LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường tài chính Việt Nam đang sôi động từng ngày bởi sự lớn
mạnh của các doanh nghiệp trong và ngoài nước kéo theo đó là sự phát triển
không ngừng của toàn bộ nền kinh tế Việt Nam tạo cho nước ta một vị thế
không nhỏ trên trường quốc tế. Sau một thời gian dài đàm phán để gia nhập
vào tổ chức thương mại thế giới, ngày 7/11/2006, cả nước ta hoan hỉ chào đón
Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO, đánh dấu một
bước đột phá đối với nền kinh tế Việt Nam. Cũng chính từ thời điểm đó những
mối quan hệ thương mại quốc tế mới mở ra trước mắt làm cho bánh xe kinh tế
Việt Nam đã nóng lại càng nóng hơn và như được bôi trơn dầu mỡ, nó bắt đầu
hoạt động nhịp nhàng với tốc độ ngày càng tăng hứa hẹn một tương lai vững
mạnh cho Việt Nam trên mọi mặt của nền kinh tế.
Để thúc đẩy cỗ máy kinh tế đó hoạt động tốt các doanh nghiệp, các tổ
chức kinh tế cũng như mọi cá nhân đã đang và sẽ nỗ lực không ngừng trong
khả năng có thể để làm lành mạnh doanh nghiệp, đưa doanh nghiệp hoạt động
hiệu quả hơn. Một trong những vấn đề mà các doanh nghiệp phải đối mặt khi
nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển đó là các quan hệ tín dụng ngày
càng trở nên đa dạng và phức tạp, chính từ đó sự phát sinh nợ đã trở thành một
yếu tố tất nhiên trong hoạt động kinh doanh, trong đó bao gồm cả tín dụng
ngân hàng và tín dụng thương mại. Tình trạng nợ nần này phải được nhìn từ cả
hai khía cạnh: từ phía người cho vay (bên cung cấp tín dụng hay là chủ nợ) và
phía người đi vay (bên nhận tín dụng hay khách nợ), và đôi khi phải tính đến
cả những yếu tố thị trường nữa (những tác nhân bên ngoài ảnh hưởng tới quan
hệ tín dụng của cả hai bên).
Hiện nay ở nước ta nhiều doanh nghiệp đang phải đối mặt với rủi ro
tín dụng rất cao trong đó rủi ro rủi ro về tổn thất nợ khó đòi là một trong
những nhân tố cần được kiểm soát chặt chẽ. Trong nhiều trường hợp, tổn thất
1
nợ khó đòi giữa các doanh nghiệp đang tiếp tục gia tăng làm suy giảm năng
lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, thậm chí dẫn tới nguy cơ phá sản. Trước
nền kinh tế đã được hội nhập, trước môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt,
vấn đề quản lý công nợ phải thu và xử lý nợ khó đòi đã và đang trở nên vô
cùng cần thiết đối với các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay. Nhận thấy tính
cần thiết của việc quản lý công nợ phải thu và xử lý nợ khó đòi ở doanh
nghiệp, qua quá trình thực tập ở công ty cổ phần gas Petrolimex em đã đi sâu
tìm hiểu tình hình hoạt động của công ty và đã quyết định chọn đề tài:
“Quản lý công nợ phải thu và xử lý nợ khó đòi tại công ty cổ phần
gas Petrolimex”.
Đề tài của em gồm ba chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về quản lý công nợ phải thu và xử lý
nợ phải thu khó đòi.
Chương II: Tình hình quản lý công nợ phải thu và thực trạng xử lý nợ
phải thu khó đòi ở công ty cổ phần gas Petrolimex.
Chương III: Những giải pháp và kiến nghị về quản lý công nợ phải thu
và xử lý nợ phải thu khó đòi tại công ty.
2
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ
CÔNG NỢ PHẢI THU VÀ GIẢI PHÁP XỬ LÝ NỢ PHẢI THU
KHÓ ĐÒI Ở DOANH NGHIỆP
1.1. Khái quát về tài sản của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm
Như chúng ta đã biết doanh nghiệp là một thực thể kinh doanh tức là
một đơn vị kinh tế nắm trong tay các tiềm lực và tiến hành các hoạt động kinh
doanh cần phải ghi chép, tổng hợp và báo cáo.
Khi doanh nghiệp muốn tiến hành kinh doanh cũng cần phải có một
lượng vốn nhất định. Lượng vốn đó biểu hiện dưới dạng vật chất hay phi vật
chất và được đo bằng tiền gọi là tài sản. Mặt khác,để có tài sản đó thì vốn của
doanh nghiệp lại được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau gọi là nguồn vốn.
Về mặt kinh tế tài sản phản ánh qui mô và kết cấu các loại tài sản còn nguồn
vốn phản ánh cơ cấu tài trợ, cơ cấu vốn cũng như khả năng độc lập về tài
chính của doanh nghiệp. Như vậy tài sản và nguồn vốn là hai mặt giá trị của
vốn có mối quan hệ chặt chẽ và luôn được ghi chép trên bảng cân đối kế toán.
Trong đó bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh
tổng quát tình hình vốn của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định theo
nguồn tình hình tài sản (giáo trình Hạch toán kế toán trong các doanh nghiệp).
Bảng cân đối kế toán thông thường có các khoản mục sau:
3
TÀI SẢN NGUỒN VỐN
Tài sản lưu động
1. Tiền
2. Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn
3. Các khoản phải thu
4. Hàng tồn kho
5. Tài sản lưu động khác
6. Chi sự nghiệp
Tài sản cố định và đầu tư dài hạn
1. Tài sản cố định
-1 Tài sản cố định hữu hình
-2 Tài sản cố định thuê tài chính
-3 Tài sản cố định vô hình
2. Các khoản đầu tư tài chính dài hạn
3. Chi phí xây dựng cơ bản dở dang
4. Các khoản ký quỹ ký cược dài hạn
5. Chi phí trả trước dài hạn
Nợ phải trả
1. Nợ ngắn hạn
2. Nợ dài hạn
3. Nợ khác
Nguồn vốn chủ sở hữu
1. Nguồn vốn-quỹ
-4 Nguồn vốn kinh doanh
-5 Chênh lệch đánh giá lại tài sản
-6 Chênh lệch tỷ giá hối đoái
-7 Quỹ đầu tư phát triển
-8 Quỹ dự phòng tài chính
-9 Lợi nhuận chưa phân phối
-1 Nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản
2. Nguồn kinh phí khác
-1 Quỹ khen thưởng phúc lợi
-1 Quỹ quản lý của cấp trên
-1 Nguồn kinh phí sự nghiệp
-1 Nguồn kinh phí đã hình thành tài sản cố
định
TỔNG CỘNG TÀI SẢN TỔNG CỘNG NGUỒN VỐN
Tóm lại, tài sản là toàn bộ nguồn lực do doanh nghiệp kiểm soát và có
thể thu được lợi ích kinh tế trong tương lai hoặc tài sản là những tiềm năng
phục vụ cho hoạt động kinh doanh của đơn vị.
Lợi ích kinh tế trong tương lai của một tài sản là tiềm năng làm tăng
nguồn tiền và các khoản tương đương tiền của doanh nghiệp hoặc làm giảm
bớt các khoản tiền mà doanh nghiệp phải chi ra.
4
Lợi ích kinh tế trong tương lai của một tài sản được thể hiện trong các
trường hợp như:
Được sử dụng một cách đơn lẻ hoặc kết hợp với các tài sản khác trong
sản xuất sản phẩm để bán hay cung cấp dịch vụ cho khách hàng
Để bán hoặc trao đổi lấy tài sản khác
Để thanh toán các khoản nợ phải trả
Để phân phối cho các chủ sở hữu của doanh nghiệp
Như vậy tài sản là tất cả những thứ hữu hình hoặc vô hình gắn với lợi ích kinh
tế trong tương lai của đơn vị thoả mãn các điều kiện sau:
+ Thuộc quyền sở hữu hoặc quyền kiểm soát lâu dài của doanh nghiệp.
+ Có giá trị thực sự đối với doanh nghiệp
+ Có giá phí xác định.
1.1.2. Phân loại
Có rất nhiều cách phân loại tài sản trong các doanh nghiệp, nhưng cách
phân loại thông thường nhất là theo cách phân loại về mặt giá trị và tính chất
luân chuyển của tài sản, theo chế độ kế toán và để tiện theo dõi, toàn bộ tài sản
của các doanh nghiệp được chia làm hai loại
Loại 1: Tài sản lưu động (TSLĐ)
Là những tài sản có thời gian luân chuyển ngắn, tức là vòng đời của nó
khoảng dưới một năm. TSLĐ phản ánh toàn bộ giá trị của các loại tài sản lưu
động của doanh nghiệp bao gồm nhiều loại với tính chất công dụng khác
nhau,vì thế để tiện lợi cho việc quản lý, tài sản lưu động được phân theo các
cách khác nhau:
Theo lĩnh vực tham gia luân chuyển: tài sản lưu động gồm ba loại: Tài
sản lưu động sản xuất, tài sản lưu động lưu thông và tài sản lưu động tài chính.
+ Tài sản lưu động sản xuất gồm những tài sản dự trữ cho quá trình sản
xuất và tài sản trong sản xuất.Nó là những nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ….
5
+ Tài sản lưu động lưu thông bao gồm tài sản dự trữ cho quá trình lưu
thông và tài sản trong quá trình lưu thông. Đó là hàng hoá, thành phẩm, hàng
đang chuyển, hàng tồn kho…
+ Tài sản lưu động tài chính là các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn với
mục đích kiếm lời. Tài sản lưu động tài chính bao gồm các chứng khoán đầu
tư ngắn hạn…
Theo khả năng thanh khoản tức là khả năng huy động cho khả năng
thanh toán, người ta chia tài sản lưu động thành các loại sau:
+ Tiền mặt: là tài sản của đơn vị tồn tại trực tiếp dưới hình thái giá trị.
Thuộc về tiền của đơn vị bao gồm tiền mặt, tiền gửi ngân hàng và tiền đang
chuyển. Tiền mặt là tài sản có tính thanh khoản cao nhất.
+ Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn: là những khoản đầu tư về vốn
nhằm mục đích kiếm lời có thời hạn thu hồi trong vòng một năm hay một chu
kỳ kinh doanh. Thuộc đầu tư tài chính ngắn hạn gồm các khoản đầu tư cổ
phiếu, trái phiếu,…
+ Các khoản phải thu là số tài sản của đơn vị nhưng đang bị các tổ chức,
tập thể hay cá nhân khác chiếm dụng mà đơn vị có trách nhiệm thu hồi. Các
khoản phải thu ngắn hạn bao gồm phải thu người mua, tiền đặt trước cho
người bán, khoản nộp thừa cho Ngân sách, các khoản phải thu nội bộ…
+ Hàng tồn kho là tài sản lưu động tồn tại dưới hình thái vật chất có thể
cân, đo, đong, đếm được. Hàng tồn kho có thể có do đơn vị tự sản xuất hay
mua ngoài. Hàng tồn kho bao gồm: Vật liệu, dụng cụ, hàng mua đang đi
đường, thành phẩm, hàng hoá, sản phẩm dở dang….
+ Tài sản lưu động khác: là những tài sản lưu động còn lại như các
khoản tam ứng cho công nhân viên chức, các khoản chi phí trả trước…
- Căn cứ vào mục đích sử dụng : tài sản lưu động trong doanh nghiệp còn
có thể phân loại thành tài sản lưu động trong kinh doanh và tài sản lưu động
6
ngoài kinh doanh. Các loại tài sản lưu động ngoài kinh doanh đều không tham
gia vào quá trình kinh doanh của đơn vị.
Loại 2: Tài sản cố định
Tài sản cố định là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản của doanh
nghiệp có thời gian luân chuyển dài (thường là trên một năm hay một chu kỳ
kinh doanh). Tài sản cố định của doanh nghiệp được chia làm hai loại: Tài sản
cố định hữu hình và Tài sản cố định vô hình.
Tài sản cố định hữu hình là các tài sản cố định có hình thái vật chất, có
đủ tiêu chuẩn của tài sản cố định về gái trị và thời gian sử dụng theo qui định
trong chế độ quản lý tài chính hiện hành như nàh cửa, máy móc thiết bị,
phương tiện vận tải, phương tiện truyền dẫn…
Tài sản cố định vô hình là những tài sản cố định không có hình thái vật
chất, thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư, chi trả nhằm có được các lợi
ích hoặc các nguồn có tính chất kinh tế mà giá trị của chúng xuất phát từ các
đặc quyền hoặc quyền của doanh nghiệp như quyền sử dụng đất, bản quyền,
bằng phát minh sáng chế….Với loại tài sản này đặc biệt là những tài sản thuộc
quyền sở hữu của doanh nghiệp nhưng có thể không kiểm soát được về mặt
pháp lý như các bí quyết kỹ thuật thu được từ quá trình sản xuất kinh doanh,
phát minh, sáng chế…sẽ chỉ thoả mãn khái niệm về tài sản khi nó vẫn còn giữ
được bí mật và doanh nghiệp vẫn thu được lợi ích kinh tế từ tài sản đó.
Tài sản cố định có thể được hình thành do đơn vị tự đầu tư hoặc thuê dài
hạn. Những tài sản thuê ngoài không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp
nhưng doanh nghiệp kiểm soát được và thu được lợi ích kinh tế trong tương
lai.
1.1.3. Đánh giá và ghi nhận tài sản của doanh nghiệp
Doanh nghiệp ngay từ khi được thành lập, quy mô của nó phụ thuộc vào
vốn hình thành thể hiện qua tài sản và nguồn vốn. Tài sản đóng vai trò quan
7
trọng trong sự phát triển của doanh nghiệp do đó đánh giá và ghi nhận tài sản
của doanh nghiệp là công việc rất có ý nghĩa trong công tác quản lý, sử dụng
đầy đủ và hợp lý tài sản trong doanh nghiệp.
Đánh giá và ghi nhận tài sản của doanh nghiệp là quá trình theo dõi nắm
bắt tình hình biến động của tài sản về số lượng và chất lượng cũng như tình
hình sử dụng tài sản đó.
Giá trị tài sản cũng như nguồn vốn được phản ánh trong sổ sách kế toán
thông qua phương pháp hạch toán kế toán. Tài sản được ghi nhận trong sổ
sách kế toán lần đầu tiên theo đúng toàn bộ giá trị thực tế của nó tại thời điểm
đó (với tài sản cố định, nó chính là nguyên giá). Tài sản được ghi nhận trong
bảng CĐKT khi doanh nghiệp có khả năng chắc chắn thu được lợi ích kinh tế
trong tương lai từ tài sản đó và giá trị của tài sản đó được xác định một cách
đáng tin cậy. Tuy nhiên trong quá trình sử dụng thì giá trị của những tài sản
trong doanh nghiệp sẽ có sự thay đổi về giá trị do một số yếu tố khác nhau làm
giá của nó tăng, giảm liên tục. Do vậy việc xác định nên đầu tư vào tài sản nào
là rất quan trọng và trong quá trình sử dụng phải thường xuyên đánh giá lại và
ghi nhận những sự thay đổi về giá trị của nó để phản ánh đúng giá trị thực của
tài sản, từ đó đưa ra những quyết định tài chính của doanh nghiệp được chính
xác.
1.2. Quản lý công nợ phải thu của doanh nghiệp
1.2.1. Công nợ phải thu
1.2.1.1. Khái niệm
Công nợ phải thu là một bộ phận quan trọng trong tài sản của doanh
nghiệp phát sinh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp khi thực hiện
việc cung cấp sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ cũng như một số trường hợp khác
liên quan đến bộ phận vốn của doanh nghiệp bị chiếm dụng tạm thời như cho
8
mượn ngắn hạn, chi hộ cho đơn vị bạn hoặc cấp trên, giá trị tài sản thuế mà
chưa xử lý…
Nói một cách ngắn gọn, công nợ phải thu là số tài sản của đơn vị nhưng
đang bị các tổ chức hay tập thể, cá nhân khác chiếm dụng mà đơn vị có trách
nhiệm thu hồi. Những tài sản đó là những khoản phát sinh trong các hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp với các đối tác.
1.2.1.2. Phân loại
Ta có thể phân loại nợ phải thu theo các cách sau:
a. Theo đối tượng nợ, nợ phải thu bao gồm
Phải thu khách hàng: là khoản tiền mà khách hàng đã mua nợ doanh
nghiệp do đã được cung cấp sản xuất, hàng hoá, dịch vụ nhưng chưa được
thanh toán tiền. Đây là khoản nợ phải thu chiếm tỷ trọng lớn nhất phát sinh
thường xuyên và cũng gặp nhiều rủi ro nhất trong các khoản nợ phải thu phát
sinh tại doanh nghiệp.
Thuế GTGT được khấu trừ: là phần thuế GTGT đầu vào được hoàn lại
nhưng NSNN chưa hoàn trả.
Phải thu nội bộ: thường phát sinh trong các doanh nghiệp có sự phân
cấp kinh doanh, quản lý và công tác kế toán. Nó bao gồm các khoản vốn , kinh
phí đã cấp cho cấp dưới, các khoản thu hộ, chi hộ giữa cấp trên và cấp dưới
trực thuộc và các khoản khác.
Các khoản thanh toán trước và phải thu khác: là các khoản phải thu
không thuộc các khoản phải thu trên. Cụ thể các khoản phải thu khác bao gồm
khoản thu do bắt bồi thường, khoản thu về khoản nợ tiền hoặc vật tư có tính
chất tạm thời, trị giá tài sản thuế chưa xử lý….
b. Theo khả năng thu hồi, nợ phải thu bao gồm:
Nợ không có khả năng thu hồi: đây là những khoản nợ đã quá hạn thanh
9
toán mà khách hàng vẫn không trả được hoặc những khoản nợ mà doanh
nghiệp sau khi thẩm định thấy khách hàng không thể trả được ngay cả khi thời
hạn thanh toán vẫn còn do khách hàng gặp phải một số những khó khăn không
thể tiếp tục kinh doanh để trả nợ.
Nợ có khả năng thu hồi: Đây là những khoản phải thu vẫn còn hạn
thanh toán và khách hàng vẫn đang hoạt động kinh doanh tốt. Những khoản
phải thu như thế này có thể đem lại cho doanh nghiệp những mối quan hệ tốt
với khách hàng là động lực thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm.
c. Theo hình thức bảo lãnh, nợ phải thu bao gồm:
Theo hình thức này, doanh nghiệp khi trao đổi hàng hoá việc thu tiền về
ngay hay còn cho đối tác nợ lại dựa trên uy tín của đối tác đối với doanh
nghiệp. Có hai hình thức nợ như sau:
Nợ có bảo lãnh: thường áp dụng với những khách hàng mới xuất hliện
trên thị trường mà doanh nghiệp chưa nắm được tình hình hoạt động kinh
doanh của nó; với những khách hàng mà đã từng có những dấu hiệu làm ăn
thua lỗ hay có những bằng chứng chứng minh khách hàng này thường hay
thiếu nợ với những đối tác khác trong kinh doanh. Với những khách hàng này
doanh nghiệp cần phải theo dõi sát sao quá trình hoạt động để kịp thời nắm bắt
tình hình và xử lý khi những khách hàng này có biểu hiện không bình thường
trong kinh doanh.
Nợ không có bảo lãnh: thường áp dụng với những khách hàng lâu năm
của doanh nghiệp; những khách hàng có uy tín trong hoạt động kinh doanh,
trong mối quan hê với đối tác. Đây là những khách hàng lớn không chỉ có uy
tín với doanh nghiệp mà còn có uy tín với các doanh nghiệp khác trên thị
trường hoạt động của nó. Đối với những khách hàng như thế này, trong quan
hệ mua bán doanh nghiệp không cần đòi hỏi phải có tài sản đảm bảo hay
những khoản cầm cố, bảo lãnh. Làm việc dựa trên uy tín như thế này sẽ giữ
10
được mối quan hệ hợp tác lâu dài, từ đó cũng sẽ làm tăng uy tín của doanh
nghiệp do doanh nghiệp có những đối tác rất uy tín trên thị trường hoạt động
kinh doanh.
1.2.2. Quản lý công nợ phải thu ở doanh nghiệp
1.2.2.1. Mục tiêu quản lý
Nợ phải thu là một bộ phận quan trọng trong tài sản của doanh nghiệp,
liên quan đến các đối tượng bên trong lẫn bên ngoài doanh nghiệp, trong đó có
các cơ quan chức năng của Nhà nước (chủ yếu là cơ quan thuế) đồng thời nội
dung các khoản phải thu cũng có tính chất đa dạng gắn liền với sự đa dạng
trong các giao dịch phát sinh trong hoạt động của doanh nghiệp . Đặc biệt nợ
phải thu của các đối tượng bên ngoài xảy ra trong các giao dịch kinh doanh có
thể xảy ra những rủi ro làm chậm hoặc thậm chí không thể thu hồi nợ, ảnh
hưởng đến tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Do tính chất đa dạng về nội dung, đối tượng phải thu cũng như những
rủi ro có thể xảy ra nên cần phải quản lý và kiểm soát chặt chẽ tình hình nợ
phải thu này từ lúc phát sinh ra các giao dịch. Chính vì thế mà nhà quản trị tài
chính phải thường xuyên theo dõi các khoản phải thu để xác định đúng thực
trạng của chúng và đánh giá tính hữu hiệu của các chính sách thu tiền của
doanh nghiệp. Qua đó nhận diện những khoản tín dụng có vấn đề và thu thập
những tín hiệu để quản lý những khoản hao hụt. Từ đó ta thấy mục tiêu chủ
yếu khi thực hiện quản lý công nợ phải thu là:
Đưa ra những chính sách hợp lý nhằm thúc đẩy quá trình sản xuất, tiêu
thụ sản phẩm. Tại mỗi doanh nghiệp khi sản xuất kinh doanh các sản phẩm,
dịch vụ việc quản lý công nợ phải thu sẽ ảnh hưởng rất lớn tới tình hình tiêu
thụ sản phẩm kéo theo sự biến đổi trong doanh thu, từ đó ảnh hưởng tới hoạt
động sản xuất kinh doanh tức là đã ảnh hưởng tới toàn bộ hoạt động của doanh
11
nghiệp đó. Như vậy quản lý công nợ phải thu trước tiên là đảm bảo cho khả
năng tiêu thụ sản phẩm ổn định đem lại doanh thu tốt nhất cho doanh nghiệp.
Hạn chế công nợ phải thu ở mức thấp nhất có thể để lành mạnh hoá tài
chính của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp khi đi vào hoạt động luôn nhằm
mục đích tối đa hoá lợi nhuận trên cơ sở nâng cao chất lượng doanh nghiệp.
Để đạt được mục tiêu đó, doanh nghiệp cần có hoạt động tài chính tốt. Bởi khi
hoạt động tài chính càng tốt thì doanh nghiệp sản xuất sẽ có ít công nợ => khả
năng thanh toán dồi dào, ít đi chiếm dụng vốn và cũng ít bị chiếm dụng, từ đó
sẽ làm giảm các khoản công nợ phải thu và phải trả, hạn chế được rất nhiều chi
phí phát sinh khi phải xử lý các khoản công nợ trên.
Quản lý công nợ phải thu nhằm nắm rõ tình hình hoạt động sản xuất
kinh doanh của các bạn hàng, từ đó đưa ra những quyết định tốt nhất trong quá
trình mua bán trao đổi hàng hoá với khách hàng đó.
1.2.2.2. Nội dung quản lý
Trong bảng CĐKT của các doanh nghiệp bao giờ cũng có các khoản phải
thu thậm chí có những doanh nghiệp các khoản phải thu này có giá trị khá cao
song trong quá trình thu tiền theo hoá đơn bán chịu cũ thì doanh nghiệp vẫn
tiếp tục bán hàng hoá và sẽ xuất hiện những hoá đơn bán chịu mới. Do đó
trong kinh doanh một doanh nghiệp mua chịu và bán chịu là công việc thường
ngày và hoá đơn cũ được thanh toán thì hoá mới cũng được tạo ra. Tuy nhiên
độ lớn cuả các khoản phải thu của một doanh nghiệp thay đổi theo thời gian,
tuỳ thuộc vào tốc độ thu hồi nợ cũ và tạo ra nợ mới, cũng như sự tác động của
những điều kiện kinh tế chung nằm ngoài tầm kiểm soát của doanh nghiệp.
Nhưng cũng có một số biến số có thể kiểm soát được có thể tác động đến độ
lớn cũng như “chất lượng” của các khoản phải thu một cách mạnh mẽ.
Để quản lý các khoản phải thu doanh nghiệp sẽ có những chính sách
12
liên quan đến những biến số có thể kiểm soát được và được gọi là chính sách
tín dụng. Khi đã có những chính sách phù hợp doanh nghiệp sẽ phải tiến hành
theo dõi các khoản phải thu đó.
Nội dung quản lý cụ thể như sau:
a. Về chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng là một yếu tố quyết định quan trọng khác liên quan
đến mức độ, chất lượng và rủi ro của doanh thu bán hàng. Chính sách tín dụng
của doanh nghiệp được thực hiện thông qua việc kiểm soát 4 biến số sau :
• Tiêu chuẩn tín dụng: là nguyên tắc chỉ đạo định rõ sức mạnh tài chính
tối thiểu và có thể chấp nhận được của những khách hàng mua chịu. Theo
nguyên tắc này những khách hàng nào có sức mạnh tài chính hay vị thế tín
dụng thấp hơn những tiêu chuẩn tài chính có thể chấp nhận được thì sẽ bị từ
chối cấp tín dụng theo thể thức tín dụng thương mại.
Nếu thay đổi chính sách tín dụng ở một doanh nghiệp có thể tác động đến
doanh số bán của nó. Khi các tiêu chuẩn tăng lên ở mức cao hơn, doanh số bán
sẽ giảm và ngược lại, khi các tiêu chuẩn giảm thì doanh số bán sẽ tăng. Thông
thường, khi các tiêu chuẩn tín dụng được hạ thấp sẽ thu hút được nhiều khách
hàng có tiềm lực tài chính yếu hơn.
• Thời hạn bán chịu: là độ dài thời gian từ ngày giao hàng đến ngày nhận
được tiền bán hàng. Giả sử điều kiện bán hàng là “2/10 net 40”, thì thời hạn
bán chịu là 40 ngày. Nhà quản trị tài chính có thể tác động đến doanh số bằng
cách thay đổi thời hạn tín dụng. Khi thời hạn bán chịu tăng đòi hỏi doanh
nghiệp phải đầu tư lớn hơn vào các khoản phải thu, nợ khó đòi sẽ cao hơn và
chi phí thu tiền bán hàng cũng sẽ tăng lên. Nhưng doanh nghiệp sẽ thu hút
thêm được nhiều khách hàng mới và doanh thu tiêu thụ sẽ tăng lên.
• Chính sách chiết khấu: Chiết khấu là sự khấu trừ làm giảm tổng giá trị
mệnh giá của hoá đơn bán hàng được áp dụng đối với khách hàng nhằm
13
khuyến khích họ thanh toán tiền mua hàng trước thời hạn.
• Chính sách thu tiền: là các biện pháp áp dụng để thu hồi những những
khoản nợ mua hàng quá hạn. những biện pháp đó bao gồm gửi thư, gọi điện
thoại, cử người đến gặp trực tiếp, uỷ quyền cho người đại diện, tiến hành các
thủ tục pháp lý … Rõ ràng là khi doanh nghiệp cố gắng đòi nợ bằng cách áp
dụng những biện pháp cứng rắn hơn thì cơ hội thu hồi nợ càng lớn hơn, nhưng
các biện pháp càng cứng rắn thì chi phí thu hồi càng cao. Thêm vào đó, một số
khách hàng có thể khó chịu khi bị đòi tiền gắt gao và cứng rắn, do đó doanh số
tương lai có thể sẽ bị giảm xuống.
b. Theo dõi khoản phải thu
Để theo dõi các khoản phải thu chúng ta có thể xem xét một số các công
cụ sau:
Các chỉ tiêu về công nợ phải thu
•
Kỳ thu tiền bình quân
Đây là một công cụ đo lường để hỗ trợ nhà quản lý theo dõi các khoản
phải thu. Kỳ thu tiền bình quân là tổng giá trị hàng hoá đã bán cho khách hàng
theo phương thức tín dụng thương mại (tổng giá trị các khoản phải thu) tại một
thời điêm nào đó, chia cho doanh số bán chịu bình quân mỗi ngày.
Kỳ thu tiền
Bình quân
=
Tổng giá các khoản phải thu
Doanh số bán chịu bình quân
Kỳ thu tiền bình quân cho biết một đồng tiền bán hàng trước đó phải
mất bao nhiêu ngày mới thu lại được. Đây là phương pháp đo lường đơn giản,
chịu sự chi phối của hai yếu tố chính là:
Sự đo lường áp dụng đối với doanh số bán hàng trung bình mỗi ngày và
không có sự khác biệt về sự phân bố của doanh số bán.
Thời kỳ mà doanh số bán mỗi ngày được sử dụng làm cơ sở để tính
toán. Kỳ thu tiền bình quân có độ nhạy rất cao với yếu tố này.
14
•
Tỷ lệ các khoản phải thu so với phải trả
Đây là chỉ tiêu phản ánh tỷ lệ giữa các khoản phải thu so với các khoản
phải trả của doanh nghiệp. Nó bằng tổng số nợ phải thu chia cho phải trả.
Tỷ lệ các khoản phải thu
so với phải trả
=
Tổng số nợ phải thu
Tổng số nợ phải trả
Tỷ lệ này càng lớn chứng tỏ đơn vị bị các tổ chức khác chiếm dụng vốn
càng nhiều và ngược lại tỷ lệ này càng nhỏ thì chứng tỏ đơn vị đã sử dụng vốn
của đơn vị khác nhiều.
•
Số vòng luân chuyển các khoản phải thu.
Chỉ tiêu này cho biết tốc độ luân chuyển của các khoản phải thu. Số vòng luân
chuyển các khoản phải thu được tính bằng tổng số doanh thu bán chịu thực
chia cho bình quân các khoản phải thu.
Số vòng luân chuyển
các khoản phải thu
=
Tổng doanh số bán chịu thực
Bình quân các khoản phải thu
Qua chỉ tiêu này chúng ta thấy được mức hợp lý của số dư các khoản
phải thu và hiệu quả của việc thu hồi nợ.
Nếu phải thu nhanh thì số vòng luân chuyển các khoản phải thu sẽ cao và công
ty ít bị chiếm dụng vốn. Tuy nhiên nếu chỉ tiêu này quá cao thì cũng không tốt
vì nó sẽ ảnh hưởng tới khối lượng hàng tiêu thụ do phương thức thanh toán
quá chặt chẽ sẽ thu hẹp mạng lưới khách hàng, sẽ có ít khách hàng đáp ứng
được mức yêu cầu tín dụng mà doanh nghiệp đưa ra.
Như vậy nhà tài chính sẽ phải phân tích chặt chẽ hơn, kết hợp giữa
chính sách bán chịu và quản lý các khoản phải thu để tính toán được số vòng
luân chuyển các khoản phải thu một cách hợp lý.
•
Số ngày trung bình để thu các khoản phải thu
Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ thu hồi các khoản phải thu ở doanh nghiệp.
15
Số ngày trung bình để thu các khoản phải thu dựa trên hai chỉ tiêu là thời gian
của kỳ phân tích và số vòng luân chuyển các khoản phải thu :
Số ngày tb để thu các
=
Thời gian của kỳ phân tích
Số vòng luân chuyển các khoản phải thu
Chỉ tiêu này cho biết để thu hồi được các khoản phải thu thì cần một
thời gian là bao nhiêu ngày. Nếu số ngày để thu được các khoản phải thu lớn
hơn thời gian bán chịu quy định cho khách hàng thì việc thu hồi này là chậm
và khi đó công ty cần phải điều chỉnh chính sách cho hợp lý để tránh rủi ro tổn
thất nợ phải thu khó đòi.
Phân tích tuổi của các khoản phải thu
Phương pháp phân tích này dựa trên thời gian biểu về tuổi của các
khoản phải thu, cung cấp cho nhà quản trị sự phân bố về tuổi của các khoản
bán chịu. Sự phân tích theo phương pháp này có tác dụng rất hữu hiệu, nhất là
khi các khoản phải thu được xem xét dưới giác độ sự biến động về mặt thời
gian. Bởi vậy nó có thể tạo ra một phương thức theo dõi hiệu quả đối với các
khoản phải thu.
Tuy nhiên phương pháp này chịu sự chi phối rất mạnh mẽ của doanh số
bán theo mùa-vụ. Hay nói cách khác nếu doanh số bán thay đổi thất thường thì
biểu thời gian sẽ cho thấy sự thay đổi rất lớn dù rằng mô hình thanh toán
không thay đổi.
Mô hình số dư khoản phải thu
Mô hình này khắc phục được nhược điểm của mô hình trên. Phương pháp này
đo lường phần doanh số bán chịu của mỗi thángvẫn chưa thu được tiền tại thời
điểm cuối tháng đó và tại thời điểm kết thúc của tháng tiếp theo.
16
Hạch toán vào sổ sách kế toán
Và công cụ quan trọng nhất để theo dõi các khoản phải thu đó là hạch
toán các khoản phải thu vào sổ sách kế toán. Quá trình quản lý công nợ phải
thu được nhân viên kế toán theo dõi chi tiết theo từng khách hàng, theo từng
nội dung phải thu phát sinh để đáp ứng nhu cầu thông tin về đối tượng phải
thu, nội dung phải thu, tình hình thanh toán và khả năng thu hồi nợ. Kế toán
tổng hợp khoản phải thu của khách hàng sử dụng tài khoản 131 "phải thu
khách hàng". Tài khoản này phản ánh số tiền phải thu, đã thu, còn phải thu
hoặc số tiền khách hàng ứng trước. Kết cấu tài khoản này như sau:
- Bên nợ: Số tiền phải thu của khách hàng
- Bên có: + Số tiền đã thu của khách hàng;
+ Số tiền giảm trừ cho khách hàng do chiết khấu, giảm giá và
bán hàng bị trả lại;
+ Số tiền khách hàng ứng trước cho doanh nghiệp.
- Dư nợ: Số tiền còn phải thu khách hàng hoặc chênh lệch số tiền còn
phải thu lớn hơn số tiền khách hàng ứng trước.
- Dư có: Số tiền khách hàng hiện đang ứng trước hoặc chênh lệch số
tiền khách hàng ứng trước lớn hơn số tiền còn phải thu khách hàng.
Khi các giao dịch mua bán diễn ra, kế toán viên sẽ phản ánh liên tục vào
tài khoản như sau:
* Ghi nợ vào TK131 và ghi có vào các TK đối ứng:
- Khi bán hàng, cung cấp dịch vụ và các khoản thu liên quan đến hoạt
động đầu tư tài chính, thu nhập khác nhưng chưa thu tiền khách hàng.
- Khi xuất khẩu sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, chưa thu tiền của khách
hàng, kế toán căn cứ vào tỷ giá thực tế phát sinh khi ghi nhận doanh thu.
* Ghi nợ vào các TK đối ứng và ghi có vào TK 131 khi có các nghiệp
17
vụ phát sinh:
- Khi khách hàng thanh toán tiền;
- Các khoản chiết khấu, giảm giá và hàng bị trả lại được giảm nợ cho
khách hàng;
- Khi nhận tiền do khách hàng do khách hàng ứng trước tiền mua hàng;
- Khi thanh toán bù trừ giữa khoản phải thu và phải trả cho cùng đối
tượng mua hàng.
Ngoài TK 131 "phải thu khách hàng", để quản lý các khoản phải thu kế
toán còn phải sử dụng một số các tài khoản phải thu khác như: TK138 "phải
thu khác", TK 133 "thuế GTGT được khấu trừ", TK 136 "phải thu khác".
Như vậy công tác quản lý các khoản phải thu sẽ rất khó khăn phức tạp
bởi nó liên quan tới rất nhiều yếu tố, nhiều biến số kinh tế. Tuy nhiên việc
quản lý tốt các khoản phải thu sẽ tránh cho các doanh nghiệp tình trạng phải
giải quyết các khoản phải thu khó đòi. Khi xuất hiện các khoản phải thu khó
đòi các doanh nghiệp phải nhanh chóng xử lý và việc xử lý các khoản phải thu
này em xin được đề cập ở phần sau đây.
1.3. Xử lý nợ khó đòi ở doanh nghiệp
1.3.1. Nợ khó đòi ở doanh nghiệp
1.3.1.1. Khái niệm
Nợ khó đòi là các khoản nợ đã quá thời hạn thanh toán, doanh nghiệp đã
áp dụng các biện pháp xử lý như đối chiếu, xác nhận, đôn đốc thanh toán
nhưng vẫn chưa thu hồi được.
Các khoản phải thu được coi là các khoản nợ khó đòi khi nó đảm bảo
các điều kiện sau:
+ Nợ phải thu đã quá hạn thanh toán ghi trên hợp đồng kinh tế, các khế
ước vay nợ hoặc các cam kết nợ khác.
18
+ Nợ phải thu chưa đến thời hạn thanh toán nhưng các tổ chức kinh tế
(các công ty, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, tổ chức tín dụng…) đã lâm
vào tình trạng phá sản hoặc đang làm thủ tục giải thể; người nợ mất tích, bỏ
trốn, đang bị các cơ quan pháp luật truy tố, giam giữ, xét xử, đang thi hành án
hoặc đã chết.
+ Những khoản nợ quá hạn từ 3 năm trở lên coi như không có khả năng
thu hồi và được xử lý theo qui định.
1.3.1.2. Phân loại
Ta có thể dựa vào “tuổi” của các khoản nợ cùng với tình hình hoạt động
của doanh nghiệp để phân loại nợ khó đòi. Theo cách đó ta có 2 loại nợ khó
đòi sau:
Nợ phải thu đã quá hạn thanh toán: đây là những khoản nợ của khách
hàng đã qua hạn phải trả nhưng do một lý do nào đó mà khách hàng đó không
thể trả được. Đối với khoản nợ khó đòi này, ta có thể phân ra làm các loại sau:
+ Khoản nợ phải thu quá hạn thanh toán từ 3 tháng đến dưới 1 năm.
+ Khoản nợ phải thu quá hạn thanh toán từ 1 năm đến dưới 2 năm.
+ Khoản nợ phải thu quá hạn thanh toán từ 2 năm đến dưới 3 năm
+ Khoản nợ phải thu quá hạn thanh toán từ 3 năm trở lên.
Nợ phải thu chưa đến hạn thanh toán nhưng tổ chức kinh tế đã lâm
vào tình trạng phá sản hoặc đang làm thủ tục giải thể; người nợ mất tích, bỏ
trốn, đang bị các cơ quan pháp luật truy tố, giam giữ, xét xử hoặc đang thi
hành án…
Các khoản nợ đã quá hạn thanh toán trên 3 năm hoặc chưa quá hạn thanh toán
nhưng tổ chức kinh tế vay nợ không có khả năng trả nợ được nữa thì được coi
như khoản nợ không có khả năng thu hồi.
19
1.3.1.3. Nguyên nhân dẫn tới nợ khó đòi ở doanh nghiệp
Đối với mỗi doanh nghiệp, để quản lý nợ một cách có hiệu quả không
những phải kiểm soát chính mình mà còn phải hiểu rõ những nguyên nhân
phát sinh nợ khó đòi. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến nợ khó đòi mà ta có
thể thống kê được như sau:
Các nguyên nhân chủ quan từ phía doanh nghiệp:
Do chính sách của doanh nghiệp như chính sách bán chịu, chính sách
chiết khấu hay thời hạn thu hồi nợ…. Doanh nghiệp muốn đẩy mạnh việc tiêu
thụ sản phẩm, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận nên đã nới lỏng các tiêu chuẩn
tài chính, hạ thấp các tiêu chuẩn này xuống tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp có tiêu chuẩn tài chính thấp cũng có thể mua chịu hàng hoá. Điều này
mở rộng mạng lưới khách hàng cho doanh nghiệp nhưng đồng thời cũng làm
tăng rủi ro trong việc thu hồi nợ.
Do năng lực yếu kém của nhân viên quản lý công nợ và nhân viên
thẩm định tài chính khách hàng của doanh nghiệp. Các nhân viên có năng lực
yếu kém có thể đưa ra những nhận định sai về năng lực tài chính của khách
hàng dẫn tới sai sót trong chính sách cho vay hay bán chịu của doanh nghiệp,
điều này ảnh hưởng tới giá trị các khoản phải thu của doanh nghiệp. nó sẽ làm
tăng các khoản phải thu nếu như khách hàng của doanh nghiệp có khả năng tài
chính kém nhưng lại được ưu đãi trong chính sách tín dụng của doanh nghiệp.
Hoặc cũng có những nhân viên thiếu trách nhiệm trong công việc. Làm việc
không đúng với trách nhiệm cũng như sự tín nhiệm của công ty dẫn tới những
thiếu sót trong chính sách tín dụng cũng ảnh hưởng tới giá trị các khoản phải
thu. Đây là nguyên nhân xuất phát tự đạo đức trong công việc hay còn gọi là
đạo đức nghề nghiệp.
Nguyên nhân khách quan:
Thứ nhất, từ phía doanh nghiệp là khách hàng:
20
Do năng lực yếu kém của bản thân doanh nghiệp vay nợ. Trong nhiều
trường hợp, phía người mua trả chậm có những sai sót chủ quan, thậm chí cố ý
không hoàn trả món nợ; các khoản này thuộc nhóm rủi ro đạo đức. Một số
công ty trong ngành xây dựng trúng thầu công trình với giá trúng thầu quá
thấp, thua lỗ và không thể trả nợ đúng hạn thậm chí có nguy cơ phá sản. Nhiều
doanh nghiệp không dự đoán đúng thị trường, mức bán hàng và doanh số,
quyết định mua một khối lượng hàng hoá quá lớn, thanh toán trả chậm nhưng
không thể bán được hàng hoặc các nguyên nhân khác làm ứ đọng hàng háo
dẫn tới việc không thể thanh toán các khoảnt nợ phải trả. Nhiều doanh nghiệp
chưa có khả năng kiểm soát nguồn tiền của doanh nghiệp, mất cân đối về
luồng tiền, dẫn đến mất khả năng thanh toán.
Do đối tác của doanh nghiệp là khách hàng vay nợ lâm vào tình trạng
không thể hoàn trả nợ làm cho khách hang của doanh nghiệp khó có khoản
tiền để trả cho doanh nghiệp.
Thứ hai: Sự biến động của thị trường và các rủi ro trong kinh doanh.
Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt làm cho doanh nghiệp không có
khả năng thích ứng kịp thời, kinh doanh khó khăn dẫn đến tình trạng mấu khả
năng thanh toán. Trong điều kiện hội nhập và cạnh tranh quốc tế hiện nay, cần
đặc biệt chú ý đến những biến động trong ngoại thương, chẳng hạn như sự
biến động của tỷ giá, biến động giá xăng dầu, vật liệu xây dựng, nguyên liệu…
Thứ ba: Sự thay đổi trong chính sách kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng rất lớn tới
tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nó có thể là nguồn động lực
thúc đẩy doanh nghiệp hoạt động hiệu quả nhưng cũng có thể là rào cản trong
sự phát triển của các doanh nghiệp. Tuy nhiên khi đề cập đến phát sinh nợ tồn
đọng ta chỉ đề cập các bất lợi mà chính sách kinh tế vĩ mô mang tới cho khách
hàng. Các thay đổi trong chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng nhất đó là thay
đổi về thuế quan. Ví dụ như Việt Nam tăng thuế nhập khẩu sẽ làm tăng giá sản
21
phẩm nhập khẩu vào=>giảm tiêu dùng=>doanh thu của các doanh nghiệp bán
các mặt hàng nhập khẩu giảm xuống. Nhưng khi chính phủ giảm thuế nhập
khẩu các mặt hàng nước ngoài thì các mặt hàng này lại bán chạy trong nước
làm cho các doanh nghiệp trong nước phải cạnh tranh mạnh hơn trên thị
trường trong nước. Khi đó các doanh nghiệp sẽ thúc đẩy mạnh hơn các chính
sách nhằm tăng tiêu thụ sản phẩm và chính sách tín dụng trong đó có chính
sách bán chịu cũng không nằm ngoài sự thay đổi đó. Điều này làm cho khoản
phải thu của các doanh nghiệp chư nợ sẽ tăng lên.
Môi trường pháp lý cũng có thể làm phát sinh nợ khó đòi nếu sự thay
đổi về pháp lý ảnh hưởng tới hoạt động của người vay, làm cho người vay gặp
khó khăn trong hoạt động kinh doanh và dẫn tới những khó khăn trong việc
thanh toán nợ.
Như vậy bất cứ nguyên nhân nào cũng có khả năng dẫn tới khoản nợ
phải thu tuy nhiên tình hình hoạt đông kinh doanh của khách hàng là nguyên
nhân trực tiếp và quan trọng nhất trong việc nảy sinh các khoản nợ khó đòi ở
doanh nghiệp. Do đó việc thường xuyên theo dõi, đánh giá năng lực của bạn
hàng là điều vô cùng cần thiết trong công tác quản lý các khoản nợ phải thu
khó đòi.
1.3.2. Xử lý các khoản nợ khó đòi ở doanh nghiệp
1.3.2.1. Mục tiêu xử lý
Nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển thì các quan hệ tín dụng
ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp. Sư phát sinh nợ là một yếu tố tất nhiên
trong hoạt động kinh doanh, trong đó bao gồm cả tín dụng ngân hàng và tín
dụng thương mại. Tình trạng nợ nần và việc kiểm soát nợ cần được nhìn nhận
từ cả hai góc độ: bên cung cấp tín dụng và bên đi vay. Nhiều doanh nghiệp
đang phải đối mặt với rủi ro tín dụng rất cao, trong đó rủi ro về tổn thất nợ khó
22
đòi là một trong những nhân tố cần được kiểm soát chặt chẽ. Trong nhiều
trường hợp tổn thất nợ tồn đọng trong doanh nghiệp gia tăng làm giảm năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp thậm chí có khi dẫn tới nguy cơ phá sản.
Chính vì thế mà mục tiêu xử lý nợ tồn đọng trong các doanh nghiệp chủ yếu là
Xoá các khoản nợ khó đòi tránh gây tổn thất nợ khó đòi ảnh hưởng tới
tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp;
Làm trong sạch hoá tình hình tài chính của doanh nghiệp;
Giảm bớt chi phí quản lý do phải trích lập dự phòng phải thu khó đòi để
có thêm một khoản tiền đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
1.3.2.2. Nội dung xử lý
Như chúng ta đã biết các khoản phải thu nảy sinh trong quá trình giao
dịch mua bán hàng hoá và dịch vụ, đó là số tiền khách hàng nợ doanh nghiệp
khi mua chịu hàng hoá dịch vụ. Hầu hết các doanh nghiệp đều phát sinh các
khoản phải thu nhưng ở mức độ ít hay nhiều khác nhau. Có những khoản phải
thu là không đáng kể nhưng cũng có những khoản phải thu không thể kiểm
soát được và trở thành những khoản phải thu khó đòi hoặc những khoản nợ tồn
đọng không thể thu hồi. Khi đó các doanh nghiệp phải nhanh chóng tiến hành
xử lý để tránh rủi ro tổn thất nợ khó đòi. Việc xử lý nợ khó đòi đó cần phải
được tiến hành theo qui trình sau:
Trước tiên công ty có khoản phải thu khó đòi phải tiến hành rà soát lại
các khoản khó đòi và lên phương án xử lý khoản nợ khó đòi đó. Công ty phải
xem xét kỹ khoản nợ và các yếu tố xung quanh khoản nợ đó. Khoản nợ đó vì
sao khó đòi ? Nguyên nhân từ đâu? Từ phía doanh nghiệp hay từ phía đối tác
hay do điều kiện chính sách pháp luật thay đổi?
Nếu nguyên nhân từ phía doanh nghiệp thì cần phải tiến hành xem xét
lại các tiêu chuẩn tín dụng của doanh nghiệp, các chính sách bán hàng, thái độ
23
làm việc của nhân viên….Từ đó đưa ra nhưng kiến nghị để chấn chỉnh sao cho
phù hợp và có thể thu hồi được những khoản nợ khó đòi.
Nếu nguyên nhân từ phía khách hàng (thường nguyên nhân từ phía
khách hàng nhiều hơn) thì doanh nghiệp càng cần phải tìm hiểu kỹ nguyên
nhân khách hàng không trả tiền là do đâu? Có phải là do khách hàng không
muốn trả hay do điều kiện kinh doanh không như mong muốn mà khách hàng
không thể trả được khoản nợ cho doanh nghiệp? Nếu do khách hàng không
muốn trả thì vì sao họ không muốn trả? Vì họ muốn giữ mối quan hệ đối tác
với công ty, vì họ muốn giữ khoản vốn có giá rẻ này để đầu tư vào hàng hoá
dịch vụ khác hay vì vấn đề đạo đức nghề nghiệp mà họ không muốn trả nợ…
Người làm tài chính của công ty cần phải xem xét kỹ nguyên nhân để có
những biện pháp thu hồi hợp lý. Muốn đưa ra những biện pháp thu hồi nợ thì
người quản lý công nợ phải thu phải tiếp xúc với khách hàng, phải đốc thúc
khách hàng trả nợ cho công ty, hoặc tuỳ từng hoàn cảnh của khách hàng để
đưa ra những chính sách thu hồi nợ cần thiết. Còn nếu do khách hàng không
thể trả được thì vì sao? Khách hàng đã không trả được thì thường do công ty
khách hàng làm ăn thua lỗ, họ không bán được hàng của công ty mình nên
chưa thu hồi được tiền để trả nợ. Khi đó người làm tài chính cần phân tích khả
năng của khách hàng khi kinh doanh để ra quyết định nên tiếp tục bán chịu
cho họ để họ tiếp tục kinh doanh thu hồi lại vốn trả nợ cho công ty trong
trường hợp khách hàng có những chính sách mới, thay đổi phương pháp kinh
doanh phù hợp với điều kiện môi trường kinh doanh trong tương lai hay bằng
mọi cách thu hồi nợ về nếu xét thấy khách hàng không còn khả năng kinh
doanh tiếp.
Người làm tài chính sẽ phải tính đến khả năng khách hàng trả nợ xem
khách hàng trả được bao nhiêu và cả chi phí để thu hồi nợ. Nếu chi phí quá lớn
mà khoản thu về lại nhỏ không đáng kể thì công ty phải có biện pháp khác, có
24
thể xoá nợ cho khách hàng đồng thời hạch toán vào chi phí kinh doanh hoặc sử
dụng một số những biện pháp khác theo đúng chế độ xử lý nợ khó đòi mà Nhà
nước đã ban hành.
Sau khi xem xét và đốc thúc khách hàng trả nợ nhưng không được thì
khoản nợ đó đã trở thành khoản nợ khó đòi và đến cuối niên độ kế toán, kế
toán viên phải tiến hành trích lập dự phòng cho những khoản nợ của những
khách hàng có khả năng không trả được nợ nhằm xác định đúng giá trị thuần
của các khoản phải thu trong Báo cáo tài chính và khoản dự phòng đó được
tính vào chi phí kinh doanh. Để đi sâu tìm hiểu về qui trình xử lý nợ khó đòi
chúng ta cần hiểu thế nào là dự phòng nợ phải thu khó đòi? Cách trích lập như
thế nào? Xử lý các khoản dự phòng ra sao?
Dự phòng nợ phải thu khó đòi là khoản dự phòng phần giá trị bị tổn thất
của các khoản nợ phải thu, có những giấy tờ chứng cứ ghi nhận được là không
thể thu hồi do đơn vị hoặc người nợ không có khả thanh toán trong năm kế
hoạch.
Cách trích lập: theo thông tư 13 của Bộ tài chính
Sau khi đã xác định được khoản phải thu là khoản nợ khó đòi thì doanh
nghiệp phải dự kiến mức tổn thất có thể xảy ra hoặc tuổi nợ quá hạn của các
khoản nợ và tiến hành lập dự phòng cho từng khoản nợ phải thu khó đòi, kèm
theo các chứng cứ chứng minh các khoản nợ khó đòi nói trên. Kế toán trích
lập dự phòng hạch toán vào tài khoản 139 “Dự phòng phải thu khó đòi”. Khi
khoản nợ quá hạn không thể thu hồi được nữa công ty sẽ phải tiến hành xử lý
khoản nợ đó để làm lành mạnh hoá tình hình tài chính của công ty. Để xử lý kế
toán sẽ lấy khoản dự phòng đã trích lập từ trước bù đắp vào khoản nợ không
thể thu hồi được đó.
Các khoản nợ phải thu sau khi đã có quyết định xử lý, doanh nghiệp
phải theo dõi riêng trên sổ kế toán và ngoại bảng cân đối đế toán trong thời
25