trái” của
nền kinh tế thị trƣờng. Hiện nay, dƣới tác động của các quy luật khách quan
do sự chuyển dịch và biến động không ngừng của thị trƣờng lao động, mà thất
nghiệp ngày càng trở thành một tình trạng phổ biến của mọi quốc gia theo mơ
hình nền kinh tế thị trƣờng.

Bảo hiểm thất nghiệp là một nội dung mở trong chính sách Bảo hiểm
xã hội của nƣớc ta. Mục tiêu của bảo hiểm thất nghiệp là nhằm bù đắp một
phần thu nhập của ngƣời lao động khi họ bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp
đồng lao động, hợp đồng làm việc nhƣng chƣa tìm đƣợc việc làm. Với những
nội dung quy định về bảo hiểm thất nghiệp trong Luật Bảo hiểm xã hội năm
2006 là phù hợp với đặc điểm tình hình kinh tế, xã hội của nƣớc ta trong tiến
trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố và hội nhập. Chính sách bảo hiểm thất
nghiệp thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nƣớc về bảo đảm an sinh xã hội,
đời sống việc làm của ngƣời lao động, nhất là trong thời kỳ khủng hoảng và
suy thối kinh tế tồn cầu nhƣ hiện nay thì thất nghiệp có thể xảy ra với bất
kỳ ngƣời lao động nào, nhất là những ngƣời lao động yếu thế, lao động phổ
thơng, khơng có tay nghề. Vì vậy, tham gia bảo hiểm thất nghiệp chính là
phƣơng tiện hữu hiệu bảo vệ ngƣời lao động khi gặp rủi ro về việc làm.
Tóm lại, bảo hiểm thất nghiệp có vai trị quan trọng khơng chỉ đối với
ngƣời lao động, ngƣời sử dụng lao động mà cịn có vai trị quan trọng đối với
đất nƣớc. Thực hiện đúng đắn và có hiệu quả những vai trò thiết thực này của
bảo hiểm thất nghiệp sẽ góp phần đƣa lại hiệu quả cao trong những quy định,
sử dụng và áp dụng bảo hiểm thất nghiệp trong thực tiễn cuộc sống hiện nay.

25


×