Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Tiểu luận quan hệ quốc tế đại cương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (457.04 KB, 30 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ & TUN TRUYỀN
Khoa Phát thanh – Truyền hình
*********

TIỂU LUẬN
QUAN HỆ QUỐC TẾ ĐẠI CƯƠNG

Đề tài: Chính sách đối ngoại của Việt Nam hiện nay

Giảng viên hướng dẫn : T.S Lưu Thúy Hồng
Sinh viên
: Ngô Đặng Vân Anh
Mã sinh viên
: 1756000003
Lớp
: Mạng điện tử K37a2

Hà Nội, 2021


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................. 2
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN........................................................................................3
I. VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC BÁO CHÍ...................................................................................3
1. Khái niệm đạo đức báo chí........................................................................................3
1.1) Khái niệm đạo đức...............................................................................................3
1.2) Khái niệm đạo đức báo chí..................................................................................4
1.3) Vai trị của đạo đức báo chí.................................................................................4
1.4) Nội dung Quy định đạo đức người làm báo.........................................................4
II. VẤN ĐỀ MẠNG XÃ HỘI............................................................................................5


1. Khái niệm mạng xã hội.............................................................................................5
2. Đặc điểm mạng xã hội...............................................................................................5
1.1) Mạng xã hội là ứng dụng trên nền tảng Internet..................................................5
1.2) Người dùng tạo ra danh tính trực tuyến phù hợp cho trang hoặc ứng dụng được duy
trì trên nền tảng mạng xã hội..........................................................................................6
1.3) Mạng xã hội tạo điều kiện cho sự phát triển của cộng đồng xã hội trên mạng bằng
cách kết nối tài khoản của người dùng với tài khoản của các cá nhân, tổ chức khác.....6
1.4) Mạng xã hội tự quản lý........................................................................................6
CHƯƠNG II: TẦM ẢNH HƯỞNG CỦA MẠNG XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM VÀ TRÁCH
NHIỆM CỦA NHÀ BÁO TRONG VIỆC THỰC HIỆN ĐIỀU 5 TRONG QUY ĐỊNH ĐẠO
ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA NGƯỜI LÀM BÁO............................................................7
I. VAI TRÒ CỦA MẠNG XÃ HỘI ĐẾN TRUYỀN THÔNG VIỆT NAM..................7
1. Mạng xã hội giúp người dùng tiếp cận với nguồn tri thức khổng lồ.............................7
2. Mạng xã hội làm tăng tốc độ lan truyền, tiếp cận thông tin.........................................7
3. Mạng xã hội giúp làm tăng số lượng người tiếp cận thông tin.....................................7
4. Mạng xã hội góp phần thúc đẩy cơng nghệ thơng tin..................................................8
5. Mạng xã hội cịn giúp báo chí hoạt động cơng khai, minh bạch
và chuyên nghiệp hơn................................................................................................8
II. CHUẨN MỰC CỦA NGƯỜI LÀM BÁO KHI THAM GIA MẠNG XÃ HỘI VÀ CÁC
PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG KHÁC...................................................................8
III. TRÁCH NHIỆM CỦA NHÀ BÁO TRONG VIỆC THỰC HIỆN ĐIỀU 5 QUY ĐỊNH
ĐẠO ĐỨC BÁO CHÍ.........................................................................................................9
CHƯƠNG III: LIÊN HỆ THỰC TIỄN TẠI VIỆT NAM...............................................12
KẾT LUẬN......................................................................................................................... 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................................15

MỞ ĐẦU
1



1. Lý do chọn đề tài
Chính sách đối ngoại có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, ổn định chính
trị và xã hội. Đường lối và chính sách đối ngoại là một bộ phận hợp thành đường lối chính trị
của Đảng và Nhà nước, là sự nối tiếp của đường lối và chính sách đối nội. Đường lối và chính
sách đối ngoại đúng đắn đã cho phép Đảng và Nhà nước ta khai thác có hiệu quả các nhân tố
quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chống chiến lược “Diễn biến hịa
bình” của các thế lực thù địch hàng phá hoại thành quả của cách mạng Việt Nam, bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN), thực hiện thành công công cuộc đổi mới đất
nước và đưa cách mạng tiếp tục tiến lên. Trước những biến đổi trong nước và thế giới nhiều vấn
đề lý luận và thực tiễn đặt ra đòi hỏi Đảng - Nhà nước phải tìm ra những giải pháp ngang tầm
với những biến đổi đó. Với sự nhạy cảm chính trị và kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng, Đảng đã
đề ra đường lối đổi mới đất nước và tiến hành tự đổi mới để hội nhập với cộng đồng quốc tế,
phấn đấu vì hịa bình, độc lập dân tộc, hợp tác và phát triển.
Sự thay đổi của tình hình thế giới và khu vực đặt ra yêu cầu phải đổi mới đường lối đối ngoại.
Từ những năm nửa cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX, hệ thống XHCN lâm vào khủng hoảng toàn
diện và nghiêm trọng”, cuối cùng đi đến sụp đổ trên một bộ phận lớn đã làm thay đổi cơ bản
quan hệ chính trị thế giới. Bên cạnh đó, các vấn đề cấp thiết mang tính tồn cầu (như vấn đề dân
số, môi trường, sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp biên giới) diễn ra dồn dập cùng với những tác động
của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại cũng đã làm thay đổi các quan hệ quốc gia
dân tộc ở những mức độ khác nhau. Chủ nghĩa tư bản (CNTB) sử dụng những thành tựu của
cách mạng khoa học - cơng nghệ nên thích nghi và tiếp tục phát triển. Các quốc gia trên thế giới
cũng đều tiến hành điều chỉnh chính sách đối ngoại để phù hợp với tình hình mới.
Quan hệ quốc tế trong bối cảnh như vậy đã có bước chuyển quan trọng, từ đối đầu sang đối
thoại, từ hai cực sang đa cực làm nảy sinh xu hướng đa dạng hóa, đa phương hóa trong tiến trình
tồn cầu hóa, phát triển và phụ thuộc lẫn nhau. Tồn cầu hóa về kinh tế chiếm vị trí quan trọng,
được tru tiên phát triển và trở thành vấn đề chính. Hơn nữa, Việt Nam nằm trong khu vực châu
Á - Thái Bình Dương và Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) là khu vực có nền kinh tế
phát triển năng động với tốc độ cao, chính trị tương đối ổn định, đang dần trở thành trung tâm
kinh tế của thế kỷ tới. Điều đó cũng có nghĩa, Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng mạnh mẽ từ khu
vực. Vì vậy, từ năm 1986, Việt Nam đã tiến hành cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước trong đó

có lĩnh vực đối ngoại.
Đường lối đối ngoại của Đảng trước năm 1996 là đúng đắn, sáng tạo nhưng vẫn còn nhiều hạn
chế cần phải khắc phục. Kế thừa truyền thống ngoại giao của dân tộc, trên nền tảng chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới của Đảng Cộng sản
2


Việt Nam (ĐCSVN) đã đáp ứng được những yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước. Với chủ
trương thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc
tế theo tinh thần Việt Nam “muốn là bạn” với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu
vì hịa bình, độc lập và phát triển; đường lối đối ngoại của Việt Nam trước năm 1996 đã góp
phần quan trọng đưa đất nước ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội; mở rộng được
quan hệ song phương và đa phương, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế.
Ngay sau Đại hội VI của Đảng, đường lối đối ngoại của ĐCSVN với những hình thức mới phù
hợp với xu thế của thời đại đã tăng thêm bầu bạn, tạo mơi trường quốc tế thuận lợi, góp phần
khắc phục khó khăn, thu được những thành tựu to lớn góp phần quan trọng phá vỡ thế bao vây,
cơ lập về chính trị, dỡ bỏ cấm vận về kinh tế, đưa Việt Nam hòa nhập với khu vực và thế giới;
khẳng định vị trí, vai trị lãnh đạo, tư duy chính trị nhạy bén, sâu sắc, dày dặn kinh nghiệm trong
lãnh đạo cách mạng của Đảng nói chung và trong q trình hoạch định, phát triển đường lối đối
ngoại nói riêng. Tuy nhiên, từ những năm 1996 đến nay do sự biến đổi của tình hình thế giới và
trong nước quá nhanh, yêu cầu của lịch sử đặt ra là Đảng ta phải tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh
đường lối đối ngoại để đưa Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng sâu sắc và tồn diện hơn nữa.
2. Mơn học Quan hệ quốc tế đại cương
Quan hệ quốc tế chiếm vị trí quan trọng trong đời sống chính trị của tất cả các quốc gia dân tộc.
Quá trình hình thành dân tộc, đường biên giới quốc gia, sự biến đổi và phát triển của các chế độ
chính trị, kinh tế, xã hội liên quan chặt chẽ với quá trình trao đổi, buôn bán, hợp tác, đấu tranh,
cũng như phát triển quan hệ ngoại giao với các nước, các vùng lãnh thổ trong khu vực và quốc
tế, với các chính phủ, phi chính phủ, liên minh quốc gia, các tổ chức và phong trào quốc tế...
Trong thời đại ngày nay, các mối quan hệ đó, một mặt, ngày càng phát triển sâu rộng, chặt chẽ,

ràng buộc và phụ thuộc lẫn nhau; mặt khác, chứa đầy mâu thuẫn, phức tạp và những biến đổi
không ngừng. Thế kỷ XXI sẽ đánh dấu sự phát triển vượt bậc của khoa học và cơng nghệ, của
tồn cầu hoá, và các vấn đề kinh tế, văn hoá,... các quốc gia vừa hợp tác vừa đấu tranh với nhau
để tồn tại và phát triển.
Tình hình đó khách quan đòi hỏi phải nghiên cứu về lý luận và thực tiễn các quan hệ quốc tế
một cách toàn diện và sâu sắc, cần phân tích diễn biến và kết quả các sự kiện, q trình chính trị
thế giới, để từ đó góp phần xây dựng và thực hiện đường lối chính sách đối ngoại của Đảng và
Nhà nước ta. Do đó, Quan hệ quốc tế đại cương là một mơn học cơ bản trong hệ thống khoa học,
xã hội và nhân văn. Môn Quan hệ quốc tế đại cương trang bị những kiến thức về quan hệ quốc
tế, nâng cao nhận thức, bản lĩnh chính trị cho người học.

3


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
4


I. KHÁI NIỆM
Xét về mặt ngữ nghĩa của từ quan hệ quốc tế (International Relations), quan hệ (Relations) là
những hành vi tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến người khác. Phải có hai chủ thể quan hệ trở
lên thì mới có quan hệ, tức là phải có chủ thể gây tác động và chủ thể bị tác động thì tác động đó
mới trở thành quan hệ. Khi hai chủ thể này thuộc hại quốc gia khác nhau thì tác động giữa
chúng có tính quốc tế (International) và quan hệ giữa các chủ thể đó được coi là quan hệ quốc tế.
Có nhiều khái niệm khác nhau về QHQT. Nhà tư tưởng Anh Jeremy Bentam (1748 - 1832) được
coi là người đầu tiên đưa ra khái niệm QHQT khi coi QHQT là sự giao tiếp giữa các quốc gia.
Đến thời hiện đại, đã có thêm những khái niệm QHQT khác của các học giả nhiều nước trên thế
giới như Raymond Aron của Pháp, Sakhnazarov G. Khi và Inozemsey NN, của Liên Xô,
Graham Evans và Jeffrey Newnham của Anh,... Tuy nhiên, các khái niệm này đều không phản
ánh đầy đủ thực tiễn do QHQT ngày nay đã phát triển về quy mô và mức độ, mở rộng về lĩnh

vực và vấn đề với sự tham gia của nhiều loại hình chủ thể khác nhau. Chính những điều đó đang
góp phần làm thay đổi đáng kể nội dung và tính chất của QHQT ngày nay.
Vì thế có thể đưa ra khái niệm QHQT như sau: “Quan hệ quốc tế là sự tương tác qua biên giới
giữa các chủ thể quan hệ quốc tế”. Theo đó, QHQT chính là sự tương tác giữa các chủ thể
QHQT. Tương tác là tác động qua lại có tính hai chiều, tức là gồm cả tác động từ chủ thể này và
phản ứng của chủ thể kia. Các tác động này có thể là hành động quan hệ trực tiếp hay ảnh hưởng
gián tiếp giữa các chủ thể. Ví dụ về hành động trực tiếp là khi hai nước có quan hệ: ngoại giao
hoặc thương mại qua lại với nhau. Ví dụ về ảnh hưởng gián tiếp là khi sự thay đổi trong tình
hình đối nội của nước này khiến nước kia cảm thấy quan hệ song phương cũng sẽ thay đổi nên
có phản ứng điều chỉnh. Khi các tác động này diễn ra qua biên giới quốc gia thì trở thành có tính
quốc tế. Khái niệm này tương đối mở về mặt chủ thể khi bao gồm mọi loại hình chủ thể QHQT
chứ khơng phải chỉ mỗi quốc gia như nhiều khái niệm trước kia. Tính mở này cũng đáp ứng
được yêu cầu của các lý thuyết QHQT vốn có quan niệm tương đối khác nhau về chủ thể.
II. MỘT SỐ LÝ THUYẾT CHỦ YẾU TRONG NGHIÊN CỨU MÔN QUAN HỆ QUỐC TẾ
Lý thuyết là tập hợp các quan điểm có chung một cơ sở lý luận và tương đối bao quát về một
vùng nghiên cứu nào đó. Trong QHQT có nhiều lý thuyết. Mỗi lý thuyết là một cách lý giải
QHQT khác nhau dựa trên cách tiếp cận khác nhau. Trong số các lý thuyết này, nổi bật hơn cả là
Chủ nghĩa Hiện thực, Chủ nghĩa Tự do, quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về QHQT và Chủ
nghĩa Kiến tạo.
1. Chủ nghĩa Hiện thực (Realism)

5


Chủ nghĩa Hiện thực tập trung nghiên cứu các vấn đề chính trị quốc tế nên cịn được gọi là Chủ
nghĩa Hiện thực chính trị. Chủ nghĩa Hiện thực là lý thuyết QHQT có lịch sử lâu đời nhất với
những tư tưởng đầu tiên có từ trước Cơng ngun. Các học giả tiền bối của Chủ nghĩa Hiện thực
là Thucydides, Nicollo Machiavelli và Thomas Hobbes. Sau năm 1945, lý thuyết này đã được
Hans Morgenthau tập hợp và được hàng loạt học giả khác phát triển thêm để trở thành một lý
thuyết tương đối bao quát về QHQT. Chủ nghĩa Hiện thực đã có ảnh hưởng lớn đến lý luận và

thực tiễn QHQT trong thời kỳ Chiến tranh lạnh.
2. Chủ nghĩa Tự do (Liberalism)
Chủ nghĩa Tự do cũng là lý thuyết QHQT có lịch sử lâu đời tuy có muộn hơn so với Chủ nghĩa
Hiện thực. Những ý tưởng đầu tiên trong truyền thống tư duy tự do có thể tìm thấy từ thời cận
đại với các đại biểu như Erasmus, John Locke, William Penn, Jeremy Bentham,... và nhất là
Immanuel Kant. Chủ nghĩa Tự do có ba giai đoạn phát triển chính là Chủ nghĩa Quốc tế tự do,
Chủ nghĩa Lý tưởng và Chủ nghĩa Tự do Mới. Trong đó, Chủ nghĩa Tự do Mới hay còn được
gọi là Chủ nghĩa Thể chế Tự do Mới (NeoLiberal Institutinalism) xuất hiện muộn nhất trong
Chiến tranh lạnh nên có sự kế thừa, bổ sung và phát triển thêm nhiều. Hoc giả bật nhất của
trường phái này là Robert Keohan.
3. Chủ nghĩa Kiến tạo (Constructivism)
Mặc dù một vài tư tưởng của Chủ nghĩa Kiến tạo đã có từ trước, nhưng với tư cách là một lý
thuyết hay cách tiếp cận trong QHQT, Chủ nghĩa Kiến tạo mới thực sự nổi lên và phát triển từ
khi kết thúc Chiến tranh lạnh. Các đại biểu nổi bật của lý thuyết này là Alexander Wendt, Peter
Katzenstein, Friedrich Kratochwil, ...
4. Chủ nghĩa Mác-Lênin (Marxism-Leninism)
Chủ nghĩa Mác-Lênin do Mác và Ăng ghen sáng lập ra từ giữa thế kỷ XIX và sau đó đã được
Lênin tiếp tục phát triển. Chủ nghĩa Mác-Lênin là một học thuyết bao quát nhiều lĩnh vực của
đời sống nhưng trong đó có chứa đựng những quan điểm về QHQT.

CHƯƠNG II: ĐƯỜNG LỐI, CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG
VÀ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
6


I. NHỮNG YÊU CẦU MỚI ĐẶT RA CHO HOẠCH ĐỊNH ĐƯỜNG LỐI, CHÍNH SÁCH
ĐỐI NGOẠI CỦA NƯỚC TA
Đường lối đối ngoại được xây dựng qua một quá trình xuất phát từ những địi hỏi của tình hình
quốc tế và trong nước ở mỗi chặng đường cụ thể để có tư duy lý luận với những điều chỉnh cho
phù hợp. Thực tiễn xây dựng và triển khai đường lối đối ngoại giai đoạn hiện nay đã khẳng định

Đảng ta nắm bắt được xu thế vận động của tình tình quốc tế và trong nước để đưa ra đường lối,
chủ trương chính sách đối ngoại cho phù hợp với tình hình mới.
1. Tình hình quốc tế
Nước ta bước vào thời kỳ mới trong bối cảnh quốc tế đang thay đổi rất nhanh, phức tạp và khó
lường. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và cơng nghệ
sinh học tiếp tục có bước phát triển nhảy vọt trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thúc đẩy sự
phát triển kinh tế tri thức, làm chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế và biến đổi sâu sắc các lĩnh vực
trong đời sống xã hội. Tri thức và sở hữu trí tuệ ngày càng quan trọng.
Hịa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Các quốc gia ngày càng tham gia nhiều vào
quá trình hợp tác và liên kết khu vực, liên kết quốc tế. Hợp tác ngày càng tăng nhưng cạnh tranh
cũng rất gay gắt trong cùng tồn tại hịa bình như: chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột
sắc tộc, nạn khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia có thể gia tăng cùng với những bất ổn chính
trị - xã hội, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ diễn biến phức tạp.
Ngoài ra, thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng năng lượng, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu
trở thành vấn đề nghiêm trọng trên toàn thé giới, buộc các quốc gia phải có chính sách đối phó
và phối hợp chung tay hành động.
Các nước ASEAN bước vào thời kỳ hợp tác mới theo Hiến chương ASEAN và xây dựng Cộng
đồng dựa trên ba trụ cột: chính trị - an ninh, kinh tế, văn hóa - xã hội; hợp tác với các đối tác tiếp
tục phát triển và đi vào chiều sâu. ASEAN đang ngày càng khẳng định vai trò trung tâm trong
một cấu trúc khu vực đang định hình nhưng cũng phải đối phó với những thách thức mới.
Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động và đang hình thành nhiều
hình thức liên kết, hợp tác đa dạng hơn. Tuy vậy, vẫn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định,
nhất là tranh giành ảnh hưởng, tranh chấp chủ quyền biển đảo, tài nguyên.
Toàn cầu hóa kinh tế tiếp tục phát triển về quy mơ, mức độ và hình thức biểu hiện với những tác
động tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách thức đan xen nhau rất phức tạp. Các công ty xun
quốc gia có vai trị ngày càng lớn. Q trình quốc tế hóa sản xuất và phân cơng lao động diễn ra
ngày càng sâu rộng. Việc tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu đã trở thành yêu
7



cầu đối với các nền kinh tế. Sự tùy thuộc lẫn nhau, hội nhập, cạnh tranh và hợp tác giữa các
nước ngày càng trở thành phổ biến. Kinh tế tri thức phát triển mạnh, do đó con người và tri thức
trở thành nhân tố quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia.
Sau khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu, thế giới bước vào một giai đoạn phát triển mới.
Tương quan sức mạnh của các nền kinh tế và cục diện phát triển toàn cầu thay đổi với sự xuất
hiện những liên kết mới. Vị thế của châu Á trong nền kinh tế thế giới đang tăng lên; sự phát
triển mạnh mẽ của một số nước khu vực trong điều kiện hội nhập Đông Á và thực hiện các thể
chế tài chính tồn cầu sẽ diễn ra mạnh mẽ, gắn với những bước tiến mới về khoa học, công nghệ
và sử dụng tiết kiệm năng lượng, tài nguyên. Mặt khác, khủng hoảng còn để lại hậu quả nặng nề,
chủ nghĩa bảo hộ trỗi dậy trở thành rào cản lớn cho thương mại quốc tế. Kinh tế thế giới tuy đã
bắt đầu phục hồi nhưng cịn nhiều khó khăn, bất ổn; sự điều chỉnh chính sách của các nước, nhất
là những nước lớn sẽ có tác động đến Việt Nam.
2. Tình hình trong nước
Tồn Đảng, tồn dân ta kết thúc những năm đầu của thế kỉ XXI. Đất nước trải qua 20 năm đổi
mới và 15 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Đất
nước ta sau những năm đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Đất nước đã ra khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện, tạo thế và lực để thúc đẩy công
cuộc đổi mới đi vào chiều sâu:
Kinh tế tăng trưởng nhanh, đạt tốc độ bình quân 7,26%/ năm; Các lĩnh vực văn hóa, xã hội đạt
thành tựu quan trọng trên nhiều mặt, nhất là xóa đói giảm nghèo. Đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân được cải thiện rõ rệt; Dân chủ trong xã hội tiếp tục được mở rộng; Chính trị - xã
hội ổn định, quốc phòng an ninh được giữ vững. Công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế được triển
khai sâu rộng và hiệu quả, góp phần tạo mơi trường hịa bình, ổn định và tăng thêm nguồn lực
phát triển cho đất nước. Diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi. Thế và lực của nước ta vững
mạnh thêm nhiều: vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên, tạo ra những tiền đề
quan trọng để đẩy nhanh CNH, HĐH và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
Tuy nhiên, Việt Nam cũng đang đứng trước những thách thức, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về
kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, nguy cơ chệch hướng XHCN, nạn tham
nhũng quan lieu và nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Tình trạng suy thối
về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, Đảng viên gắn với

tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí là rất nghiêm trọng. Các thế lực thù địch tiếp tục thực
hiện âm mưu “diễn biến hịa bình” hịng chống phá cách mạng nước ta. Trong nội bộ, những
biểu hiện xa rời mục tiêu của CNXH, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” diễn biến phức tạp.
8


Nhận thức của Đảng về thời đại, về thế giới và khu vực ngày càng rõ và đầy đủ hơn. Trong khi
khẳng định thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH, Đảng ta đã nhận rõ
tính chất phức tạp, quanh co và lâu dài của quá trình chuyển biến xã hội nên đã hướng vào đánh
giá trực tiếp những động thái, đặc trưng, xu hướng và tính chất trong giai đoạn hiện nay của thời
đại. Về môi trường quốc tế, Đảng ta đã nhận rõ môi trường quốc tế là các nước, không phân biệt
chế độ chính trị, trình độ phát triển, cùng tồn tại hịa bình, hợp tác và đấu tranh vì lợi ích quốc
gia - dân tộc.
Ngoài ra, Đảng ta nhận định cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn. Các nước lớn thay đổi
chiến lược, vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau, tác động mạnh
đến tình hình thế giới và các khu vực. Những biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ
nghĩa cường quyền áp đặt, chủ nghĩa thực dụng ngày càng nổi lên trong quan hệ quốc tế. Các
nước đang phát triển, nhất là những nước vừa và nhỏ đang đứng trước những cơ hội mới và cả
những thách thức mới trên con đường phát triển.
Trong bối cảnh đó, tập hợp lực lượng nhằm liên kết, cạnh tranh, đấu tranh giữa các nước trên thế
giới và khu vực diễn ra phức tạp. Tồn cầu hóa và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển
mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thơng tin và kinh tế tri thức. Kinh tế thế giới có
chiều hướng phục hồi nhưng cịn nhiều khó khăn. Cạnh tranh về kinh tế - thương mại, tranh
giành các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, công nghệ, nguồn vốn, giữa các nước ngày
càng gay gắt. Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương
thực, an ninh mạng, biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao, thiên tai, dịch bệnh, tội phạm xuyên
quốc gia, tiếp tục diễn biến phức tạp.
Trước tình hình thế giới và trong nước chuyển biến nhanh chóng, bên cạnh những thời cơ cịn
đan xen nhiều thách thức, chính vì thế, u cầu khách quan Đảng phải bổ sung, phát triển đường
lối đối ngoại rộng mở, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phù hợp với tình hình mới.


II. ĐƯỜNG LỐI, CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1. Phương châm hoạt động

9


Trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta vẫn thực hiện bốn phương châm xử lý các vấn
đề đối ngoại được Hội nghị Trung ương 3 (khóa VII) vạch ra:
- Một là, bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước và chủ
nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
Thực chất phương châm này là nhằm xử lý mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc và đồn kết quốc tế
trong hoạt động đối ngoại của Việt Nam. Đối ngoại phục vụ lợi ích chân chính của dân tộc và đó
cũng là cách thực hiện tốt nhất nghĩa vụ quốc tế, là sự đóng góp đối với sự nghiệp cách mạng
thế giới. Lợi ích cao nhất của dân tộc mà cũng là của Đảng Cộng sản Việt Nam là xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, ra sức phát triển
nhanh về kinh tế - xã hội, làm cho dân giàu nước mạnh, giữ vững độc lập dân tộc và thống nhất
đất nước. Kiên trì sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa với những thành tựu
quan trọng đạt được trong phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị vững chắc, phát triển lý
luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sự đóng góp hiệu quả, thiết thực nhất
của Đảng và nhân dân Việt Nam đối với cách mạng thế giới, nhất là trong bối cảnh phong trào
cộng sản, công nhân quốc tế và chủ nghĩa xã hội đang đứng trước những khó khăn, thử thách
lớn trong thời kỳ sau Chiến tranh lạnh. Trong khi tập trung nỗ lực tranh thủ mọi điều kiện thuận
lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội, thì Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng
xác định rõ phải luôn coi trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị với các nước xã hội chủ
nghĩa, phong trào cộng sản và công nhận quốc tế, phong trào độc lập dân tộc, với NAM và các
lực lượng hịa bình, tiến bộ khác trên thế giới, theo khả năng thực tế của đất nước, phù hợp với
sự chuyển biến của tình hình thế giới. Đảng luôn kiên định quan điểm cải cách mạng Việt Nam
là bộ phận của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đó là nhân
tố làm nên thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

- Hai là, giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa dạng hóa, đa phương hóa quan
hệ đối ngoại.
Đây là sự phát triển sáng tạo bài học của cách mạng Việt Nam về kết hợp giữa sức mạnh dân tộc
và sức mạnh thời đại sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế trong điều kiện lịch sử mới,
Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh, độc lập tự chủ, tự lực tự cường phát huy sức mạnh bên
trong là nền tảng của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là điều kiện để mở rộng và nâng
cao uy tín quốc tế của đất nước. Mặt khác, Đảng cũng khẳng định độc lập tự chủ khơng có nghĩa
là biệt lập, mà đồng thời đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế để mở rộng quan hệ đối
ngoại, tăng cường hợp tác quốc tế, tranh thủ tối đa các điều kiện bên ngồi thuận lợi cho cơng
cuộc đổi mới và xây dựng đất nước. Điều đó là tuyệt đối cần thiết đối với Việt Nam, một nước
tiếp tục kiên định con đường đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa sau khi hệ thống xã hội
chủ nghĩa thế giới đã sụp đổ. Sự kiên định độc lập tự chủ, tự lực tự cường là vấn đề có tính
10


nguyên tắc để mở rộng quan hệ quốc tế theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa, tránh được
những tình huống bất lợi về đối ngoại, củng cố và nâng cao vị thế đất nước ở khu vực cũng như
trên thế giới. Đối với Việt Nam hiện nay, sự kết hợp chặt chẽ yếu tố dân tộc và yếu tố truyền
thống với yếu tố hiện đại để đưa đất nước tiến lên trở thành một vấn đề có tính tất yếu.
- Ba là, nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế.
Trong điều kiện mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa, Việt Nam
đứng trước những cơ hội mới, Song nguy cơ và thách thức từ bên ngoài cũng gia tăng. Do đó,
cần phải nhận thức đúng và nắm vững vấn đề hợp tác và đấu tranh, coi đây là hai mặt gắn bó
hữu cơ của quan hệ quốc tế phải hết sức tránh hợp tác một chiều hoặc đấu tranh một chiều.
Trong phương châm nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh, Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn
mạnh một nhận thức mới, đó là đấu tranh nhằm thúc đẩy hợp tác, tránh trục diện đối đầu, không
để cho các thế lực thù địch đẩy vào thế bị cô lập, đặc biệt là tránh bị xung đột quân sự hoặc bị
khiêu khích vũ trang. Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh còn nhằm tranh thủ những lực
lượng có thể tranh thủ được, phân hóa và thu hẹp đến mức có thể đối với các thế lực thù địch
hoặc khơng thân thiện. Tiêu chí để xác định hướng hợp tác hay đấu tranh chính là lợi ích dân tộc

chân chính.
- Bốn là, tham gia hợp tác khu vực, đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước.
Phương châm này thể hiện chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam mở rộng quan
hệ quốc tế, góp phần vào hịa bình, ổn định, phát triển ở khu vực và trên thế giới. Việt Nam đặc
biệt chú trọng hợp tác khu vực, nhất là đối với các nước láng giềng nhằm tạo một mơi trường
hịa bình, ổn định lâu dài chung quanh đất nước. Việc tạo lập được mối quan hệ hợp tác trên cơ
sở tùy thuộc lẫn nhau về an ninh cũng như về phát triển với các nước trong khu vực sẽ là bảo
đảm hết sức quan trọng nhằm xác lập một vị thế có lợi hoặc chí ít là ít bất lợi nhất trong quan hệ
quốc tế.
Cùng với việc đặt cao quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước láng giềng và khu vực, Đảng và
Nhà nước Việt Nam đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết phải mở rộng quan hệ với tất cả các nước,
đặc biệt là các nước lớn, các trung tâm kinh tế lớn vì đó là những lực lượng ảnh hưởng quan
trọng đến an ninh và phát triển của khu vực và của Việt Nam.
Bốn phương châm đối ngoại nêu trên có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc xử lý các mối
quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Xử lý đúng các mối quan hệ quốc tế sẽ tạo
nên sự thông suốt trong tư tưởng và thành công trong hành động. Ngược lại, nếu xử lý không
đúng sẽ gây lúng túng trong hoạt động đổi ngoại cụ thể gây ảnh hưởng tiêu cực tới công cuộc
đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
11


2. Phương hướng hoạt động đối ngoại hiện nay
Trong giai đoạn hiện nay, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam khẳng định:
“Tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước láng giềng, thúc đẩy giải quyết các vấn đề
còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ, ranh giới biển và thềm lục địa với các nước liên quan trên cơ
sở luật pháp quốc tế và quy tắc ứng xử của khu vực. Xây dựng đường biên giới hịa bình, hữu
nghị, hợp tác cùng phát triển”. Đây là một hướng ưu tiên hàng đầu trong hoạt động đối ngoại
nhằm tạo lập mơi trường hịa bình, ổn định chung quanh đất nước. Sự nghiệp đổi mới phát triển
kinh tế - xã hội, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam rất cần thiết phải có mơi trường hịa
bình, mà trước tiên là phải xây dựng được mối quan hệ hịa bình, hữu nghị và hợp tác với các

nước láng giềng có chung biên giới. Trên hướng này, Việt Nam chú trọng việc củng cố và phát
triển tình đồn kết hữu nghị đặc biệt, quan hệ hợp tác tồn diện với Cộng hịa Dân chủ nhân dân
Lào, quan hệ láng giềng hữu nghị với Campuchia và Trung Quốc, phát triển quan hệ hợp tác với
các nước ASEAN.
Là thành thành viên chính thức của ASEAN, Việt Nam nhấn mạnh chủ trương nâng cao hiệu quả
và chất lượng hợp tác với các nước thuộc Hiệp hội, cùng xây dựng Đơng Nam Á thành một khu
vực hịa bình, ổn định, hợp tác cùng phát triển. Việt Nam khẳng định rõ quan điểm cùng với các
nước ASEAN phấn đấu xây dựng ASEAN trở thành một cộng đồng hịa bình, thịnh vượng và
phát triển đồng đều với ba trụ cột (chính trị - an ninh, kinh tế, văn hóa - xã hội). Đại hội XI của
Đảng nhấn mạnh chủ trương cần chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng
Cộng đồng ASEAN vững mạnh.
Thấm nhuần tư tưởng đồn kết quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh và kiên định chủ nghĩa quốc
tế của giai cấp công nhân trên tinh thần đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam coi trọng việc củng
cố và tăng cường quan hệ đoàn kết, hợp tác với các đảng cộng sản và công nhân, với các đảng
cánh tả, các phong trào giải phóng và độc lập dân tộc, với các phong trào cách mạng và tiến bộ
trên thế giới. Mặt khác, trong tình hình mới, Đảng chủ trương phát triển quan hệ với các đảng
khác trên cơ sở bảo lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hịa bình, hữu nghị, hợp tác và
phát triển.
Với tư cách là một đảng cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương mở rộng quan hệ với
các đảng cầm quyền trên thế giới. Thơng qua đây góp phần tăng cường quan hệ hữu nghị, phát
triển hợp tác giữa Việt Nam với các nước, đồng thời có thể tham khảo những kinh nghiệm hữu
ích của các đảng cầm quyền trên thế giới, đóng góp vào việc nâng cao hơn nữa năng lực lãnh
đạo và cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam.
12


Đảng và Nhà nước Việt Nam khẳng định nhất quán quan điểm thúc đẩy việc mở rộng tham gia
các cơ chế, diễn đàn đa phương ở khu vực và thế giới, phát triển quan hệ với các tổ chức quốc
tế, nhất là Liên hiệp quốc, tham gia giải quyết các vấn đề tồn cầu, góp phần xây dựng trật tự
chính trị, kinh tế quốc tế dân chủ, công bằng. Đối với các nước lớn, Việt Nam dành ưu tiên cao

trong chính sách đối ngoại hiện nay, đồng thời nêu rõ cần thúc đẩy quan hệ đa dạng, bao gồm cả
quan hệ chính phủ và phi chính phủ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học, cơng
nghệ,... tạo mơi trường hịa bình, ổn định lâu dài. Trong quan hệ với các nước lớn và trung tâm
lớn trên thế giới, Việt Nam kiên trì nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, khơng can thiệp vào cơng
việc nội bộ của nhau, tạo thế đan xen lợi ích, tránh rơi vào thế đối đầu, cô lập, lệ thuộc.
Việt Nam luôn coi trọng và nâng cao hiệu quả của công tác ngoại giao nhân dân theo phương
châm “chủ động, linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả”, tăng cường quan hệ song phương và đa
phương với các tổ chức nhân dân các nước, hợp tác với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài để
phát triển kinh tế - xã hội.
Một trong những hướng hoạt động đối ngoại được Việt Nam hết sức chú trọng hiện nay là nâng
cao hiệu quả hội nhập quốc tế, góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và phát triển
nhanh, bền vững, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút mạnh các nguồn vốn quốc tế; thu hút các nhà
đầu tư lớn, có công nghệ cao, công nghệ nguồn; mở rộng thị trường xuất khẩu,
Đảng và Nhà nước Việt Nam nhấn mạnh việc phát huy vai trò và nguồn lực của cộng đồng
người Việt Nam ở nước ngoài vào phát triển đất nước.
Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, tham mưu về đối ngoại, chăm lo đào tạo,
rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại, thường xuyên bồi dưỡng kiến thức đối ngoại
cho cán bộ chủ chốt các cấp.
Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt
động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại
giao nhân dân; giữa ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa; giữa đối
ngoại với quốc phịng, an ninh.
Triển khai thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại đổi mới, Việt Nam giành được nhiều thành
tựu quan trọng, giữ vững mơi trường hịa bình. và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam ngày càng chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực, góp phần thúc đẩy xu thế hịa bình, hợp tác phát
triển ở khu vực và trên thế giới.

13



Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 177 nước, trong đó bao gồm tất cả các nước lớn, có
quan hệ thương mại với hơn 220 nước và vùng lãnh thổ, là thành viên chính thức của tất cả các
tổ chức quốc tế lớn, các tổ chức và định chế thương mại, tài chính chủ chốt ở khu vực cũng như
trên thế giới: gia nhập ASEAN (1995), tham gia AFTA (1996), là thành viên sáng lập ASEM
(1996), gia nhập APEC (1998) và trở thành thành viên thứ 150 của WTO (2006)... Hoạt động
đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm thúc đẩy. Đến
năm 2012, Việt Nam đã thu hút được gần 10 nghìn dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với
tổng số vốn đăng ký vượt trên 180 tỷ USD. Bên cạnh các thị trường chủ lực là Nhật Bản,
ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, EU, Hoa Kỳ, Ơxtrâylia, hiện nay hàng hóa Việt Nam đã vìm
ra cũng có thể đứng trên nhiều hiện nay hàng hóa Việt Nam đã vươn ra cũng có thể đứng trên
nhiều thị trường khác như Nga, Trung Đông, Mỹ Latinh và châu Phi...
Hoạt động ngoại giao đa phương của Việt Nam có bước trưởng thành và phát triển nổi bật. Tại
các diễn đàn quốc tế và khu vực, Việt Nam đã phối hợp với nhiều nước đấu tranh bảo vệ hịa
bình, bảo vệ các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên hiệp quốc. Đặc
biệt, Việt Nam được bầu làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc nhiệm
kỳ 2008-2009, đánh dấu quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam đã trở nên đầy đủ và sâu rộng.
Với vị thế quốc tế ngày càng được nâng cao, Việt Nam có điều kiện thuận lợi tham gia giải
quyết những vấn đề kinh tế, chính trị - xã hội, an ninh quốc tế có liên quan trực tiếp hoặc gián
tiếp, đồng thời đóng góp tích cực hơn và nhiều hơn trong nỗ lực duy trì hịa bình, ổn định và
phát triển trên thế giới.
Cùng với những hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước, hoạt động đối ngoại của các tổ
chức, đoàn thể nhân dân, các địa phương, đối ngoại quốc phòng và an ninh cũng diễn ra sơi
động với nhiều hình thức phong phú, đa dạng. Các tổ chức hữu nghị và các hội nghề nghiên đã
tranh thủ được sự hợp tác ngày càng sâu rộng của các đối tác nước ngoài. Quan hệ đoàn kết giữa
nhân dân Việt Nam và nhân dân các nước trên thế giới được tăng cường mạnh mẽ.
3. Chủ trương và các chính sách cụ thể
- Một là: Coi trọng và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa và các
nước láng giềng.
- Hai là: Tiếp tục mở rộng quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, các nước độc lập dân tộc
đang phát triển.

- Ba là: Thúc đẩy quan hệ đa dạng với các nước phát triển và các tổ chức quốc tế - đẩy mạnh
hoạt động ở các diễn đàn đa phương.
14


- Bốn là: Tích cực tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu.
- Năm là: Củng cố và tăng cường quan hệ đoàn kết và hợp tác với các đảng cộng sản và công
nhân, với các đảng cánh tả, các phong trào giải phóng và độc lập dân tộc, với các phong trào
cách mạng và tiến bộ trên thế giới.
- Sáu là: Tiếp tục mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền.
- Bảy là: Mở rộng hơn nữa công tác đối ngoại của nhân dân.
Như vậy, những thành tựu to lớn mà nước ta đạt được trong quá trình hội nhập quốc tế, trước hết
trên lĩnh vực kinh tế, là kết quả của một quá trình thực hiện nhất quán đường lối, chính sách đối
ngoại rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá với chủ trương chủ động và tích cực hội nhập ngày
càng sâu rộng với khu vực và thế giới. Những thành tựu đó đã tạo thêm niềm tin để đất nước ta
ngày càng vững bước trên đường hội nhập quốc tế, tận dụng tốt nhất những cơ hội mới đang mở
ra. Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hoá tạo điều kiện thuận lợi
cho nước ta tham gia nhanh và hiệu quả vào hệ thống phân công lại hoạt động quốc tế, tận dụng
mọi nguồn lực phục vụ mục tiêu phát triển.
II. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH VÀ MỘT SỐ THÀNH TỰU NHẤT ĐỊNH VỀ
ĐỐI NGOẠI
1. Kết quả trong việc thực hiện chính sách đối ngoại
Triển khai đồng bộ đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển; chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế, là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm trong cộng
đồng quốc tế, từng bước xử lý tốt mối quan hệ Việt Nam với các đối tác chính, thể hiện trên một
số vấn đề sau:
Thứ nhất, giải quyết tốt mối quan hệ với các nước láng giềng Củng cố và tăng cường quan hệ
với các nước láng giềng, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Quan hệ
đoàn kết hữu nghị đặc biệt giữa Việt Nam và Lào tiếp tục được củng cố và có bước phát triển,
ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu. Quan hệ Việt Nam - Campuchia được củng cố và tăng

cường về nhiều mặt. Quan hệ với Trung Quốc có những bước tiến triển, nhất là trong lĩnh vực
kinh tế, thương mại. Đã phân giới cắm mốc xong trên thực địa toàn tuyến biên giới; phê chuẩn
Hiệp định phân định và Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ. “Quan hệ “đối tác chiến lược
15


toàn diện” tiếp tục phát triển với nhiều hoạt động; hợp tác kinh tế, buôn bán phát triển mạnh,
kim ngạch thương mại Việt Nam trên 25 tỷ USD”.
Quan hệ chiến lược của Việt Nam với Trung Quốc tiếp tục đi vào ổn định, phát triển. Hai bên đã
ký sáu văn kiện quan trọng trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là Thỏa thuận các nguyên tắc cơ bản chỉ
đạo giải quyết các vấn đề trên biển, tạo cơ sở cho đàm phán, tìm các giải pháp cơ bản, lâu dài
cho các vấn đề trên biển Đơng.
Thứ hai, triển khai có hiệu quả những quan hệ cơ bản khác:
- Một là, tham gia tích cực và có trách nhiệm vào việc liên kết khu vực ở Đông Á. Việt Nam đã
từng bước bắt nhịp và chủ động tham gia các tiến trình Đơng Á, nhất là tiến trình hướng Đơng Á
trở thành một cộng đồng mở, có quan hệ hài hịa với tất cả các nước Đông Á.
- Hai là, tham gia tích cực và đóng góp hiệu quả cho việc hình thành Cộng đồng ASEAN với tư
cách là thành viên có trình độ phát triển cao hơn với các thành viên mới khác của ASEAN. Việt
Nam đã tạo dựng được hình thành Cộng đồng ASEAN với tư cách là thành viên có trình độ phát
triển cao hơn với các thành viên mới khác của ASEAN. Việt Nam đã tạo dựng được hình ảnh
hội nhập tích cực trong nhận thức của các thành viên ASEAN cũng như của Cộng đồng quốc tế.
Với cương vị Chủ tịch, Việt Nam đã tổ chức thành công tất cả các hội nghị diễn ra trong năm
2010, làm Chủ tịch ASEAN, thực hiện chương trình tổng quát, tổ chức các hội nghị cấp cao,
Việt Nam thành công về mặt tổ chức, nhưng quan trọng hơn là thành công trong việc đưa ra các
ý tưởng, đối với các vấn đề có tầm chiến lược phức tạp và nhạy cảm, được tất cả các bên đồng
tình. Báo chí Việt Nam và thế giới đã đưa tin về các nhà lãnh đạo và dư luận các nước trong và
ngoài ASEAN đánh giá cao vai trò của Việt Nam trong các hoạt động, các hội nghị lớn diễn ra
trong năm ASEAN 2010.
Bên cạnh điều hành ASEAN, ngoại giao đa phương còn được triển khai ở các cấp độ khu vực,
liên khu vực và toàn cầu như tại Liên hợp quốc, ASEM, APEC.

- Ba là, thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện với Hoa Kỳ. Từ sự điều chỉnh chiến lược toàn cầu và
khu vực của Hoa Kỳ, đặc biệt là chính sách “trở lại châu Á” cũng như chú trọng nhiều hơn đến
hợp tác Tiểu vùng sông Mê Kông gần đây, đồng thời do vị thế của Việt Nam đang được khẳng
định, quan hệ Việt - Mỹ không ngừng tiến triển theo hướng tích cực, quan hệ kinh tế phát triển
nhanh; quan hệ an ninh, quân sự từng bước được thiết lập; hợp tác về khoa học kỹ thuật, giáo
dục y tế, lao động,... được mở rộng, “quan hệ hợp tác thương mại cũng phát triển (kim ngạch lên
16 tỷ USD), giáo dục (sinh viên Việt Nam học ở Hoa Kỳ lên tới 16.000 người)” .
Trong khi hợp tác ngày càng tiến triển, cần đề cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh chống lại các
hoạt động của các thế lực thù địch núp dưới chiêu bài “dân chủ, nhân quyền” để can thiệp vào
công việc nội bộ của Việt Nam.
16


- Bốn là, đưa quan hệ đối tác chiến lược Việt - Nga đi vào hoạt động thực chất, hiệu quả, cùng
có lợi. Nâng cao độ tin cậy của mối quan hệ chính trị vốn có truyền thống tốt đẹp với Đảng
Cộng sản Liên bang Nga. Củng cố chặt chẽ hợp tác quốc phòng - an ninh với Nga, đưa Nga trở
thành đối tác kinh tế - thương mại quan trọng của Việt Nam. Năm 2010, Việt Nam đã tăng
cường tất cả đối tác, quan hệ song phương, trong đó có Liên bang Nga, phát huy quan hệ đối tác
chiến lược, tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực ưu tiên như: dầu khí, điện hạt nhân, kỹ thuật,
quân sự, quốc phòng.
Năm 2015: Hai bên nỗ lực phấn đấu nâng kim ngạch thương mại hai chiều lên 7 tỷ USD vào
năm 2015 và 10 tỷ USD vào năm 2020. Hai bên đã kết thúc Hiệp định thương mại tự do (FTA)
giữa Việt Nam và Liên minh hải quan Nga - Bêlarút - Cadắcxtan và sớm ký trong năm 2015, tạo
thuận lợi mở rộng thị trường cho hàng hóa, nơng sản Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Nga.
- Năm là, thúc đẩy đối tác chiến lược sâu rộng với Nhật Bản bằng những hành động cụ thể, chú
trọng vai trò đặc biệt của Nhật Bản trong đầu tư và chuyển giao công nghệ cho Việt Nam. Đã
tiếp nhận hiệu quả vốn đầu tư và chuyển giao công nghệ từ Nhật Bản, khai thác nguồn vốn ODA
và đầu tư của Nhật Bản cho phát triển hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực và hợp tác phát triển Tiểu
vùng sông Mê Kông. Ngoài ra “đã mở rộng thêm nội dung hợp tác như xây dựng nhà máy điện
hạt nhân, khai thác đất hiếm, Nhật Bản nhận tăng viện trợ phát triển lên đến 1,7 tỷ USD

- Sáu là, tăng cường hợp tác thúc đẩy quan hệ Việt Nam - EU. “EU là đối tác thương mại lớn thứ
ba và là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam, kim ngạch năm 2014 ước đạt 35 tỷ USD.
Ủy ban châu Âu cam kết tăng viện trợ cho Việt Nam lên 400 triệu euro giai đoạn 2014 - 2020”
Thứ ba, sau Đại hội XI của Đảng, công tác đối ngoại được triển khai mạnh mẽ tới các bộ, ban
ngành và địa phương Các bộ, ngành tham mưu giúp Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số
01/CT-TTg ngày 9/1/2012 về một số biện pháp triển khai chủ trương chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế. Thủ tướng Chính phủ đã giao cho các bộ, ngành địa phương một số nhiệm vụ cấp
bách cần thực hiện ngay, với lộ trình và thời hạn hoàn thành cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả các
mảng công việc của hội nhập quốc tế và phục vụ việc xây dựng các định hướng chiến lược của
Đảng về hội nhập quốc tế.
2. Thành tựu về đối ngoại
Công tác quán triệt đường lối đối ngoại và chủ động hội nhập quốc tế được chủ động triển khai
mạnh mẽ, rộng khắp trên cả nước. Tổng cộng đã tổ chức được 23 lớp quán triệt giới thiệu về
đường lối đối ngoại của Đại hội Đảng lần thứ XI đến hơn 2.000 cán bộ chủ chốt của các bộ,
17


ngành, cơ quan Trung ương, cơ quan thông tấn, báo chí, tổng cơng ty và tập đồn kinh tế nhà
nước. Các lớp bồi dưỡng, hội nghị báo cáo viên về đối ngoại, hội nhập quốc tế đã được triển
khai tại nhiều địa phương. Các lớp quán triệt đã giới thiệu về cơ sở lý luận, thực tiễn và các nội
hàm mới trong đường lối đối ngoại của Đại hội Đảng lần thứ XI, nhất là chủ trương “chủ động,
tích cực hội nhập quốc tế”.
Các đợt quán triệt, chỉ đạo thực hiện đường lối đối ngoại nói trên đã thu được kết quả quan
trọng. Những nội dung mới của đường lối đối ngoại và hội nhập quốc tế đã được quán triệt đầy
đủ đến mọi cơ quan thuộc hệ thống chính trị, nhất là đến với cán bộ phụ trách và trực tiếp làm
công tác đối ngoại. Sự đổi mới phương pháp theo hướng khuyến khích tinh thần chủ động của
các học viên nghiên cứu, học tập nghị quyết đã nâng cao hiệu quả các đợt quán triệt.
Ngoại giao Việt Nam trong năm 2011 đã triển khai một cách tích cực, chủ động và tồn diện,
tranh thủ thời cơ, hóa giải thách thức, đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần bước đầu
thực hiện thắng lợi đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Công tác đối ngoại năm 2011 đã

phục vụ tốt các sự kiện chính trị trọng đại của đất nước, đặc biệt Đại hội Đảng lần thứ XI, bầu
cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2015, góp phần
làm cho bạn bè quốc tế hiểu rõ hơn về những sự kiện quan trọng này, đặc biệt là những bổ sung
và phát triển mới trong đường lối đối ngoại của Đại hội Đảng lần thứ XI. Tăng cường tuyên
truyền các thành tựu phát triển của Việt Nam, chú trọng định hướng dư luận trong các vấn đề
nhạy cảm của đất nước cũng như vấn đề quốc tế nổi bật; kiên quyết đấu tranh với các luận điệu
tuyên truyền phản động.
Đẩy mạnh triển khai Chiến lược ngoại giao văn hóa đến năm 2020, nhiều hoạt động ngoại giao
văn hóa quan trọng đã được tổ chức thành cơng, như Văn hóa Việt Nam tại Pháp và các hoạt
động kỷ niệm 121 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, kỉ niệm 100 năm ngày Bác Hồ ra đi
tìm đường cứu nước, Tuần văn hóa Việt Nam tại Nhật Bản, vận động thành công UNESCO công
nhận các danh hiệu di sản đối với thành nhà Hồ ở Thanh Hóa, khu dự trữ sinh quyển ở Đồng
Nai, hát xoan ở Phú Thọ.
Năm 2013, là năm triển khai mạnh mẽ quan hệ hợp tác với các nước, đặc biệt là các đối tác quan
trọng đi vào chiều sâu, ổn định, hiệu quả; là năm có các chuyến thăm cấp cao nhất giữa Việt
Nam với tất cả các đối tác quan trọng: tháng 7/2013, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang thăm
chính thức Hoa Kỳ; tháng 3/2013 chuyến thăm chính thức Đức của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn
Sinh Hùng, và chuyến thăm chính thức Pháp của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng vào
tháng 9/2013. Năm 2013, chứng kiến nhiều hoạt động sôi nổi của ngoại giao đa phương trên các
diễn đàn khu vực và quốc tế: Chủ tịch nước Trương Tấn Sang dự Hội nghị cấp cao APEC lần
18


thứ 21 và Hội nghị cấp cao đối tác xuyên Thái Bình Dương tại Bali (6 - 8/10/2013); Thủ tướng
Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng dự và có bài phát biểu quan trọng tại Đối thoại Shangri-La ở
Singapo (5/2013); Hội nghị Diễn đàn kinh tế thế giới Đông Á tại Mianma (6/2013), Phiên thảo
luận cấp cao tại Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 68 (9/2013), Hội nghị cấp cao ASEAN lần
thứ 23, Hội nghị cấp cao Đông Á (9 - 10/10/2013) và Hội nghị cấp cao ASEAN - Nhật Bản tại
Tokyo.
Công tác biên giới, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ thường xuyên được quan tâm và chỉ đạo sát sao.

Tình hình biên giới trên bộ với Trung Quốc, Lào và Campuchia cơ bản ổn định. Việt Nam và
Lào đã hoàn thành việc cắm 792 vị trí mốc, tương ứng với 834 cột mốc trên toàn tuyến biên giới
2.067 km (7/2013). Trong vấn đề biển Đơng, chúng ta kiên trì lập trường, nguyên tắc, kiên quyết
đấu tranh với các hành động vi phạm chủ quyền và các quyền hợp pháp của ta trên biển, tranh
thủ được mối quan tâm thường xuyên và sự ủng hộ của dư luận quốc tế và khu vực, bảo đảm các
hoạt động kinh tế trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa 200 hải lý được triển khai bình
thường. Đồng thời tiếp tục chủ trương giải quyết hịa bình thơng qua đàm phán trên cơ sở luật
pháp quốc tế, Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982; cùng các nước nêu cao việc thực
hiện Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), cùng ASEAN thúc đẩy việc xây
dựng Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC).
Năm 2014, đường lối đối ngoại, ngoại giao Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ mà
Đảng và nhân dân giao phó, thể hiện tư thế mới trong thời kỳ hội nhập quốc tế, đóng góp tích
cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. “Điểm mới trong hoạt động
đối ngoại năm 2014 là nỗ lực nâng tầm đối ngoại đa phương; chuyển từ “tham gia” sang “chủ
động, tích cực đóng góp, đề xuất sáng kiến”, góp phần định hình luật chơi chung trong các diễn
đàn quốc tế và khu vực”.
Bằng trí tuệ và bản lĩnh, ngoại giao Việt Nam đã kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại, phục vụ đắc lực cho lợi ích quốc gia, dân tộc. Dân tộc ta vững tin bước vào năm 2015
với quyết tâm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của Đại hội Đảng lần thứ XI (1/2011), củng cố
cơ sở cho việc hoạch định đường lối, chính sách đối ngoại và việc thực hiện những nhiệm vụ
của Đại hội Đảng lần thứ XII trong giai đoạn hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hơn.
Tháng 2-2021 vừa qua, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã thành công rực rỡ,
thông qua Nghị quyết Đại hội và các văn kiện quan trọng, tổng kết các thành tựu và bài học của
nhiệm kỳ qua cũng như 35 năm đổi mới, đề ra tầm nhìn, mục tiêu tổng quát và các mục tiêu cụ
thể về đối ngoại của đất nước từ nay đến năm 2045.
Tuy nhiên, công tác đối ngoại trong những năm tới sẽ diễn ra trong bối cảnh chiến lược mới.
Văn kiện chỉ ra: Thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức
tạp, khó dự báo, cả thách thức và cơ hội đều đan xen, trong đó thách thức lớn hơn. Những
19



chuyển biến của cục diện thế giới và khu vực tác động nhiều mặt tới Việt Nam do chúng ta ngày
càng hội nhập sâu rộng với thế giới và khu vực. Nhiệm vụ đối ngoại do đó cũng càng trở nên
quan trọng và nặng nề, vừa nhằm thích ứng và ứng phó với bối cảnh thế giới và khu vực biến
động mạnh, vừa phục vụ những mục tiêu phát triển chiến lược của đất nước giai đoạn tới.
Trong bối cảnh đó, Đại hội đã khẳng định rõ Việt Nam cần tiếp tục kiên trì đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ vì hịa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa và hội
nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng. Đây là nội dung hết sức quan trọng, xuyên suốt trong đường
lối đối ngoại của Đảng thời kỳ đổi mới. Độc lập, tự chủ vừa là mục tiêu, vừa là nền tảng của đối
ngoại Việt Nam. Chỉ có độc lập, tự chủ, chúng ta mới có thể hội nhập quốc tế thành cơng, phát
huy đầy đủ thế mạnh, phục vụ lợi ích quốc gia - dân tộc, xử lý được các mối quan hệ quốc tế
phức tạp trong mơi trường đầy bất định, khó lường với nhiều cơ hội và thách thức đan xen như
hiện nay.

(Đồng chí Bùi Thanh Sơn, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao phát biểu tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII)

CHƯƠNG III: NHẬN XÉT VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1. Nhận xét
1.1 Ưu điểm

20


Trong giai đoạn hiện nay, việc thực hiện đường lối mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế,
nước ta đã đạt được những kết quả:
Một là, giải quyết hịa bình các vấn đề biên giới, lãnh thổ, biển đảo với các nước liên quan.
Sau khi phá thế bao vây cấm vận, quan hệ của Việt Nam với tất cả các nước và tổ chức quốc tế
được thúc đẩy, mở rộng và từng bước đi vào chiều sâu, vừa tạo điều kiện bảo vệ vững chắc an
ninh Tổ quốc, vừa tranh thủ và thúc đẩy hợp tác, nhất là trong lĩnh vực kinh tế - thương mại với

các đối tác. Bên cạnh đó, Việt Nam cịn giải quyết hịa bình các vấn đề biên giới, lãnh thổ, biển
đảo với các nước liên quan như: công tác biên giới với Trung Quốc, Lào, Campuchia đều có tiến
triển. Với Trung Quốc, thúc đẩy mối quan hệ hữu nghị, hợp tác toàn diện theo khuôn khổ 16 chữ
“Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và thực hiện theo
phương châm 4 tốt “Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”. Lần đầu tiên trong lịch
sử, hai nước đã ký Hiệp ước biên giới trên đất liền và tiến hành phân giới cắm mốc. Việt Nam và
Trung Quốc đã ký kết và thực hiện Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề
cá trong Vịnh Bắc Bộ. Các bên cùng ASEAN đã ký và cam kết thực hiện Bộ quy tác ứng xử
Biển Đông. Đến tháng 12/2008, về cơ bản ta đã thực hiện xong việc cắm mốc biên giới trên bộ
với Trung Quốc.
Quan hệ với Lào và campuchia: Việt Nam đã thúc đẩy quan hệ đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn
diện với Lào. Quan hệ với Campuchia được điều chỉnh theo phương châm “Hợp tác láng giềng
tốt đẹp, đoàn kết hữu nghị truyền thống, ổn định, lâu dài.
Đối với các thế lực lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo để can thiệp vào công
việc nội bộ của đất nước, chúng ta đã sử dụng nhiều biện pháp, kiên quyết đấu tranh bảo vệ
Đảng, bảo vệ sự nghiệp chính nghĩa. Chủ động tổ chức các cuộc đối thoại với các nước, các tổ
chức quốc tế về các vấn đề này, tăng cường công tác thông tin cho cộng đồng quốc tế về thực tế
q trình xây dựng và triển khai chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong các lĩnh
vực này. Công tác đối ngoại đã phối hợp chặt chẽ với công tác bảo vệ pháp luật trong việc đẩy
lùi và vơ hiệu hóa các âm mưu và hành động chống phá Đảng và Nhà nước trong các vấn đề dân
chủ, nhân quyền, tôn giáo.
Hai là, mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa .
Đây là thành tựu đối ngoại có tính chất bao trùm, trong những năm đổi mới, từ chỗ bị cơ lập về
chính trị, bao vây cấm vận về kinh tế, Việt Nam đã nỗ lực chủ động mở rộng hơn bao giờ hết
quan hệ đối ngoại theo hướng đa dạng hóa, đa phương hóa, tạo nên thế và lực mới cho đất nước.

21


Quan hệ thương mại của Việt Nam đã mở rộng tới tất cả các châu lục và hầu hết các nước trên

thế giới. Những nước trước đây là thù địch nay đã có quan hệ bình thường và đều coi Việt Nam
là đối tác tin cậy, là thị trường giàu tiềm năng và ổn định. Ngược lại, hiện nay hàng hóa Việt
Nam đã thâm nhập ngày càng sâu vào các quốc gia trên thế giới. Trong đó, Mỹ là thị trường xuất
khẩu lớn nhất của Việt Nam.
Việt Nam cũng đã phát triển quan hệ kinh tế với các định chế quốc tế, các tổ chức quốc tế, các
công ty đa quốc gia:
+ Năm 1995, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của AFTA.
+ Năm 1996, Việt Nam tham gia ASEM.
+ Năm 1998, Việt Nam tham gia APEC.
+ Từ năm 2002, Việt Nam tham gia tích cực vào việc hình thành các khu vực mậu dịch tự do
giữa ASEAN với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ.
+ Năm 2006, Việt Nam trở thành thành viên chính thức thứ 150 của WTO.
+ Tháng 10/2007, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã bầu Việt Nam làm ủy viên không thường trực
Hội đồng Bảo an nhiệm kỳ 2008 - 2009. + Năm 2010, Việt Nam đã đảm nhiệm thành công
cương vị Chủ tịch ASEAN; tích cực tham gia và có những đóng góp cho nhiều hoạt động đa
phương khu vực và trên thế giới, như tham gia giải quyết các vấn đề tồn cầu về an ninh hạt
nhân, phịng chống tội phạm, biến đổi khí hậu.
Ba là, tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế.
Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 187 trong 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc.
Việt Nam ta đã thiết lập thêm quan hệ đối tác chiến lược với 8 nước (Đức, Italy, Inđônêsia, Thái
Lan, Singapore, Pháp, Malaysia và Philippines), trong tổng số 15 nước đối tác chiến lược đã
được xây dựng trong 15 năm qua (Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Tây Ban
Nha, Anh, Đức, Italy, Inđônêxia, Thái Lan, Singapore, Pháp, Malaysia và Philippines), nâng cấp
lên đối tác chiến lược toàn diện hoặc sâu rộng với hai nước (Nga và Nhật Bản), lập quan hệ đối
tác toàn diện với ba nước (Ukraine, Hoa Kỳ và Đan Mạch) trong tổng số 10 nước đối tác toàn
diện (Hoa Kỳ, Đan Mạch, Australia, New Zealand, Brazil, Chile, Venezuela, Argentina, Ukraine,
Nam Phi), …..
Bốn là, mở rộng thị trường, tiếp thu khoa học công nghệ và kỹ năng quản lý.
Về mở rộng thị trường: Trong giai đoạn 5 năm (2011- 2015), tổng mức lưu chuyển ngoại thương
hàng hóa, dịch vụ đạt 1.439,5 tỷ USD, gấp gần 2,1 lần so với giai đoạn 2006 - 2010; tổng FDI


22


đạt hơn 59,5 tỷ USD, tăng 33,4% so với giai đoạn 2006 - 2010; Việt Nam đã ký thêm được gần
27 tỷ USD vốn ODA và vốn vay ưu đãi.
Rõ ràng, hội nhập quốc tế đã tạo cơ hội để nước ta tiếp cận những thành tựu của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ trên thế giới, nhiều công nghệ hiện đại, dây chuyền sản xuất tiên tiến
được sử dụng đã tạo nên bước phát triển mới trong các ngành sản xuất. Đồng thời, thông qua các
dự án liên doanh hợp tác với nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam đã tiếp nhận được nhiều
kinh nghiệm quản lý sản xuất hiện đại.
Năm là, từng bước đưa các hoạt động của các doanh nghiệp và cả nền kinh tế vào mơi trường
cạnh tranh.
Trong q trình hội nhập, nhiều doanh nghiệp đã đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý, nâng cao
năng suất và chất lượng, không ngừng vươn lên trong cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Tư duy
làm ăn mới, lấy hiệu quả sản xuất kinh doanh làm thước đo và đội ngũ các nhà doanh nghiệp
mới năng động sáng tạo có kiến thức quản lý đang hình thành.
Sáu là, phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, là ưu tiên hàng đầu trong hoạt động đối ngoại
thời kỳ đổi mới.
Thơng qua các kênh chính trị, cơng tác ngoại giao đã tích cực và chủ động vân động các nước
ủng hộ Việt Nam sớm gia nhập WTO, đẩy mạnh hợp tác, thu hẹp khoảng cách phát triển trong
ASEAN; hợp tác phát triển vùng sông Mêkông - Sông Hằng; hành lang Đơng - Tây. Nhìn lại
tổng qt ngoại giao trong những năm đổi mới Việt Nam đã kết hợp tốt giữa chính trị đối ngoại,
góp phần tạo thêm nguồn lực từ bên ngoài, mở rộng thị trường, gia tăng đối tác nhằm phục vụ
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Bảy là, công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài được thúc đẩy mạnh mẽ và thu được
những kết quả tích cực, quan trọng
Công tác thông tin tuyên truyền đối ngoại cũng được các ngành hữu quan phối hợp tăng cường,
mở rộng và đổi mới theo hướng chủ động, sáng tạo nhằm góp phần định hướng dư luận, phản
ánh đúng tình hình đất nước, giúp đấu tranh có hiệu quả hơn trong việc chống lại các luận điệu

vu cáo trên các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo. Nhiều hoạt động đối ngoại phong phú đã
tuyên truyền, giới thiệu đất nước, con người và văn hóa Việt Nam, xúc tiến thương mại, đầu tư,
lao động, quảng bá du lịch cũng được đẩy mạnh. Tất cả các hoạt động trên đã phác họa đúng
hình ảnh của một nước Việt Nam ổn định, phát triển và luôn cởi mở thu hút sự quan tâm của dư
luận thế giới trong một bối cảnh quốc tế phức tạp đầy biến động.
23


Tóm lại, đạt được những thành tựu nói trên trước hết bắt nguồn từ sự đúng đắn trong việc đề
xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới của Đảng, sự hịa nhập vào trào lưu chính của thời đại.
Điều đó, cũng phản ánh ý Đảng hợp với lòng dân. Tư duy đối ngoại được đổi mới kịp thời, nhận
thức của Đảng về tình hình thế giới, về thời cuộc, về đối tượng, đối tác, về thời cơ và thách thức
của đất nước có bước chuyển biến lớn, tồn diện và sâu sắc hơn.
1.2 Hạn chế
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, vẫn còn một số tồn tại, hạn chế sau:
Một là, một số chủ trương, cơ chế, chính sách chậm được đổi mới so với yêu cầu mở rộng quan
hệ đối ngoại; hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh, khơng đồng bộ, gây khó khăn trong việc thực
hiện các cam kết của tổ chức quốc tế; chưa hình thành được một kế hoạch tổng hợp và dài hạn
về hội nhập quốc tế và một lộ trình hợp lý cho việc thực hiện các cam kết.
Hai là, trong quan hệ với các nước, nhất là các nước lớn còn lúng túng và bị động, chưa nắm bắt
kịp thời những chuyển động trong chính sách của các nước lớn, của các quan hệ quốc tế; chưa
xây dựng được quan hệ lợi ích đan xen, tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước; vấn đề Campuchia,
quan hệ với Trung Quốc và các nước ASEAN. Trong đó q trình giải quyết vấn đề Campuchia
có ý nghĩa quan trọng trong việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, các nước ASEAN và
phá thế bao vây, cô lập của các thế lực thù địch. Mối quan hệ giữa kinh tế, an ninh, chính trị, đối
ngoại trong một số trường hợp cụ thể chưa gắn kết mật thiết với nhau. Sau thời kỳ mở rộng quan
hệ đối ngoại, chưa có nhiều bước đột phá mới nhằm khai thác tốt nhất quan hệ lợi ích đan xen
tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước, nhất là với một số nước lớn có liên quan đến lợi ích chiến
lược của nước ta.
Ba là, tuy đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội nhưng Việt Nam vẫn là một nước nghèo, lạc

hậu so với khu vực và thế giới Sự phát triển nhanh chóng của xu thế tồn cầu hóa càng làm cho
những thách thức về phát triển đối với nước ta trở nên gay gắt hơn, nguy cơ tụt hậu xa hơn so
với các nước trong khu vực. Do trình độ phát triển cịn thấp, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế
còn yếu, nên những hạn chế trong việc phát huy vai trò của Việt Nam trong các tổ chức, hợp tác
đa phương là tất yếu và chính vì vậy nên ta bị nhiều thiệt thịi về quyền lợi.
Bốn là, công tác nghiên cứu dự báo chiến lược về tình hình thế giới chưa được đầu tư thích đáng
Cơng tác nghiên cứu, dự báo chiến lược về đối ngoại có mặt cịn hạn chế. Sự phối hợp giữa đối
ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân, giữa các lĩnh vực chính trị, kinh
24


×