Tải bản đầy đủ (.doc) (124 trang)

Luận văn nhu cầu và thái độ học tập môn đạo đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (457.23 KB, 124 trang )

TẬP THỂ TÁC GIẢ

1. Ths. Đinh Quang Tuấn 2. TS. Trần Minh Ngọc (đồng chủ nhiệm)

3. Ths. Nguyễn Văn Minh
4. CN. Hà Sĩ Nguyên
5. CN. Lê Thế Quân
6. CN. Lê Cẩm Nhung


MỤC LỤC

TRANG

MỞ ĐẦU

1

CHƯƠNG 1.

NHƯNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NHU CẦU, THÁI ĐỘ
HỌC TẬP MÔN GIÁO DỤC THỂ CHẤT CHO SINH VIÊN

6

TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC

1.1. Tổng quan về nhu cầu và thái độ học tập môn Giáo dục
thể chất của sinh viên trong các trường đại học.

6



1.2. Giáo dục thể chất và những biểu hiện của nhu cầu, thái
độ học tập môn Giáo dục thể chất của sinh viên.
CHƯƠNG 2.

THỰC TRẠNG THÁI ĐỘ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
ĐỐI VỚI MÔN HỌC GIÁO DỤC THỂ CHẤT Ở HỌC VIỆN

54

BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

2.1. Thực trạng nhận thức, thái độ của sinh viên đối với môn
học Giáo dục thể chất ở Học viện Báo chí và Tuyên
truyền
2.2. Những vấn đề đặt ra với việc xây dựng thái độ tích cực
trong học tập môn GDTC của sinh viên ở Học viện Báo

87

chí và Tuyên truyền
CHƯƠNG 3.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NHẬN THỨC,
THÁI ĐỘ CỦA SINH VIÊN ĐỐI VỚI MÔN HỌC GIÁO

96

DỤC THỂ CHẤT Ở HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TT


3.1. Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng trong việc rèn
luyện thể chất của sinh viên trong trường đại học hiện
nay.

96


3.2. Đổi mới nội dung chương trình, cải tiến phương pháp
Giáo dục thể chất cho phù hợp

100

3.3. Đẩy mạnh và tổ chức tốt các phong trào thể dục thể thao
của sinh viên
3.4. Sử dụng một cách hiệu quả các phương tiện Giáo dục
thể chất
3.5. Đổi mới trong việc đánh giá kết quả công tác Giáo dục
thể chất
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

114
116


CHỮ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI

GDTC

-


Giáo dục thể chất

RLTT

-

Rèn luyện thân thể

TDTT

-

Thể dục thể thao

TNCS

-

Thanh niên Cộng sản


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm tới công tác thể dục thể thao
(TDTT) nói chung và giáo dục thể chất (GDTC) cho học sinh, sinh viên trong
nhà trường nói riêng, coi sức khoẻ là vốn quí nhất của con người. Ngày nay,
những tiêu chuẩn để đánh giá trình độ TDTT của mỗi nước là trình độ TDTT
thành tích cao, mức độ sức khoẻ và thể chất của nhân dân, tính phổ cập của
thể thao quần chúng và công tác TDTT trường học (GDTC). Chỉ thị 36/CTTƯ, ngày 24 tháng 3 năm 1994 của Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản

Việt Nam đã chỉ rõ: “Thực hiện giáo dục thể chất trong tất cả các trường
học” để giáo dục thể chất đạt hiệu quả thì nhân tố quyết định hàng đầu là nhu
cầu và thái độ của sinh viên với mơn học này, nó ảnh hưởng đến tinh thần, tự
giác, tích cực rèn luyện và học tập của học sinh, sinh viên.
Học viện Báo chí và Tuyên truyền là cái nôi đào tạo đội ngũ cán bộ làm
công tác lý luận, cơng tác tư tưởng văn hố của Đảng và Nhà nước. Sinh viên
Học viện Báo chí và Tuyên truyền được đào tạo tồn diện về các mặt theo
chương trình đào tạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Ngoài những kiến thức về
chuyên môn, về lý luận, về nghiệp vụ, kiến thức đại cương, trong đó cơng tác
GDTC cho sinh đóng vai trị quan trọng. Nhiệm vụ chủ yếu của công tác giáo
dục thể chất đối với sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền là: Giáo dục
đạo đức cho sinh viên, rèn luyện tinh thần tập thể, ý thức tổ chức kỷ luật, xây
dựng cho họ niềm tin, lối sống tích cực, lành mạnh, tinh thần tự giác học tập
và rèn luyện thân thể, chuẩn bị sức khoẻ để học tập, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Đặc biệt là phải gợi mở nhu cầu rèn luyện thể chất của mỗi người, định
hướng cho họ để họ có thái độ đúng đắn với mơn học GDTC.
Truyền thụ cho sinh viên những kiến thức lý luận cơ bản về nội dung
và phương pháp tập luyện TDTT, kỹ năng vận động và kỹ thuật cơ bản của
một số môn thể thao phù hợp. Trên cơ sở đó, bồi dưỡng họ cách sử dụng các


phương tiện để tự rèn luyện hiệu quả và tham gia tích cực vào việc tuyên
truyền, tổ chức các hoạt động TDTT trong nhà trường và xã hội. Để đáp ứng
yêu cầu của nhiệm vụ trên, yếu tố quan trọng là cần nâng cao nhận thức của
sinh viên, tạo động lực tích cực trong học tập, rèn luyện thể chất và có động
cơ đúng đắn để rèn luyện đạt kết quả cao. Hiện nay đa số sinh viên trong Học
viện Báo chí và Tun truyền đều có nhu cầu được rèn luyện thường xuyên,
luyện tập phát triển năng khiếu và được thể hiện mình thơng qua phong trào
thi đấu TDTT. Họ cần nhận thức đầy đủ việc học tập và rèn luyện thể chất
giúp họ phát triển toàn diện, học tập tốt hơn, xây dựng thói quen lành mạnh,

khắc phục những thói quen xấu. Rèn luyện thể chất cịn góp phần ngăn chặn
bệnh tật, giúp cho cơ thể phát triển cân đối, hài hồ, thích nghi với những hoạt
động gắng sức, phát huy đức tính tốt đẹp của con người mới, đáp ứng với yêu
cầu thực tế của cuộc sống hiện đại.
Cơng tác GDTC ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong những năm
gần đây có những chuyển biến rõ rệt, bên cạnh những ưu điểm đã đạt được,
vẫn cịn tồn tại một số những mặt chưa được. Đơi khi nhận thức, thái độ và
nhu cầu với môn học này của một số sinh viên còn chưa thực sự đầy đủ và
tích cực, hăng hái phấn khởi, chưa thấy rõ được vai trò ý nghĩa và tầm quan
trọng của học tập và rèn luyện thể lực, sinh viên chưa hứng thú và tự giác học
tập, nhiều khi còn tập luyện đối phó..., xuất phát từ những nguyên nhân khách
quan, chủ quan. Để sinh viên nhận thức sâu sắc, và có thái độ đúng đắn với
việc rèn luyện thể chất, và cần mạnh dạn nêu ra những vấn đề đã làm được,
vấn đề nào chưa làm được, chỉ ra những ưu điểm, nhược điểm từ đó đề ra các
giải pháp cụ thể đối với công tác GDTC của Nhà trường. Xuất phát từ lý do
trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Nhu cầu và thái độ học tập môn giáo dục thể
chất của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay” để nghiên
cứu. Hy vọng rằng, qua nghiên cứu, phần nào sẽ chia sẻ và tháo gỡ được một
số những vướng mắc và đưa ra những giải pháp phù hợp hơn để góp phần đẩy


mạnh cơng tác GDTC ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền đáp ứng với yêu
cầu đào tạo hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xung quanh những vấn đề về GDTC trong các trường đại học hiện nay,
việc tổ chức thực hiện, nhu cầu, thái độ của sinh viên khi tham gia học tập
TDTT ở các trường kể cả những vấn đề đã đạt được và chưa đạt được trong
cơng tác này, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, bài viết, giáo trình chun
mơn, sách, báo, tạp chí, các chương trình hội thảo liên quan, chẳng hạn như:
- Lý luận và phương pháp giáo dục thể chất của TS.Vũ Đức Thu (chủ

biên), Nxb Thể dục thể thao, Hà Nội, 1996.
- Điền kinh và thể dục của Nguyễn Ngọc Đông và TS. Dương Nghiệp
Chí (đồng chủ biên), Nxb Thể dục thể thao, Hà Nội, 1998.
- Tâm lý học thể dục thể thao và tâm lý học sư phạm của của Ths. Lê
Thị Hồng (chủ biên), Nxb Thể dục thể thao, Hà Nội, 2001.
- Tâm lý học Thể dục thể thao của PGS,TS. Phạm Ngọc Viễn (chủ
biên), Nxb Thể dục thể thao, Hà Nội, 2007.
- Lý luận và phương pháp giáo dục thể chất trong trường học của Ths.
Hồng thị Đơng (chủ biên), Nxb Thể dục thể thao, Hà Nội, 2004.
- Gíáo dục thể chất trong các trường đại học của TS. Vũ Đức Thu, Nxb
Thể dục thể thao, Hà Nội, 1998.
- Lý luận và phương pháp thể dục thể thao của TS. Nguyễn Toán và
Phạm Danh Tốn (đồng chủ biên), Nxb Thể dục thể thao, Hà Nội, 2000.
- Sinh lý học thể dục thể thao của TS. Vũ Thị Thanh Bình, Ths. Phạm
Lê Phương Nga (đồng chủ biên), Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998.
- Giáo dục thể chất của Ths. Đinh Quang Tuấn, (bài giảng), Học viện
Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội, 2005.
Các tác giả tập trung phân tích và nêu ra những nội dung cơ bản của
công tác TDTT học đường nói chung và GDTC trong hệ thống các trường đại
học ở Việt Nam. Công tác triển khai ở các trường đại học, gồm những ưu


điểm đã đạt được và một số tồn tại cần được khắc phục. Các tác giả đã phân
tích về cơng tác tổ chức giảng dạy, về số giờ chính khố, giờ thực giảng, công
tác tổ chức phong trào, lực lượng giảng viên, về điều kiện vật chất, sân bãi tập
luyện và phương tiện phục vụ cho công tác GDTC, các tác giả đã nhấn mạnh
nhu cầu, nhận thức, thái độ học tập TDTT của sinh viên nói chung nhưng
chưa đi sâu đánh giá nhu cầu, thái độ của sinh đối với môn học GDTC ở một
số trường đại học cụ thể. Do đó, để khái quát về nhu cầu, thái độ của sinh viên
đối với môn học giáo dục thể chất trong Học viện Báo chí và Tuyên truyền

cần phải nghiên cứu nghiêm túc, trên cơ sở lý luận và thực tiễn để phân tích
thực trạng, đưa ra một số giải pháp để thực hiện có hiệu quả hơn nữa cơng tác
GDTC cho sinh viên ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về nhu cầu, thái độ của sinh viên với công tác
GDTC trong trường đại học, trên cơ sở phân tích thực trạng, từ đó đưa ra một
số giải pháp để nâng cao nhận thức, thái độ của sinh viên trong cơng tác
GDTC ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu, đề tài có các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận về nhu cầu, nhận thức, thái độ của sinh viên
trong công tác GDTC trong các trường đại học.
- Trình bày vai trị của nhu cầu, nhận thức của sinh viên với công tác
GDTC trong các trường đại học, đồng thời chỉ rõ sự cần thiết khách quan phải
nâng cao nhu cầu, định hướng nhu cầu và thái độ đối với công tác GDTC cho
sinh viên.
- Phân tích, đánh giá thực trạng nhu cầu và thái độ của sinh viên trong
công tác GDTC ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền.


- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nâng cao nhu cầu, thái độ của sinh
viên với công tác GDTC ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là cơng tác GDTC cho sinh viên ở Học
viện Báo chí và Tuyên truyền, đối tượng chủ yếu là sinh viên hệ chính qui tập
trung. Thời gian khảo sát từ 2008 đến 2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên những quan điểm của Đảng và Nhà nước, tư tưởng Hồ

Chí Minh về công tác TDTT và thể thao trường học (GDTC), lý luận và
những phương pháp GDTC của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp thống
kê, phương pháp lơgíc lịch sử, và phương pháp khảo sát thực tiễn.
6. Những đóng góp mới của đề tài
- Nêu ra được thực trạng nhu cầu, thái độ của công tác Giáo dục thể
chất cho sinh viên ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao nhu cầu, nhận thức, thái độ
của sinh viên đối với môn hoc Giáo dục thể chất ở Học viện Báo chí và Tuyên
truyền hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm phần mở đầu, nội dung, danh mục tài liệu tham khảo, kết
cấu 3 chương, 10 tiết (120 trang).
Chương 1: Những yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu, thái độ học tập môn
giáo dục thể chất của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
Chương 2: Thực trạng nhu cầu, thái độ và những vấn đề đặt ra trong
công tác giáo dục thể chất cho sinh viên ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao nhận thức, thái độ của sinh
viên đối với công tác Giáo dục thể chất.


CHƯƠNG I

NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NHU CẦU, THÁI ĐỘ
HỌC TẬP MÔN GIÁO DỤC THỂ CHẤT CỦA SINH VIÊN
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
1.1. Tổng quan về nhu cầu, thái độ học tập môn GDTC của sinh viên
1.1.1. Lý luận về nhu cầu, thái độ
Nhu cầu, thái độ là một trong những hiện tượng tâm lý được nhiều nhà

Tâm lý học quan tâm. Với các góc độ tiếp cận khác nhau, các tác giả đã đưa
ra quan điểm của mình về nhu cầu, thái độ.
+ Các quan điểm về nhu cầu
Theo cách tiếp cận về sinh học để giải thích về nhu cầu - động cơ, các
tác giả đã cho rằng nhu cầu sinh lý chi phối đời sống con người. Với quan
điểm này đã sinh vật hóa hệ thống nhu cầu - động cơ của con người, xem
những nhu cầu của con người mang tính sinh vật, đã phủ nhận nguồn gốc xã
hội, tính chủ thế của nhu cầu. Vì thế ơng đã khẳng định khi cơ thể con người
thiếu hụt một cái gì đó như thức ăn, nước uống thì kích thích con người hành
động tìm kiếm cái cơ thể cần.
Đầu thế kỷ XX đã xuất hiện một cơng trình nghiên cứu về nhu cầu của
A. Maslow, K. Lewin. Nhà Tâm lý học Mỹ A. Maslow đại diện cho trường
phái Tâm lý học nhân văn đã đưa ra những quan điểm tiến bộ về bản tính của
con người đó là: “Bản tính có ý thức, là nhu cầu bậc cao chứ không phải là
những bản năng sinh vật, với sự phân cấp nhu cầu từ thấp đến cao là cơ sở để
con người càng văn minh, thốt xa các lồi vật. Ơng đã đưa ra luận thuyết thứ
bậc về nhu cầu - động cơ. Theo ông hệ thống nhu cầu của con người gồm:
nhu cầu sinh học, nhu cầu an toàn, nhu cầu xã hội, nhu cầu tơn trọng và nhu
cầu tự hồn thiện.


Nhu cầu
hoàn thiện

Nhu cầu xã hội

Nhu cầu an toàn

Nhu cầu sinh học


Hệ thống thứ bậc nhu cầu của A. Maslow.
Theo thang nhu cầu này ta thấy các nhu cầu được sắp xếp theo một hệ
thống từ thấp đến cao. Đó là:
- Nhu cầu sinh học là nhu cầu cơ bản nhất, cấp thiết nhất. Con người
trước hết phải đáp ứng nhu cầu sinh học rồi mới có thể quan tâm đến các nhu
cầu tiếp theo. Các nhu cầu này ở bậc thang thấp nhất chỉ cần thoả mãn tới
mức cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của con người .
- Các nhu cầu an toàn và bảo vệ tính mạng trước những hiểm họa ở bậc
thang thứ hai. Trong cuộc sống ai cũng muốn được an toàn, yên ổn, không bị
chi phối bởi những bất trắc. Đáp ứng được nhu cầu này con người mới thực
sự an tâm thực hiện các hoạt động của bản thân.
- Nhu cầu xã hội về đời sống tình cảm như yêu thương, thích sống chan
hồ cùng tập thể ở nấc thang thứ ba. Cuộc sống con người không thể tồn tại


riêng lẻ, mà sự tồn tại và phát triển của bất kỳ cá thể nào là quá trình tham gia
vào các hoạt động và các quan hệ xã hội đa dạng và phong phú.
- Nhu cầu triển vọng, tự khẳng định mình, thích được tơn trọng ở nấc
thang thứ tư. Đó là trong q trình con người tham gia vào các hoạt động xã hội
thì con người ln mong muốn thành cơng, có uy tín, được xã hội tơn trọng.
- Nhu cầu tự hoàn thiện bản thân là thứ bậc nhu cầu cao nhất của con
người, thể hiện sự khát vọng cao ở mỗi người, đồng thời là sự thể hiện đầy đủ
nhất về giá trị của con người. Con người chủ động thực hiện q trình xã hội
hố, sự ý thức để điều chỉnh hành vi với mục đích hồn thiện nhân cách, tự
học hỏi, khám phá, tìm hiểu để nâng cao kiến thức hiểu biết, sáng tạo.
Theo Maslow các nhu cầu trong hệ thống thứ bậc nhu cầu của con
người có quan hệ với nhau và chúng rất linh hoạt và thay đổi vị thế phù hợp
với hoạt động của chủ thể.
Theo quan điểm của K. Lewin, nhân tố thúc đẩy hoạt động của con
người khơng chỉ có nhu cầu cơ thể mà cịn có cả nhu cầu xã hội. Khi xuất

hiện một nhu cầu nào đó thì đồng thời xuất hiện những hiện tượng có liên
quan đến nhu cầu đó ở chủ thể. Mọi ý kiến của con người đều liên quan đến
các nhu cầu khác nhau.
Henry Mursay đã khẳng định nhu cầu là một tổ chức cơ động và nó
ln thúc đẩy hành vi. Nhu cầu ở mỗi người là khác nhau về cường độ, mức
độ, đồng thời các loại nhu cầu chiếm ưu thế cũng khác nhau ở mỗi người.
Ông đã nêu ra các loại nhu cầu của con người như: nhu cầu thành đạt, nhu cầu
tôn trọng, nhu cầu vui chơi, nhu cầu tự vệ… Các nhu cầu này là sự cần thiết
của con người và cần thiết cho hoạt động sống và nó gây ra cho chủ thể tính
tích cực hoạt động nhất định.
Các nhà Tâm lý học Xô viết đã khẳng định nhu cầu là yếu tố bên trong,
quan trọng đầu tiên thúc đẩy con người hoạt động. Một trong những người


đầu tiên trong số các nhà Tâm lý học Xô viết nghiên cứu về nhu cầu đó là D.
N. Hznatze. Ơng cho rằng khơng có gì có thể đặc trưng cho một cơ thể sống
hơn là sự có mặt của nó ở nhu cầu. Đó là cội nguồn của tính tích cực. Nhu cầu
là một thuộc tính đặc trưng, giữ vai trị quan trọng trong việc thúc đẩy hành
vi. Ơng đã khẳng định: nhu cầu là yếu tố quyết định tạo ra tính tích cực,
khơng có nhu cầu thì khơng thể có tính tích cực, chính nhu cầu xác định xu
hướng và tính chất của hành vi. Ơng cho rằng giữa nhu cầu và hành vi có mối
quan hệ mật thiết với nhau.
Có thể thấy rằng nhu cầu là sự đòi hỏi của con người về những yếu tố
cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của các cá nhân được phản ánh trong ý
thức và trở thành yếu tố kích thích, thúc đẩy, điều chỉnh hành vi của con
người trong mọi hoạt động. Nhu cầu là một thuộc tính tâm lý biểu hiện gắn bó
con người với thế giới xung quanh. Sự gắn bó này chính là nguồn gốc tính
tích cực của nhân cách. Mỗi cá nhân có rất nhiều nhu cầu. Các nhu cầu ấy hợp
thành một hệ thống nhu cầu, hệ thống này đó ln biến đổi theo thời gian và
hoàn cảnh. Trong một hoàn cảnh xác định, nhu cầu nào đó nổi lên sẽ trở thành

động cơ chủ yếu thúc đẩy cá nhân hành động để thoả mãn nhu cầu đó. Sự thoả
mãn nhu cầu là động lực thúc đẩy hoạt động của mỗi cá nhân. Chính nhu cầu
quy định xu hướng lựa chọn ý nghĩ, tình cảm, xúc cảm và ý chí của cá nhân.
+ Đặc điểm của nhu cầu
Nhu cầu bao giờ cũng có tính đối tượng xác định. Đối tượng của nhu
cầu nằm ngoài chủ thể, đồng thời là cái chứa đựng khả năng thoả mãn nhu
cầu. Bản thân đối tượng đáp ứng nhu cầu luôn tồn tại một cách khách quan và
khơng tự bộc lộ ra khi chủ thể có cảm giác thiếu hụt hay đòi hỏi. Đối tượng
đáp ứng nhu cầu chỉ bộc lộ khi chủ thể tiến hành hoạt động, nhờ vậy mà nhu
cầu có tính đối tượng.
Đối tượng nhu cầu khi được chủ thể ý thức trở thành nội dung đối
tượng của nhu cầu. Nhu cầu thực sự là một sức mạnh nội tại, sức mạnh tâm lý


kích thích và hướng dẫn hoạt động khi nhu cầu mang tính đối tượng, nghĩa là
nhu cầu về một cái gì đó. Tính đối tượng của nhu cầu được xuất hiện trong
hoạt động có đối tượng của chủ thể. Nhu cầu với tư cách là một năng lực
hướng dẫn, điều chỉnh hoạt động chỉ khi được đối tượng hoá, tức là nhu cầu
có đối tượng. Nhu cầu là sự thể hiện mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa con
người với hiện thực khách quan. Khi xem xét mức độ của một nhu cầu nào đó
ở con người phải chú ý đến mức độ nhận thức, ý thức, sự giác ngộ của chủ thể
về đối tượng cũng như phương thức thoả mãn nó.
Đối tượng đáp ứng nhu cầu ln được phản ánh vào đầu óc con người
dưới dạng biểu tượng, với tính chất là một hiện tượng tinh thần.
Tâm lý học Mác xít khẳng định, nhu cầu là nguồn gốc của tính tích cực,
là động lực đầu tiên thúc đẩy hoạt động của con người, nhưng nó khơng có
sẵn mà được hình thành thơng qua hoạt động. Về ngun tắc, K. Marx đã chỉ
rõ: Khơng có động lực nào lại tồn tại có sẵn trước hoạt động. Nhu cầu được
hình thành trong q trình hoạt động. Do đó, khi nghiên cứu nhu cầu cần
thiết phải xem xét nó dưới hai góc độ đồng thời: Một là, nhu cầu với tư cách

là điều kiện bên trong, là một tiền đề bắt buộc của hoạt động. Hai là, nhu cầu
với tư cách là cái hướng dẫn điều khiển hoạt động của chủ thể trong thế giới
đối tượng khách quan.
Nhu cầu được thoả mãn thơng qua hoạt động. Chỉ có thơng qua hoạt
động thì đối tượng của nhu cầu mới được bộc lộ và được cụ thể hóa và được
thoả mãn. Chính vì lẽ đó nhu cầu ln có mối liên hệ mật thiết với động cơ.
Mỗi loại nhu cầu cụ thể được thoả mãn trong quá trình chủ thể tiến hành hoạt
động tương ứng.
Như vậy, nhu cầu và hoạt động ln có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Nhà Tâm lý học A. N. Lêônchiev đã khẳng định tâm lý con người nói chung
và nhu cầu nói riêng có nguồn gốc từ hoạt động thực tiễn, nhu cầu với tính
chất là một sức mạnh nội tại chỉ có thể được thực thi trong hoạt động. Mặt


khác nhu cầu một khi đã hình thành ở cấp độ tâm lý lại phát huy tính tích cực,
trở thành nội lực thúc đẩy con người hoạt động nhằm thoả mãn nhu cầu. A. N.
Lêônchiev xem nhu cầu là điều kiện bên trong của hoạt động. Thông qua hoạt
động cụ thể làm xuất hiện các nhu cầu chức năng như: Nhu cầu lao động, nhu
cầu học tập, nhu cầu giao tiếp
Nhu cầu thường đi kèm với các ý chí và cảm xúc của con người.
Những trạng thái cảm xúc tiêu biểu như tính hấp dẫn của một đối tượng có
liên quan đến một nhu cầu nhất định, sự không hài lịng khi nhu cầu khơng
được thoả mãn. Ý chí - cảm xúc ln thúc đẩy hoạt động tìm kiếm cách thức
cần thiết nhằm thoả mãn nó. Chính vì vậy nhu cầu trở thành một trong những
động cơ mạnh mẽ thúc đẩy chủ thể hoạt động và thực hiện các hành vi ý chí.
Có thể khẳng định rằng: bản chất của nhu cầu là sự đòi hỏi của chủ thể
về một đối tượng nào đó, cần được thoả mãn để tồn tại và phát triển. Nhu cầu
phản ánh mối quan hệ giữa chủ thể với điều kiện sống. Nhu cầu là nguồn gốc
tính tích cực được bộc lộ thơng qua tính tích cực của chủ thể. Chính hoạt
động là phương thức thoả mãn nhu cầu và thông qua hoạt động nhu cầu và cả

hoạt động của con người không ngừng phát triển.
Nhu cầu của con người rất đa dạng và phong phú. Có thể phân chia nhu
cầu thành nhu cầu vật chất, nhu cầu tinh thần.
Nhu cầu vật chất có liên quan trực tiếp đến sự tồn tại của cơ thể con
người, có cội nguồn sâu xa từ bên trong cơ thể như nhu cầu về thức ăn, thức
uống, nhà ở, quần áo mặc… Chính những nhu cầu này thúc đẩy con người
hoạt động lao động và sáng tạo để làm ra của cải vật chất, tạo ra cơ sở của
toàn bộ lịch sử tồn tại của loài người.
Nhu cầu tinh thần có liên quan trực tiếp với những địi hỏi về cái đẹp,
đối xử với nhau cho hợp đạo lý, hợp tình người… có cội nguồn sâu xa từ
trong nền văn minh, cái làm nên lực lượng bản chất người. Chẳng hạn như


nhu cầu về nghệ thuật, nhu cầu về khoa học, nhu cầu học tập vươn lên nắm
bắt, lĩnh hội tri thức khoa học…
+ Khái niệm thái độ
Thái độ là một hiện tượng tâm lý phức tạp, được nhiều học giả nghiên
cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, tuỳ vào góc độ nghiên cứu mà họ đưa ra
quan niệm của mình về thái độ.
Nhà nghiên cứu người Mỹ W. T. Thomas khi nghiên cứu thái độ đã
khẳng định: “Thái độ là trạng thái tinh thần của cá nhân đối với một giá trị”,
hay “Thái độ là định hướng chủ quan của cá nhân đối với một giá trị này hay
một giá trị khác làm cho cá nhân có hành động này hay hành động khác mà
được xã hội chấp nhận”.
Nhà Tâm lý học G. N. Allport đã đưa ra định nghĩa thái độ như sau:
“Thái độ là trạng thái sẵn sàng về mặt tinh thần và thần kinh được hình thành
thơng qua kinh nghiệm có khả năng điều chỉnh hành vi”.
Trong Tâm lý học mác xít thái độ là sự sẵn sàng, ổn định của cá nhân
để phản ứng với một tình huống, thái độ có xu hướng rõ rệt, hình thành theo
quy luật nhất quán phương thức xử thế của cá nhân. Khi nói về vấn đề ý thức

trước hết là vấn đề thái độ chủ quan của cá nhân, Mác đã viết: “Thái độ của
tôi đối với môi trường của tơi chính là ý thức của tơi” .
Trong từ điển Tiếng Việt, thái độ là cách nhìn nhận hành động của cá
nhân theo một hướng nào đó trước một vấn đề, một tình huống cần giải quyết.
Đó là tổng thể những biểu hiện ra bên ngoài của ý nghĩ, tình cảm của cá nhân
đối với con người hay một sự việc nào đó.
Từ điển Xã hội học do Nguyễn Khắc Viện chủ biên cũng nhấn mạnh
“Tâm thế - Thái độ - Xã hội đã được củng cố, có cấu trúc phức tạp, bao gồm
các thành phần nhận thức, xúc cảm, hành vi”.


Trong Từ điển các thuật ngữ Tâm lý xuất bản tại New York năm 1996
cho rằng: “Thái độ là một trạng thái ổn định bền vững, do tiếp thu được từ
bên ngoài, hướng vào sự ứng xử một cách nhất qn đối với một nhóm đối
tượng nhất định, khơng phải như bản thân chúng ra sao mà chúng được nhận
thức ra sao. Một thái độ được nhận biết ở sự nhất quán của những phản ứng
đối với một nhóm đối tượng. Trạng thái sẵn sàng có ảnh hưởng trực tiếp lên
cảm xúc và hành động có liên quan đến đối tượng.
Như vậy, các từ điển khi định nghĩa về thái độ đều cho rằng đó là cách
ứng xử của cá nhân đối với các tình huống, các vấn đề của xã hội. Nó được
cấu thành rất phức tạp, với nhiều bộ phận hợp thành.
Qua những quan điểm trên ta thấy “thái độ” thường được lý giải dưới
các góc độ chức năng của nó. Thái độ định hướng hành vi, ứng xử của con
người. Nó thúc đẩy, tăng cường tính sẵn sàng của những hành vi, phản ứng
của con người tới đối tượng có liên quan.
Từ những quan điểm trên đây về thái độ, ta có thể rút ra khái niệm thái
độ như sau:
- Thái độ là một thuộc tính của nhân cách, phản ánh mối quan hệ chủ
quan của con người đối với hiện thực, biểu thị sự thống nhất của nhận thức,
xúc cảm, tình cảm và hành vi.

- Thái độ được hình thành trong mối quan hệ xã hội, nó định hướng
hành động của con người theo một hướng nào đó trước một tình huống cụ
thể.
- Thái độ được bộc lộ ra bên ngồi thơng qua hành vi, cử chỉ, nét mặt
và lời nói của người đó trong những tình huống, điều kiện cụ thể.
- Thái độ của một người trước một sự kiện xã hội thông qua sự tán
thành hoặc phản đối, thông qua hành vi tham gia sự kiện đó tích cực hay thờ
ơ.


+ Chức năng của thái độ:
Thái độ bao gồm các chức năng cơ bản sau:
- Chức năng thích nghi: Thể hiện việc cá nhân thay đổi thái độ cho phù
hợp với mơi trường nhằm đạt được mục đích đề ra.
- Chức năng thể hiện giá trị: Thể hiện ở chỗ thơng qua sự đánh giá một
cách có chọn lọc về đối tượng qua biểu lộ cảm xúc, tình cảm và hành động,
qua hành động của cá nhân, tính sẵn sàng hành động của cá nhân thể hiện giá
trị nhân cách.
- Chức năng điều chỉnh hành vi và hành động: Trong các chức năng của
thái độ thì chức năng này được các nhà nghiên cứu quan tâm nhiều hơn. Các
tác giả đã tập trung làm rõ cơ chế thực hiện các chức năng của thái độ, tìm ra
các điều kiện để các chức năng đó được thể hiện.
+ Phân loại thái độ
Đứng trên các góc độ khác nhau, các nhà tâm lý học phân loại thái độ
theo những cách khác nhau.
Dựa vào tính chất của thái độ V. N. Miasixev đã chia thái độ thành các
loại: thái độ tích cực hay thái độ tiêu cực, thái độ phân tính hay phân cực.
Biểu hiện của nó có thể là phản ứng hoặc đánh giá thích hay khơng thích,
đồng ý hay phản đối.
Dựa vào tính chi phối của thái độ, B. Ph. Lomov đã chia thái độ thành

hai loại, đó là thái độ chủ đạo hay thứ yếu. Các thái độ chủ đạo là các thái độ
có liên quan đến mục đích sống và động cơ chủ đạo của cá nhân, chi phối hệ
thống thái độ.
+ Các mức độ của thái độ
Dựa vào các chỉ số khác nhau của thái độ, các nhà Tâm lý học đã phân
chia thái độ thành các mức độ khác nhau.


Theo H. Benesch – Nhà Tâm lý học người Đức, thái độ gồm các mức độ
sau:
- Về mức độ: nhiều hay ít, thường xun hay khơng thường xun.
- Về cường độ, thái độ gồm các mức độ tích cực, nhiệt tình, chủ động,
cao hay thấp.
Theo B. Ph. Lovnov
- Xét về cường độ, thái độ gồm các mức độ: mạnh hay yếu
- Xét về mức độ tích cực thể hiện mức độ ảnh hưởng của thái độ đối
với tính tích cực của cá nhân.
- Mức độ ý thức, thái độ của cá nhân là thái độ có ý thức, cá nhân nhận
thức được thái độ của mình.
Theo Likert, người nghiên cứu chỉ cần viết một loạt câu hỏi theo thứ tự
về vấn đề cần nghiên cứu, những người được điều tra chỉ cần chỉ ra là họ rất
đồng ý, đồng ý, không đồng ý hoặc rất không đồng ý với từng câu hỏi nêu ra.
Ý kiến của họ được đưa ra giá trị số. Thái độ của cá nhân đó đối với vấn đề
được nghiên cứu được xác định như là tổng hợp của những giá trị số đó.
- Thái độ và nhu cầu
Nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu mà con người cần phải thoả mãn để tồn tại
và phát triển trong điều kiện xã hội lịch sử nhất định, là động lực đầu tiên thúc
đẩy hoạt động, là nguồn gốc của tính tích cực hoạt động của con người. Nó
vừa là điều kiện bên trong, yếu tố bắt buộc phải có của hoạt động, vừa là cái
hướng dẫn và điều khiển hoạt động chủ quan của chủ thể trong thế giới đối

tượng khách quan.
Nhu cầu có vai trị nòng cốt, quyết định sự phát triển của nhân cách làm
nền tảng của động cơ, mục đích hoạt động. Quá trình thoả mãn nhu cầu đồng
thời cũng là quá trình hình thành sự sẵn sàng hành động. Nhu cầu của con


người có tác dụng xác định theo hướng thái độ của cá nhân đối với hiện thực,
với trách nhiệm của bản thân. Trong q trình đó, con người xác định cho
mình thái độ đúng đắn, say sưa hoạt động để chiếm lĩnh đối tượng, thái độ có
tác dụng làm nảy sinh, phát triển và điều khiển các nhu cầu.
Trong quá trình hoạt động, nhu cầu được biểu thị ra bằng thái độ. Thái
độ phản ánh tính chất và mức độ thoả mãn của nhu cầu. Nhu cầu là nguồn
gốc, là cơ sở bên trong của thái độ. Cho nên nhu cầu và thái độ có mối quan
hệ khăng khít với nhau, thông qua các biểu hiện của nhu cầu để nắm bắt thái
độ của cá nhân. Thơng qua q trình thoả mãn nhu cầu con người củng cố các
thành phần của thái độ như quan điểm, nhận thức tình cảm cũng như cách xử
thế đối với đối tượng thoả mãn nhu cầu.
- Thái độ và hứng thú
Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với một đối tượng nào đó,
vừa có ý nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả năng đem lại khoan khối cho
cá nhân trong quá trình hoạt động.
Hứng thú biểu hiện ở sự tập trung chú ý cao độ, sự say mê hấp dẫn bởi
nội dung của đối tượng. Đặc trưng của hứng thú là chủ thể có ý thức, thái độ
say sưa, thái độ lựa chọn, có các cảm xúc khác nhau trước đối tượng. Hứng
thú còn là điều kiện quan trọng để cá nhân có thái độ sáng tạo đối với hoạt
động, tăng hiệu quả và sức làm việc, nó cuốn hút ý nghĩ, tình cảm, hoạt động
của cá nhân. Vì thế nếu ta biết cá nhân có hứng thú đối với đối tượng nào đó
hay khơng thì ta có thể biết thái độ của họ đối với đối tượng như thế nào.
- Thái độ và hành vi
Mối quan hệ giữa thái độ và hành vi luôn gắn chặt với nhau. Đó là quan

hệ tác động hai chiều, qua lại với nhau. Thái độ trực tiếp ảnh hưởng đến hành
vi của con người. Ngược lại, khi con người thực hiện lại làm nảy nở các thái
độ tiếp theo.



×