Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Tài liệu Không có sốt rét ác tính, không có tử vong pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.57 KB, 6 trang )

Không có sốt rét ác tính,
không có tử vong

Cấp màn tẩm hóa chất cho người dân phòng chống bệnh sốt rét. Ảnh:
G.Lai
Đối với công tác phòng, chống bệnh sốt rét; thời gian qua các địa
phương trong cả nước đã phấn đấu giảm số bệnh nhân sốt rét hàng năm
nhưng tình hình sốt rét ác tính và tử vong do sốt rét vẫn còn là vấn đề đáng
quan tâm. Để thực hiện được mục tiêu giảm tử vong do sốt rét một cách bền
vững, cần thực hiện khẩu hiệu hành động "Không có sốt rét ác tính, không có
tử vong".
Tình hình sốt rét ác tính và tử vong
Trong những năm gần đây, số bệnh nhân sốt rét ác tính, tử vong của cả
nước nói chung và khu vực miền Trung - Tây Nguyên nói riêng đã giảm đáng kể
nhưng chưa được bền vững. Trọng điểm sốt rét của cả nước là khu vực miền
Trung - Tây Nguyên; trong năm 2009 có 22.331 người mắc sốt rét với 113 bệnh
nhân sốt rét ác tính làm cho 16 trường hợp tử vong. Tỷ lệ tử vong trên số người
mắc sốt rét chiếm 0,072%; phản ánh mạng lưới y tế cơ sở ở tuyến đầu đã có nhiều
nỗ lực cố gắng trong việc phát hiện, điều trị bệnh. Tuy vậy, số tử vong trên số
bệnh nhân sốt rét ác tính chiếm 14,16%; phần lớn số bệnh nhân này đến cơ sở y tế
quá muộn và thường chết trước 24 giờ khi vào bệnh viện.
Sốt rét ác tính là một thể nguy kịch của bệnh sốt rét do bị nhiễm ký sinh
trùng sốt rét chủng loại Plasmodium falciparum, bệnh lý gây ra do rối loạn huyết
động, làm tắc nghẽn hệ thống vi tuần hoàn phủ tạng, nhất là não. Bệnh cũng gây
tổn thương ở nhiều phủ tạng khác ngoài não như gan, lách, thận, tim, phổi... chủ
yếu do giảm sự cung cấp máu và gây thiếu oxygen ở các tổ chức, tế bào. Bệnh
cảnh lâm sàng của sốt rét ác tính rất đa dạng và có nhiều thể bệnh khác nhau, phổ
biến nhất là sốt rét ác tính thể não, thường chiếm tỷ lệ 85%. Tỷ lệ sốt rét ác tính
trong tổng số bệnh nhân sốt rét được gọi là tỷ lệ chuyển đổi. Tỷ lệ này thay đổi tùy
theo quần thể người dân bị mắc bệnh sốt rét đã có miễn dịch sốt rét một phần hay
chưa, được phát hiện, điều trị sớm hay muộn. Sốt rét ác tính là thể bệnh nguy kịch


có tỷ lệ tử vong cao tùy thuộc vào thể sốt rét ác tính mắc phải, cơ địa của bệnh
nhân và sự can thiệp điều trị kịp thời sớm hay chậm.
Chẩn đoán xác định sốt rét ác tính được căn cứ vào việc hỏi tiền sử để ghi
nhận các yếu tố như sống trong vùng sốt rét hoặc qua lại vùng sốt rét, có tiền sử
sốt rét; các thuốc sốt rét đã sử dụng; lượng nước tiểu trong 8-12 giờ gần đây; có
tiền sử co giật; có truyền máu; có thai hay không nếu là phụ nữ; có tiền sử đái
huyết cầu tố (thiếu G6PD). Khai thác các triệu chứng lâm sàng như đo nhiệt độ,
mạch, huyết áp, nhịp thở; cân nặng (ở trẻ em ước tính cân nặng theo tuổi nếu
không có cân); rối loạn ý thức và mức độ hôn mê (theo thang điểm Glasgow với
người lớn và Blantyre với trẻ em); tình trạng thiếu máu; soi đáy mắt nếu có thể.
Thực hiện các xét nghiệm máu tìm ký sinh trùng sốt rét và theo dõi mật độ ký sinh
trùng nhiều lần, nơi không có kính hiển vi thì sử dụng test chẩn đoán nhanh; định
lượng hemoglobin, hematocrite, nhóm máu, công thức máu, glucose máu,
creatinin, bilirubin, SGOT và SGPT hoặc các xét nghiệm cần thiết khác nếu có
điều kiện. Nếu bệnh nhân hôn mê, cần chọc dò tủy sống để chẩn đoán phân biệt
sốt rét ác tính thể não với các nguyên nhân gây hôn mê khác như viêm não và
viêm màng não, nhất là ở trẻ em. Đo điện tâm đồ và chụp Xquang phổi nếu cần
chỉ định.
Các triệu chứng lâm sàng, xét nghiệm làm căn cứ để chẩn đoán xác định
bệnh nhân sốt rét ác tính như dấu hiệu biểu hiện, cách nhận biết và kết quả xét
nghiệm với các nội dung về rối loạn ý thức, hôn mê, thiếu máu nặng, suy thận cấp,
vàng da, sốc, phù phổi cấp hoặc hội chứng suy hô hấp cấp, hạ đường huyết, đái
huyết cầu tố, xuất huyết, toan chuyển hóa, mật độ Plasmodium falciparum. Sốt rét
ác tính ở trẻ em thường biểu hiện triệu chứng thiếu máu, hôn mê, co giật, hạ
đường huyết, toan chuyển hóa. Sốt rét ác tính ở phụ nữ có thai thường biểu hiện
triệu chứng hạ đường huyết, xảy ra sau khi điều trị bằng thuốc quinin; ngoài ra
tình trạng thiếu máu, hậu quả sảy thai, đẻ non, nhiễm trùng hậu sản sau sảy thai
hoặc đẻ non cũng được ghi nhận.
Trong chẩn đoán phân biệt sốt rét ác tính, ngoài triệu chứng hôn mê, vàng
da, vàng mắt cần phân biệt với các bệnh khác; nên chẩn đoán phân biệt với sốc

nhiễm khuẩn, nhiễm khuẩn huyết, sốt mò; suy hô hấp cấp do các nguyên nhân
khác...
Đề xuất khẩu hiệu
"Không có sốt rét ác tính,
không có tử vong" Chú ý dấu hiệu dự báo và chẩn đoán
xác định sốt rét ác tính
Dấu hiệu dự báo sốt rét ác tính thể hiện
triệu chứng rối loạn ý thức nhẹ thoáng qua như
Giảm tử vong sốt rét là
một trong ba mục tiêu cơ bản
của Dự án Quốc gia Phòng
chống sốt rét. Mặc dù mục
tiêu giảm số tử vong đã được
thực hiện có kết quả trong
thời gian qua nhưng chưa thật sự bền vững vì số tử vong do sốt rét hàng năm vẫn
còn dao động, chưa chủ động kiểm soát được một cách chặt chẽ. Theo nguyên tắc,
muốn không có sốt rét ác tính xảy ra gây hậu quả tử vong phải bắt đầu từ công tác
giám sát, phát hiện sớm, điều trị bệnh kịp thời đối với các trường hợp sốt rét thể
thông thường. Hiện nay mạng lưới chuyên khoa phòng chống sốt rét đã được xây
dựng, củng cố và bảo đảm độ bao phủ các hoạt động can thiệp ở tuyến đầu. Các
trạm y tế xã, thị trấn vùng sốt rét lưu hành đã được trang bị kính hiển vi và đào tạo
xét nghiệm viên giúp cho việc phát hiện, chẩn đoán, điều trị bệnh sốt rét một cách
chính xác. Đối với 29 tỉnh trọng điểm sốt rét của toàn quốc, Dự án Quỹ Toàn cầu
Phòng chống sốt rét Việt Nam cũng đã hỗ trợ, cung cấp test chẩn đoán nhanh sốt
rét đến tận các cơ sở y tế để giúp cho việc phát hiện sớm, điều trị bệnh nhân kịp
thời nếu tại đây chưa được trang bị kính hiển vi hoặc điểm kính hiển vi không hoạt
động. Những đối tượng thường xuyên có giao lưu, biến động vào vùng sốt rét như
đi rừng, ngủ rẫy, qua về biên giới, xa cơ sở y tế dài ngày được quản lý và chỉ định
cấp thuốc tự điều trị mang theo để uống khi có sốt, nghi ngờ bị mắc bệnh sốt rét;
không để chuyển thành sốt rét ác tính gây tử vong. Thuốc sốt rét được cấp hoàn

li bì, cuồng sảng, vật vã...; rối loạn tiêu hóa, nôn
nhiều lần trong ngày; thiếu máu nặng với triệu
chứng da xanh, niêm mạc nhợt. Bệnh nhân bị sốt
cao liên tục, nhức đầu dữ dội, mật độ ký sinh
trùng sốt rét thường cao.

×