Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Vai trò của nhà nước xã hội chủ nghĩa việt nam đối với nền kinh tế thị trường hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.45 KB, 23 trang )

MỞ ĐẦU
Nhà nước “là một vấn đề rất cơ bản, rất mấu chốt trong tồn bộ chính
trị” là vấn đề cốt tử của mọi cuộc cách mạng, nhưng lại “là một trong những
vấn đề “phức tạp nhất, khó khăn nhất” như V.I.Lênin đã từng nhấn mạnh
nhiều lần trong tác phẩm “ Nhà nước và Cách mạng” và trong “Bàn về nhà
nước”. Thật vậy, Nhà nước đóng vai trị trụ cột của hệ thống chính trị, là cơng
cụ tổ chức thực hiện ý chí và quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu
trách nhiệm trước nhân dân để quản lý xã hội, điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Trong thời kỳ hiện nay, khi hầu hết các nước dần chuyển nền kinh tế
của mình sang nền kinh tế thị trường thì vai trị của nhà nước ngày càng quan
trọng trong việc quản lý nền kinh tế. Và đối với Việt Nam, nhà nước xã hội
chủ nghĩa đã, đang và sẽ tiếp tục hịan thành vai trị của mình trong việc điều
hịa, phối hợp các nguồn lực trên tồn bộ nền kinh tế để nền kinh tế phát triển,
theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhận thức được sự quan trọng của việc tìm hiểu về vai trị của nhà
nước đối với nền kinh tế thị trường, đặc biệt là ở Việt Nam nên em quyết định
chọn đề tài cho bài tiểu luận Triết học là: “Vai trò của nhà nước xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đối với nền kinh tế thị trường hiện nay” để trình bày
những hiểu biết của mình về vấn đề này. Mặc dù đã rất cố gắng nhưng bài
tiểu luận vẫn cịn có những sai sót nhất định nên em mong nhận được sự góp
ý của cơ để có thể hồn thiện bài làm của mình.

1


NỘI DUNG
Lịch sử triết học trước Mác đã có rất nhiều những lý giải khác nhau về
nguồn gốc và bản chất của nhà nước. Chủ nghĩa duy tâm quan niệm rằng nhà
nước do lực lượng siêu nhiên hoặc do đạo đức và lý trí tối thượng sinh ra để
duy trì trật tự ở trần gian. Theo Hêghen, nhà nước do sự tha hóa ý niệm tuyệt
đối sinh ra, đỉnh cao nhất là nhà nước Phổ. Theo ông nhà nước tồn tại vĩnh


viễn. Chủ nghĩa Thomat mới quan niệm rằng nhà nước có nguồn gốc thiêng
liêng từ chúa, do vậy nhà nước có thần tính. Bên cạnh đó, một số nhà xã hội
học đã tìm cách gán việc xuất hiện nhà nước với tâm lý con người. Những
nhóm có ý chí mạnh giữ vai trị cai trị những nhóm có ý chí yếu. Có quan
điểm lại cho rằng nhà nước xuất hiện như là kết quả của sự phát triển gia
đình: tiêu biểu như Hôpxơ, Rutxơ…Đến thời kỳ cận đại, xuất hiện những
quan điểm cho rằng nhà nước như là sản phẩm của một khế ước xã hội, đồng
thời xuất hiện cùng với lịch sử ra đời của xã hội. Các nhà xã hội học tư sản
cho nhà nước là “điều hịa giai cấp” chứ khơng phải sự áp bức của giai cấp
này với giai cấp khác. Nhà nước phi giai cấp và tồn tại mãi mãi.
Tất cả các quan điểm trên vẫn chưa tìm ra được nguồn gốc và bản chất
nhà nước.
Lịch sử cho thấy không phải khi nào xã hội cũng có nhà nước. Trong
xã hội nguyên thủy, do nền kinh tế cịn thấp kém, chưa có sự phân hóa giai
cấp, cho nên chưa có nhà nước. Các quan hệ trong xã hội được thực hiện bằng
những quy tắc chung. Quyền lực của những ngừơi đứng đầu do nhân dân bầu
ra thì thuộc về uy tín và đạo đức. Họ khơng có và khơng cần một cơng cụ
cưỡng bức đặc biệt nào.
Khi mà lực lượng sản xuất phát triển, dẫn đến sự ra đời chế độ tư hữu
và từ đó xã hội phân chia thành các giai cấp đối kháng, thì xã hội đứng trước
những cuộc đấu tranh giai cấp, khơng những tiêu diệt nhau mà cịn tiêu diệt
xã hội. Do đó, cần phải có một cơ quan quyền lực để ngăn chặn thảm họa đó
2


xảy ra. Nhà nứơc vì thế đã ra đời. Như vậy, nguồn gốc sâu xa dẫn đến sự
thành lập nhà nước đó là từ kinh tế, từ sự ra đời của quan hệ sản xuất chiếm
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Bên cạnh đó, khi xuất hiện đấu tranh giai cấp, có hai khả năng có thể
xảy ra. Đó là: thứ nhất, hai giai cấp đấu tranh với nhau triền miên làm cho xã

hội không phát triển được, thứ hai, hai giai cấp đấu tranh quyết liệt dẫn đến
chỗ cả hai cùng bị diệt vong, từ đó gây ra sự diệt vong cho tịan xã hội. Do
vây, có thể nói, nguyên nhân trực tiếp của sự xuất hiện nhà nước là mâu thuẫn
giai cấp khơng thể điểu hịa được. Đúng như V.I.Lênin nhận định: "Nhà nước
là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa
được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách quan, những
mâu thuẫn giai cấp khơng thể điều hịa được, thì nhà nước xuất hiện. Và
ngược lại: sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ tằng những mâu thuẫn giai cấp là
không thể điều hòa được” (1). Nhà nước chỉ ra đời, tồn tại trong một giai đoạn
nhất định của sự phát triển xã hội và sẽ mất đi khi những cơ sở tồn tại của nó
khơng cịn nữa.
Về bản chất, “Nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy của một giai cấp
này dùng để trấn áp một giai cấp khác” (2), hay nói cách khác, bản chất của
nhà nước theo nguyên nghĩa là nhà nước của giai cấp bóc lột.
Thật vậy, nhà nước ra đời làm cho xã hội tồn tại trong vòng trật tự nhất
định nhưng trên thực tế, chỉ giai cấp có thế lực nhất-giai cấp thống trị về kinh
tế mới có đủ điều kiện lập ra và sử dụng bộ máy nhà nước. Nhờ có nhà nước,
giai cấp này cũng trở thành giai cấp thống trị về mặt chính trị, và do đó có
thêm những phương tiện mới để đàn áp và bóc lột giai cấp khác. Nhà nước
chính là một kiểu tổ chức xã hội của xã hội có giai cấp. Nhà nước là cơ quan
quyền lực của một giai cấp đối với tồn xã hội, là cơng cụ chuyên chính của
một giai cấp. Nhà nước sẽ thực hiện sự chuyên chính về mặt giai cấp của giai
cấp thống trị với các giai cấp khác trong xã hội. Nhà nước là bộ máy do giai
(1)
(2)

V.I.Lênin-Toàn tập-Nhà xuất bản Tiến bộ-Matxcơva-1976-tập 33-trang 9
Cacmac và Angghen-Tịan tập-Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Hà Nội-1995-tập 22-trang 290-291

3



cấp thống trị về kinh tế thiết lập ra nhằm hợp pháp hóa và củng cố sự áp bức
của chúng đối với quần chúng lao động. Giai cấp thống trị sử dụng bộ máy
nhà nước để đàn áp, cưỡng bức các giai cấp khác trong khn khổ lợi ích của
giai cấp thống trị.
Theo bản chất đó, nhà nước khơng thể là lực lượng điều hòa sự xung
đột giai cấp, mà trái lại, nó càng làm cho mâu thuẫn, giai cấp càng gay gắt.
Theo đó, nhà nước là bộ máy quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng trong
xã hội có giai cấp. Tất cả mọi hoạt động chính trị, văn hóa, xã hội do nhà
nước tiến hành đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị.. Xét cho cùng,
nhà nước trong mọi xã hội có giai cấp đối kháng cũng chỉ là cơng cụ bảo vệ
lợi ích của giai cấp thống trị.
Các nhà nước được tổ chức một cách khác nhau. Song, bất kỳ nhà nước
nào cũng có ba đặc trưng cơ bản sau: nhà nước quản lý dân cư trên một vùng
lãnh thổ nhất định, nhà nước có một bộ máy quyền lực chun nghiệp mang
tính cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hội và nhà nước hình thành hệ
thống thuế khóa để duy trì và tăng cường bộ máy cai trị.
Khác với tổ chức thị tộc, bộ lạc thời nguyên thủy được hình thành trên
cơ sở những quan hệ huyết thống, nhà nước được hình thành trên cơ sở phân
chia dân cư theo lãnh thổ mà họ cư trú. Quyền lực nhà nước có hiệu lực với
mọi thành viên trong lãnh thổ không phân biệt huyết thống, Đặc trưng này
làm xuất hiện mối quan hệ giữa từng người trong cộng đồng với nhà nước.
Mỗi nhà nước được xác định bằng một biên giới quốc gia nhất định
Khác với các cơ quan điều hành công việc chung trong thị tộc, bộ lạc,
nhà nước của giai cấp thống trị nào cũng có một bộ máy quyền lực chuyên
nghiệp. Bộ máy quyền lực đó bao gồm các đội vũ trang đặc biệt (quân đội,
cảnh sát, nhà tù, v..v) và bộ máy quản lý hành chính. Nhà nước thực hiện
quyền lực của mình trên cơ
sở sức mạnh cưỡng bức của pháp luật và dùng các thiết chế bạo lực để pháp

luật của mình được thực thi trong thực tế.
4


Nhà nước hình thành hệ thống thuế khóa để duy trì và tăng cường bộ
máy cai trị. Nhà nước khơng thể tồn tại nếu khơng dựa vào thuế khóa, quốc
trái và các hình thức bóc lột khác. Đó là những chế độ đóng góp có tính chất
cưỡng bức đẻ ni sống bộ máy cai trị. Hệ thống thuế khóa, cống nạp như vậy
hồn tồn khơng có trong hình thức tổ chức xã hội thị tộc, bộ lạc. Nó chỉ tồn
tại gắn liền với hình thái tổ chức nàh nước. Bằng các hình thức khác nhau như
vậy, nhà nước của giai cấp bóc lột khơng những là cơng cụ trấn áp giai cấp
mà cịn là cơng cụ thực hiện sự bóc lột các giai cấp bị áp bức.
Chức năng của nhà nước sẽ được căn cứ dưới các góc độ khác
nhau.Dưới góc độ tính chất của quyền lực chính trị, nhà nước có chức năng
thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội. Dưới góc độ phạm vi tác
động của quyền lực, nhà nước có chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.
Chức năng thống trị chính trị của giai cấp- chức năng giai cấp- là chức
năng nhà nước làm cơng cụ chun chính của một giai cấp nhằm bảo vệ sự
thống trị giai cấp đó đối với toàn thể xã hội. Chức năng giai cấp của nhà nước
bắt nguồn từ lý do ra đời của nhà nước và tạo thành bản chất chủ yếu của nó.
Chức năng xã hội của nhà nước là chức năng nhà nước thực hiện sự quản lý
những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, thỏa mãn một số nhu cầu
chung của cộng đồng dân cư nằm dưới sự quản lý của nhà nước. Trong hai
chức năng đó thì chức năng thống trị chính trị là cơ bản nhất có vai trị chi
phối chức năng xã hội phải phụ thuộc và phục vụ cho chức năng thống trị
chính trị. Giai cấp thống trị bao giờ cũng biết giới hạn kiện tồn cách thực
hiện chức năng xã hội trong khn khổ lợi ích cảu mình. Song, chức năng xã
hội lại là cơ sở cho việc thực hiện chức năng giai cấp, bởi vì chức năng giai
cấp chỉ có thể được thực hiện, thông qua chức năng xã hội.
Sự thống trị chính trị và sự thực hiện chức năng xã hội của nhà nước

thể hiện trong lĩnh vực đối nội cũng như trong đối ngoại.
Chức năng đối nội của nhà nước nhằm duy trì trật tự kinh tế, xã hội,
chính trị và những trật tự khác hiện có trong xã hội. Thơng thường điều đó
5


phải được pháp luật hóa và được thực hiện nhờ sự cưỡng bức của bộ máy nhà
nước. Ngòai ra, nhà nước cịn sử dụng nhiều phương tiện khác(bộ máy thơng
tin, tuyên truyền, các cơ quan văn hóa, giáo dục…) để xác lập, củng cố tư
tưởng, ý chí của giai cấp thống trị, làm cho chúng trở thành chính thống trong
xã hội.
Chức năng đối ngoại của nhà nước nhằm bảo vệ biên giới lãnh thổ quốc
gia và thực hiện các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội với các nhà nước
khác vì lợi ích của giai cấp thống trị cũng như lợi ích quốc gia, khi lợi ích
quốc gia khơng mâu thuẫn với lợi ích của giai cấp thống trị. Ngày nay, trong
xu thế hội nhập khu vực và quốc tế, việc mở rộng chức năng đối ngoại của
nhà nước có tầm quan trọng đặc biệt.
Cả hai chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước đều xuất phát từ
lợi ích của giai cấp thống trị. Chúng là hai mặt của một thể thống nhất. Tính
chất của chức năng đối nội quyết định tính chất của chức năng đối ngoại của
nhà nước, ngược lại tính chất và những nhu cầu của chức năng đối ngoại có
tác động mạnh mẽ trở lại chức năng đối nội.
Kiểu nhà nước là khái niệm dùng để chỉ bộ máy thống trị đó thuộc về
giai cấp nào, tồn tại trên cơ sở chế độ kinh tế nào, tương ứng với hình thái
kinh tế-xã hội nào. Kiểu nhà nước do phương thức sản xuất quy định. Trong
lịch sử phát triển của nhà nước có những kiểu nhà nước sau: nhà nước chủ nô,
nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản, nhà nước chuyên chính vơ sản (nhà
nước xã hội chủ nghĩa)
Hình thức nhà nước là khái niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức và
phương thức thực hiện quyền lực của nhà nước. Nói cách khác đó là hình thức

cầm quyền của giai cấp thống trị.
Hình thức nhà nước bị quy định bởi bản chất giai cấp của nhà nước, bởi
tương quan lực lượng giữa các giai cấp, bởi cơ cấu giai cấp- xã hội, bởi đặc
điểm truyền thống chính trị của đất nước…

6


Hình thức nhà nước bao gồm hai yếu tố chủ yếu quy định: hình thức
chính thể bao gồm chính thể qn chủ, chính thể cộng hịa và hình thức cấu
trúc bao gồm nhà nước đơn nhất, nhà nước liên bang. Ngồi ra chế độ chính
trị cũng ảnh hưởng trực tiếp đến hình thức nhà nước chế độ phản dân chủ, chế
độ dân chủ.
Tùy theo tình hình kinh tế-xã hội cụ thể của mỗi quốc gia mà mỗi kiểu
nhà nước được tổ chức theo những hình thức nhất định.
Nhà nước chiếm hữu nô lệ: Đây là nhà nước của giai cấp chủ nơ thời cổ
đại, tiêu biểu là các hình thức lịch sử nhà nước chủ nô ở Hy Lạp và La Mã cổ
đại như chính thể quân chủ và chính thể cộng hịa, chính thể q tộc và chính
thể dân chủ. Các hình thức này chỉ khác nhau về cách thức và cơ chế hoạt
động của tổ chức bộ máy nhà nước, còn bản chất của chúng đều là nhà nước
của giai cấp chủ nô, nhằm thực hiện sự chuyên chính đối với nơ lệ.
Nhà nước phong kiến: Đây là nhà nước của giai cấp địa chủ phong kiến.
Ở phương Tây, hình thức quân chủ phân quyền là hình thức nhà nước phổ
biến. Quyền lực nhà nước được chia thành quyền lực độc lập, địa phương
phân tán. Ở phương Đông, hình thức quân chủ tập quyền là hình thức nhà
nước phổ biến dựa trên chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất. Trong nhà nước
này, quyền lực của vua được tăng cường rất mạnh, hồng đế có uy quyền
tuyệt đối, ý chí của vua là pháp luật. Dù tồn tại dưới bất kỳ hình thức nào, nhà
nước phong kiến cũng chỉ là chính quyền của giai cấp địa chủ, quý tộc, là cơ
quan bảo vệ những đặc quyền phong kiến, là công cụ của giai cấp địa chủ

phong kiến dùng để áp bức, thống trị nông nô.
Nhà nước tư sản: Chủ yếu chỉ có hai hình thức cơ bản nhất là hình thức
cộng hịa và hình thức qn chủ lập hiến. Hình thức cộng hịa lại đựơc tổ chức
dưới những hình thức khác nhau như cộng hịa Đại nghị, cộng hịa tổng thống
trong đó hình thức cộng hịa Đại nghị là hình thức điển hình và phổ biến nhất.
Hình thức của nhà nước tư sản là rất phong phú nhưng khơng làm thay đổi
bản chất của nó- đó là công cụ của giai cấp tư sản dùng để áp bức thống trị
7


giai câp vô sản và quần chúng lao động để bảo vệ lợi ích và quyền thống trị
của giai cấp tư sản. Đúng như V.I.Lênin đã chỉ ra: “ Những hình thức của
nhà nước tư sản thì hết sức khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một: chung quy
lại thì tất cả những nhà nước ấy, vô luận thế nào, cũng tất nhiên phải là nền
chuyên chính tư sản”.(1)
Nhà nước vô sản: Nhà nước vô sản là một kiểu nhà nước đặc biệt trong
lịch sử. Tính chất đặc biệt của nó thể hiện ở chỗ nó chỉ tồn tại trong thời kỳ
quá đội lên chủ nghĩa cộng sản, nó là kiểu nhà nước cuối cùng trong lịch sử
của xã hội loài người. C.Mác khẩng định: “ Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và
xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang
xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà
nước của thời kỳ ấy là khơng thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách
mạng của giai cấp vơ sản”.(2)
Tính chất đặc biệt của nhà nước vơ sản còn thể hiện ở chỗ chức năng
cơ bản nhất, chủ yếu nhất của nó khơng phải là chức năng bạo lực mà là chức
năng tổ chức xây dựng kinh tế-xã hội. Khi đề cập tới vấn đề này, V.I.Lênin
cho rằng chun chính vơ sản khơng phải là bạo lực mà mặt cơ bản của nó là
tổ chức, xây dựng tồn diện xã hội mới-xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản
chủ nghĩa. Tính chất đặc biệt của nhà nước vơ sản cịn thể hiện ở cơ sở quyền
lực của nhà nước-đó là nền tảng liên minh cơng-nơng làm nịng cốt cho sự

liên minh với mọi tầng lớp những người lao động khác trong xã hội.
Cũng chính vì những tính chất đặc biệt như thế mà chủ nghĩa MácLênin đã khẳng định rằng nhà nước vô sản là một kiểu nhà nước đặc biệt
trong lịch sử; đó là “nhà nước khơng cị ngun nghĩa”, là nhà nước “nửa nhà
nước”. Sự mất đi của nhà nước vô sản không phải bằng con đường “thủ tiêu”,
“xóa bỏ” mà bằng con đường “tự tiêu vong”. Sự tiêu vong của nhà nước vô
sản là một q trình rất lâu dài.
(1)
(2)

V.I.Lênin-Tồn tập-Nhà xuất bản Tiến bơ-Matxcơva-1976-tập33-trang 44
Cacmac và Angghen-Tịan tập-Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Hà Nội-1995-tập22-trang 47

8


Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội mang lại cho nhà nước vơ sản
nhiều hình thức mới. Tính đa dạng của nhà nước đó tùy thuộc vào điều kiện
lịch sử cụ thể của thời điểm xác lập nhà nước ấy, tùy thuộc vào tương quan
lực lượng giữa các giai cấp và khối liên minh giai cấp tạo thành cơ sở xã
hộicủa nhà nước, tùy thuộc vào nhiệm vụ kinh tế- chính trị- xã hội mà nhà
nước đó phải thực hiện, tùy thuộc vào truyền thống chính trị của dân tộc.
Hình thức cụ thể của nhà nước trong thời kỳ quá độ có thể rất khác nhau,
nhưng bản chất của chúng chỉ là một: chuyên chính cách mạng của giai cấp
vơ sản.
Về hình thức, nhà nước pháp quyền là sự thống trị tối cao của pháp luật,
nhà nước, các cơ quan nhà nước, nhân viên của bộ máy nhà nước cũng như
mọi cá nhân tổ chức trong xã hội đều bị ràng buộc bởi pháp luật. Về bản chất
pháp luật, nhà nước do cơ quan lập pháp ban hành, không phải sản phẩm của
sự tự do duy ý chí, khơng phải từ ý muốn chủ quan của người làm luật mà nó
phải phản ánh thực tại khách quan của xã hội nhằm đáp ứng các yêu cầu tiến

bộ xã hội.
Theo chủ nghĩa Mác-Lênin, nhà nước pháp quyền có năm đặc điểm.
Một là, nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước; hai là tôn trọng, bảo vệ
quyền công dân và quyền con người; ba là bảo đảm và phát huy dân chủ; bốn
là có sự ngự trị của pháp luật trong đời sống của nhà nước và xã hội; năm là
tổ chức theo nguyên tắc phân định quyền lực, dùng quyền lực để kiểm tra và
giám sát quyền lực.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một trong những tổ chức chính trị cơ bản
nhất của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa Mác- Lênin quan
niệm nhà nước xã hội chủ nghĩa là thống nhất về căn bản với nhà nước
chun chính vơ sản cả về bản chất, mục tiêu, vai trò, chức năng và các hoạt
động theo những ngun tắc, pháp luật chính sách của nó. Bản chất của nhà
nứơc xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp cơng nhân. Nó được thể hiện ở
tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc. Tính nhân dân thể hiện ở các
9


đặc điểm: nhà nước của dân, do dân lập nên và dân tham gia quản lý; nhà
nước thể hiện ý chí, lợi ích và nguyện vọng của nhân dân; nhà nước là công
cụ chủ yếu để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa theo chủ nghĩa Mác-Lênin mang các đặc
trưng cơ bản sau: thứ nhất, nhân dân là chủ thể cao nhất của quyền lực nhà
nước; thứ hai, nhà nước biểu hiện tập trung cho khối đại đòan kết dân tộc; thứ
ba, thể hiện tính xã hội rộng lớn.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước xã hội chủ nghĩa
mà trong đó mọi chủ thể kể cả nhà nước đều phải tuân thủ và chấp hành pháp
luật. Các đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thể hiện
ở các mặt như: Một là mọi hoạt động của tất cả các cơ quan, các tổ chức đơn
vị cá nhân, mọi công dân đều phải được đặt trong khuôn khổ nhất định của
pháp luật, hai là phải xây dựng một hệ thống pháp luật đầy đủ đồng bộ và

ngày càng hồn chỉnh có hiệu quả các quan hệ xã hội, trong đó các đạo luật có
vị trí tối thượng, ba là nhà nước đảm bảo các quyền tự do dân chủ của nhân
dân thông qua sự quy định và bảo vệ của pháp luật, bốn là quyền lực của nhà
nước là thống nhất tập trung, năm là thực hiên chính sách hịa bình hữu nghị
với các nước.
Mối quan hệ giữa Nhà nước pháp quyền và xã hội cơng dân được Hồ
Chí Minh diễn đạt thật mới mẻ: Chúng ta phải u dân, kính dân thì dân mới
u ta, kính ta. Tư tưởng đó đã được thể hiện rõ nét trong các bản Hiến pháp
của nước ta. Đó là xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam của dân, do dân và vì dân.
Tư tưởng lập hiến là một trong những nét luôn luôn nhất quán trong
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của Hồ Chí Minh. Ngày 20-9-1945, Chủ
tịch lâm thời nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà ký Sắc lệnh thành lập Ban dự
thảo Hiến pháp gồm 7 thành viên do Chủ tịch Hồ Chí Minh là Trưởng ban.
Tại kỳ họp thứ hai, Quốc hội khoá I vào tháng 10-1946, Quốc hội đã thảo
luận dân chủ và thông qua bản Hiến pháp đầu tiên này. Tư tưởng về Nhà nước
10


pháp quyền của Hồ Chí Minh cịn được thể hiện rõ nét trong hoạt động của
Chính phủ và của bản thân Người. Hồ Chí Minh nghiêm khắc địi hỏi bản
thân mình và mọi tổ chức Đảng, chính quyền, đồn thể phải tn thủ pháp
luật, khơng một ai được đứng ngồi, đứng trên pháp luật. Người nói: “Pháp
luật của ta là pháp luật thực sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ
rộng rãi của nhân dân lao động. Nhân dân ta hiện nay có tự do, tự do trong kỷ
luật. Mỗi người có tự do của mình nhưng phải tôn trọng tự do của người khác.
Người nào sử dụng quyền tự do của mình mà phạm đến quyền tự do của
người khác là phạm pháp”.
Theo đó, xây dựng nhà nước là thể hiện quyền làm chủ của nhân dân
lao động- nhà nước của dân, do dân, vì dân. Phải xây dựng nhà nước có hiệu

lực pháp lí mạnh mẽ, tức là xây dựng một nhà nước hợp hiến, và quản lý nhà
nước bằng pháp luật, chú trọng đưa pháp luật vào trong cuộc sống, tích cực
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của nhà nước đủ sức và tài. Xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, hoạt động có
hiệu quả, do Đảng cộng sản lãnh đạo.
Nhà nước đóng vai trị vô cùng quan trọng trong nền kinh tế thị trường.
Lịch sử đã chứng minh rằng các nền kinh tế thị trường thành công nhất đều
không thể tự phát triển nếu thiếu sự can thiệp và hỗ trợ của Nhà nước. Các
nền kinh tế thị trường nguyên thủy dựa trên cơ sở sản xuất và trao đổi giản
đơn có thể hoạt động một cách có hiệu quả mà khơng cần sự can thiệp của
Nhà nước. Tuy nhiên, do nền kinh tế tăng trưởng dưới tác động bên ngoài
ngày càng phức tạp nên sự can thiệp của Nhà nước xuất hiện như một tất yếu
cho sự hoạt động có hiệu quả của nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị
trường ngày nay, Nhà nước tập trung vào 3 phương diện: định hướng cơng
nghiệp hóa cho tồn bộ nền kinh tế; dẫn dắt các doanh nghiệp hoạt động theo
mục tiêu nhà nước đã lựa chọn thông qua hệ thống các công cụ kinh tế vĩ mô
của nhà nước và đầu tư vào phát triển kết cấu hạ tầng, một số ngành quan
trọng và hỗ trợ tài chính doanh nghiệp.
11


Tuy có những điểm thuận lợi và bất lợi khi Nhà nước can thiệp vào các
hoạt động kinh tế(đặc biệt khi tham gia quá sâu vào 1 hoạt động kinh doanh
nào đó), nhưng sự hỗ trợ và can thiệp đó là cần thiết. Nhà nước sẽ có những
chính sách điều chỉnh phù hợp đối với những khuyết tật của thị trường, để thị
trường phát triển đúng hướng, đúng lộ trình. Từ đó, đảm bảo tính chỉnh thể
của nền kinh tế và để cung cấp những dịch vụ phúc lợi xã hội.
Vai trị vơ cùng quan trọng của nhà nước là tạo lập thị trường tiền tệ ổn
định, được chấp nhận rộng rãi, có khả năng loại bỏ hệ thống giao dịch cồng
kềnh và đồng thời có khả năng duy trì giá trị tiền tệ thơng qua các chính sách

hạn chế lạm phát. Hiện nay tình trạng lạm phát đang quá cao ở nước ta, vì thế
nhà nước đang có những biện pháp để bình ổn giá cả như giảm thiểu lưu
lượng tiền trong nền kinh tế, cắt giảm tín dụng ngân hàng, áp dụng nhiều biện
pháp chế tài mạnh mẽ, kêu gọi người dân thắt lưng buộc bụng, điều chỉnh các
hoạt động doanh nghiệp nhà nước…
Quốc phịng là một ví dụ chứng tỏ vai trò tối quan trọng của Nhà nước
trong việc ổn định nền chính trị. Điều đó được quyết định bởi quốc phịng là
một kiểu hàng hố hồn tồn khác hẳn với các loại hàng hố vật thể khác ở
chỗ, người ta không trả tiền cho mỗi đơn vị sử dụng mà mua nó như một tổng
thể nhằm mục đích bảo vệ an ninh của cả một quốc gia. Ở đây, bảo vệ cho
một cá nhân khơng có nghĩa là giảm bảo vệ cho người khác, bởi tất cả mọi
người tiêu thụ các dịch vụ quốc phòng một cách đồng thời.
Các loại hàng hoá kiểu như vậy được gọi là hàng hố cơng cộng, bởi
khơng một doanh nghiệp tư nhân nào có thể bán quốc phịng của tồn dân cho
các cơng dân riêng lẻ và coi đó là nghề kinh doanh thu lãi. Đơn giản là khơng
thể có chuyện dịch vụ quốc phòng lại được đem rao bán cho những người cần
hoặc không thực hiện bảo vệ an ninh quốc gia, cho những người từ chối chi
trả kinh phí cho quốc phịng. Hơn nữa, hàng hố cơng cộng là thứ hàng hố
khơng thể định giá chính xác được, cho nên tư nhân không thể cung cấp. Đấy
là nguyên nhân chính giải thích vì sao quốc phịng phải do Nhà nước điều
12


hành và chi phí cho quốc phịng phải được lấy từ nguồn tài chính cơng, từ
ngân sách Nhà nước có được thơng qua thuế.
Hàng hố cơng cộng có ba đặc tính: tính khơng kình địch trong tiêu
dùng, tính khơng loại trừ và tính khơng thể khơng tiêu dùng mà tựu trung lại,
tất cả mọi người đều có nghĩa vụ và quyền lợi tiêu dùng hàng hố cơng cộng
như nhau. Có nhiều ví dụ về hàng hố cơng cộng, từ các biện pháp chống lũ
lụt cho đến việc phòng chống vũ khí ngun tử, nhưng hai ví dụ có thể thấy rõ

vai trò của Nhà nước một cách trực tiếp và thường xuyên nhất, đó là xây dựng
cơ sở hạ tầng và ổn định kinh tế vĩ mô.
Thật vậy, một nền kinh tế khơng thể "cất cánh" được trừ phi nó có được
một cơ sở hạ tầng vững chắc. Nhưng cũng do tính khơng thể phân chia của
hàng hố cơng cộng mà các tư nhân thấy rằng đầu tư vào đây khơng có lợi. Vì
thế, nhà nước bỏ vốn vào đầu tư cơ sở hạ tầng, ổn định kinh tế vĩ mơ cũng có
thể xem như là hàng hố cơng cộng. Đặc điểm của nền kinh tế thị trường là sự
bất ổn định do các cuộc khủng hoảng chu kỳ. Sự ổn định kinh tế rõ ràng là
điều mà mọi nhà nước đều mong muốn và nó có lợi cho tất cả mọi người. Do
vậy, chính nhà nước phải chịu trách nhiệm duy trì sự ổn định đó trên tầm vĩ
mơ.
Định hướng bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội. Điều tiết, định hướng các hoạt động của các chủ thể kinh tế thơng
qua chính sách thuế, chính sách khuyến khích, ưu đãi đầu tư...
Hỗ trợ các chủ thể kinh tế trong việc tiếp cận thơng tin, phân tích xu
hướng, nhu cầu của thị trường; trực tiếp hỗ trợ về vốn, dịch vụ khoa học, kỹ
thuật, xúc tiến thương mại, hỗ trợ các hoạt động xuất khẩu...
Trực tiếp hỗ trợ, tạo điều kiện cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
thơng q đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế như hệ thống giao thông,
thuỷ lợi, cung cấp điện, nước sạch... là một điều kiện quan trọng hàng đầu để
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cơng nghiệp hố - hiện đại hố. Đây là
những hoạt động đầu tư địi hỏi nguồn vốn rất lớn, nhưng lại rất khó thu lợi
13


nhuận trực tiếp, do vậy mặc dù đã có nhiều giải pháp thu hút vốn đầu tư tư
nhân, nhưng cho đến nay và cả trong tương lai, Nhà nước vẫn là người đầu tư
chính vào lĩnh vực này.
Đầu tư của Nhà nước để phát triển các lĩnh vực như nghiên cứu khoa
học, công nghệ, y tế, giáo dục, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cũng giữ

một vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Ngịai ra, nhà nước cịn có những chủ trương tích cực. giúp nền kinh tế
Việt Nam tham gia và hội nhập với nền kinh tế quốc tế. Trong năm 2007, Việt
Nam gia nhập chính thức vào tổ chức Thương mại thế giới WTO. Đó là một
bước tiến dài trong hoạt động giao lưu, kinh tế của nước ta với các nước bạn
trên thế giới. Từ giữa 2007, tốc độ tăng GDP của Việt Nam đạt thứ nhì châu
lục. Kim ngạch xuất khẩu tăng đều đặn mỗi năm 20-25%. Dịng vốn nước
ngồi và kiều hối liên tục đạt các kỉ lục mới. Chỉ số chứng khoán Việt NamVN index từ đầu năm 2006- giữa năm2007 tăng đến 4 lần. Thành quả sau
một năm gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng cao hơn dự kiến,
đạt từ 8-8,5%, là tốc độ tăng trưởng cao nhất trong 10 năm qua. Kinh tế Việt
Nam phát triển đúng hướng, thể hiện sự tăng trưởng ở các ngành quan trọng
như công nghiệp-thương mại-dịch vụ. Cơ cấu kinh tế chuyển theo hướng tích
cực, tỉ trọng GDP của nhóm ngành cơng nghiệp-xây dựng tăng từ 41,31% lên
41,48%, dịch vụ tăng từ 38,25% lên 38,44%, nơng-lâm-thủy sản từ 20,45%
giảm xuống cịn 20,08%. Bên cạnh đó, nhà nước cịn có những cải cách chính
sách theo hướng không phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp trong và ngoài
nước, doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, giảm sự bảo hộ đối
với doanh nghiệp Nhà nước. Do Việt Nam cải thiện chính sách đầu tư, mơi
trường kinh doanh, mở cửa thị trường theo cam kết WTO, đến tháng 12/2007,
vốn FDI đăng ký đạt 15 tỉ USD, tăng gần 40% so với cùng kỳ năm trước,
bằng gần 20 năm trước đây. Một điều đáng nói nữa là, kinh tế tư nhân đóp
góp 35% vào sự tăng trưởng kinh tế chung của đất nước. Điều này chứng tỏ

14


chính sách của nhà nước đã phát huy tác dụng, kích thích và tạo điều kiện để
người dân yên tâm đầu tư sản xuất, kinh doanh.
Nhà nước còn bảo vệ cho hoạt động cạnh tranh và chống độc quyền.
Vai trò này thể hiện ở tập hợp những biện pháp của Nhà nước nhằm cổ vũ

cạnh tranh giữa các nhà cung ứng với nhau, đồng thời bảo vệ người tiêu dùng
chống lại tình trạng độc quyền. Phạm vi của một chính sách như vậy bao
gồm: kiểm soát bằng các biện pháp điều tiết đối với những hãng có khả năng
chi phối, kiểm sốt các vụ việc sát nhập cơng ty nhằm ngăn ngừa khả năng
độc quyền hố các ngành cơng nghiệp, kiểm sốt các hành vi chống cạnh
tranh.Nói tới độc quyền là nói tới thị trường chỉ có một người cung cấp. Độc
quyền là một khuyết tật của kinh tế thị trường, làm cho thị trường hoạt động
kém hiệu quả. Nhà nước phải tìm ra các giải pháp phù hợp để giải quyết tình
trạng độc quyền, bao gồm cả độc quyền tự nhiên cũng như độc quyền tồn tại
do chính sách hạn chế cạnh tranh trong và ngoài nước. Để ngăn chặn tình
trạng cấu kết, độc quyền và để duy trì cạnh tranh lành mạnh một cách có hiệu
quả, hầu hết các nền kinh tế thị trường, đều thông qua đạo luật chống độc
quyền.
Không chỉ bảo vệ cạnh tranh và chống độc quyền, nhà nước còn thực
hiện những biện pháp nhằm ngăn chặn những tác động ở bên ngoài (yếu tố
ngọai vi). Yếu tố ngoại vi là các ảnh hưởng tốt hay khơng tốt do các yếu tố
bên ngồi gây nên cho hoạt động của công ty hay cho xã hội nói chung. Yếu
tố ngoại vi xảy ra khi có sự khác biệt về phí tổn hoặc lợi ích giữa cá nhân và
xã hội. Tuy nhiên, các chi phí hoặc lợi ích này (chi phí ngoại vi hoặc lợi ích
ngoại vi) lại khơng được tính đến trong hệ thống giá cả và thị trường. Những
chi phí ngoại vi cho sản xuất bao gồm: sự tắc nghẽn giao thông và ô nhiễm
môi trường mà nhà máy hoặc xí nghiệp sản xuất tạo ra... Những yếu tố này
gây nên sự giảm sút về phúc lợi của những người dân sống xung quanh hoặc
có thể buộc những nhà máy khác gần đó phải tốn kém thêm chi phí để làm
sạch nước sơng đã bị ô nhiễm mà mình phải sử dụng trong sản xuất. Vì phía
15


thứ ba không được đền bù cho những khoản chi phí ngoại vi, nên các phí tổn
sản xuất khơng được tính đến trong hệ thống giá. Và do vậy, vai trò kinh tế

của Nhà nước là điều chỉnh lại sự bất hợp lý này. Bằng sự can thiệp, Nhà
nước buộc tất cả những ai hưởng lợi từ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đều phải
trả tồn bộ chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ấy.
Tuy nhiên, Nhà nước khơng dễ dàng quyết định chính xác chi phí ấy là
bao nhiêu, vì khơng thể định lượng một cách chính xác tác hại mà sự ơ nhiễm
ấy có thể gây ra cho xã hội. Vì những khó khăn này, Nhà nước cần phải đảm
bảo chi phí giảm ơ nhiễm khơng được cao hơn so với chi phí mà ơ nhiễm gây
ra cho xã hội. Nếu không các nguồn lực sẽ không được phân bố hiệu qua.
Nhà nước sử dụng một hệ thống thuế, luật pháp, điều lệ, mức hình phạt,
thậm chí cả mức truy tố để nhằm giảm ơ nhiễm. Ngồi ra, nhà nước cịn sử
dụng cả chính sách quyền sở hữu công khai nguồn tài nguyên, người sử dụng
nguồn tài nguyên này nếu gây ô nhiễm sẽ phải chịu chi phí theo giá thị
trường. Các khoản thuế hay biện pháp trợ cấp tối ưu đều được coi là phương
thức để Nhà nước xứ lý những yếu tố ngoại vi. Do chỗ tồn bộ chi phí xã hội
là cái quan trọng quyết định sự phân bố tài nguyên một cách có hiệu quả, cịn
những chi phí tư nhân quyết định giá hàng, cho nên vai trò của Nhà nước là
tạo ra sự thăng bằng giữa cá nhân và xã hội thông qua việc điều chỉnh sản
xuất thừa hoặc tiêu dùng thừa vào chi phí ngoại vi.
Trong các lợi ích ngoại vi, cần chú ý tới giáo dục bởi đây là lĩnh vực
cần phải có sự quan tâm và hỗ trợ của Nhà nước. Ngoài ra, trong chừng mực
một sán phẩm nào đó có thể tạo ra được lợi ích ngoại vi, Nhà nước cần xem
xét vấn đề trợ cấp tối ưu để khuyến khích sản xuất, tiêu dùng loại sản phẩm
này sao cho giá trị đích thực các lợi ích ngoại vi được tính đến trong hệ thống
giá thị trường. Ở đây, sự can thiệp cửa Nhà nước là cần thiết, vì trong khi chi
phí ngoại vi có thể dẫn đến sản xuất thừa thì ngược lại, lợi ích ngoại vi lại có
thể dẫn đến sản xuất thiếu.

16



Ngòai ra, nhà nước còn hạn chế, khắc phục các mặt tiêu cực của cơ chế
thị trường, thực hiện công bằng xã hội.
Như đã trình bày ở trên, các hoạt động kinh doanh dẫn tới ô nhiễm môi
trường, tỉ lệ lạm phát cao tỉ lệ thuận với tốc độ phát triển, các vấn đề bất bình
đẳng trong phân phối thu nhập, hoạt động sản xuất dẫn đến gây ô nhiễm mơi
trường, vấn đề về độc quyền hàng hóa… đều là những mặt tiêu cực của cơ
chế thị trừơng. Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang ở vào một tình thế rất
phức tạp. Có quá nhiều vấn đề phải giải quyết đồng thời: giải quyết lạm phát
đang lên đến đỉnh cao, mong muốn duy trì tốc độ tăng trưởng GDP, tăng thu
hút đầu tư và xuất nhập khẩu, gỡ rối cho thị trường chứng khoán và bất động
sản. Nhà nước đã, đang và từng bước khắc phục những mặt trái này của nền
kinh tế thị trường. Nhà nước đề ra các mức thuế áp dụng cho hoạt động sản
xuất gây ô nhiễm môi trường, tìm ra giải pháp phù hợp hạn chế độc quyền về
sản xuất và phân phối hàng hóa, tiến hành tự đầu tư và mở cơ sở hạ tầng để
phát triển kinh tế các vùng nông thôn để rút ngắn khoảng cách giàu nghèo,
lạc hậu…
Để thực hiện công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường, nhà nước
tham gia việc thiết lập và bảo vệ quyền sở hữu tư nhân, cũng như quyền được
hưởng các lợi ích kinh tế xuất phát từ việc sử dụng quyền sở hữu đó. Nếu
khơng có sự đảm bảo ấy, một số người sẽ gặp phải những rủi ro nếu đầu tư
thời gian và tiền vốn của mình vào lĩnh vực kinh doanh mà rốt cuộc, tiền lãi
thu về lại có thể rơi vào Nhà nước hoặc các tập đoàn khác.
Sự bảo hộ của Nhà nước đối với sở hữu tư nhân thể hiện một cách rõ
ràng đối với đất đai, nhà máy, công xưởng, kho chứa và các sản phẩm hữu
hình khác. Thế nhưng, sự bảo hộ đó cịn được áp dụng cho cả các sở hữu liên
quan tới trí tuệ, chẳng hạn như sách, bài viết, phim ảnh, hội họa, phát minh,
sáng chế, thiết kế, bào chế thuốc hay chương trình phần mềm... Đây là một sự
can thiệp rất quan trọng của Nhà nước trong việc bảo vệ bản quyền tác giả và

17



qua đó, khuyến khích những hoạt động sáng tạo của các nhà khoa học, các
nghệ sĩ, khuyến khích việc phát huy khả năng trí tuệ của họ.
Ngồi ra, trong nền kinh tế thị trường, khả năng kiếm sống ở một số
người là rất hạn chế, trong khi đó, số khác lại có nguồn thu nhập rất lớn.
Nguồn thu nhập đó có thể do thừa hưởng gia tài, có thể do tài năng hoặc sự
thành đạt trong kinh doanh hay trong các quan hệ chính trị, xã hội... Do vậy,
vai trị của Nhà nước là không thể thiếu được trong việc phân phối lại thu
nhập để trong chừng mực cho phép, có thể thu hẹp lại khoảng cách giàu nghèo trong xã hội. Trên thực tế, các chính phủ đều ln thực hiện điều đó
thơng qua chính sách thuế, đặc biệt là thuế thu nhập nhằm tạo ra sự công bằng
hơn trong phân phối.
Trong hầu hết các nền kinh tế thị trường, Nhà nước có vai trị rất quan
trọng trong việc nâng cao phúc lợi cơng cộng, xố đói, giảm nghèo. Các vấn
đề như việc làm, sức khoẻ, bảo hiểm y tế, lương hưu, trợ cấp khó khăn… ln
là những vấn đề rất cần đến sự quan tâm của Nhà nước. Rõ ràng, điều bàn cãi
khơng cịn là ở chỗ Nhà nước có nên tạo ra quỹ phúc lợi hay khơng, có nên
thực hiện phân phối lại thơng qua thuế thu nhập hay không... mà là mức độ
thực hiện ra sao để vẫn có thể khích lệ được mọi thành phần lao động trong
việc tạo ra của cải và tiết kiệm trong việc chi dùng những của cải ấy.
Bên cạnh những thành tựu mà công tác quản lý của nhà nước đã đạt
được, cịn có những hạn chế cịn tồn đọng, nhà nước chưa giải quyết được.
Có thể thấy, mơi trường hoạt động của các thành phần kinh tế, mà trước
hết là mơi trường pháp lý hiện chưa hồn thiện và việc thực hiện cũng chưa
nghiêm do bộ máy hành chính chưa tinh gọn, còn các tầng nấc trung gian dễ
dẫn đến tiêu cực. Thực tế cho thấy, mặc dù có chuyển biến lớn về công tác
ban hành luật, nhưng vẫn cịn tồn tại tư duy cũ trong cơng tác ban hành luật,
tư tưởng vì lợi ích cục bộ của ngành hoặc địa phương. Cách làm này thiếu
tính khoa học và thực tiễn, không công bằng, kém hiệu lực và hiệu quả. Mặt


18


khác, nó gây ra sự khơng đồng bộ, về chính sách, luật pháp từ trên xuống
dưới, gây ảnh hưởng xấu đến tâm lý của các nhà đầu tư.
Thực tế cho thấy rằng, nhà nước chưa kiểm soát được nạn tham nhũng,
quan liêu. Tham nhũng là kết quả của một hệ thống chính trị thiếu khả năng
kiểm sốt. Sự quản lý của nhà nước lại sơ hở, lỏng lẻo, yếu kém trong việc
thực hiện các cơ chế, chính sách, nhất là cơ chế kiểm tra, thanh tra, giám sát.
Bên cạnh đó, tình trạng độc quyền vẫn tiếp tục diễn ra mặc dù đã có sự kìm
hãm cuả nhà nước. Hiện nay ở nước ta đang tồn tại tình trạng độc quyền của
các doanh nghiệp nhà nước trong các nhóm ngành bưu chính, viễn thơng, điện
lực, hàng khơng…Ví dụ như người tiêu dùng đang phải chịu giá cước viễn
thông cao hơn khu vực 30%, giá đường trong nước cao hơn giá đường Thái
Lan 188%, giá xi măng trong nước hiện là 57-60$/tấn trong khi giá FOB nhập
khẩu chỉ 25-40$/tấn. Ngịai ra, tình trạng quản lý kinh tế của nhà nước cũng
một phần gây ra lạm phát ngày càng tăng. Năm qua lạm phát của Việt Nam
lên tới 12.6%( năm ngóai là 6.6%). Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội chưa đáp
ứng nhu cầu phát triển. Thể chế kinh tế chính trị định hướng xã hội chủ nghĩa
còn nhiều hạn chế, các cân đối vĩ mô chưa chắc chắn.
Để giải quyết các vấn đề còn tồn đọng trong khâu quản lý, nhà nước
trước hết cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý, thể chế chính trị, các bộ luật
và nâng cao tính đồng bộ của hệ thống pháp luật. Việc xây dựng khung pháp
lý phải thể hiện rõ sự công bằng đối với các loại hình doanh nghiệp khác
nhau. Hiện cịn nhiều Luật Doanh nghiệp khác nhau, áp dụng cho từng loại
hình doanh nghiệp, điều đó tạo nên sự cách biệt, phân biệt đối xử về mặt pháp
lý, về cơ chế chính sách đối với các loại hình doanh nghiệp. Do đó, nên đổi
mới hệ thống pháp luật theo hướng chỉ có duy nhất một Luật Doanh nghiệp
áp dụng chung khung cho tất cả các doanh nghiệp khơng phân biệt hình thức
sở hữu hoặc các Luật, phải có sự điều chỉnh theo một tư duy thống nhất. Có

nghĩa là, phải tạo cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong
“sân chơi”, với cùng “luật chơi” thật sự công bằng.
19


Hiện nay, chúng ta chưa có Luật Cạnh tranh. Mặc dù quy định về cạnh
tranh lành mạnh và chống độc quyền đã xuất hiện ở một số văn bản như quy
định của Bộ Luật Dân sự 1995, Luật Thương mại 1997, Pháp lệnh Bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng 1999, Bộ Luật Hình sự 1999, và các văn bản khác;
nhưng các quy định đó cịn chắp vá, biểu hiện tính thụ động, mang nặng dấu
ấn của hệ thống pháp luật bảo hộ khép kín. Do vậy, cần sớm ban hành Luật
Cạnh tranh và chống độc quyền, hình thành khung khn khổ pháp luật cho
việc đảm bảo cạnh tranh lành mạnh và kiểm soát độc quyền, hạn chế các tiêu
cực trong kinh doanh.
Trong nền kinh tế thị trường ngày nay, việc phát triển kinh tế tư nhân là
vô cùng cần thiết. Tuy nhiên, các vấn đề ban hành luật đối với vấn đề này vẫn
chưa được chú trọng. Vì thế, cần phải nhanh chóng hịan chỉnh các điều luật
đối với kinh tế tư nhân.Việc hoàn thiện hệ thống luật pháp phải phù hợp với
các quy luật phát triển của nền kinh tế thị trường, khuyến khích phát triển
kinh tế tư nhân, nhưng phải đảm bảo các mục tiêu xã hội, lấy dân chủ và cơng
bằng xã hội làm tiêu chí để xây dựng pháp luật. Cần có sự tổng kết, nghiên
cứu bổ sung thêm một số nội dung của các bộ phận hiện hành cho phù hợp
hơn với cơ chế thị trường và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước
như Luật Phá sản doanh nghiệp, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Khuyến
khích cạnh tranh và kiểm sốt độc quyền,... Mặt khác, cũng có thể nghiên cứu
ban hành thêm một số luật mới để kịp thời điều chỉnh các quan hệ kinh tế mới
phát sinh (như Luật Sở hữu tài sản cá nhân, Luật Quảng cáo - tiếp thị...). Và
trên hết, hệ thống chính sách pháp luật đối với khu vực kinh tế tư nhân cần
phải có sự ổn định lâu dài đảm bảo cho người kinh doanh có được sự tin
tưởng, mạnh dạn đầu tư và thu lợi, khơng nên để xảy ra tình trạng cứ mỗi lần

thay đổi chính sách thì chỉ có Nhà nước được lợi còn người kinh doanh lại
chịu thiệt

20


Nhà nước cần phải đưa ra giải pháp phòng chống tham nhũng, quan
liêu như xây dựng văn hóa cơng sở, đưa ra các hình phạt nghiêm khắc đối với
tội tham nhũng
và đối với những người có trách nhiệm trong việc phịng, chống tham nhũng
mà khơng hồn thành nhiệm vụ; đẩy mạnh cải cách hành chính. Bên cạnh đó
cần hình thành các tư duy đúng, đưa ra giải pháp phải gắn với điều kiện thực
hiện, phải bảo đảm nhất quán giữa chủ trương và giải pháp đổi mới.
Nhà nước cũng cần phải thực hiện các chính sách phân phối thu nhập
trong chừng mực cho phép, để có thể vừa thu hẹp khoảng cách giàu nghèo
trong xã hội, vừa không gây ra tình trạng phân phối đồng đều, làm người dân
giảm động cơ làm việc để tăng thu nhập, giảm tiết kiệm, giảm đầu tư và do đó
gây nên tổn hại lớn cho cả một nền kinh tế. Như vậy, nhà nước sẽ phải ban
hành thuế thu nhập cho phù hợp để tạo ra sự công bằng hơn trong phân phối.
Nhà nước cần tiếp tục điều chỉnh chính sách tiền tệ và chính sách tài
chính để giảm thiểu sự trượt giá của đồng tiền, giảm tốc độ leo thang chóng
mặt của giá cả . Chính sách tài chính bao gồm các chính sách thuế và chi tiêu
ngân sách của Nhà nước nhằm điều tiết chu kỳ kinh tế, đảm bảo công ăn việc
làm, ổn định giá cả và tăng trưởng liên tục của nền kinh tế. Trong những thời
kỳ kinh tế suy giảm, chính sách tài chính có tác dụng kích cầu và sản xuất
bằng cách Chính phủ tăng mua, giảm thuế, do đó tạo ra được một thu nhập
quốc dân khả dụng lớn hơn để đưa vào luồng tiêu đùng. Còn trong những thời
kỳ kinh tế "q nóng", chính phủ làm ngược lại. Để cân bằng lại những biện
pháp tài chính cố ý này, Nhà nước tạo ra những cái gọi là cơ chế ổn định, như
thuế thu nhập luỹ tiến và phụ cấp thất nghiệp. Chính sách tài chính được điều

hành một cách độc lập với chính sách tiền tệ là chính sách nhằm điều tiết hoạt
động kinh tế bằng cách kiểm sốt việc cung ứng tiền. Bên cạnh đó, nhà nước
cũng cần liên thơng thị trường tài chính với thị trường bất động sản nhằm điều
hòa thị trường bất động sản hiện nay đang có nhiều biến động.

21


KẾT LUẬN
Có thể nói, từ khi chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung
sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế Việt Nam có
nhiều sự đồi thay mang tính tích cực, chứng tỏ tính hiệu quả trong đường lối,
chủ trương của nhà nước. Nền kinh tế nước ta ngày nay đang phát triển một
cách mạnh mẽ, tuy nhiên vẫn có nhiều lệch lạc, bất cập, chưa đi vào khn
khổ địi hỏi sự kiểm soát hỗ trợ và can thiệp của một nhà quản lý. Đó chính là
nhà nước. Nhà nước sẽ tham gia vào hoạt động của thị trường với ba chức
năng rõ rệt là can thiệp, quản lý và điều tiết. Sự tham gia của nhà nước sẽ
đóng một vai trị vơ cùng quan trọng khi gặp các vấn đề về ổn định kinh tế vĩ
mơ thơng qua chính sách tiền tệ, đầu tư nước ngòai, thị trường khủng hoảng
thiếu sự kiềm chế, xây dựng các bộ khung cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế phát
triển…Thực tế cho thấy các hoạt động của nhà nước vẫn cịn có nhiều hạn chế
cần có sự xem xét và điều chỉnh. Trên đây, mặc dù sự điều hành của nhà nước
là không thể thiếu được đối với một nền kinh tế, đặc biệt là nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa như ở Việt Nam hiện nay, song điều đó
khơng có nghĩa là nhà nước can thiệp vào tất cả hoạt động của thị trường mà
chỉ nên chú trọng tới những lĩnh vực mà thị trường không làm được hoặc mức
độ làm được khơng thể hồn hảo bằng sự can thiệp của nhà nước. Qua đây,
nhà nước sẽ ngày càng phải phát huy những ưu điểm đã đạt được và khắc
phục những hạn chế cịn tồn đọng để có thể đưa xã hội và nền kinh tế cất cánh
vững mạnh.


22


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cacmac và Angghen - Tịan tập – Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội
-1995- Tập 22
2. Giáo trình kinh tế chính trị Mác-Lênin– Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
Hà nội – 2007
3. Giáo trình triết học Mác-Lênin – Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà nội 2007
4. V.I.Lênin - Tồn tập – Nhà xuất bản Tiến bộ - Matxcơva -1976 - Tập 33
5. Văn kiện đại hội Đảng tòan quốc lần thứ X
Các tài liệu trên mạng
1. />
Dong/Vaitro_Nhanuoc_KTTT/
2. />3. />4. />
%A6a-nh-n%C6%AF%E1%BB%9Actrong-n%E1%BB%80n-kinh-t
%E1%BA%BE-th%E1%BB%8A-tr%C6%AF%E1%BB%9Cng/
5. />
%20c?nh%20tranh
6. />
p=show_page&cid=&parent=83&sid=98&iid=1883
7. />
23



×