Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ đa PHƯƠNG TIỆN TRONG THƯ VIỆN các TRƯỜNG đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.52 KB, 34 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành khóa luận này tơi đã nhận được sự giúp đỡ của các thầy cô là
giảng viên và các bạn sinh viên Trường Đại Học Vinh, Đặc biệt là các thầy cô
trong khoa Giáo dục Trường Đại học Vinh.
Xin chân thành cảm ơn Th.S Nguyễn Việt Phương - người Thầy đã tận tình
chỉ dẫn, giúp đỡ tơi trong q trình nghiên cứu, thực hiện và hồn thành khóa
luận.
Xin cảm ơn bố mẹ, người thân trong gia đình, tập thể lớp K53- QLGD đã
động viên và tạo mọi điều kiện thuận lợi để tơi có thể hồn thành nhiệm vụ học
tập, nghiên cứu và làm đề tài này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh nhất,
song do buổi đầu với công tác nghiên cứu khoa học, tiếp cận với thực tế sản xuất
cũng như những hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nên không thể tránh khỏi
những thiếu sót nhất định mà bản thân chưa thấy được. Tơi mong được sự góp ý
của q Thầy, Cơ giáo và các bạn trong lớp để khóa luận được hồn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Vinh, tháng 5 năm 2016
Tác giả
Ngô Thị Trang

1


MỤC LỤC

2


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bước vào thế kỷ XXI, thế kỷ phát triển khoa học công nghệ cao, thế kỷ


của nền kinh tế tri thức, với sự phát triển vũ bão khoa học về công nghệ, khoa
học và thông tin, và việc ứng dụng công nghệ đa phương tiện vào thư viện ở
các trường đại học.
Ngày nay, công nghệ thông tin và truyền thông phát triển không ngừng,
được ứng dụng rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực, ngành nghề trong đó có các
thư viện. Thực tế cho thấy, tuy chưa phải là hồn hảo, song có thể nói, trong
những năm qua cơng nghệ thơng tin cũng đã làm thay đổi tư duy, diện mạo
trong hoạt động của nhiều thư viện nước ta. Nhờ công nghệ thông tin mà công
tác tổ chức, quản lý, khai thác nguồn lực thông tin và các sản phẩm, dịch vụ,
thông tin - thư viện trong các thư viện có những bước thay đổi lớn đáp ứng
ngày càng tốt hơn nhu cầu thông tin của đông đảo bạn đọc và người dùng tin .
Để đáp ứng nhu cầu đổi mới giáo dục đại học, các thư viện đại học tại các
nước tiên tiến nhận thức rằng họ phải tham gia một cách chủ động và tích cực
vào q trình đổi mới ở cả mức độ thư viện và nhà trường. Là một bộ phận của
cộng đồng học tập, thư viện phải tạo nên sự thay đổi trong mỗi sinh viên, kết
nối người học như những đối tác tồn diện trong q trình học, cung cấp nhiều
khả năng lựa chọn cách thức, nội dung, phương pháp…học tập. Để tham gia
mạnh mẽ vào cộng đồng học tập, thư viện cũng cần đáp ứng các cơ chế như hỗ
trợ người học định hình và tham gia vào các hoạt động học tập tập thể, hỗ trợ
học tập thông qua nhu cầu của người học.
Thay đổi mạnh mẽ trong cơng nghệ và xã hội đang có một tác động đáng kể
đối với các thư viện và các chương trình giảng dạy của họ. Những thay đổi này
đã tạo ra một sự khẩn cấp để dạy cho người sử dụng thư viện như thế nào để
trở nên hiệu quả hơn, hiệu quả và độc lập trong việc tìm kiếm thơng tin.
Trong thực tế, cơng nghệ đa phương tiện trong thư viện trường đại học khá
mới mẻ, vì vậy việc nghiên cứu “Tìm hiểu việc ứng dụng cơng nghệ đa
3


phương tiện trong thư viện các trường đại học” có thể ứng dụng được các

thành tựu tiên tiến trên thế giới để đáp ứng nhu cầu đa dạng của người học.
2. Mục đính nghiên cứu
Tìm hiểu việc ứng dụng cơng nghệ đa phương tiện trong thư viện trường
đại học để hiểu rõ được công nghệ đa phương tiện. Những lợi ích mà nó đem
lại khi ứng dụng cơng nghệ đa phương tiện trong thư viện các trường đại học.
Mục đích chính của sự tồn tại của đa phương tiện trong thư viện điện tử là
để phục việc chuyển giao dữ liệu cho người đọc cảm nhận một cách dễ dàng.
Phương pháp này cố gắng tối đa hóa khả năng của bạn đọc để ln ln đồng
hóa thơng tin so với thơng tin đồng hóa từ một văn bản đơn giản
3. Khách thể, đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu:
Việc ứng dụng công nghệ đa phương tiện trong các trường Đại học
3.2. Đối tượng nghiên cứu:
Thực trạng ứng dụng công nghệ đa phương tiện trong thư viện trường đại học
4. Giả thuyết khoa học
Việc ứng dụng công nghệ đa phương tiện trong thư viện ở các trường đại học
hiện nay còn chưa hiệu quả, cần phải khắc phục để nâng cao chất lượng dạy và
học của giáo viên và sinh viên
5. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
5.1. Nhiệm vụ
− Nghiên cứu lý luận về công nghệ đa phương tiện
− Khảo sát, đánh giá đúng thực trạng việc ứng dụng công nghệ đa phương
tiện trong thư viện trường đại học
− Đề xuất việc phát triển ứng dụng công nghệ đa phương tiện để nâng cao
chất lượng giảng dạy trường đại học
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Việc tìm hiểu ứng dụng cơng nghệ đa phương tiện trong thư việc ở phạm vi
các trường đại học

4



6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
Gồm các phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, so sánh, phân loại
các tài liệu khoa học
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Gồm các phương phám đàm thoại, quan sát phỏng vấn, trưng cầu ý kiến, tổng
kết kinh nghiệm quản lý giáo dục, khảo nghiệm kết quả….
6.3. Nhóm các phương pháp hỗ trợ: Vận dụng các phương pháp tốn học xử lý
số liệu, phân tích qua bảng số.

5


Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ ĐA
PHƯƠNG TIỆN
1. Tổng quan về ứng dụng công nghệ đa phương tiện
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các nghiên cứu trên thế giới
Để đáp ứng nhu cầu đổi mới giáo dục đại học, các thư viện đại học tại các
nước tiên tiến nhận thức rằng họ phải tham gia một cách chủ động và tích cực
vào q trình đổi mới ở cả mức độ thư viện và nhà trường. Là một bộ phận của
cộng đồng học tập, thư viện phải tạo nên sự thay đổi trong mỗi sinh viên, kết
nối người học như những đối tác toàn diện trong quá trình học, cung cấp nhiều
khả năng lựa chọn cách thức, nội dung, phương pháp…học tập. Để tham gia
mạnh mẽ vào cộng đồng học tập, thư viện cũng cần đáp ứng các cơ chế như hỗ
trợ người học định hình và tham gia vào các hoạt động học tập tập thể, hỗ trợ
học tập thông qua nhu cầu của người học. Nói tóm lại thư viện đại học nhấn
mạnh vào các kĩ năng thông tin và dựa trên nguyên tắc lấy người học làm trung

tâm.
Nếu như trong những năm 90 của thế kỷ XX, hoạt động thư viện phổ biến
với việc cung cấp các biểu ghi đọc máy, phổ biến thông tin thông qua các bản
in và các cơ sở dữ liệu; sử dụng kho mở và mượn liên thư viện. Để truy cập
thông tin, người đọc tra cứu trên mục lục trực tuyến, hay có thể truy cập trực
tuyến đến các Cơ sở dữ liệu thư mục và tồn văn trên tồn cầu. Vấn đề chỉ dẫn
thơng tin chủ yếu là chỉ dẫn thư mục. Thư viện là một nơi học tập yên tĩnh... thì
hiện nay, hệ thống thư viện tích hợp phổ biến với việc cung cấp các websites,
siêu dữ liệu, kết nối nguồn và tìm kiếm dọc. Các thư viện phân phối thông tin
với các bản in phong phú cũng như các cơ sở dữ liệu trực tuyến và nguồn tài
liệu điện tử rất lớn. Công nghệ không dây cũng trở nên phổ biến và người dùng
tin có thể truy cập từ một nơi rất xa. Khu vực học tập sẽ được hình thành theo
từng nhóm cụ thể chứ không chỉ là một khu vực học tập yên tĩnh. Kiến thức

6


thông tin và hướng dẫn thực hành là điểm nhấn trong vấn đề chỉ dẫn thông tin
của các thư viện trên thế giới hiện nay. Tổ chức trong các thư viện là theo định
hướng nhiệm vụ và theo nhóm.
Những thay đổi về công nghệ sẽ ảnh hưởng như thế nào đến thư viện đại
học trong tương lai không xa? Bill Kennedy, một chuyên gia về web trong đại
học Mỹ hình dung thư viện của năm 2012 sẽ là một “thư viện ảo với một bản
đồ thu nhỏ” để đưa người học đến các vị trí khác nhau.
Thư viện sẽ có mặt ở khắp nơi và phạm vi các dịch vụ của nó cũng sẽ vơ
cùng phong phú và hiệu quả, chứ không đơn thuần là nơi chứa sách và các tài
liệu in ấn như trong thư viện truyền thống. Cán bộ thư viện sẽ hợp tác chặt chẽ
với các đối tác như bộ phận công nghệ thông tin, các nhà thiết kế chương trình,
các kĩ sư thơng tin và các thư viện khác... Sẽ có nhiều bộ sưu tập đa phương
tiện, một số được thiết kế cho một khóa học cụ thể, đồng thời sử dụng các cảnh

quay và các thiết bị truyền thơng khác để làm đơn giản hóa khối thông tin đa
dạng phức tạp đối với người học. Việc truy cập đến các bản in, các phần mềm,
các website, và các nguồn tài liệu quý hiếm sẽ trở nên phổ biến.
Hệ thống thư viện năm 2012 sẽ có đặc điểm giao diện tuỳ biến theo khách
hàng với các nguồn tài liệu đa phương tiện, và các thiết bị quản lý tri thức. Hệ
thống sẽ nhận biết khách hàng và nhanh chóng đáp ứng các câu hỏi và nhu cầu
của khách hàng.
Không gian làm việc và học tập sẽ được tổ chức với các không gian vật lý
dễ tái định hình và khơng gian ảo. “Những bàn phím thơng minh” đa phương
tiện sẽ cho phép sinh viên toạ đàm trực tuyến với các học giả, các nghệ sĩ và
các triết gia thực hoặc ảo tồn cầu.
Các chương trình hướng dẫn sinh viên sẽ tập trung nâng cao năng lực học
tập của sinh viên. Truy cập không dây và bằng laser đối với các máy tính cá
7


nhân. Những thiết bị cá nhân tối tân có mặt ở khắp nơi thể cho phép thư viện
đạt đến môi trường học tập lý tưởng.
Vai trò của người cán bộ trong tương lai sẽ thế nào? Cán bộ thư viện trong
tương lai sẽ sở hữu các kĩ năng nghiên cứu ở mức độ cao, thậm chí là tiến sĩ,
cấp độ chuyên gia, và có các kĩ năng xây dựng nhóm; mọi người vẫn sẽ tìm
đến các cán bộ thư viện bởi vì họ thiếu thời gian và các kĩ năng để tự tiến hành
công việc hiệu quả.
Triển vọng của thư viện sẽ là mang tính tồn cầu. Các nhà biên dịch tự
động có mặt ở khắp nơi sẽ thúc đẩy các chương trình truy cập thơng tin tồn
cầu. Về tài chính, các thư viện sẽ phát triển được các dịng doanh thu độc lập
để thúc đẩy những đổi mới và tiến bộ liên tục. Thư viện đại học cũng sẽ tham
gia mạnh mẽ vào công tác xuất bản các tạp chí và nguồn tài liệu đại học, cụ thể
là tạp chí điện tử, sách điện tử và các bộ sưu tập với các nguồn tài liệu ảo ở các
dạng đa phương tiện khác nhau. (Theo Nguyễn Duy Cương, 2007)

1.1.2. Các nghiên cứu trong nước
Trong khoảng một thập niên gần đây, thư viện đại học Việt Nam đang từng
bước đổi mới, nhờ được quan tâm đầu tư và nhất là trước địi hỏi của chính q
trình đổi mới giáo dục đại học. Cùng với chủ trương đổi mới kinh tế đất nước,
Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách và quan tâm chỉ đạo, đầu tư
cả vật chất và con người để phát triển sự nghiệp thông tin - thư viện nói chung
và hệ thống các thư viện đại học nói riêng. Dự án Giáo dục đại học và nhiều dự
án khác đã đầu tư hàng triệu đô la Mỹ để xây mới, cải tạo, nâng cấp các thư
viện, trung tâm thông tin thư viện của các trường đại học cao đẳng trong cả
nước.
Theo một số nghiên cứu cho thấy, trong số hơn 400 thư viện, trung tâm thông
tin – thư viện của các Viện, trường đại học cao đẳng đều đã được đầu tư, xây
8


mới, cải tạo, nâng cấp ở mức độ quy mô khác nhau. Kết quả của việc đầu tư
trên, nhiều cơ quan thông tin thư viện cả các Viện trường đại học cao đẳng đã
tạo lập được mạng thông tin khoa học cơng nghệ, có trang web để đăng tải và
phổ biến thông tin. Một số trung tâm đã xây dựng được website, cổng thông tin
để trao đổi tài nguyên thông tin tư liệu, các công cụ tra cứu trực tuyến (OPAC)
trên mạng đã được hình thành từ các trang web của các thư viện, điều đó đã
làm thay đổi cách thức phục vụ và làm cho hoạt động thông tin thư viện trở lên
sinh động và hiệu quả hơn, làm thay đổi cách nhìn và nhận thức của xã hội đối
với công tác thông tin thư viện.
Từ những năm 1990, các thư viện đã sử dụng phần mềm CDS/ISIS vào
quản lý vốn tài liệu của thư viện. Đặc biệt từ năm 2000 đến nay hầu hết các thư
viện đều sử dụng phần mềm quản lý thư viện với hệ quản trị cơ sở dữ liệu tiến
tiến như SQL hoặc ORACLE để quản lý cơ sở dữ liệu thư viện (Ty, 2006).
Hiện nay, một vài phần mềm nguồn mở cũng đã được sử dụng xây dựng bộ sưu
tập số ở Việt Nam như Greenstone.... (Tạp chí Thư viện Việt Nam, 2011)

1.2. Giới thiệu chung
1.2.1. Một số khái niệm cơ bản
a. Đa phương tiện
Theo từ điển Bách khoa toàn thư mở Wikipedia (1) , định nghĩa về Truyền
thông đa phương tiện - multimedia như sau :
Đa phương tiện (Multimedia) là phương tiện truyền thông và nội dung mà
sử dụng kết hợp những dạng nội dung khác nhau. Thuật ngữ này được sử dụng
tương phản với media mà nó chỉ sử dụng dạng truyền thống là in ấn hoặc văn
bản viết tay. Multimedia bao gồm tổ hợp văn bản, audio, hình ảnh, hoạt
hình, video, và những nội dung mang tính tương tác.

9


Theo Fenrich: “Đa phương tiện là sự tích hợp lý thú giữa phần cứng và phần
mềm máy tính, cho phép tích hợp các tài ngun video, audio, hoạt hình, đồ
hoạ và trắc nghiệm để xây dựng và thực hiện một trình diễn hiệu quả nhờ một
máy tính có cấu hình thích hợp”.(dẫn theo Th.S Nguyễn Tường Dũng, 2011).
Theo Philip: “Đa phương tiện đặc trưng bởi sự hiện diện của văn bản, hình
ảnh, âm thanh, mơ phỏng và video được tổ chức chặt chẽ trong một chương
trình máy tính”. (dẫn theo Th.S Nguyễn Tường Dũng, 2011)
Có nhiều cách hiểu khác nhau về đa phương tiện, song có thể hiểu một cách
khái quát là: “Đa phương tiện là sản phẩm được tạo ra để “chạy” trên nhiều
thiết bị đầu cuối khác nhau”.
Đa phương tiện thường được ghi lại và chạy, hiển thị hay truy nhập bởi
những thiết bị xử lý nội dung thơng tin, như máy tính, điện thoại di động.
Ngồi ra đa phương tiện còn miêu tả các thiết bị dùng để lưu trữ và xử lý nội
dung thông tin.
Đa phương tiện có thể được phân chia thành các loại tuyến tính và phi tuyến
tính:

− Nội dung hoạt động tuyến tính tiến triển thường xuyên mà không cần

bất kỳ điều khiển điều hướng cho người xem như một bài thuyết trình
điện ảnh.
− Phi tuyến tính sử dụng tương tác để kiểm sốt tiến độ với một trị chơi

video hoặc máy tính đào tạo dựa trên nhịp độ tự. Hypermedia (siêu
phương tiện) là một ví dụ về nội dung phi tuyến tính. Bài thuyết trình
đa phương tiện có thể được trực tiếp hoặc ghi. Một bài thuyết trình ghi
lại có thể cho phép tương tác thông qua một hệ thống dẫn đường. Một

10


bài thuyết trình đa phương tiện trực tiếp có thể cho phép tương tác
thông qua sự tương tác với người dẫn chương trình hay biểu diễn.
Đặc điểm của đa phương tiện:
Bài thuyết trình đa phương tiện có thể được xem bởi người trên sân khấu,
dự kiến, truyền đi, hoặc đóng tại địa phương với một máy nghe nhạc phương
tiện truyền thơng. Chương trình phát sóng có thể là một bài trình bày đa
phương tiện trực tiếp hoặc ghi. Chương trình phát sóng và các bản ghi âm có
thể là tương tự hoặc kỹ thuật số phương tiện truyền thông công nghệ điện tử.
Đa phương tiện trực tuyến kỹ thuật số có thể được tải về hoặc xem trực tiếp.
Dịng đa phương tiện có thể trực tiếp hoặc theo u cầu.
Trị chơi đa phương tiện và mơ phỏng có thể được sử dụng trong một môi
trường vật lý với các hiệu ứng đặc biệt, với nhiều người dùng trong một mạng
lưới trực tuyến, hoặc tại địa phương với một máy tính ẩn, hệ thống trị chơi,
hoặc mơ phỏng.
Các định dạng đa phương tiện khác nhau của công nghệ hoặc kỹ thuật số có
thể được dùng để nâng cao kinh nghiệm của người sử dụng, ví dụ để làm cho

nó dễ dàng hơn và nhanh hơn để truyền đạt thông tin. Hoặc trong làng giải trí,
nghệ thuật, để vượt qua kinh nghiệm hàng ngày.
Mức độ nâng cao của các tương tác có thể được thực hiện bằng cách kết hợp
nhiều hình thức nội dung phương tiện truyền thông. Đa phương tiện trực tuyến
đang ngày càng trở thành đối tượng theo định hướng và điều khiển dữ liệu, cho
phép các ứng dụng với hợp tác đổi mới của người dùng cuối và cá nhân trên
nhiều hình thức nội dung theo thời gian.
Chức năng của đa phương tiện:

11




Cung cấp cho con người những kinh nghiệm cụ thể về đối tượng học tập
theo kiểu trải nghiệm gián tiếp. Với khả năng điều khiển đồng thời tất cả các
thành phần như hình ảnh, âm thanh, video, theo năng lực và sở thích của cá
nhân, người học có thể tự trải nghiệm về đối tượng. Điều này khơng thể có
được nếu như các phương tiện này được thể hiện tuần tự theo một trật tự cố
định, một nhịp độ cố định mà chưa hẳn đã phù hợp với người học. Hơn nữa, từ
những trải nghiệm đó, người học có được những kinh nghiệm cụ thể về tư duy,
về hành vi, về ứng xử.



Đa phương tiện có thể góp phần gia tăng cơ hội học tập với chi phí thấp do

giá máy tính ngày càng rẻ, và với một máy tính có thể học rất nhiều mơn học,
lĩnh vực học, tiếp cận rất nhiều nguồn thông tin và cơ hội học tập có giá trị. Tất
nhiên, để hồn tất việc học với đa phương tiện, con người phải có đủ kỹ năng

và ý chí.


Chất lượng giáo dục khơng nhất thiết bị chi phối bởi công nghệ mà trước

hết bởi nhu cầu của con người. Khi tìm đến với đa phương tiện, con người đã
có một nhu cầu học tập cụ thể, rõ rệt, đó là một thuận lợi cơ bản. Thuận lợi ấy
sẽ được nhân lên do có thể học một cách linh hoạt cả về không gian, thời gian,
theo nhịp độ và phong cách riêng, cá tính riêng. Nếu được thiết kế tốt,
multimedia có thể tạo nên mơi trường học tập vui vẻ và thân thiện mà không bị
cản trở bởi tâm trạng lo sợ thất bại.
b. Công nghệ đa phương tiện
Công nghệ đa phương tiện là việc ứng dụng công nghệ thông tin trong việc
sáng tạo, thết kế những sản phẩm mang tính đa phương tiện và tương tác ứng
dụng trong lĩnh vực truyền thông, quảng cáo, giáo dục, giải trí.

12


Hoặc có thể hiểu đơn giản cơng nghệ đa phương tiện là sự kết hợp giữa
công nghệ thông tin và nghệ thuật. hiện nay công nghệ đa phương tiện xuất
hiện mọi nơi mọi ngành nghề.
c. Thư viện
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia:
“Khái niệm thư viện theo ý nghĩa truyền thống, một thư viện là kho sưu
tập sách, báo và tạp chí. Tuy nó có thể chỉ đến kho sưu tập cá nhân của người
riêng, nhưng nó thường chỉ đến nhà lớn sưu tập sách báo xuất bản được bảo
quản bởi thành phố hay học viện hay nhận tiền góp của họ. Những nhà sưu tập
này thường được sử dụng bởi những người khơng muốn (hay khơng có thể)
mua nhiều sách cho mình. Tuy nhiên, tại vì giấy khơng cịn là phương tiện duy

nhất để lưu giữ thông tin, nhiều thư viện cũng sưu tập và cung cấp bản đồ, bản
thiết kế Hay cơng trình nghệ thuật khác, micrơphim, vi phim(microfiche), băng
cassette, CD, LP, băng video, và DVD, và họ để người khác truy cập các cơ sở
dữ liệu CD-ROM và internet”.
Định nghĩa mới nhất của UNESCO: “Thư viện, không phụ thuộc vào tên
gọi, là bất kì bộ sưu tập có tổ chức của sách, báo, tài liệu các loại, ấn phẩm
định kì... Nhân viên thư viện có trách nhiệm tổ chức cho bạn đọc sử dụng tài
liệu để nghiên cứu thơng tin, giáo dục & giải trí”.
Tuy có nhiều cách định nghĩa khác nhau, song có thể hiểu một cách khái quát:
“Thư viện là nơi thông tin được tổ chức, nơi dễ dàng tìm thấy thơng tin mọi
người cần hoặc muốn. Thư viện chỉ có giá trị khi nó có thơng tin và có người
biến thơng tin trở nên hữu ích. Chúng ta có nhiệm vụ đảm bảo sự tiếp cận không
hạn chế các ý tưởng mà chúng ta thừa hưởng một cách hợp pháp, sau đó định
hình và chuyển giao cho thế hệ tiếp theo”.

13


1.3. Ứng dụng công nghệ đa phương tiện trong thư viện
Việc ứng dụng công nghệ đa phương tiện trong thư viện sẽ cho ta thấy được
những điều sau:
Phòng đa phương tiện được nối mạng nội bộ (LAN) và mạng Internet tốc
độ cao phục vụ việc truy cập thông tin của bạn đọc, được trang bị các thiết bị
hiện đại như: Máy chiếu, Ti vi, đầu đọc đa năng, máy in, máy scanner chuyên
dụng và một số thiết bị ngoại vi khác giúp bạn đọc khai thác tốt vốn tài liệu
điện tử: CD – ROM, DVD và các phần mềm học tập, giải trí; Cơ sở dữ
liệu ProQuest, CSDL tạp chí và kỷ yếu khoa họctrong nước số hóa tồn văn.
Đến Phòng đa phương tiện bạn đọc sẽ được tiếp cận với nhiều nguồn lực thông
tin, được sử dụng các dịch vụ công nghệ thông tin hiện đại do Thư viện đa
phương tiện cung cấp, tạo môi trường nghiên cứu, học tập và giải trí văn minh

hiện đại. Đặc biệt, bạn đọc được khai thác CSDL đây là bộ sưu tập điện tử
phong phú và tiện dụng trong việc tìm kiếm và tra cứu thông tin. Hiện Thư
viện điện thuộc nhiều lĩnh vực như: Khoa học xã hội và nhân văn, tâm lý học,
tôn giáo, kinh tế, khoa học tự nhiên, khoa học công nghệ, giáo dục, môi trường,
y tế, pháp luật, ngôn ngữ, nông nghiệp, công nghiệp, nghệ thuật, văn học… rất
nhiều tài liệu khác
− Không gian đọc sách
Bạn đọc có thể tìm thấy ở đây các tác phẩm cổ điển của nền văn học các
nước nổi tiếng, truyện viễn tưởng hiện đại, thơ, kịch, các tác phẩm đầu
tay, truyện tranh, các loại báo, tạp chí, tạp chí chuyên ngành, CD nhạc và
các bài hát trên thế giới cũng như một khơng gian truy cập Internet…
− Trung tâm hình ảnh
Bao gồm một trung tâm tư liệu chuyên về hình ảnh và tài liệu các loại,
các thiết bị hiện đại và thuận tiện cho việc xem tại chỗ với những cabin
xem phim cá nhân, phịng chiếu phim, một khơng gian đọc sách và một
không gian triển lãm ảnh.
− Không gian sư phạm và nghiên cứu

14


Một phịng đọc “nhìn ra sân vườn”, dành cho giáo viên và sinh viên,
gồm có các sách giảng dạy, giáo trình và tài liệu đa phương tiện. Ngồi ra
cịn có các tài liệu về các tài liệu nghiên cứu.
Như vậy, thư viện đa phương tiện là một địa điểm văn hố, trau dồi kiến
thức, là cơng cụ giảng dạy và đào tạo. Thư viện là nơi diễn ra các buổi hội thảo
và tọa đàm ở tất cả mọi lĩnh vực giáo dục.
Thư viện tổ chức các triển lãm tài liệu theo chủ đề thời sự để khai thác giá
trị của tài liệu. Mỗi tháng một lần, tài liệu được tuyển chọn theo chủ đề sẽ được
bày trong thư viện để phục vụ bạn đọc.

1.4. Ảnh hưởng của việc ứng dụng công nghệ đa phương tiện trong thư viện
các trường đại học
1.4.1. Thành phần của công nghệ đa phương tiện
Một sản phẩm thông tin đa phương tiện (MultiMedia) là sản phẩm được
xuất bản với hơn một thành phần thông tin được lưu trữ với các dạng dữ liệu
sau:


Chữ viết (Text)



Ảnh (Image - picture)



Đồ họa (Graphics)



Âm thanh (Audio)



Hình ảnh động (Video)

Như vậy có thể hiểu: “Multimedia” hay “truyền thơng đa phương tiện” là sự
kết hợp của ngôn ngữ viết, ảnh, video, âm thanh, thiết kế đồ họa và các phương
thức tương tác khác trên trang web nhằm truyền tải một câu chuyện, vấn đề


15


một cách đa diện, mỗi hình thức thể hiện góp phần tạo nên câu chuyện thuyết
phục và đầu đủ thông tin nhất.
Phân loại đa phương tiện:
- Chữ viết (text) Tin chữ là sản phẩm thông tin văn bản điện tử (dạng
TextOnly) được xuất bản phục vụ hệ thống thông tin đại chúng. Các thông tin
được tiếp nhận qua kênh đọc của độc giả hoặc người tiếp nhận thơng tin nói
chung. Đây là kênh thông tin cơ bản nhất đối với thông tin đa phương tiện.
- Đồ họa (graphic): Thông tin đồ họa là một trong những loại hình thơng tin
mới trong giai đoạn phát triển công nghệ thông tin đa phương tiện. Thông tin
đồ họa truyền tải thông tin thể hiện theo phương pháp trực quan bằng hình ảnh
đồ họa, biểu đồ kinh tế, bản đồ và các chú thích dưới tệp dạng đồ họa.
- Hình ảnh động (video, flash): Là một đoạn Video về sự kiện đã được dàn
dựng có giá trị thơng tin. Thường đi kèm với một trong các dạng thông tin trên
(âm thanh, chữ viết) để làm nên một bản tin đa phương tiện hoàn thiện và đẩy
đủ.
1.4.2. Xu hướng phát triển thế giới về ứng dụng công nghệ đa phương tiện
trong thư viện các trường đại học trên thế giới
Dưới đây là một số trường đại học đã đạt được những thành tựu cao về việc
ứng dụng công nghệ đa phương tiện trong thư viện như như Đại học Phoenix,
Đại học Western Governors, Đại học UK Open, Đại học California và Đại học
Hồng Kông…. đặc biệt là trường đại học Multimedia
Trường đại học Multimedia( Multimedia University)
Trường đại học Multimedia(Multimedia University): Một môi trường không
cần giấy tờ để dẫn đến những thách thức cho thế kỷ 21. Đây là một trường đại

16



học rất đặc biệt và được coi là viên ngọc quý của kế hoạch táo bạo của
Malaysia để vào đấu trường thế giới của công nghệ thông tin thế kỷ 21.
a. Vài nét chính về trường đại học Multimedia
Đại học Multimedia là một trường đại học Hồi giáo quốc tế thuộc Kuala
Lampur, nước Malaysia. Đại học Multimedia là một trường đại học rất trẻ,
nhưng là một trong những các trường đại học phát triển nhanh nhất ở Malaysia
trong lĩnh vực Kỹ thuật và Công nghệ thông tin. Đây là trường đại học tư nhân
đầu tiên được chính phủ phê duyệt. Bộ Giáo dục thành lập nó theo lời mời
trong tháng 7 năm 1996. Trường hiện đang dựa trên giáo dục công nghệ như
Điện, Sáng tạo đa phương tiện, và Công nghệ thơng tin.
Trường đại học hiện nay có bốn khoa, được chia thành các cơ quan đào
tạo và giáo dục học sinh về những con đường đúng đắn và chính xác. Cấu trúc
khóa học là cập nhật với cả hai trường đại học tốt trên thế giới và các công
nghệ hiện tại. trường có các phịng thí nghiệm chun mơn để đào tạo sinh viên
thực tế và tiến hành nghiên cứu và phát triển. Trường đại học cũng phấn đấu để
trở thành trung tâm của sự xuất sắc trong nghiên cứu và phát triển trong khu
vực Châu Á Thái Bình Dương, và cuối cùng đạt được sự cơng nhận tồn cầu.
Trong nỗ lực của mình để tăng cường các hoạt động nghiên cứu và phát triển,
trường đại học đã xác định được khu vực trọng điểm và hình thành trung tâm
xuất sắc xung quanh họ. Mục tiêu chính của các trung tâm là để học nhóm và
sinh viên với lợi ích tương tự như trong một lĩnh vực cụ thể của nghiên cứu để
bắt đầu làm việc trên các dự án nghiên cứu được xác định. Hiện nay, trường tự
hào là một trong 25 trung tâm của khu vực xuất sắc trải dài như: dải sóng rộng
tốc độ cao và mạng, thực tế ảo và đồ họa máy tính, thương mai điện tử, đổi mới
giáo dục, máy tính hoạt hình, Giải thích, biểu thức và nhiều hơn thế nữa.
b. Ứng dụng công nghệ đa phương tiện trong thư viện trường đại học Multimedia
Thư viện số. Một hệ thống học tập thích hợp sẽ ln ln phụ thuộc vào
một nguồn tài nguyên học tập và các tài liệu như là một thư viện. Nếu hệ thống


17


học tập là không cần giấy tờ và kỹ thuật số thì một thư viện có thể đóng góp rất
nhiều đến các vấn đề trong tương lai.
Thư viện được thành lập để trở thành một trung tâm nơi mà có hiệu lực thực
thi các văn bản và cung cấp thông tin trong các định dạng kỹ thuật số, các dịch
vụ thư viện trên toàn thế giới, và hợp tác với thư viện quốc tế. Các khóa học
ban đầu về việc sử dụng các dịch vụ và các nguồn lực được cung cấp, các khóa
học về kỹ năng thơng tin, bao gồm cả việc sử dụng các cơ sở dữ liệu khác nhau
và các nguồn tài nguyên trực tuyến được đưa ra.
Bên cạnh đó, một hệ thống tồn diện đó là bao gồm các hướng dẫn trực
tuyến, mô tả các dịch vụ trang web và các nguồn lực một cũng được cung cấp
một cách chi tiết. Thư viện nhằm mục đích để cung cấp dễ dàng và nhanh
chóng việc truy cập vào các tài liệu cần thiết cho sinh viên. Thư viện trình bày
một loạt các nguồn tài nguyên ở định dạng in và không in để cho phép truy
cập của sinh viên bao gồm các tài liệu thông tin, nguồn lực, và học tập. Chúng
bao gồm sách, tạp chí, báo, âm thanh và video ghi âm, bộ sưu tập đặc biệt, các
bộ sưu tập tài liệu tham khảo, và một loạt tài nguyên điện tử rộng lớn như
CD-ROM, cơ sở dữ liệu đồ họa trên máy vi tính, tạp chí điện tử, tài nguyên
Internet và thông tin trực tuyến.
Thư viện cũng cung cấp một loạt các dịch vụ, cả trực tuyến và truyền
thống, đáp ứng nhu cầu thông tin của các sinh viên, bao gồm cả dịch vụ cho
thuê, dịch vụ thông tin điện tử, giáo dục người dùng, dịch vụ tham khảo, dịch
vụ cho thuê giữa các thư viện, và các dịch vụ cung cấp tài liệu. Mục lục thư
viện trực tuyến, cụ thể là GEOWEB, cho phép sinh viên để tìm kiếm tài liệu
trong thư viện. Nó rất dễ dàng để sử dụng và có nhiều tính năng tự phục vụ bao
gồm gia hạn cho thuê, bảo lưu các mục trên khi cho người khác thuê, và kiểm
tra mặt hàng cho thuê. Dịch vụ này hiện có sẵn trên khn viên trường và trên
tồn thế giới. Bên cạnh các cửa hàng trực tuyến, thư viện cũng cung cấp một số

thiết bị cho phép học sinh để tìm kiếm những thông tin. cơ sở dữ liệu trực
tuyến khác nhau cũng có sẵn trong thư viện và các cơ sở dữ liệu có thể truy cập
thơng qua trang chủ của thư viện. Các thư viện cũng cung cấp các liên kết và
18


các ấn phẩm định kỳ mới nhất từ các nguồn tài nguyên dựa trên web để cho
phép học sinh để theo kịp sự phát triển mới nhất.
1.4.3. Ảnh hưởng của thư viện đa phương tiện vào chất lượng giảng dạy
Để thấy được tầm quan trọng của công nghệ đa phương tiện vào chất lượng
giảng dạy, ta sẽ xét một trường đại học đó là trường Đại học Bath của nước
Anh. Sử dụng thư viện kỹ thuật số đa phương tiện cho việc học tập và giảng
dạy trong nghệ thuật biểu diễn.
Phương pháp học tập và giảng dạy
Việc tạo ra, áp dụng và mô tả một thư viện kỹ thuật số đa phương tiện hỗ
trợ học tập và giảng dạy trong nghệ thuật biểu diễn. Tài liệu giảng dạy trực
tuyến của nghệ thuật biểu diễn đó là âm thanh, video, điểm số âm nhạc, ký hiệu
khiêu vũ và kịch bản sân khấu thơng qua các máy tính để bàn, đó một giao diện
web dựa trên sáng tạo. Số đối tượng được liên kết giữa người sử dụng trong hồ
sơ với các định dạng khác nhau và chức năng của chúng.
Nghiên cứu phát triển kỹ thuật Thư viện dựa trên mối quan hệ giữa các đối
tác với các cán bộ nhân viên và sinh viên của Trường Nghệ thuật biểu diễn
(múa, âm nhạc, và nhà hát), ngay từ đầu việc đóng góp và sự phản hồi là điều rất
quan trọng cho sự thành công.
Một trong những mục tiêu ban đầu của phương pháp là để nâng cao việc truy
cập hoặc cho thuê các tài liệu như video và đĩa CD. Cán bộ nhân viên và sinh
viên đã được mời để thảo luận về thử nghiệm phiên bản để phát triển các bước
tiếp theo, và từ đó họ tiến hành đánh giá các hệ thống làm việc. Sửa đổi đã
được thực hiện như là kết quả của đánh giá này; đánh giá bên ngoài cũng đã
được thực hiện bởi các chuyên gia trong âm nhạc, múa và sân khấu và nhiều

gợi ý hữu ích đã được thực hiện thơng qua q trình này. Người sử dụng thơng
tin đã phản hồi một cách tích cực, đầy đủ và dưới đây một số trích dẫn của
người dùng được đưa ra như sau:
- "Rất hữu ích vì nó cùng ảnh hưởng tới tất cả các nguồn lực cho một khóa học
đặc biệt bản sao chép đĩa cứng có thể bị giới hạn"
19


- "Nó giống như có một thư viện nhạc trong phịng riêng của bạn".
Cơng việc người bảo trợ ở hai cấp độ: trước hết là một thư viện kỹ thuật số
cung cấp nhu cầu nguồn lực cho người sử dụng và thứ hai như là một môi
trường ngữ cảnh. Việc phát triển một số công cụ cho việc sử dụng các vật liệu
đa phương tiện để nâng cao và cho phép ứng dụng của họ bởi các sinh viên và
cán bộ nhân viên về các khóa học khác nhau. Những công cụ này đã được phát
triển từ khái niệm về một "hồ sơ" và trong hầu hết các trường hợp, các công cụ
đã được tạo ra để đáp ứng với yêu cầu cụ thể từ một thành viên của đội ngũ
giảng viên trong các trường học.
Các nhà nghiên cứu dự đoán rằng kinh nghiệm của sinh viên về các trang
web sẽ ảnh hưởng đến nhận thức của họ về khả năng của mình. Cụ thể, đưa ra
giả thuyết rằng (1) hơn là một sinh viên học được, tự tin hơn anh hoặc cô ấy sẽ
cảm nhận về hiệu suất trong tương lai của họ về nhiệm vụ và (2) sự hiểu biết của
sinh viên là sau khi hoàn tất các môdum giảng dạy. Một lần nữa, kết quả không
đáng kể ở tất cả các trang web thu thập dữ liệu. Một lần nữa, sự thất bại để đạt
được kết quả là đáng kể có thể chỉ ra sự bất lực của học sinh viên để đánh giá
kiến thức của họ về một chủ đề đặc biệt. Nếu kết quả tăng sự tự tin và giảm lo
lắng được mong muốn, giáo viên có thể muốn tìm cách rõ ràng để nhận biết
những thay đổi trong kỹ năng và học tập của sinh viên sau một hoạt động giảng
dạy.
1.4.4. Hiệu quả việc ứng dụng công nghệ đa phương tiện trong thư viện các
trường đại học hiện nay

Thay đổi mạnh mẽ trong công nghệ và xã hội đang có một tác động đáng kể
đối với các thư viện và các chương trình giảng dạy của họ. Những thay đổi này
đã tạo một sự nhanh chóng để dạy cho người sử dụng thư viện biết như thế nào
để trở nên hiệu quả hơn và độc lập trong việc tìm kiếm thơng tin. Nhưng nó đã
trở nên ngày càng khó khăn cho cán bộ thư viện để tiếp cận người dùng thư
viện vì những lý do sau đây: ít người sử dụng được đến thư viện vì bây giờ họ
có thể truy cập vào nhiều bộ sưu tập thơng qua máy tính cá nhân của . Và nhiều
20


sinh viên đi theo con đường đó là sử dụng các cơng cụ tìm kiếm hoặc họ u
cầu bạn bè của họ chứ không phải là cán bộ thư viện để được trợ giúp.
Đa phương tiện tương tác là giải pháp cho vấn đề có thể chuyển từ mặt-đốimặt trong học tập để học tập trong một môi trường thư viện trực tuyến trên
mạng.
Mặc dù thường được gọi bởi các nhà văn và các nhà sản xuất như thể chúng
là cùng một môi trường, nhưng đa phương tiện và đa phương tiện tương tác là
rất khác nhau. Đa phương tiện mà không cần tương tác là một cuốn sách minh
họa, một bức ảnh với chú thích, một bộ phim, chương trình truyền hình, hoặc
nghe một người bạn mơ tả một bản chụp mà không cần hỏi. Đa phương tiện
tương tác sử dụng từ ngữ trong văn bản và lồng tiếng, các hiệu ứng âm thanh,
âm nhạc, hành động sống,và hình ảnh động, và một giao diện cho phép người,
hoặc một người xem thụ động hoặc một người dùng hiếu động.
Với rất nhiều vấn đề về việc giảng dạy, học tập, và làm sản xuất đa phương
tiện, các nhà giáo dục thư viện là những người bị mắc kẹt với dự án và đánh
giá đa phương tiện có thể thấy rằng họ phát triển cho dự án này đã học được
rằng những cơng việc khó khăn của họ là những giá trị của các nỗ lực. Kết quả
thí nghiệm trên các trang web đa phương tiện rất tích cực và có những ý nghĩa
tương tác là các công cụ giảng dạy hiệu quả bởi vì người sử dụng những kiến
thức đã quan tâm hơn sau khi mọi người đã đến thăm trang web so với trước
đây. Ngoài ra, người sử dụng thư viện sẽ cảm thấy dễ dàng khi tìm hiểu về tài

nguyên thư viện mới và những dịch vụ mà sẽ làm cho công việc của họ như là
các giáo viên, các nhà nghiên cứu, sinh viên và sẽ dễ dàng hơn và tự tin vào
khả năng của họ để sử dụng các nguồn lực và dịch vụ mới.
Các dữ liệu và phân tích mơ tả đã chứng minh rằng các trang web đa
phương tiện tương tác được xây dựng theo hướng dẫn của các nhà giáo dục thư
viện là cơng cụ giảng dạy hiệu quả bởi vì người sử dụng kiến thức đã có nhiều
những tài liệu hơn sau khi mọi thyành viên vào trang web so với trước đây. Các
nhà nghiên cứu điều tra một số biến cố như dự đoán tiềm năng và hậu quả của
21


việc học này. Mặc dù khơng có kết quả là có ý nghĩa thống kê nhưng phần này
mơ tả các phân tích chi tiết và cho thấy những tác động tiềm năng của các kết
quả.
Các nhà nghiên cứu đưa ra giả thuyết rằng những sinh viên đã quen thuộc
hơn với chủ đề của trang web sẽ có ít kết quả hơn để đạt được từ việc sử dụng
các trang web, và do đó điểm học tập sẽ thấp. Tuy nhiên, các dữ liệu không hỗ
trợ giả thuyết này như là kết quả không đáng kể qua ba địa điểm thu thập dữ
liệu. Một cách giải thích có thể có của kết quả này là các học sinh không phải
là đặc biệt có kỹ năng đánh giá trước khi kiến thức chủ đề. Đó là, sinh viên có
thể khơng nhận thức được những hiểu biết của họ về tài nguyên thư viện và
dịch vụ. Trong thực tế, kết quả cho thấy rằng thư viện không nên ngăn việc tạo
ra tài liệu giảng dạy cho các chủ đề mà họ quan trọng trên cơ sở tự báo cáo chủ
đề quen thuộc của sinh viên xem xét. Thay vào đó, các phương tiện khác của
việc đánh giá kỹ năng của sinh viên nên được sử dụng.
Nội dung của chương trình sản xuất đa phương tiện nhằm cho các nhà giáo
dục thư viện nên tập trung vào các kỹ năng giảng dạy, khái niệm và kiến thức
đặc biệt làm cho các nhà giáo dục thư viện và các nhà lãnh đạo của đội ngũ
thiết kế đa phương tiện càng ngày càng phát triển. Lãnh đạo phải chịu trách
nhiệm cho dự án nói chung, như việc xây dựng các mục tiêu của dự án đa

phương tiện, đảm bảo hỗ trợ hành chính, tìm kiếm tài trợ, xây dựng một thời
gian dự án, gán thành viên trong nhóm nhiệm vụ, giám sát tiến độ cơng việc, và
đảm bảo thời hạn được đáp ứng. Khi nói đến việc thiết kế các chương trình đa
phương tiện, các nhà lãnh đạo nhóm nghiên cứu sẽ được tính phí với việc tạo
ra các ý tưởng hoặc thông điệp mà chương trình đa phương tiện truyền đạt cho
người dùng, xác định các chương trình của đối tượng mục tiêu, soạn thảo các
cơng cụ tiện ích kiểm tra, đạt chính cho các bài kiểm tra khả năng sử dụng từ
việc xem xét của các cấp bảng, tiến hành nghiên cứu khả năng sử dụng trong
suốt giai đoạn phát triển của chương trình, và thúc đẩy sự sẵn có của đa
phương tiện hồn thành cho thấy để học tập cộng đồng tổ chức của họ. Cùng
22


với tài năng sáng tạo của đội, các nhà lãnh đạo nên dự thảo trước khi phát triển
chương trình biểu diễn như cách thức, sơ đồ, phác thảo, và cốt truyện. lãnh đạo
sẽ ủy nhiệm sản xuất đa phương tiện để tài năng của đội ngũ sáng tạo, lập trình
viên, và nhân viên kỹ thuật, nhưng họ sẽ vẫn hoạt động giám sát tiến độ công
việc, đảm bảo thời hạn được đáp ứng, và giữ các kênh giao tiếp mở giữa tất cả
các bên tham gia. Điều này có nghĩa là nội dung chương trình được tập trung
vào các kỹ năng quản lý dự án ngoài việc giảng dạy giáo dục về sản xuất đa
phương tiện nói chung. Tuy nhiên, mục tiêu của chương trình như vậy khơng
phải là để biến giáo dục thư viện vào các nhà phát triển đa phương tiện, thay
vào đó, các chương trình này sẽ dạy cho các nhà giáo dục để dẫn dắt các đội đa
phương tiện phát triển nội dung giáo dục thư viện người dùng.

23


Chương 2
CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ ĐA

PHƯƠNG TIỆN TRONG THƯ VIỆN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC
2.1 Những nguyên tắc đề xuất giải pháp
2.1.1. Nguyên tắc đảm bảo tính thực tiễn
Trong khi thực hiện mục tiêu quản lý giáo dục, mỗi nhà trường có các
điều kiện khác nhau về cơ sở vật chất, về đội ngũ, về đặc điểm văn hóa kinh tế,
xã hội địa phương, về các khả năng quản lý, tổ chức, điều hành. Các biện pháp
phải thể hiện và cụ thể hóa đường lối, phương châm giáo dục của Đảng và Nhà
nước, phù hợp với chế định giáo dục của ngành trong quá trình quản lý, muốn
vậy phải xác định được định hướng chiến lược phát triển giáo dục hiện nay, các
biện pháp cụ thể trong việc quản lý đội ngũ giáo viên để nâng cao chất lượng
dạy học và đổi mới phương pháp là một trong những yếu tố cần được giải
quyết.
2.1.2. Nguyên tắc đảm bảo tính đồng bộ
Yêu cầu này xuất phát từ bản chất của quá trình quản lý của người Hiệu
trưởng trong nhà trường, trong đó tập trung vào việc lập kế hoạch chỉ đạo thực
hiện việc quản lý đội ngũ giáo viên đúng mục đích, phù hợp với nội dung và
cách thức thực hiện, điều kiện thực hiện đảm bảo tính đồng bộ của các biện
pháp mới phát huy được thế mạnh của từng biện pháp trong việc sử dụng
ĐNGV của trường.
2.1.3. Nguyên tắc đảm bảo tính hiệu quả
Yêu cầu này xuất phát từ bản chất của quá trình quản lý, trong tất cả các
hoạt động đã đề ra phải đem lại tính hiệu quả, hay thực chất hơn đó là lợi ích
trong cơng việc. Tính lợi ích địi hỏi mọi hoạt động phải được thực hiện thơng
suốt, thuận lợi, đảm bảo sự thống nhất không mâu thuẫn nhau cả về quan điểm
chỉ đạo lẫn nội dung thực hiện, hạn chế đến mức tối đa về yếu tố khơng khả thi
trong cơng tác quản lý, gây lãng phí thời gian công sức.

24



2.1.4. Nguyên tắc đảm bảo tính khả thi
Đảm bảo tính khả thi chính là sự địi hỏi các biện pháp đề xuất có khả
năng áp dụng vào thực tiễn hoạt động quản lý của nhà quản lý một cách thuận
lợi, trở thành hiện thực và đem lại hiệu quả cao trong việc thực hiện các chức
năng quản lý (kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo kiểm tra). Để đạt được điều này khi
xây dựng các biện pháp phải đảm bảo tính khoa học quy trình quản lý với các
bước tiến hành cụ thể, chính xác. Các biện pháp phải được thực hiện một cách
rộng rãi và được điều chỉnh để ngày càng hồn thiện.
2.2. Một số giải pháp nâng cao cơng tác quản lý thư viện các trường đại học
2.2.1. Trang bị và sử dụng có hiệu quả cơng nghệ đa phương tiện
Chủ động bám sát chương trình đào tạo của các trường thành viên, các khoa
trực thuộc, kết hợp với việc tham khảo ý kiến đóng góp của chuyên gia đầu
ngành và của đơng đảo bạn đọc, đó là phương châm của công tác bổ sung tài
liệu nhằm đảm bảo về chất lượng cho dù còn hạn chế về số lượng do kinh phí
hạn hẹp. Nhờ áp dụng phương châm đó, nguồn tài liệu bổ sung ln nhận được
sự đánh giá cao của hầu hết cán bộ và sinh viên trong trường đại học.
Trong giai đoạn hiện nay, mặc dù các nguồn tài liệu điện tử, tài liệu hiện đại
đã bộc lộ những ưu thế mạnh mẽ trong hoạt động thông tin, nhưng các tài liệu
truyền thống (tài liệu in ấn) vẫn là nguồn thông tin chủ đạo đối với sinh viên và
cán bộ giảng dạy trong các trường đại học
Bên cạnh việc thường xuyên bổ sung các tài liệu truyền thống, các trường
cũng luôn chú trọng tới việc bổ sung các tài liệu hiện đại. Đó là các tài liệu nghe
nhìn (băng hình, băng tiếng, vi phim, vi phiếu, đĩa CD-ROM) và các tài liệu số
hố.
Để tăng cường cơng tác phát triển nguồn tin cũng như quản lý, lưu trữ và
đưa ra các sản phẩm thông tin mới, các trường nên từng bước xây dựng và phát
triển nguồn tin điện tử.

25



×