Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Tài liệu Những Quan Điểm Cơ Bản Của Trần Nhân Tông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 68 trang )

tai lieu, document1 of 66.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN
KHOA TRIẾT HỌC
-----------------------

ĐÀO VĂN MẠNH
Hà Nội, 2019.

NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TRẦN NHÂN TƠNG VỀ
CHÍNH TRỊ, QUÂN SỰ, NGOẠI GIAO, VĂN HÓA VÀ GIÁO DỤC

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2016-X

HÀ NỘI, 2020

luan van, khoa luan 1 of 66.


tai lieu, document2 of 66.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN
KHOA TRIẾT HỌC
-----------------------

ĐÀO VĂN MẠNH

NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TRẦN NHÂN TƠNG VỀ


CHÍNH TRỊ, QN SỰ, NGOẠI GIAO, VĂN HÓA VÀ GIÁO DỤC

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2016-X

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS. TS Nguyễn Thanh Bình

HÀ NỘI, 2020
luan van, khoa luan 2 of 66.


tai lieu, document3 of 66.

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan tất cả nội dung trong khóa luận với đề tài “Những
quan điểm cơ bản của Trần Nhân tơng về chính trị, quân sự, ngoại giao,
văn hóa và giáo dục” là cơng trình nghiên cứu cá nhân tơi và dưới sự hướng
dẫn của PGS.TS Nguyễn Thanh Bình. Các kết quả nghiên cứu và các kết luận
trong khóa luận này là trung thực, không sao chép từ bất kỳ một nguồn nào và
dưới bất kỳ hình thức nào. Các nguồn tài liệu tham khảo đã được thực hiện
trích dẫn và ghi nguồn tài liệu tham khảo đúng quy định, nếu phát hiện ra có
sự gian lận tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm trước hội đồng và kết quả của
khóa luận.

Hà Nơi, ngày 30 tháng 5 năm 2020
Tác giả


Đào Văn Mạnh

luan van, khoa luan 3 of 66.


tai lieu, document4 of 66.

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài .........................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm cụ nghiên cứu ..............................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...............................................................2
4. Cở sở lý luận và phương pháp nghiên cứu .................................................2
5. Ý nghĩa khóa luận .......................................................................................3
6. Kết cấu của đề tài ........................................................................................3
NỘI DUNG.....................................................................................................4
Chƣơng 1: ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH THÀNH
NHỮNG QUAN ĐIỂM CỦA TRẦN NHÂN TƠNG VỀ CHÍNH TRỊ,
QUÂN SỰ, NGOẠI GIAO, VĂN HÓA VÀ GIÁO DỤC ........................ .4
1.1 Điều kiện lịch sử, chính trị, xã hội Việt Nam cho sự hình thành
những quan điểm của Trần Nhân Tơng về chính trị, qn sự, ngoại giao,
vắn hóa và giáo dục .......................................................................................4
1.2. Tiền đề lý luận cho sự hình thành những quan điểm của Trần Nhân
Tơng về chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa và giáo dục ................. 10
1.3. Trần Nhân Tông – cuộc đời và sự nghiệp ......................................... 18
CHƢƠNG 2: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TRẦN NHÂN
TƠNG VỀ CHÍNH TRỊ, QN SỰ, NGOẠI GIAO, VĂN HĨA VÀ
GIÁO DỤC................................................................................................. 25
2.1. Quan điểm của Trần Nhân tơng về chính trị, quân sự và ngoại giao
2.1.1. Quan điểm của Trần Nhân Tơng về chính trị ................................... 25

2.1.2. Quan điểm của Trần Nhân Tông về quân sự .................................... 35

luan van, khoa luan 4 of 66.


tai lieu, document5 of 66.

2.1.3. Quan điểm của Trần Nhân Tông về ngoại giao ................................ 38
2.2 Quan điểm của Trần Nhân Tơng về giáo dục và văn hóa ............... 45
2.2.1. Quan điểm của Trần Nhân Tông về giáo dục ................................... 45
2.2.2. Quan điểm của Trần Nhân Tơng về văn hóa .................................... 47
2.3. Những giá trị nổi bật trong các quan điểm của Trần Nhân Tơng về
chính trị, qn sự, ngoại giao,văn hóa và giáo dục ................................ 52
KẾT LUẬN ................................................................................................ 59
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 62

luan van, khoa luan 5 of 66.


tai lieu, document6 of 66.

MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Vương triều Trần rực rỡ để lại những giá trị đặc biệt có ý nghĩa to lớn
đối với sự phát triển của đất nước: Một triều đại vừa sinh Phật, vừa sinh
Thánh. Cả Phật và Thánh nhà Trần cho đến tận ngày hôm nay, sau gần một
thiên niên kỷ bão táp, vẫn giữ một vị trí sừng sững trong tâm thức dân tộc.

Cùng với thời gian, những tư tưởng của vị Hoàng đế thứ 3 của triều đại
nhà Trần - Trần Nhân Tơng để lại càng có giá trị với tầm vóc vượt thời gian.
Ngay từ thế kỷ XIII, trí tuệ và tư tưởng Trần Nhân Tông đã đạt tới đỉnh cao,
đặc biệt là những tư tưởng của ơng về chính trị, qn sự, văn hóa, giáo dục.
Trần Nhân Tơng là ông vua minh triết trong lãnh đạo, dũng cảm, kiên quyết
trong đánh giặc và ân tình trong việc trị dân, trị nước, và sâu sắc trong tu
hành. Với tình thương và tâm từ bi rộng lớn, tấm lòng yêu nước và thương
dân kết hợp với khuynh hướng chính trị nhạy bén của Trần Nhân Tông, Trần
Nhân Tông đã tiếp tục biên khảo bộ Hình luật, chú trọng nhiều hơn đến đời
sống của thần dân Đại Việt thời ơng trị vì. Hội nghị Diên Hồng và hội nghị
Bình Than dưới sự dẫn dắt của Trần Thánh tông và Trần Nhân tông đã nói
lên điều đó. Đối diện với vận mệnh của đất nước đang lâm nguy trước giặc
ngoại xâm, ông đã kêu gọi tiếng nói và sự đồng lịng của vua tôi, quần thần
và nhân dân trong việc bảo vệ đất nước.
Vua Trần Nhân Tông đã sống một cuộc đời oanh liệt, có những đóng
góp vơ cùng to lớn và thiết thực do dân tộc Việt Nam và Phật giáo.Vậy thì ,vì
sao Trần Nhân Tơng lại có những tư tưởng đó, những tư tưởng tiến bộ của
ơng về chính trị, qn sự, ngoại giao, văn háo, giáo dục là gì?. Ngày nay,
những tác phẩm của Trần Nhân Tông do Thánh đăng ngữ lục ghi lại như
Thiền Lâm thiết chủy ngữ lục, Thiền lâm thiết chủy hậu lục, Đại hương ải ấn
thi tập, Tăng già toát sự và Thạch thất mị ngữ hồn tồn đã thất tán. Những
gì cịn lại chỉ gồm một số bài thơ ,văn và ngữ lục được ghi chép rải rác. Cho
1

luan van, khoa luan 6 of 66.


tai lieu, document7 of 66.

nên, việc nghiên cứu tư tưởng của của Trần Nhân Tông không hề dễ dàng.

Tuy nhiên, căn cứ vào những gì hiện hữu về vua Trần Nhân Tơng cịn lưu lại,
tơi xin phép được phác họa sơ qua một số quan điểm cơ bản của Trần Nhân
Tơng trong vấn đề chính trị, qn sự, ngoại giao văn hóa và giáo dục.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Từ việc phân tích một số quan điểm cơ bản của Trần Nhân
Tơng về chính trị, qn sự, ngoại giao,văn hóa và giáo dục từ đó, khóa luận
chỉ ra những giá trị nổi bật của các quan điểm của Trần Nhân Tơng về vấn đề
chính trị, qn sự, ngoại giao, văn hóa và giáo dục.
Nhiệm vụ: Để hồn thành mục đích trên, khóa luận có nhiệm vụ làm
rõ:
-Điều kiện và tiền đề cho sự hình thành quan điểm của Trần Nhân
Tơng về chính trị, qn sự, ngoại giao, văn hóa và giáo dục.
-Những nội dung cơ bản trong các quan điểm cơ bản của Trần Nhân
Tông về chính trị, qn sự, ngoại giao, văn hóa và giáo dục.
-Những giá trị nổi bật của các quan điểm của Trần Nhân Tơng về chính
trị, qn sự, ngoại giao, văn hóa và giáo dục.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Các quan điểm cơ bản của Trần Nhân Tơng về chính trị,
qn sự, ngoại giao, văn hóa và giáo dục.
Phạm vi: Một số tác phẩm của Trần Nhân Tông và các bộ quốc sử đề
cập đến con người và sự nghiệp của Trần Nhân Tông.
4. Cở sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận dựa trên sơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về xã hội và con
người.
2

luan van, khoa luan 7 of 66.



tai lieu, document8 of 66.

Khóa luận áp dụng phương pháp biện chứng, duy vật lịch sử trong triết
học Mác – Lênin. Ngồi ra khóa luận cịn vận dụng các phương pháp nghiên
cứu khoa học khác như: phân tích ,tổng hợp, so sánh…
5. Ý nghĩa khóa luận
Khóa luận góp một phần vào việc nghiên cứu về các quan điểm của
Trần Nhân Tơng về chính trị, qn sự, ngoại giao, văn hóa và giáo dục, để
trên cơ sở đó thấy được những giá trị nổi bật.
Khóa luận có thể làm tài liệu để nghiên cứu và học tập lịch sử tư tưởng
Việt Nam.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của khóa luận gồm 2 chương 6 tiết.

3

luan van, khoa luan 8 of 66.


tai lieu, document9 of 66.

NỘI DUNG
Chƣơng 1: ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH THÀNH
NHỮNG QUAN ĐIỂM CỦA TRẦN NHÂN TƠNG VỀ CHÍNH TRỊ,
QN SỰ, NGOẠI GIAO, VĂN HĨA VÀ GIÁO DỤC.
1.1.Điều kiện lịch sử, chính trị, xã hội Việt Nam cho sự hình thành
những quan điểm của Trần Nhân Tơng về chính trị, qn sự, ngoại giao,
văn hóa và giáo dục.
Để nghiên cứu tư tưởng về chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa, giáo

dục của Trần Nhân Tơng trước tiên chúng ta cần tìm hiểu điều kiện lịch sử xã
hội và những tiền đề lý luận hình thành tư tưởng của ơng. Giống như C.Mác
đã nói “Các triết gia không mọc lên như nấm từ trái đất, họ là sản phẩm của
thời đại mình, của dân tộc mình, mà dịng sữa tinh tế nhất, q giá và vơ hình
được tập trung lại trong tư tưởng triết học” [1, tr.156].
Từ cuối thế kỷ XII khi nhà Lý ngày càng suy yếu, triều đình lục đục,
vua quan ngày đêm chỉ lo ăn chơi sa đọa không màng đến đời sống của
người dân cực khổ, khó khăn, sản xuất đình trệ, mất mùa đói kém xảy ra liên
miên, nhân dân khắp nơi cùng nhau nổi lên chống lại triều đình, xã hội ngày
càng loạn lạc, các thế lực trong nước mất đồn kết, đánh giết lẫn
nhau…Khơng lâu sau đó, tháng 12 năm Ất Dậu (1226) cơng chúa Lý Chiêu
Hồng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, nhà Lý nhường ngai vàng cho
nhà Trần, nhà Trần được thành lập từ đó.
Về tổ chức hành chính và bộ máy quan lại, thời Trần tổ chức hành
chính và bộ máy quan lại nhìn chung hoàn thiện hơn so với thời Lý. Sau khi
giành được chính quyền, nhà Trần đã phân chia lại Đại Việt thành 12 lộ thay
vì 24 lộ như ở thời Lý. Bộ máy hành chính được củng cố theo hướng tăng
tính tập quyền quan liêu. Các quan được cấp lương bổng theo ngạch, bậc; cứ
10 năm thăng tước một cấp, 15 thăng tước một bậc.

4

luan van, khoa luan 9 of 66.


tai lieu, document10 of 66.

Về quốc phòng an ninh, nhà Trần một mặt, nhanh chóng ổn định tình
hình chính trị, xã hội, xây dựng chính quyền mới; mặt khác, tổ chức lại quân
đội, củng cố quốc phòng. Quân đội nhà Trần gồm có cấm quân và quân ở các

lộ. Cấm quân là đạo quân bảo vệ kinh thành, triều đình, nhà vua. Ở các làng
xã, có hương binh. Khi có chiến tranh, cịn có qn đội của các vương hầu.
Qn đội nhà Trần được tuyển dụng theo chính sách "ngụ binh ư nơng" và
theo chủ trương : "Qn lính cốt tinh nhuệ, khơng cốt đơng”, xây dựng tinh
thần đồn kết trong quân đội. Quân đội nhà Trần được học tập binh pháp và
luyện tập võ nghệ thường xuyên. Nhà Trần cịn cử nhiều tướng giỏi cầm
qn đóng giữ các vị trí hiểm yếu, nhất là vùng biên giới phía bắc. Vua Trần
thường đi tuần tra việc phòng bị ở các nơi này.
Về pháp luật, năm 1230, Trần Thái Tông ban hành bộ Quốc triều hình
luật. Cơ quan pháp luật nhà Trần được tăng cường hồn thiện hơn. Trong
triều có thẩm hình viện chuyên xét xử việc hình ngục. Cuối thế kỷ XIII, nhà
Trần lập ra Viện đăng văn kiểm pháp, lấy các đại thần phụ trách. Việc tuyển
chọn các quan làm chức vụ này có tiêu chuẩn thanh liêm, thẳng thắn. Các
tầng lớp đại quý tộc như Vua và hoàng gia được pháp luật bảo hộ đặc biệt, xã
hội còn chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo, chú trọng đến việc bảo vệ
sản xuất nông nghiệp, ban hành các luật về đất đai, chuyển nhượng vật nuôi
trong nông nghiệp như trâu bò, coi việc xây dựng, bảo vệ đê điều là việc làm
của toàn nhà nước và nhân dân.
Về ngoại giao, dưới triều Trần các vua đã tiến hành ngoại giao kiên
quyết và cứng rắn để bảo vệ độc lập chủ quyền dân tộc. Sau chiến thắng
quân Mông Cổ lần 1 (1258), công việc ngoại giao được tiến hành qua những
biện pháp làm sáng tỏ uy lực của mình:
Các vua thời Trần đã cử sứ bộ là tướng vừa thắng Mông Cổ sang chầu
và lệnh cho sứ bộ khi sang chầu không kê khai số dân, quân dịch, cống nạp
và phải chống việc đòi nước ta phải theo nghi lễ Mông Cổ.
5

luan van, khoa luan 10 of 66.



tai lieu, document11 of 66.

Trong hai lần kháng chiến chống quân Nguyên sau đó (1285 và 1288),
nhà Trần đã thi hành chính sách ngoại giao vừa kiên quyết vừa mềm dẻo để
kiềm chân quân xâm lược Nguyên Mông, nêu cao chính nghĩa của nhân dân
ta.
Sau chiến thắng, triều Trần tiếp tục đấu tranh ngoại giao làm tan rã ý
chí xâm lược của kẻ thù, vừa tố cáo tội ác xâm lược, chỉ trả nhà Nguyên
những tù binh ít nguy hiểm đối với đất nước.
Triều Trần đã lợi dụng lúc địch gặp khó khăn, lúng túng, vận dụng
sách lược ngoại giao uyển chuyển, linh hoạt “khi cương, khi nhu” vì vậy địch
phải chấp nhận hịa hỗn, thậm chí cam kết khơng xâm phạm lãnh thổ và
danh dự nước ta.
Các vua Trần đã biết dựa vào sức mạnh đoàn kết của dân tộc và chính
nghĩa, tìm hiểu kỹ về âm mưu của kẻ địch, linh hoạt trong việc áp dụng các
chính sách ngoại giao. Khi thì kìm chân địch bằng ngoại giao, lúc tiến công
ngoại giao tiếp theo chiến thắng quân sự để làm lung lay tiến tới làm tan rã ý
chí xâm lược của địch như sau lần thắng Nguyên - Mông lần thứ ba.
Nền kinh tế đất nước thời nhà Trần, về mặt nông nghiệp: để tránh nạn
ngập lụt, vua Trần Thái Tông sai đắp đê hai bên bờ sông và cử quan đặc
trách trông coi việc đê gọi là “Hà đê sứ”. Mỗi năm sau vụ mùa, triều đình
cịn ra lệnh cho quân sĩ đắp đê hay đào lạch, hào, giúp đỡ dân chúng. Triều
đình cũng cho phép các vương, hầu có quyền chiêu tập những người nghèo
khó, lưu lạc đi khai khẩn đất hoang để mở mang thêm ruộng nương. Về mặt
thuế má: Có 2 loại thuế là thuế thân và thuế điền. Thuế thân được đóng bằng
tiền và ít nhiều tùy theo số ruộng có. Ai có dưới một mẫu ruộng thì được
miễn thuế. Thuế điền thì đóng bằng thóc. Ngồi ra cịn có thuế trầu cau, rau
quả, tôm cá v.v. Về mặt tiền tệ, để tiện việc tiêu dùng - vàng, bạc được đúc
thành phân, lượng và có hiệu của nhà vua.


6

luan van, khoa luan 11 of 66.


tai lieu, document12 of 66.

Nhìn chung, lịch sử phát triển của đất nước ở triều Trần có thể chia ba
thời kỳ: thời thứ nhất từ Thái Tông đến Nhân Tông là thời xây dựng và
chống Mông - Nguyên, thời thứ hai từ Anh Tơng đến Hiến Tơng (có Thượng
hồng Minh Tông) là thời kế tục, thời thứ ba từ Dụ Tơng (sau khi Thượng
hồng Minh Tơng mất) tới khi kết thúc là thời suy tàn.
Các vua Trần thời hậu kỳ, kể cả Minh Tông, đều không biết chiêu mộ
nhân tài; lực lượng quan lại đều kém tài. Nếu thế hệ trước thắng Mông
Nguyên khổng lồ một cách oai hùng bao nhiêu thì đời con cháu phải chạy
trốn một Chiêm Thành nhỏ bé, từng núp bóng mình trong chiến tranh chống
Mơng - Nguyên xưa kia, một cách thảm hại bấy nhiêu. Đến khi bị Chiêm
Thành xâm lấn, khơng hề có một gương mặt nào của dòng họ Trần đứng ra
chống được giặc mà phải dựa vào một tướng ngoài hoàng tộc (Trần Khát
Chân vốn mang họ Lê). Nếu trong tông thất nhà Trần thời kỳ sau có những
nhân tài như giai đoạn đầu thì dù Q Ly có manh tâm cũng khơng thể tính
chuyện cướp ngơi. Nhà Trần trượt dốc từ Trần Dụ Tông, sau sự kiện Dương
Nhật Lễ và cái chết của Duệ Tông đã không gượng dậy được nữa. Đó chính
là thời cơ cho Hồ Q Ly làm việc chuyên quyền và chiếm lấy ngôi nhà
Trần.
Dù sao, nhà Trần vẫn là một trong những triều đại nổi bật nhất trong
lịch sử Việt Nam. Trang sử về nhà Trần trong sử sách nằm trong số những
trang sáng nhất và để lại nhiều bài học cho đời sau.
Về văn hóa nghệ thuật, nhà Trần đã đào tạo được khá nhiều học giả nổi
tiếng như Lê Văn Hưu soạn bộ Đại Việt sử ký và đây cũng là sách bộ sử đầu

tiên của Việt Nam. Mạc Đĩnh Chi nổi tiếng là một ông trạng rất mực thanh
liêm, đức độ và có tài ứng đối đã làm cho vua quan nhà Nguyên phải kính
phục. Chu Văn An là một bậc cao hiền nêu gương thanh khiết, một thầy giáo
mẫu mực, tiêu biếu cho tính cương trực. Các vua Thái Tơng, Thánh Tơng,
Nhân Tơng, Anh Tông, Minh Tông đều là những người giỏi văn chương và
7

luan van, khoa luan 12 of 66.


tai lieu, document13 of 66.

có soạn “Ngự tập” và danh tướng Trần Quốc Tuấn có làm những tác phẩm
giá trị như Hịch tướng sĩ.
Hàn Thun tức Nguyễn Thun có cơng làm thơ bằng chữ Nôm và
đặt ra luật thơ Nôm. Vì thế đã có nhiều học giả, văn nhân đã theo gương của
Hàn Thuyên mà làm những bài thơ Nôm rất giá trị. Đại Việt sử ký toàn thư
chép: “Bấy giờ (năm 1282) có cá sấu đến sơng Lơ. Vua sai hình bộ thượng
thư Nguyễn Thuyên làm bài văn ném xuống sông, cá sấu bỏ đi. Vua cho việc
này giống như việc của Hàn Dũ, bèn ban gọi là Hàn Thuyên. Thuyên lại giỏi
làm thơ phú quốc ngữ. Thơ phú nước ta dùng nhiều quốc ngữ, thực bắt đầu
từ đấy” [9, tr.301].
Nghệ thuật điêu khắc thời Trần được đánh giá là có bước tiến bộ, tinh
xảo hơn so với thời Lý, trong đó có một số phù điêu khắc hình nhạc công
biểu diễn mang phong cách Chiêm Thành. Cách trang trí hoa dựa trên nghệ
thuật dân dụng.
Âm nhạc Đại Việt thời Trần chịu ảnh hưởng của Ấn Độ, Chiêm Thành
và Trung Quốc . Một số nhạc công bị bắt từ Chiêm Thành và Trung Quốc
trong các cuộc chiến đã truyền nghề ca hát cho dân Đại Việt, càng ngày càng
phổ biến.

Về giáo dục, thời nhà Trần, văn học rất được mở mang, Nho học cũng
phát triển hơn so với thời Lý. Ngồi Quốc tử giám có tại kinh đơ từ đời nhà
Lý, nhà Trần cho lập thêm Quốc học viện để giảng Tứ Thư và Ngũ Kinh. Tại
các lộ cũng cho mở trường học để dạy cho dân chúng. Trước kia dưới triều
nhà Lý, có mở những khoa thi tam trường để lấy cử nhân, nhưng các khoa thi
chỉ được mở ra khi nào triều đình cần người tài giỏi ra giúp nước chứ chưa
có mở định kỳ. Năm 1232, vua Trần Thái Tông cho mở khoa thi thái học
sinh để lấy tiến sĩ theo định kỳ cứ 7 năm thì có một kỳ thi. Năm 1247, nhà
vua lại cho đặt ra khảo thi tam khôi để lấy trạng nguyên, bảng nhãn và thám
hoa. Lê Văn Hưu là người đầu tiên đậu bảng nhãn.
8

luan van, khoa luan 13 of 66.


tai lieu, document14 of 66.

Trong 175 năm tồn tại, nhà Trần đã tổ chức 14 khoa thi (10 khoa chính
thức và 4 khoa phụ), lấy 283 người đỗ . Có 2 khoa thi năm 1256 và 1266 lấy
2 trạng nguyên là Kinh trạng nguyên và Trại trạng nguyên nên tổng số có 12
người đỗ đầu trong các kỳ thi.
Về tơn giáo, vào đầu đời nhà Trần Phật giáo còn thịnh. Các nhà vua
đều sùng đạo cho xây chùa, đúc chuông, tạc tượng để phụng thờ khắp nơi.
Vua Nhân Tơng cịn sai sứ sang Trung Hoa để thỉnh kinh về truyền bá đạo
Phật, và ơng chính là ơng tổ đầu tiên của thiền phái Trúc Lâm. Nhưng cuối
đời Trần, Phật giáo bị pha thêm các hình thức mê tín bùa chú cho nên ngày
càng suy vi. Về Lão giáo thì cũng được nhân dân ngưỡng mộ. Do đó, nhà
Trần cũng cho mở những khảo thi tam giáo như đời nhà Lý.
Năm 1277, Thượng hồng Trần Thái Tơng mất. Mùa đơng ngày 22
tháng Mười âm lịch năm sau (tức 8 tháng 11 năm 1278), Trần Thánh Tông

nhường ngôi cho con trai là Thái tử Trần Khâm - tức Hồng đế Trần Nhân
Tơng - và lên làm Thái thượng hồng, với tơn hiệu là Quang Nghiêu Từ Hiếu
Thái Thượng Hoàng Đế Thể theo phép tắc triều Trần, Thượng hoàng tiếp tục
cùng Hoàng đế điều hành chính sự. Trong bối cảnh Ngun – Mơng đang
từng bước chuẩn bị tấn công Đại Việt, hai vua Trần đã đề ra các biện pháp
khuyến khích phát triển nông nghiệp, thương mại, đồng thời đảm bảo sự ổn
định và đoàn kết trong nước. Khi thủ lĩnh người dân tộc Trịnh Giác Mật nổi
dậy ở Đà Giang vào đầu năm 1280, hai vua ra lệnh cho Chiêu Văn
vương Trần Nhật Duật đi thuyết phục quân nổi dậy quy hàng. Nhật Duật nhờ
giỏi ngoại giao và am hiểu phong tục dân bản địa nên đã thu phục được Giác
Mật mà "không tốn một mũi tên"[12, tr.222-223].
Từ năm 1278 đến 1281, Nhà Nguyên đã ba lần sai Lễ bộ thượng thư
Sài Thung dụ Trần Nhân Tông đến chầu, nhưng vua Trần cự tuyệt [19, tr
202]. Năm 1282, Thượng hoàng cử chú họ là Trần Di Ái thay mặt vua sang
Nguyên. Không thỏa mãn, Nhà Nguyên cử một số quan lại sang giám sát các
9

luan van, khoa luan 14 of 66.


tai lieu, document15 of 66.

địa phương của Đại Việt, nhưng đều bị hai vua Trần trục xuất. Khoảng năm
1281–1282, Hốt Tất Liệt lập Trần Di Ái làm An Nam Quốc vương và sai Sài
Thung đem 1 nghìn quân hộ tống Di Ái về nước [16, tr.78]. Hai vua Trần đã
sai quân chặn ở biên giới, đánh tan đội quân hộ tống của Nhà Nguyên và bắt
được Di Ái, nhưng vẫn nghênh đón Sài Thung về Thăng Long. Thất bại
trong việc đưa Di Ái về Đại Việt đã khiến Sài Thung giận dữ đến mức khi
"vua Trần Nhân Tông sai Quang Khải đến sứ quán khoản tiếp. Xuân [cách
gọi khác của Sài Thung] nằm khểnh không ra, Quang Khải vào hẳn trong

phịng, hắn cũng khơng dậy tiếp." [10, tr. 188-189] Hưng Đạo vương Trần
Quốc Tuấn phải giả làm tu sĩ Phật giáo người Hán đến bắt chuyện, Sài
Thung mới chịu tiếp.
Sau vụ Trần Di Ái, quan hệ hai bên căng thẳng và đến cuối năm 1282,
vua Nguyên một mặt cử nguyên sối Toa Đơ từ Quảng Châu đánh Chiêm
Thành, mặt khác sai Trấn Nam vương Thoát Hoan tập trung 50 vạn quân
chuẩn bị “mượn đường đánh Chiêm” (trên thực tế là tiến công Đại Việt). Hai
vua Trần lập tức bắt tay vào việc chuẩn bị tổ chức kháng chiến. Tháng 10 âm
lịch năm 1282, Thánh Tông và Nhân Tông phong Hưng Đạo vương làm
Quốc công Tiết chế – tức tổng chỉ huy toàn bộ quân đội Đại Việt. Hai tháng
sau, Thượng hồng mời các bơ lão trong cả nước về điện Diên Hồng (Thăng
Long) để bàn kế đánh Nguyên. Đại Việt sử ký toàn thư thuật lại rằng, khi
được Thượng hoàng hỏi có nên chống lại người Ngun hay khơng, các bơ
lão đã “cùng nói như từ một miệng: “Đánh!””[10, tr 188-189].
1.2. Tiền đề lý luận cho sự hình thành những quan điểm của Trần
Nhân Tơng về chính trị, qn sự, ngoại giao, văn hóa và giáo dục
Tiền đề lý luận tư tưởng của Trần Nhân Tơng có sự kế thừa trong việc
tiếp thu những truyền thống văn hóa Việt Nam mà tập trung chủ yếu ở trong
tư tưởng về ý thức quốc gia, dân tộc, về tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường
và tinh thần yêu nước bất diệt - Một trong những yếu tố tinh thần quý báu
của dân tộc ta trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước.Nhưng chủ
10

luan van, khoa luan 15 of 66.


tai lieu, document16 of 66.

yếu đề hình thành nên tư tưởng của ơng về chính trị, qn sự, ngoại giao, văn
hóa và giáo dục là sự kế thừa và phát triển tử tưởng của Trần Nhân Tông và

Tuệ Trung Thượng Sĩ.
Về tư tưởng triết học của Trần Thái Tông:
Trần Thái Tông (1218-1277) tên thật là Trần Cảnh, là vị vua khai
nghiệp nhà Trần. Ơng lên ngơi năm 1225. Năm 1258, với tài năng quân sự
kiệt xuất ông đã dẫn dắt nhân dân Đại Việt chiến thắng vó ngựa xâm lược
của qn Mơng Cổ, bảo vệ nền hịa bình đất nước, xây dựng nền thái bình
thịnh trị. Dưới triều đại của ơng, “chính trị, văn hóa, tơn giáo đều cực thịnh”.
Ơng cũng chuyên tâm nghiên cứu Phật học và sùng mộ đạo Phật nhưng
không xem thường cái học của các trường phái khác. Học thuật nước nhà do
đó phát triển. Ơng là vị vua đỡ đầu việc phát triển Phật giáo Việt Nam, khiến
cho Thiền học phát triển rực rỡ, và Thiền học cũng là yếu tố tư tưởng tiểu
biểu trong tư tưởng triết học của Trần Thái Tông ảnh hưởng trực tiếp đến
những quan điểm của Trần Nhân Tông về chính trị, qn sự, ngoại giao, văn
hóa và giáo dục.
Dưới ảnh hưởng của ông, Phật giáo thiền tông không chỉ tạo nên
những giá trị tinh thần độc đáo trong sự phát triển đời sống văn hóa - tơn
giáo Đại Việt thế kỷ XIII - XIV mà cịn góp phần tích cực vào sự nghiệp bảo
vệ đất nước chống quân xâm lược Ngun Mơng và xây dựng nền hịa bình,
thịnh vượng của triều đại nhà Trần. Bên cạnh đó, tư tưởng Thiền định của
Trần Thái Tông là cơ sở, nền tảng quan trọng cho sự ra đời, phát triển của
dòng thiền Trúc Lâm - thành tựu rực rỡ nhất của Phật giáo thời Trần - hình
thành và phát triển. Trần Thái Tông đã kế thừa quan niệm bản thể thế giới là
không của thiền học thời Lý: “Nguyên lai, tứ đại vốn là khơng, ngũ uẩn cũng
chẳng có. Từ khơng khởi ra hư vọng, từ hư vọng thành ra sắc tướng mà sắc
tướng là từ cái chân khơng”; “Bốn núi chót vót mn khóm xanh, Hiểu ra thì
tất cả là hư vô, vạn vật là không” dẫn theo[14, tr.34]. Bên cạnh khái niệm về
11

luan van, khoa luan 16 of 66.



tai lieu, document17 of 66.

tính khơng, Trần Thái Tơng cịn đưa ra các khái niệm “bản tính”, “chân
tâm”, “bản tâm” để chỉ bản thể của thế giới: “Bản tính huyền ngưng, chân
tâm trạm tịch, dứt tuyệt ý niệm về tròn khuyết, nếu khơng phải là người trí
thì khơng truy cứu đến giềng mối của nó. Nó khơng hợp, khơng tan, khơng
mất, khơng cịn… Vì nó khơng phải hữu cũng khơng phải vơ, khơng đạo
cũng khơng tục, nó độc tồn, siêu nhiên, ngồi nó khơng có gì khác, vì vậy nó
là tự tính kim cương” dẫn theo[21, tr.219-220].
Quan niệm chân tâm đồng nhất với tính khơng như trên của Trần Thái
Tơng có rất nhiều điểm đồng nhất với quan niệm về “đạo” của Lão Tử. Điều
này cũng được thể hiện rõ nét khi ông kế thừa quan điểm thiền học thời nhà
Lý, khi ông cho rằng tất cả mọi người đều có Phật tính, bất kỳ ai cũng có thể
đạt được thành tự trong quá trình tu tập nếu họ thực sự tập trung và cố gắng:
“Nào biết bồ đề giác tính, ai nấy viên thành; hay đâu trí tuệ thiện căn, người
người đều đủ. Chẳng cứ đại ẩn tiểu ẩn; đâu nền tại gia xuất gia. Chẳng nề
tăng tục, chỉ cốt tỏ lòng; nào kể gái trai, cớ sao nề tướng? Người chưa hiểu
chia bừa thành tam giáo; giác ngộ rồi cùng thấu một chữ tâm”dẫn theo[14,
tr.50].
Trần Thái Tông đã đưa ra những giải thích từ quan niệm tâm khơng
đồng nhất với Phật tính, đồng nhất với bản thể của vũ trụ, Trần Thái Tông đi
tới những kiến giải nhận thức luận về thế giới sự vật, hiện tượng bên ngồi.
Ơng cho rằng, sự xuất hiện của thế giới giả tượng là do niệm khởi, duyên
hội, ngũ uẩn hợp thành. Chân tâm vốn như gương, do vọng niệm mà trở nên
mờ tối, từ đó mà có thế giới giả tượng: “Pháp tính như như, khơng vướng
mảy may niệm lự. Chân tâm lặng lặng xưa nay vốn dứt bụi nhơ. Chỉ vì bị che
lấp nên vọng duyên mới khởi, ảo thể hiện thành”. Do vậy, theo Trần Thái
Tông, cần phải làm cho chân tâm trở lại tĩnh lặng, trong sáng để dập tắt vọng
dun, có vậy mới thấy được chân tính, bản thể.


12

luan van, khoa luan 17 of 66.


tai lieu, document18 of 66.

Trần Thái Tông tuân thủ nguyên lý căn bản của thiền học là “kiến tính
thành Phật”. Ông cho rằng, “người học đạo chỉ cốt thấy được bản tính”dẫn
theo[14, tr.62]. Theo nguyên tắc thiền học, Trần Thái Tơng quan niệm, để
kiến tính, thấy được bản tính Phật, thấy được chân tể, phải “cố thủ nội khán”
(quay đầu nhìn vào bên trong), hướng vào tu tập nội tâm để thấy tính: “Nếu
hay phản chiếu hồi quang, đều được rõ tính thành Phật”dẫn theo [14, tr.48].
Như vậy, Trần Thái Tông tiếp tục xu hướng thiền học Vô Ngôn Thông, chú
trọng việc chiêm nghiệm tính khơng là bản thể vũ trụ, là chân tể của vạn vật.
Khi quay đầu nhìn vào bên trong (nguyên tắc thanh lọc nội tâm), tu tập để
cho tâm bình lặng, đạt tới trạng thái tâm khơng (dứt mọi niệm), là khi đó đã
đạt tới cảnh giới Phật. Do vậy, Phật tại tâm, khơng cần tìm kiếm đâu xa.
Càng tìm kiếm ở ngoại giới thì càng xa rời “quê hương” - xa rời Phật tính bởi q trình tìm kiếm ở ngoại giới đó sẽ bị lục căn, lục tặc (các giác quan)
làm cho mê lầm:
“Mũi quyện mùi thơm, lưỡi tham vị ngọt,
Mắt mờ vì sắc đẹp, tai mê tiếng hát hay.
Mãi mãi làm khách phong trần trôi dạt,
Ngày càng xa quê hương muôn vạn dặm đường” dẫn theo[14, tr.37].
Điểm qua một số tư tưởng thiền học căn bản của Trần Thái Tơng trong
Khóa hư lục, chúng ta thấy, những tư tưởng này của ông một mặt là sự tiếp
nối tư tưởng thiền học của phái Vô Ngôn Thông dưới thời Lý, mặt khác là sự
lý giải cụ thể hơn và sâu sắc hơn các nguyên lý tư tưởng mang tính siêu hình
của thiền học. Nhờ đó, người học đạo dễ dàng tiếp cận tới chân lý thiền học

hơn là những bài kệ súc tích mang tính yếu chỉ thiền dưới thời Lý. Cũng do
vậy, thiền học, qua cách diễn giải của Trần Thái Tông, trở nên gần gũi với
nhận thức của người tu thiền và dân chúng. Đó là đặc trưng tư tưởng thiền
học của Trần Thái Tông.

13

luan van, khoa luan 18 of 66.


tai lieu, document19 of 66.

Ảnh hưởng của Tuệ Trung Thượng Sĩ đối với tư tưởng của Trần Nhân
Tông:
Tuệ Trung Thượng Sĩ là một ngôi sao sáng trong nền tư tưởng thiền
học. Là thầy của vua Trần Nhân Tông, được vua Trần Thánh Tơng đã hết sức
kính trọng, tặng danh hiệu Thượng Sĩ, và gửi gắm con mình (Trần Nhân
Tơng) cho ông dạy dỗ. Vua Trần Nhân Tông từng viết: "...Một hôm tôi xin
hỏi Ngài về "bổn phận của tông chỉ", Thượng Sĩ đáp: "Soi sáng lại chính
mình là phận sự gốc, chẳng từ nơi khác mà được, (Phản quan tự kỷ bổn phận
sự, bất tùng tha đắc), nghe xong, tôi thông suốt được đường vào, bèn vén áo
thờ Ngài làm thầy” dẫn theo[22, tr.59].
Tuệ Trung Thượng Sĩ tên thật là Trần Tung, được Thái Tông phong
tước Hưng Ninh Vương, ông giữ trọng trách và vai trị to lớn khơng chỉ với
triều đình mà đối với phật pháp ơng cũng có một ví trí quan trọng. Ơng từng
được triều đình tin tưởng giao phó cho việc giữ quân dân đất Hồng Lơ.
Ngồi ra, ơng từng hai lần tham gia chống giặc phương bắc, đều lập những
chiến công hiển hách và được giữ chức tiết độ sứ, giữ cửa biển Thái Bình.
Trần Nhân Tông là đệ tử nối giáo của Tuệ Trung Thượng Sĩ. Tư tưởng
và sự giác ngộ phật pháp của Thượng Sĩ đã ảnh hưởng rất lớn tới một phật tử

thuần thành, một bậc chân tu cẩn mật tinh tiến, vị tổ của phái Trúc Lâm Yên
Tử, và cũng là người gây dựng một nền Phật giáo thống nhất.
Trần Nhân Tông đã thực hiện trọn vẹn cả hai trọng trách to lớn giữa
đời và đạo. Khi cịn làm Vua, ơng luôn quan tâm đến đời sống nhân dân,
chăm lo tới việc hình thành, xây dựng và gìn giữ nền văn hóa, thuần phong
mĩ tục nước nhà. Đương thời khi cịn trị vì, bên cạnh việc triều chính, ơng
cịn thể hiện rõ mình là một phật tử, thường đi chu du khắp các đạo, loại bỏ
những ngơi đền thờ có dấu hiệu mê tín, khơng chính đáng, ln thực hiện bố
thí và ban phát lương thực, thuốc men cho dân thường. Khi đất nước rơi vào
lửa giáo chiến tranh, ông đã bộc lộ rõ phẩm chất của một vị vua anh hùng
14

luan van, khoa luan 19 of 66.


tai lieu, document20 of 66.

trên chiến trận, giàu lòng yêu nước thương dân, nhưng ẩn sâu trong những
hành động của ông vẫn thầm nhuần tinh thần từ bi hỉ sả và trí tuệ của một
người Phật tử. Trần Nhân Tơng rất tin tưởng vào luật nhân quả và nghiệp
báo. Tinh thần này nhà vua tiếp thu được từ Tuệ Trung Thượng Sĩ. Có thể
thấy rõ điều này qua câu chuyện được thuật lại trong Thượng Sĩ ngữ lục:
Nhân Tông hỏi: "Chúng sinh do nghiệp uống rượu ăn thịt, làm sao
thoát khỏi tội báo?". Thượng Sĩ bảo: "Giả sử có người đứng quay lưng lại,
chợt có vua đi qua sau lưng, người kia thình lình hoặc cầm vật gì ném trúng
vua, người ấy có sợ khơng? Vua có giận chăng? Như thế nên biết, hai việc
này khơng liên hệ gì nhau", Thượng Sĩ liền đọc kệ để dạy:
“Vô thường các pháp hạnh
Tâm nghi tội liền sinh
Xưa nay không một vật

Chẳng giống cũng chẳng mầm
Ngày ngày khi đối cảnh
Cảnh cảnh từ tâm sinh
Tâm cảnh xưa nay không
Chốn chốn Ba la mật”
Tôi lãnh hội ý chỉ hai bài tụng, giây lâu hỏi: "Tuy nhiên như thế, vấn
đề tội phước đâu đã rõ ràng". Thượng Sĩ lại dùng kệ giải rõ:
Ăn rau cùng ăn thịt
Chúng sinh mỗi sở thuộc
Xuân về trăm cỏ sinh
Chỗ nào thấy tội phúc

15

luan van, khoa luan 20 of 66.


tai lieu, document21 of 66.

Tơi thưa: "Chỉ như giữ gìn giới hạnh trong sạch, không chút xao lãng
lại thế nào?" Thượng Sĩ cười không đáp, tôi lại thỉnh cầu, ngài lại nói hai bài
kệ để ấn định:
Giữ giới cùng nhẫn nhục
Chuốc tội chẳng chuốc phúc
Muốn biết không tội phúc
Chẳng giữ giới nhẫn nhục
Như khi người leo cây
Trong an tự cầu nguy
Như người khơng leo cây
Trăng gió có làm gì?

Ngài lại dặn nhỏ tơi: "Chớ bảo cho người khơng ra gì biết" dẫn theo
[22, tr.59]. Ở đây, người người không ra gì, khơng phải người tu, hay khơng
hiểu đạo. Chỉ có những người thấm nhuần được tư tưởng, chân lý nhân quả,
giác ngộ được tinh thần Phật pháp mới có thể nói ra những lời như vậy.
Đứng trước nguy cơ chiến tranh, Trần Nhân Tông tuy đã lĩnh ngộ được tinh
thần phật pháp những ông phải đứng trước sự lựa chọn, suy tính làm sao để
khi chiến tranh xảy ra sự sát sinh được hạn chế ở mức tối đa nhất. Bởi khơng
chỉ đang là một vị Vua mà ơng cịn đang là một phật tử tu hành, khó lịng phá
vỡ giới đạo. Chiến tranh là điều không ai muốn, bản thân ơng cũng vậy, đều
mong muốn một thế giới hịa bình, một cuộc sống ấm êm hạnh phúc cho mọi
dân lành, chứ không ai mong muốn cảnh đầu rơi máu cháy, chia lìa người
thân. Người thấu hiểu được tâm thức là vấn đề quan trọng nhất để tránh khỏi
nghiệp báo, có ý thức thì người ta sẽ chủ động được lời nói, hành động, suy
nghĩ, ắt tránh được nghiệp báo bắt nguồn từ thân, khẩu và ý nghiệp. Ý chính
là tâm vương. Nếu chỉ có khẩu nghiệp và thân nghiệp tạo tác mà không khởi
16

luan van, khoa luan 21 of 66.


tai lieu, document22 of 66.

ý sát sinh, thì tội đó sẽ không đủ duyên để phải trả quả báo. Không phải vô
cớ mà ngài đã hai lần lấy ý kiến của toàn quân và dân. Một lần lấy ý kiến các
tướng lĩnh tại Bình Than. Và, một lần lấy ý kiến các bơ lão đại diện cho tồn
dân tại điện Diên Hồng. Sau khi cả quân và dân đều thể hiện ý chí đồng tâm
quyết đánh, ngài mới cho bày binh đánh giặc. Như vậy, quân sĩ chỉ nói và
hành động thì khơng phải chịu quả báo, cịn ngài chỉ huy đánh cũng là vì dân
tộc, vì độc lập tự do và hạnh phúc cho nhân dân, vì sự an lạc cho tất cả chúng
sinh, chứ thực chất ngài không hề khởi tâm sát sinh, dù kẻ thù có là ai. Câu

chuyện Trần Nhân Tông bất đắc dĩ sai người đưa công chúa An Tư (em gái
út của Thánh Tông) đến cho Thoát Hoan cũng là muốn làm thư giãn nạn
nước.
Đến sự kiện năm 1306, vua Trần Nhân Tông gả con gái là công chúa
Huyền Trân cho quốc vương Chiêm Thành là Chế Mân cũng có liên quan
đến tấm lịng từ bi của ơng. Thái thượng hồng Nhân Tơng rất hiểu, nếu
Chiêm Thành thuần phục, có quan hệ bang giao gần gũi thì Đại Việt có được
chỗ dựa ở phía Nam vô cùng quan trọng. Nếu lại xảy ra một cuộc chiến với
phong kiến phương Bắc thì sẽ khơng phải lo nhiều đến việc phịng thủ phía
Nam. Đây là một tính tốn lâu dài có tầm chiến lược cho dân tộc, cũng là để
giữ hòa hiếu giữa hai nước, tránh khơng để có sinh mạng phải chết oan uổng.
Nó thể hiện tấm lòng của bồ tát, chứ chẳng phải cái tâm của người thường
Trần Nhân Tông là người rất chú trọng đào tạo những thế hệ cho tương
lai, cho cả đời và đạo. Sự kiện ngài dạy vua Anh Tông có thể coi là một câu
chuyện điển hình về sự giáo dục, tu tâm. Sau khi được nhường ngôi, vua Anh
Tơng có lần do say rượu qn cả thiết triều đúng vào dịp ngài về kinh đô.
Ngài đã giáo huấn cho Anh Tông rất nghiêm khắc và may nhờ tài trí của
Đồn Nhữ Hài, vua mới được tha tội. Sau khi Anh Tông đã thuần trở lại,
Điều Ngự đã chấp thuận thụ bồ tát giới cho vua vào năm 1304. Đây là giới
cao nhất của hàng cư sĩ tại gia. Sự kiện thọ bồ tát giới của vua Anh Tông đã
ảnh hưởng rất lớn tới đạo đức của các quan viên trong triều.
17

luan van, khoa luan 22 of 66.


tai lieu, document23 of 66.

Ngồi ra, Trần Nhân Tơng là người hết lòng lo cho tiền đồ của Phật
giáo. Ngay khi mới gặp Đồng Kiên Cương (sau là đệ nhị tổ Trúc Lâm Pháp

Loa tôn giả) đến xin xuất gia, Điều Ngự đã nói: "Đứa bé này có đạo nhãn,
sau này hẳn là bậc pháp khí" dẫn theo[22, tr.83], rồi chấp thuận cho làm đệ
tử và đặt tên là Thiện Lai. Chỉ trong thời gian từ 1304 đến 1307, Pháp Loa đã
được đào tạo từ một thiện nam trở thành một giảng sư. Sau này, ông trở
thành người kế đăng của phái Trúc Lâm, đồng thời là cột trụ của giáo hội.
1.3. Trần Nhân Tông – cuộc đời và sự nghiệp
Trần Nhân Tông (1258 – 1308) tên khai sinh là Trần Khâm là
vị hoàng đế thứ ba của Hoàng triều Trần nước Đại Việt. Ơng trị vì từ ngày 8
tháng 11 năm 1278 đến ngày 16 tháng 4 năm 1293, sau đó làm Thái thượng
hồng cho đến khi qua đời. Trần Nhân Tông được sử Việt đánh giá là một vị
vua anh minh, đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển bền vững của Đại
Việt cuối thế kỷ XIII, cũng như việc bảo vệ nền độc lập và mở rộng cương
thổ đất nước. Ngồi ra, ơng cũng là một thiền sư lớn của Phật giáo Việt
Nam thời trung đại.
Là con trai trưởng của Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông đã được
truyền ngôi vào tháng 11 năm 1278 lúc ông chưa đầy 20 tuổi. Vị Hoàng
đế trẻ sớm phải đương đầu với hiểm họa xâm lược từ đế quốc Mông –
Nguyên hùng mạnh ở phương Bắc. Do vậy, ngay sau khi lên ngôi Trần Nhân
Tông đã triển khai nhiều biện pháp nhằm nâng cao sức mạnh kinh tế và ổn
định chính trị– xã hội của Đại Việt, đồng thời xây dựng quan hệ tích cực với
nước láng giềng phía nam là Chiêm Thành. Năm 1285, hoàng đế nhà
Nguyên Hốt Tất Liệt huy động một lực lượng lớn (theo Đại Việt sử ký tồn
thư là 50 vạn người) tấn cơng Đại Việt [10, tr186-188]. Quân dân Đại Việt
ban đầu gặp nhiều tổn thất; nhưng dưới sự chỉ huy của vua Nhân Tơng,
Thượng hồng Thánh Tơng và Quốc cơng Tiết chế Trần Hưng Đạo, người
Việt đã dần dần xoay chuyển tình thế và đánh bật quân Nguyên ra khỏi đất
18

luan van, khoa luan 23 of 66.



tai lieu, document24 of 66.

nước. Sau đó, hai vua Trần và Hưng Đạo vương tiếp tục lãnh đạo dân
Việt đánh bại một cuộc xâm lược khác của Mông – Nguyên vào năm 1287.
Trần Nhân Tông lên ngôi trong lúc nền độc lập Đại Việt bị đe dọa trầm
trọng.Ở phương Bắc, Nguyên–Mông đã chinh phục hầu hết Nam Tống và bắt
đầu dịm ngó Đại Việt. “Ngay sau khi ơng đăng quang, vua Nguyên là Hốt
Tất Liệt cử Lễ bộ Thượng thư Sài Thung sang Đại Việt, lấy cớ Nhân Tông
"không xin mệnh mà tự lập" (nghĩa là tự xưng làm vua mà không chịu xin
phép "thiên triều" Nguyên) để ép vua Trần sang triều kiến” . Trần Nhân
Tông đã đối đãi tử tế với Sài Thung, nhưng kiên quyết không sang chầu.
Thung đành đi tay không về nước” [10, tr.185-186].Trần Nhân Tơng lại sai
Trịnh Đình Toản và Đỗ Quốc Kế sang cống nạp nhà Nguyên. Tháng 12 năm
1279, Hốt Tất Liệt giam cầm Đình Toản ở thành Đại Đơ, rồi ép Quốc Kế đi
cùng một phái bộ mới của Sài Thung sang dụ Đại Việt.Trần Nhân Tông vẫn
không nhân nhượng, mặc dù Thung đã dọa nạt rằng nếu khơng sang
chầu, "thì hãy sửa sang thành trì của ngươi, để đợi sự phán xét"[19, tr. 200].
Đứng trước hiểm họa xâm lược từ Mơng Cổ, Ơng đã có nhiều nỗ lực
nhằm phát triển kinh tế, đảm bảo sự ổn định và đoàn kết trong nước. Tháng 1
âm lịch năm 1280, ông ra lệnh hợp nhất hệ thống đo lường để thúc
đẩy thương mại trên tồn quốc. Ngồi ra, ơng khuyến khích nơng dân tăng
cường sản xuất, và nhờ vậy, Đại Việt đã "được mùa to, lúa ruộng ở hương
Trà Kiều thuộc Khoái Lộ một giị hai bơng" (theo Đại Việt sử ký tồn thư)
vào tháng 10 âm lịch năm 1280[12, tr. 221-222]. Mùa xn năm 1284,
Hồng đế lại sai vét sơng Tơ Lịch nhằm biến sơng này thành trục giao thơng
chính của kinh đơ [10, tr. 188-189].
Trên phương diện chính trị – xã hội, tháng 2 âm lịch năm 1280, Trần
Nhân Tông cho điều tra và cập nhật dân số, đồng thời giải quyết nhanh các
khiếu nại oan sai của người dân. Đại Việt sử ký toàn thư thuật lại, Chi hậu

cục thủ Đỗ Khắc Chung có người em tên Đỗ Thiên Hư từng kiện cáo một
người; dù Thiên Hư trái về cả tình lẫn lý nhưng viên quan xử án tỏ ra bênh
19

luan van, khoa luan 24 of 66.


tai lieu, document25 of 66.

vực. Người bị kiện thấy vua Trần Nhân Tơng đang đi ngồi thành, bèn đón
và kêu oan. Nhà vua phán: "Đó là do sợ mà né tránh Khắc Chung đấy", rồi
cử ngay Chánh chưởng Nội thư hỏa là Trần Hùng Thao kiêm chức Kiểm
pháp quan để điều tra lại, cuối cùng Thiên Hư phải nhận sai. Sử quan nhà
Hậu Lê Ngơ Sĩ Liên có nhận định về việc làm của vua Trần Nhân Tơng:
“Người kiện có điều oan uổng mà được dễ dàng kêu bày, hình quan để chậm
án, khơng thấy có lời trách hỏi, hoạn quan nội thần lạm cử làm pháp quan,
vua làm việc này có ba lầm lỗi kèm theo, nhưng như vậy thì dân tình được
thấu lên trên. Việc cai trị kẻ dưới thà sai để khoan thứ để cho án kiện đọng
lại được xử ngay, cũng thấy được lòng trung hậu của vua” [10, tr. 186-186].
Cũng trong năm 1280, thủ lĩnh người Ngưu Hống tại Đà Giang là
Trịnh Giác Mật nổi dậy, Trần Nhân Tông sai Chiêu Văn vương Trần Nhật
Duật đi thuyết phục phiến quân quy hàng. Trần Nhật Duật nhờ khéo ngoại
giao và hiểu biết văn hóa dân bản địa nên đã thu phục được Giác Mật mà
không phải giao chiến. Chiêu Văn vương đưa cả nhà Giác Mật vào chầu Trần
Nhân Tông.Nhà vua hết mục khen ngợi Nhật Duật, sau này tha Giác Mật
và gia đình về Đà Giang [12, tr. 222-223]. Từ đây, Ngưu Hống thần phục Đại
Việt cho đến khi nổi dậy vào mùa đông năm 1329 thời Trần Hiến Tông.
Về quan chế, vua Trần Nhân Tông đã đặt ra một số chức quan mới:
Hàn lâm viện học sĩ phụng chỉ (1282), Tả hữu bộc xạ (1283) [3, tr. 350].
Về giáo dục, năm 1281, Trần Nhân Tơng dựng nhà học ở phủ Thiên

Trường (đất phát tích của hoàng triều, nay thuộc Nam Định). Tuy nhiên, nhà
vua vẫn theo lệ cũ, cấm các chiến sĩ hiệu quân Thiên Thuộc được vào
học[10, tr. 187]. Cũng từ đầu đời vua Nhân Tông, chữ Quốc ngữ bắt đầu
được sử dụng rộng rãi trong các tác phẩm thơ văn ở Đại Việt. Theo Đại Việt
sử ký toàn thư, dưới trướng Nhân Tơng có Hình bộ Thượng thư Nguyễn
Thun thạo thơ phú Quốc ngữ; năm 1282, khi có cá sấu tới sơng Hồng,
hoàng đế sai Nguyễn Thuyên làm văn tế cá sấu thả xuống sông. Sau này cá

20

luan van, khoa luan 25 of 66.


×