Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Vấn đề miễn trừ tư pháp của quốc gia trong TPQT căn cứ pháp lý quốc tế, căn cứ pháp lý quốc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.88 KB, 24 trang )

1
1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC
KHOA PHÁP LUẬT QUỐC TẾ
MÔN HỌC TƯ PHÁP QUỐC TẾ
.………***………..

BÀI TẬP HỌC KỲ
ĐỀ: 9
ĐỀ BÀI:

Vấn đề miễn trừ tư pháp của
quốc gia trong TPQT: căn cứ
pháp lý quốc tế, căn cứ pháp lý
quốc gia.

1
1


2
2

MỞ BÀI
Tư pháp quốc tế là một lĩnh vực pháp luật có hệ
thống chủ thể riêng của mình bao gồm thể nhân,
pháp nhân và quốc gia. Trong đó, quốc gia được xác
định là chủ thể đặc biệt của Tư pháp quốc tế. Nhìn
chung, Tư pháp quốc tế phần lớn các quốc gia đều
thừa nhận tư cách chủ thể đặc biệt của quốc gia khi


tham gia vào mối quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngồi. Khi tham gia vào quan hệ Tư pháp quốc tế,
quốc gia được hưởng các quyền miễn trừ trong đó
quan trọng nhất là quyền miễn trừ tư pháp của quốc
gia.
Để tìm hiểu sâu hơn về vấn đề miễn trừ tư pháp của
quốc gia trong Tư pháp quốc tế, tơi lựa chọn bài tập
học kì đề số 9: “Vấn đề miễn trừ tư pháp của
quốc gia trong TPQT: căn cứ pháp lý quốc tế,
căn cứ pháp lý quốc gia”.

2
2


3
3

THÂN BÀI
I.
1.

Khái niệm
Tư pháp quốc tế

Tư pháp quốc tế là tổng thể các quy phạm pháp
luật điều chỉnh các quan hệ pháp luật dân sự, thương
mại, hơn nhân gia đình, lao động, và tố tụng dân sự có
yếu tố nước ngoài. Phương pháp điều chỉnh là tổng
hợp các biện pháp cách thức mà nhà nước sử dụng

để tác động lên các quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng)
có yếu tố nước ngoài làm cho các quan hệ này phát
triển theo hướng có lợi cho giai cấp thống trị trong xã
hội.
2.

Quốc gia

Quốc gia là một khái niệm địa lý và chính trị, trừu
tượng về tinh thần, tình cảm và pháp lý, để chỉ về
một lãnh

thổ có chủ

quyền,

một chính

quyền và

những con người của các dân tộc có trên lãnh thổ đó;
họ gắn bó với nhau bằng luật pháp, quyền lợi, văn
3
3


4
4

hóa, tơn giáo, ngơn ngữ, chữ viết qua q trình lịch

sử lập quốc và những con người chấp nhận nền văn
hóa cũng như lịch sử lập quốc đó cùng chịu sự chi phối
của chính quyền. Họ cùng nhau chia sẻ quá khứ cũng
như hiện tại và cùng nhau xây dựng một tương lai
chung trên vùng lãnh thổ có chủ quyền.
3.

Quốc gia trong tư pháp quốc tế

Trong tư pháp quốc tế, quốc gia là chủ thể đặc biệt
do tần suất xuất hiện của quốc gia trong các quan hệ
quốc tế là không nhiều. Quốc gia là chủ thể chỉ tham
gia vào một số quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh
của tư pháp quốc tế ví dụ như quan hệ thừa kế khi
một người chết có di sản thừa kế nhưng khơng có di
chúc cũng như khơng có người thừa kế theo pháp luật.
4.

Miễn trừ tư pháp

Miễn trừ tư pháp là nguyên tắc của luật quốc tế trên
cơ sở bình đẳng chủ quyền quốc gia. Khác với các thể
4
4


5
5

nhân và pháp nhân, quốc gia là một thực thể có chủ

quyền, do đó khi tham gia vào các quan hệ dân sự,
quốc gia được hưởng quyền miễn trừ tư pháp.
5.

Quyền miễn trừ tư pháp quốc gia

Miễn trừ tư pháp của quốc gia được hiểu là quốc gia
không bị mang ra xét xử tại tịa án; khơng bị áp dụng
các biện pháp bảo đảm sơ bộ: không bị áp dụng các
biện pháp cưỡng chế thi hành án; tài sản của quốc gia
là bất khả xâm phạm nếu như khơng có sự đồng ý của
quốc gia đó.
II.
1.

Nội dung chính
Quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia trong
tư pháp quốc tế: căn cứ pháp lý quốc tế

Quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia trong được ghi
nhận trong các điều ước quốc tế. Đặc biệt, các nội
dung này được quy định một cách cụ thể tại Công ước
của Liên hiệp quốc. Công ước Liên hợp quốc là một
bước tiến của pháp luật quốc tế, tạo ra một khung
pháp lý quốc tế mang tính thống nhất về quyền miễn
5
5


6

6

trừ quốc gia. Quyền miễn trừ quốc gia không chỉ dành
cho bản thân quốc gia và các cơ quan của chính phủ,
các bang của một nhà nước liên bang mà cịn mở rộng
tới các đơn vị hành chính của quốc gia và cơ quan
hoặc công ty của quốc gia là đối tượng được hưởng
quyền miễn trừ.
Tuy nhiên, quốc gia không mặc nhiên được hưởng
quyền miễn trừ tài phán trong mọi trường hợp. Cơng
ước có quy định cụ thể những trường hợp quốc gia
không thể viện dẫn quyền miễn trừ, bao gồm những
trường hợp như khi quốc gia từ bỏ quyền miễn trừ, khi
tham gia vào các giao dịch thương mại, khi vụ kiện
liên quan đến hợp đồng lao động, bồi thường thiệt hại
về người và tài sản do hành vi thiếu trách nhiệm của
quốc gia, hoặc vụ kiện liên quan đến việc xác định
quyền sở hữu, chiếm hữu và sử dụng tài sản, những
ngoại lệ liên quan đến việc xác định quyền sở hữu trí
tuệ và sở hữu cơng nghiệp, đến việc tham gia vào một
6
6


7
7

công ty của quốc gia, đến việc sở hữu và vận hành
một con tàu của quốc gia hay khi có một thỏa thuận
trọng tài loại trừ quyền miễn trừ đó.

Quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia trong Tư pháp
quốc tế thể hiện qua các nội dung:
Miễn trừ xét xử tại bất cứ Tòa án nào. Nội dung quyền
này thể hiện nếu khơng có sự đồng ý của quốc gia thì
khơng có một tịa án nước ngồi nào có thẩm quyền
thụ lý và giải quyết vụ kiện mà quốc gia là bị đơn
(trong lĩnh vực dân sự). Điều đó cũng có nghĩa là khi
tham gia vào quan hệ dân sự với một quốc gia, cá
nhân và pháp nhân nước ngoài khơng được phép đệ
đơn kiện quốc gia đó tại bất kỳ tịa án nào, kể cả tại
tịa án của chính quốc gia đó, trừ khi quốc gia đó cho
phép. Các tranh chấp phải được giải quyết bằng
thương lượng trực tiếp hoặc bằng con đường ngoại
giao giữa các quốc gia. Quốc gia đồng ý cho cá nhân,
pháp nhân nước ngoài kiện mình cũng có nghĩa là
7
7


8
8

đồng ý cho tòa án thụ lý xét xử vụ kiện mà quốc gia là
bị đơn
Miễn trừ đối với các biện pháp cưỡng chế nhằm đảm
bảo đơn kiện, nếu quốc gia đồng ý cho tổ chức, cá
nhân nước ngoài kiện mình, tức là đồng ý cho Tịa án
nước ngồi xét xử vụ kiện mà quốc gia là bị đơn. Nội
dung của quyền này thể hiện trong trường hợp nếu
một quốc gia đồng ý để tịa án nước ngồi thụ lý, giải

quyết một vụ tranh chấp mà quốc gia là một bên
tham gia thì tịa án nước ngồi đó được quyền xét xử
nhưng tịa án khơng được áp dụng bất cứ một biện
pháp cưỡng chế nào như bắt giữ, tịch thu tài sản của
quốc gia để phục vụ cho việc xét xử. Tòa án chỉ được
áp dụng các biện pháp này nếu được quốc gia cho
phép. Và như vậy, tài sản của quốc gia hưởng quyền
bất khả xâm phạm, không thể bị áp dụng trái với ý
nguyện của quốc gia sở hữu. Điều 18 Công ước của
Liên Hiệp Quốc về quyền miễn trừ tài phán và miễn
8
8


9
9

trừ tài sản của quốc gia quy định: “Khơng có biện
pháp cưỡng chế tiền tố tụng nào như tịch thu, chiếm
giữ tài sản trái pháp luật của quốc gia được áp dụng
trong một vụ kiện trước một tòa án nước ngoài…”.
Miễn trừ đối với các biện pháp cưỡng chế nhằm đảm
bảo thi hành quyết định của Tòa án trong trường hợp
quốc gia không đồng ý cho các tổ chức, cá nhân nước
ngồi kiện, đồng ý cho Tịa án xét xử. Trong trường
hợp quốc gia đồng ý cho một tòa án nước ngoài giải
quyết một tranh chấp mà quốc gia là một bên tham
gia và nếu quốc gia là bên thua kiện thì bản án của
tịa án nước ngồi đó cũng phải được quốc gia tự
nguyện thi hành. Nếu khơng có sự đồng ý của quốc

gia thì khơng thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế
như bắt giữ, tịch thu tài sản của quốc gia nhằm cưỡng
chế thi hành bản án đó. Ngay cả khi quốc gia từ bỏ
quyền miễn trừ xét xử thì quyền miễn trừ đối với các

9
9


10
10

biện pháp cưỡng chế bảo đảm thi hành phán quyết
của tịa án vẫn phải được tơn trọng.
Các nội dung nêu trên của quyền miễn trừ tư pháp
quốc gia có quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Quốc
gia có quyền từ bỏ từng nội dung hoặc tất cả các nội
dung của quyền miễn trừ tư pháp của mình bởi vì đây
là quyền của quốc gia chứ không phải nghĩa vụ của
quốc gia.
Quyền miễn trừ xét xử và miễn trừ tài sản (Miễn
trừ tài phán tại bất cứ Tòa án quốc gia nào). Nội dung
quyền này thể hiện nếu khơng có sự đồng ý của quốc
gia thì khơng có một tịa án nước ngồi nào có thẩm
quyền thụ lý và giải quyết vụ kiện mà quốc gia là bị
đơn (trong lĩnh vực dân sự).
Theo Điều 5 Công ước Liên hợp quốc năm 2004 quy
định: “Quốc gia được hưởng quyền miễn trừ tài phán
trước một tịa án nước ngồi theo những quy định của
Cơng ước”. Các quốc gia có nghĩa vụ đảm bảo quyền

10
10


11
11

miễn trừ tài phán và quyền miễn trừ tài sản của quốc
gia khác, cục thể là không thực thi quyền tài phán
chống lại quốc gia khác trong một vụ kiện tại tịa án
nước mình. Các tranh chấp liên quan đến quốc gia
phải được giải quyết bằng con đường ngoại giao, trừ
khi quốc gia từ bỏ quyền này. Tóm lại, về nguyên tắc,
các chủ thể có quyền nộp đơn kiện có quyền thu lý
giải quyết vụ kiện hay không lại phụ thuộc vào ý chí
của quốc gia bị kiện. Quy định này thể hiện nguyên
tắc tôn trọng về chủ quyền và bình đẳng giữa các
quốc gia. Bởi các quốc gia trên thế giới đều có quyền
bình đẳng, do đó khơng quốc gia nào có quyền xét xử,
đưa ra một phán quyết với một quốc gia khác. Mà tòa
án của các quốc gia khi xét xử đều nhân danh quốc
gia, vì vậy, nếu khơng có sự đồng ý của quốc gia thì
khơng một tịa án nước ngồi nào có thẩm quyền thụ
lý và giải quyết vụ kiện mà quốc gia là bị đơn.

11
11


12

12

Quyền miễn trừ đối với việc áp dụng các biện pháp
bảo đảm sơ bộ cho vụ kiện. Miễn trừ đối với các biện
pháp cưỡng chế nhằm đảm bảo đơn kiện, nếu quốc
gia đồng ý cho tổ chức, cá nhân nước ngồi kiện mình,
tức là đồng ý cho Tịa án nước ngoài xét xử vụ kiện mà
quốc gia là bị đơn. Trong trường hợp nếu một quốc gia
đồng ý để tòa án nước ngoài thụ lý, giải quyết một vụ
tranh chấp mà quốc gia là một bên tham gia thì tịa
án nước ngồi đó được quyền xét xử, nhưng tịa án
khơng được áp dụng bất cứ một biện pháp cưỡng chế
nào như bắt giữ, tịch thu tài sản của quốc gia để phục
vụ cho việc xét xử. Tòa án chỉ được áp dụng các biện
pháp này nếu được quốc gia cho phép. Theo Điều 18
Công ước Liên hợp quốc quy định: “Khơng có biện
pháp cưỡng chế tiền tố tụng nào như tịch thu, chiếm
giữ tài sản trái pháp luật của quốc gia được áp dụng
trong một vụ kiện trước một tòa án nước ngoài…”.
Trong trường hợp mà quốc gia đồng ý cho Tòa án một
12
12


13
13

nước thụ lý đơn kiện chống lại quốc gia đó thì quốc gia
vẫn tiếp tục hưởng quy chế pháp lý đặc biệt trong q
trình tham gia tố tụng tại Tịa án quốc gia đó. Như đã

nói, do các quốc gia bình đẳng với nhau về chủ quyền,
mặt khác, tài sản của quốc gia cũng là bất khả xâm
phạm. Do đó, nếu quốc gia đồng ý tham gia vụ án với
tư cách là bị đơn thì tịa án cũng khơng được quyền áp
dụng các biện pháp cưỡng chế tiền tố tụng nào được
áp dụng với quốc gia.
Quyền miễn trừ về thi hành án. Miễn trừ đối với các
biện pháp cưỡng chế nhằm đảm bảo thi hành quyết
định của Tòa án trong trường hợp quốc gia đồng ý cho
các tổ chức, cá nhân nước ngồi khởi kiện cũng như
đồng ý cho Tịa án xét xử vụ kiện đó. Khi mà quốc gia
đồng ý cho một tịa án nước ngồi giải quyết một
tranh chấp mà quốc gia là bên tham gia và nếu quốc
gia là bên thua kiện thì bản án của Tịa án nước ngồi
đó cũng phải được quốc gia tự nguyện thi hành. Nếu
13
13


14
14

như quốc gia không tự nguyện thi hành bản án và
khơng có sự đồng ý của quốc gia thì khơng thể áp
dụng các biện pháp cưỡng chế như bắt giữ, tịch thu
tài sản của quốc gia nhằm cưỡng chế thi hành bản án
đó. Kể cả khi mà quốc gia từ bỏ quyền miễn trừ xét sử
thì quyền miễn trừ đối với các biện pháp cưỡng chế
bảo đảm thi hành phán quyết của tồn án vẫn phải
được tơn trọng.

Theo Điều 19 Cơng ước Liên hợp quốc quy định:
“Khơng có biện pháp cưỡng chế nào sau khi có phán
quyết của Tịa án như tịch thu, bắt giữ tài sản trái
pháp luật của quốc gia được áp dụng trong một vụ
kiện trước một tịa án nước ngồi…”. Khi tham gia vào
quan hệ dân sự quốc tế, quốc gia sẽ không bị bắt
buộc phải tham gia vào bất kỳ vụ kiện nào, trừ khi
chính quốc gia đồng ý. Trường hợp quốc gia từ bỏ một
nội dung trong quyền miễn trừ tư pháp thì quốc gia
vẫn hưởng quyền miễn trừ đối với các nội dung khác.
14
14


15
15

Công ước sẽ là một căn cứ pháp lý quan trọng mà các
quốc gia thành viên có thể viện dẫn để giải quyết các
tranh chấp liên quan đến miễn trừ tài phán của quốc
gia và tài sản quốc gia. Không chỉ dừng lại ở đó, với
tính chất là một quy định khung, Công ước cũng sẽ là
một cơ sở tốt để các quốc gia trong việc tham khảo
khi xây dựng hoặc sửa đổi pháp luật của mình về
miễn trừ nhà.
2.

Quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia trong
tư pháp quốc tế: căn cứ pháp lý quốc gia


Quyền miễn trừ tư pháp quốc gia khi tham gia vào
quan hệ dân sự quốc tế đã được thừa nhận trong pháp
luật quốc tế (các điều ước quốc tế, tập quán quốc tế)
và pháp luật hầu hết các nước. Tuy nhiên, pháp luật
của các nước lại có những quan điểm khác nhau về
mức độ hưởng quyền này của quốc gia. Về cơ bản có
hai quan điểm chính về vấn đề này:

15
15


16
16

Quyền miễn trừ tư pháp quốc gia là tuyệt đối,
nghĩa là quốc gia phải được hưởng quyền này trong
tất cả các lĩnh vực quan hệ dân sự mà quốc gia tham
gia và trong bất kỳ trường hợp nào. Những người theo
quan điểm này xuất phát từ chủ quyền quốc gia là
tuyệt đối và bất khả xâm phạm, bất kỳ chủ thể nào
cũng khơng có quyền vượt lên trên chủ quyền quốc
gia. Thậm chí, quyền miễn trừ này cịn được mở rộng
cho người đứng đầu của quốc gia khi tham gia vào các
mối quan hệ với tư cách người đứng đầu quốc gia hay
tư cách cá nhân. Cần nhận thức rõ vấn đề ở đây, khi
thừa nhận quyền miễn trừ của quốc gia khi tham gia
vào các quan hệ dân sự quốc tế là tuyệt đối thì điều
này có nghĩa là quốc gia sẽ được hưởng quyền miễn
trừ trong tất cả các lĩnh vực quan hệ dân sự quốc tế

và trong tất cả các trường hợp mà quốc gia tham gia
với tư cách là một bên chủ thể trong quan hệ dân sự
quốc tế. Việc quốc gia từ bỏ quyền miễn trừ tuyệt đối
16
16


17
17

của mình phải được thể hiện rõ rang bằng các quy
định trong hợp đồng, trong pháp luật quốc gia, trong
điều ước quốc tế mà quốc gia kí kết hoặc tham gia,
bằng con đường ngoại giao.
Quyền miễn trừ tư pháp quốc gia là tương đối (miễn
trừ chức năng), do các học giả của các nước theo chế
độ chính trị tư bản chủ nghĩa khởi xướng và xây dựng
nhằm loại trừ khả năng hưởng quyền miễn trừ của các
công ty thuộc sở hữu nhà nước của các nước theo chế
độ chính trị xã hội chủ nghĩa khi tham gia vào các
quan hệ kinh tế thương mại quốc tế. Học thuyết này
nhanh chóng được các nước khác ủng hộ và cụ thể
hóa vào các đạo luật quốc gia. Theo học thuyết này,
quốc gia khi tham gia vào các quan hệ dân sự quốc tế
sẽ được hưởng quyền miễn trừ về tài phán và quyền
miễn trừ về tài sản trong tất cả các lĩnh vực quan hệ
dân sự. Tuy nhiên, có những trường hợp quốc gia sẽ
không được hưởng quyền này mà phải tham gia với tư
17
17



18
18

cách một chủ thể dân sự như các chủ thể thông
thường khác. Như vậy, Thuyết quyền miễn trừ tương
đối chấp nhận cho quốc gia được hưởng quyền miễn
trừ trong tất cả các lĩnh vực quan hệ dân sự mà quốc
gia tham gia, nhưng lại hạn chế những trường hợp mà
quốc gia sẽ không được hưởng quyền miễn trừ.
3.

Quyền miễn trừ tư pháp quốc gia theo quy
định của pháp luật Việt Nam

Quyền miễn trừ của quốc gia trong Tư pháp quốc tế
gồm quyền miễn trừ tư pháp và quyền miễn trừ đối
với tài sản thuộc quyền sở hữu của quốc gia. Về mặt
lý luận, quyền miễn trừ của quốc gia trong Tư pháp
quốc tế theo pháp luật Việt Nam có hai quan điểm
dưới đây:
-

Quyền miễn trừ đối với tài sàn của quốc gia ở
nước ngồi khơng được đưa vào xem xét trong nội
dung quyền miễn trừ của quốc gia.

18
18



19
19

Như vậy, trong quan điềm này quyền miễn trừ quốc
gia bao gồm quyền miễn kiện, quyền miễn trừ đối với
các biện pháp cưỡng chế để đảm bảo thi hành phán
quyết của Toà án nước ngoài. Trong điều kiện pháp
triển và hội nhập quốc tế hiện nay của nước ta thì
quan điểm này không phù hợp bởi khi tham gia hội
nhập quốc tế trong những trường hợp nhất định lợi ích
hợp pháp liên quan đến tài sản của quốc gia sẽ không
được bản vệ hữu hiệu.
-

Quyền miễn trừ tài sản thuộc sở hữu quốc gia là
một nội dung cơ bản của quyền miễn trừ tư pháp
quốc gia.

Quan điểm này xuất phát từ thực tiễn việc quốc gia
tham gia vào đời sống dân sự quốc tế chủ yếu thông
qua các quan hệ liên quan đến tài sản như các tài sản
đầu tư nước ngoài. Do vậy quan điểm này được nhiều
người đồng tình. Tuy nhiên lý luận về Tư pháp quốc tế
19
19


20

20

của Việt Nam khơng đề cập hoặc có đề câp thì cũng
quy định mang tính khái qt chung.
Tại Việt Nam chưa có Luật về quyền miễn trừ
quốc gia và trong các văn bản pháp luật hiện hành
chưa có quy định chính thức nào quy định trực tiếp về
vấn đề này. Tuy nhiên, một số quy định trong các văn
bản pháp luật cụ thể có thể lý giải được vấn đề. Theo
khoản 1 và 3 Điều 12 Pháp lệnh về quyền ưu đãi,
miễn trừ thì viên chức ngoại giao khơng được hưởng
quyền miễn trừ trong trường hợp họ “tham gia với tư
cách cá nhân vào các vụ tranh chấp liên quan đến bất
động sản tư nhân có trên lãnh thổ Việt Nam; việc thừa
kế; hoạt động thương mại hoặc nghề nghiệp mà viên
chức ngoại giao tiến hành tại Việt Nam ngoài phạm vi
chức năng chính thức của họ”. Quy định này thể hiện
rõ quan điểm đối với viên chức ngoại giao thì quyền
miễn trừ của họ chỉ là tương đối, nghĩa là quyền miễn
trừ không bị giới hạn ở bất cứ lĩnh vực quan hệ dân sự
20
20


21
21

nào nhưng bị hạn chế, hay không được hưởng, trong
một số trường hợp cụ thể. Tuy nhiên, đối với nhà nước
nước ngồi thì pháp lệnh lại khơng đề cập và Bộ luật

Tố tụng dân sự cũng khơng có quy định nào về vấn đề
này.
Những phân tích trên chứng minh một điều rằng, việc
thừa nhận một cách cứng nhắc quyền miễn trừ tuyệt
đối của nhà nước nước ngoài ở Việt Nam chỉ làm thiệt
hại cho chúng ta vì chắc chắn trong quy định của
pháp luật nhiều quốc gia chỉ dành cho nhà nước Việt
Nam quyền miễn trừ tương đối tại quốc gia đó. Chính
vì vậy, trong điều kiện giao lưu kinh tế thương mại
hiện nay cũng như cùng với sự phát triển của Tư pháp
quốc tế hiện đại, Việt Nam nên chấp nhận thuyết
quyền miễn trừ tương đối của quốc gia khi tham gia
vào các quan hệ kinh tế, dân sự quốc tế để bảo vệ
hiệu quả lợi ích của các công dân, cơ quan, tổ chức
Việt Nam khi tham gia vào các quan hệ tài sản với
21
21


22
22

quốc gia nước ngồi. Pháp luật Việt Nam cần có quy
định về những trường hợp cụ thể nhà nước nước ngồi
khơng được hưởng quyền miễn trừ tại Việt Nam khi
tham gia vào các quan hệ dân sự quốc tế.

22
22



23
23

KẾT BÀI
Quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia mang ý nghĩa
rất quan trọng, được thể hiện trong nguyên tắc bình
đẳng về chủ quyền và tơn trọng chủ quyền của các
quốc gia. Hầu hết các quốc gia đều thừa nhận quyền
miễn trừ tư pháp, tuy nhiên tùy vào điều kiện kinh tế,
văn hóa, xã hội mà các quốc gia sẽ có sự điều chỉnh
cho phù hợp với tình hình thực tế và đáp ứng được
nhu cầu hội nhập. Mong rằng bài làm ở trên sẽ giúp
ích một phần nhỏ để mọi người có thể hiểu hơn về vấn
đề miễn trừ tư pháp quốc gia trong Tư pháp quốc tế.

23
23


24
24

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

3.

Bộ luật dân sự 2015.
Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tư pháp


4.

quốc tế, nxb Tư pháp, Hà Nội - 2019.
Quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia trong tư

1.
2.

pháp quốc tế : luận văn thạc sĩ luật học / Nguyễn
Thu Thủy ; TS. Vũ Đức Long hướng dẫn . – Hà Nội,
2012.

24
24



×