Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

TIỂU LUẬN TÂM LÝ HỌC phật giáo - PHÂN TÍCH VÀ CHỨNG MINH NHỮNG CƠ CHẾ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ NGƯỜI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.4 KB, 12 trang )

A: DẪN NHẬP
Từ khi con người xuất hiện trên Trái Đất bắt đầu có một loại hiện tượng
mới – hiện tượng tâm lý người. Những hiện tượng này khác hẳn với những hiện
tượng cơ học, vật lý học, hóa học và sinh học. Ví dụ như sự đi lại của con người,
về một mặt nào đó mà nói, là một sự di chuyển đơn thuần của một khối lượng
nhất định. Nó cũng là một hiện tượng cơ học. Nhưng khác với con tàu lăn bánh
trên đường sắt, bình thường khi đi con người ta biết rằng họ đang đi và tự điều
chỉnh, điều khiển chuyển động theo chương trình đã đề ra. Sự di chuyển đơn
giản ấy trong con người có thể làm cho người vui hay buồn, thoải mái hay khó
chịu, hăng hái hay uể oải, vv.. Con người biết đến sự chuyển động của mình, biết
rằng mình điều khiển, điều chỉnh sự chuyển động ấy – đó là những hiện tượng
tâm lý.
Trên con đường tìm kiếm hạnh phúc trong xã hội hiện tại, con người dễ bị
mê hoặc, cám dỗ bởi vật chất đời thường như tiền tài, danh vọng, địa vị,
quyền lợi… Họ cho rằng chỉ có thỏa mãn những ham muốn của bản thân mới là
hạnh phúc. Trong q trình đuổi theo những tham vọng đó, do bị nhiều thứ
phiền não nên họ cảm thấy bị chìm sâu trong đau khổ. Phật giáo đã chỉ rõ, dục
vọng của con người không bao giờ thỏa mãn được. Đức Phật khuyên răn các đệ
tử đừng nên để công danh lợi lộc làm mê hoặc, phải nhìn thấu và bng xả
những phiền muộn của trần thế, nên lấy “bình thường tâm” mà đối xử với cuộc
sống nhân sinh, giữ tâm bình ổn và an tĩnh. Có như vậy chính là đạt được hạnh
phúc đích thực. Hạnh phúc đích thực không phải là chiếm hữu, mà là sự cống
hiến, biết học cách thực hành từ bi, biết an vui ngay trong cuộc sống hiện tại,
hiểu thấu sự vật hiện tượng vốn biến đổi vô thường không bền vững

B: NỘI DUNG


I. Khái niệm tâm lý người
Trong cuộc sống đời thường, chữ “tâm” thường được dùng ghép với các từ
khác tạo thành các cụm từ “tâm đắc”, “tâm can”, “tâm địa”, “tâm tình”, “tâm


trạng”,…được hiểu là lịng người, thiên về mặt tình cảm. Theo từ điển Tiếng Việt
(1988) tâm lí là ý nghĩ, tình cảm, làm thành đời sống nội tâm, thế giới bên trong
của con người. Trong tâm lí học: Tâm lí là tất cả những hiện tượng tinh thần nảy
sinh trong đầu óc con người, gắn liền và điều hành mọi hành động, hoạt động
của con người. Như vậy, Tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan của
não, là sản phẩm xã hội lịch sử, hình thành trong hoạt động và giao tiếp; là chức
năng của não người, có tính tích cực và tính chủ thể. Như vậy tâm lý người mang
bản chất xã hội, thể hiện tính xã hội của con người; tâm lý người khác hoàn toàn
về chất so với tâm lý động vật.
Tâm lý người rất phong phú và đa dạng, phức tạp. Có thể phân loại theo các
cách khác nhau, dựa trên những căn cứ khác nhau : Có tâm lý cá nhân, tâm lý
nhóm, tập thể, xã hội. Theo trình độ phản ánh của tâm lý, có tâm lý ý thức ( ý
thức) và tâm lý vơ thức. Trên bình diện tâm lý cá nhân, tâm lý nhân cách lại phân
thành nhiều loại hiện tượng như : các quá trình tâm lý, các trạng thái tâm lý, các
thuộc tính tâm lý, các cấu thành tâm lý...
II. Bản chất của hiện tượng tâm lí người
Có nhiều quan điểm khác nhau về bản chất của hiện tượng tâm lí người:
Các nhà theo quan điểm duy tâm cho rằng: Tâm lí con người do thượng đế sáng
tạo ra và nhập vào thể xác con người. Tâm lí khơng phụ thuộc vào khách quan
cũng như điều kiện thực tại của cuộc sống, hay nói cách khác, nhân cách, tình
cảm, sắc thái và biểu hiện của mỗi con người do chúa sáng tạo ra, do thần linh
quyết định.
Quan điểm duy vật tầm thường: Tâm lí, tâm hồn được cấu tạo từ vật chất,
do vật chất trực tiếp sinh ra như gan tiết ra mật, họ đồng nhất cái vật lí, cái sinh lí
với cái tâm lí, phủ nhận vai trị của chủ thể, tính tích cực, năng động của tâm lí, ý
thức, phủ nhận bản chất xã hội của tâm lí


Quan điểm duy vật biện chứng: Tâm lí người là sự phản ánh hiện thực
khách quan vào não người thông qua hoạt động của mỗi người. Tâm lí người

mang bản chất xã hội và tính lịch sử. Quan điểm duy vật biện chứng về hiện
tượng tâm lí người: Tâm lí người là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não
người thông qua hoạt động của mỗi người. Tuy nhiên không phải cứ hiện thực
khách quan trực tiếp tác động đến não là có hình ảnh tâm lí. Muốn có hình ảnh
tâm lí thì điều kiện đủ là phải thơng qua con đường hoạt động và giao tiếp.
IIII. Nguồn gốc hiện tượng tâm lý người
Thế giới khách quan (thế giới tự nhiên và xã hội) trong đó nguồn gốc xã hội
là quyết định tâm lí con người, thể hiện qua: các mối quan hệ kinh tế-xã hội, đạo
đức, pháp quyền, mối quan hệ con người-con người, từ quan hệ gia đình, làng
xóm, q hương, quan hệ cộng đồng, nhóm,…Các mối quan hệ trên quyết định
bản chất tâm lí con người. Trên thực tế, nếu con người thoát li khỏi các mối quan
hệ xã hội, quan hệ giữa con người với con người thì tâm lí người sẽ mất bản tính
người. Ví dụ: Rochom P’ngieng mất tích năm 1989 khi đi chăn trâu. Sau 18 năm,
Rochom được tìm thấy khi trên người không mặc quần áo và di chuyển như một
con khỉ nói chuyện hay giao tiếp mà chỉ phát ra những tiếng gừ gừ, những âm
thanh vô nghĩa, không thể hịa nhập vào cuộc sống con người. Từ đó có thể thấy
tâm lí người chỉ hình thành khi có điều kiện cần và đủ là sự tác động của hiện
thực khách quan lên não người bình thường và phải có hoạt động và giao tiếp.
Trong các mối quan hệ xã hội, giao tiếp là sản phẩm của con người với tư
cách là chủ thể xã hội, chủ thể của nhận thức và hoạt động của giao tiếp một
cách chủ động và sáng tạo. Ví dụ: Như ví dụ trên, Rochom do không tham gia
hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ với con người nên khơng có tâm lí người
bình thường.
IV. Cơ chế hình thành và phát triển tâm lý người.
* Các lý thuyết tự nhiên chủ nghĩa trong nghiên cứu tâm lý người
Thuyết tiến hoá thực chứng luận của G.Xpenxơ cho con người không chỉ
tồn tại trong môi trường tự nhiên mà cịn tồn tại trong mơi trường “trên hữu cơ”


tức xã hội. Khi chuyển từ động vật lên người, các q trình thích nghi lồi, cá thể

chỉ phức tạp hơn về lượng do có các yếu tố tác động mới như ngữ ngơn, các quy
tắc xã hội. Vì thế, nghiên cứu về người vẫn phải giữ tất cả các khái niệm cơ bản
như nghiên cứu động vật.
E.Toocđai mặc dù phản đối quan điểm trên khi cho rằng, không được đem
cộng máy móc ngơn ngữ vào hành vi động vật để giải thích những đặc điểm
hành vi chỉ có ở người nhưng vẫn cho nghiên cứu tâm lý người cũng chính lồ
nghiên cứu tâm lý động vật tiếp tục phát triển lên. Sự phát triển hành vi nói
chung chỉ là sự tăng lên về số lượng của chính cùng một mối liên hệ giữa hoàn
cảnh và phản ứng đáp lại vốn có ở tất cả các động vật.
Như vậy, nhân cách chỉ được xem như một cơ thể, một sản phẩm của các mối
liên hệ tương quan giữa người này với người khác. Cơ thể của cá thể người là
đối tượng nghiên cứu của tâm lý học nhân cách và cơ thể chính là “lịch sử thích
nghi của nó”.
A.N. Leonchiev cho nếu thực sự cuộc sống con người chỉ là sự thực hiện các
động tác có mục đích duy nhất là để sống cịn thì phải lấy sự có ích của hành vi
với chủ thể làm cơ sở tối cao của hành vi và nhận thức và đó chính là quan điểm
thực dụng. Tác giả chỉ rõ quan điểm tự nhiên chủ nghĩa khơng thể giải thích một
cách khoa học những nét thực sự chuyên biệt trong hoạt động và ý thức người
khi cho rằng đặc điểm hành vi người là không thể khám phá được.
* Phái xã hội trong tâm lý học
Với luận điểm xuất phát, xã hội tạo ra bản chất con người và do đó xã hội
phải là nguyên lý giải thích cá thể.
Đuyckhêm, Hanvac coi quá trình xã hội hố cá thể là kết quả của giao lưu
ngôn ngữ, tinh thần với những người xung quanh, kết quả của việc lĩnh hội các
“khái niệm xã hội” hay “các biểu tượng tập thể”. Xã hội trước hết là ý thức xã
hội, còn cá thể người là tồn tại “giao lưu” chứ không phải là một tồn tại xã hội
hành động thực tiễn.


Đóng góp của phái xã hội học trong tâm lý học : Vấn đề phát triển các hình

thái xã hội của trí nhớ, biểu tượng về thời gian phát triển tư duy lôgic gắn liền
với ngữ ngôn, nguồn gốc của tình cảm cấp cao.
Piaget đi sâu nghiên cứu sự phát triển tâm lý ở trẻ em, coi sự phát triển tâm lý
là sản phẩm sự phát triển các quan hệ của cá thể với những người xung quanh,
với xã hội. Đó là những nhân tố cải tổ, chuyển hố các cấu trúc của các q trình
nhận thức vốn có ở trẻ. Theo Piaget “khơng có sự hợp tác với những người khác
thì từng cá thể chắc sẽ khơng thể tập hợp được các thao tác của mình vào một thể
hồn chỉnh liên đới”. Leonchiev nhận xét, sự chuyển hoá xã hội ở đây thực sự
chỉ xuất hiện ở các giai đoạn phát triển tương đối muộn của cá thể và chỉ có quan
hệ với các q trình cấp cao.
A. Vơlơng, G. Pôlitde coi xã hội trong con người không phải là cái gì trừu
tượng, tách rời các đặc điểm tự nhiên và tổ chức sinh lí thần kinh của con người
mà như sản phẩm của sự cải tổ lịch sử của một chủ thể vật chất thể xác trong
khối thống nhất những thuộc tính thể chất và những thuộc tính tâm lý người.
I. Mâyecxơn cho, trong khi cải tạo tự nhiên bên ngoài và sản xuất ra thế giái
vật phẩm vật chất và tinh thần của loài người, lao động đồng thời cải tạo bản
chất của chính con người và tạo ra ý thức người.
Cả 2 quan điểm trên đã đưa một phần tâm lý học vào lĩnh vực nghiên cứu
giải phẫu sinh lý và phần khác vào lĩnh vực xã hội học, đem tâm lý học sinh lý
thực nghiệm đối lập với tâm lý học lý luận siêu hình, hoặc đem tâm lý học giảng
giải đối lập với tâm lý học mô tả, đem tâm lý học hành vi đối lập với tâm lý học
chủ quan.
* Quan điểm tâm lý học hiện đại
Năm 1927, L.X Vưgôtxki đã tạo ra giai đoạn mới trong nghiên cứu các
vấn đề xã hội lịch sử quy định tâm lý người khi cho quan điểm lịch sử phải trở
thành nguyên lý chỉ đạo việc xây dựng tâm lý người và đưa ra thuyết phát triển
văn hố lịch sử, trong đó có tư tưởng về tính chất lịch sử trong bản chất tâm lý
người, về sự cải tổ các cơ chế tự nhiên của các q trính tâm lý trong tiến trình



phát triển xã hội lịch sử và cá thể vào nghiên cứu tâm lý học cụ thể. Sự cải ttổ đó
là kết quả tất yếu do con người lĩnh hội sản phẩm văn hố của lồi người trong
q trình giao lưu với những người xung quanh.Nghiên cứu của Vưgốtxki dựa
trên 2 giả thuyết :
+ Tính chất gián tiếp của các chức năng tâm lý người
+ Nguồn gốc các quá trình trí tuệ bên trong là từ hoạt động vốn có lúc đầu ở
bên ngoài và từ hoạt động tâm lý giữa người này với người khác.
Từ giả thuyết 1 : Đặc thù của hoạt động tâm lý người so với động vật không
phải chỉ ở sự phức tạp hơn về số lượng và cũng không phải chỉ ở bản thân nội
dung khách quan do hoạt động tâm lý phản ánh được thay đổi mà trước hết ở
trong sự thay đổi cấu tạo của hoạt động tâm lý.
Giả thuyết 2 cho thấy : Cấu trúc gián tiếp của quá trình tâm lý thoạt đầu được
hình thành trong những điều kiện với khâu trung gian mang hình thái của một
kích thích bên ngồi (do đó mà q trình tương ứng cũng có hình thức bên
ngồi). Cấu trúc đó khơng nảy sinh từ bên trong và không tự chế biến ra mà nhất
thiết phải hình thành trong giao lưu và giao lưu ở người bao giờ cũng mang tính
gián tiếp.
Cấu trúc gián tiếp của các quá trình tâm lý bao giờ cũng nảy sinh trên cơ sở
cá thể người lĩnh hội các hình thái hành vi mới đầu được hình thành như là
những hình thái hành vi xã hội trực tiếp. Trong đó, cá thể nắm lấy khâu (Kích
thích-phương tiện) làm trung gian cho q trình ấy. Có thể đó là phương tiện vật
chất (công cụ) hay các khái niệm từ ngữ do xã hội tạo ra, hay những dấu hiệu
khác.
Từ những vấn đề trên, một luận điểm cơ bản được đưa vào tâm lý học :
Cơ chế chủ yếu của sự phát triển tâm lý người là cơ chế lĩnh hội các hình loại và
các hình thái xã hội đã được hình thành trong lịch sử hoạt động.
Trước tiên, Tâm lí của mỗi con người chịu sự chế ước bởi lịch sử của cá
nhân và cộng đồng. Tuy nhiên không phải là sự “copy” một cách máy móc mà đã
được thay đổi thơng qua đời sống tâm lí cá nhân. Chính vì thế mỗi cá nhân vừa
mang những nét chung đặc trưng cho xã hội lịch sử vừa mang những nét riêng



tạo nên màu sắc của mỗi cá nhân. Ví dụ: Trước đây thì xã hội rất định kiến về
việc có thai trước khi cưới nhưng bây giờ xã hội biến đổi, sống phóng túng hơn
nên con người xem vấn đề đó là bình thường. Tóm lại, tâm lí người là hiện tượng
tinh thần nảy sinh trong đầu óc con người thơng qua hoạt động và giao lưu tích
cực của mỗi con người trong những điều kiện xã hội lịch sử nhất định. Nó có bản
chất xã hội, tính lịch sử và tính chủ thể. Cũng chính vì vậy, Muốn hồn thiện, cải
tạo tâm lí người cần phải nghiên cứu hồn cảnh lịch sử, điều kiện sống,…của
con người, Cần chú ý nghiên cứu sát đối tượng, chú ý đặc điểm riêng của từng cá
nhân, Phải tổ chức hoạt động và các quan hệ giao tiếp để nghiên cứu sự hình
thành và phát triển tâm lí con người. Chú ý giáo dục thể chất, phát triển não bộ
và các giác quan. Nhìn nhận học sinh theo quan điểm phát triển, tôn trọng đặc
điểm lứa tuổi. Tôn trọng ý kiến, quan điểm của từng chủ thể. Khi nghiên cứu cần
xem xét sự phát triển của lịch sử cá nhân, lịch sử dân tộc và cộng đồng trong
từng giai đoạn lịch sử.
Hiện tượng tâm lý không giống như hiện tượng vật lý. Để cuốn sách trước
chiếc gương, với điều kiện ánh sáng bình thường, trong gương sẽ có ảnh cuốn
sách. Để cuốn sách trước mắt ta trong điều kiện ánh sáng bình thường, trong óc
ta cũng có ảnh cuốn sách. Thoạt xem tựa hồ ở đây khơng có gì khác biệt, nhưng
thật ra có sự khác biệt rất xa khác nhau về mặt bản chất. Chiếc gương khơng thể
biết được rằng trong gương có ảnh cuốn sách. Còn ta, ta biết rõ lắm. Cất sách đi,
ảnh trong gương cũng biến theo, còn trong đầu ta chưa biết bao giờ mới mất hình
ảnh cuốn sách đó. Hơn thế nữa, khi thấy cuốn sách ta có thể hỏi đó là với ảnh nó
trong gương. Nhưng hai ảnh của cùng một vật trong não người và trong gương
rất khác nhau: trên bìa sách có cái gì – trong gương có cái ấy tùy theo ánh sáng
mà chỗ này chỗ kia mờ. Còn con người chưa chắc đã thấy hết những gì có trước
mắt nó hoặc nhìn kỹ nét này, bỏ qua điểm kia cũng khơng hồn tồn phụ thuộc
vào điều kiện ánh sáng. Ở đây rõ ràng có hai hiện tượng: hiện tượng vật lý và
hiện tượng tâm lý.Như vậy là, một khi có con người và có sự vật, hiện tượng tác



động vào con người, ngoài các hiện tượng thiên nhiên ra cịn có hiện tượng tâm
lý nữa.
Cơ chế lĩnh hội, tiếp thu vốn kinh nghiệm, nền văn hóa xã hội thơng qua
hoạt động và giao tiếp, trong đó giáo dục giữ vai trò chủ đạo. Hoạt động và mối
quan hệ giao tiếp của con người có tính quyết định. Ví dụ: Một đứa trẻ khi sinh
ra chúng như một trang giấy trắng, nhưng sau một thời gian được bố mẹ chăm
sóc, dạy dỗ, được tiếp xúc với nhiều người thì nó ngày càng học hỏi, lĩnh hội,
tiếp thu và hiểu biết nhiều hơn về mọi việc xung quanh.
Tâm lý con người phong phú lắm. Nhìn một vật trước mắt, ta giữ lại hình
ảnh của vật đó. Nghe một bài ca, ta tưởng tượng ra nơi quê hương yêu dấu. Thấy
một cảnh lạ, ta chú ý ngắm nhìn v.v… Hơn nữa, con người không phải chỉ biết
nghe tiếng động, ngôn ngữ, lời ca, âm nhạc, mà cịn biết nghe tiếng nói của lịng
mình nữa. Con người khơng phải chỉ thấy những gì có ngồi cảnh vật thiên
nhiên, xã hội, mà cịn biết nhìn những diễn biễn trong đầu, trong tim nó. Con
người có khả năng phân tích chính mình. Rồi con người cịn có lúc vui, lúc buồn,
khi ưa, khi ghét,.. với sự vật này hay sự vật kia, hoặc lắm lúc thấy tự mình hờn
tủi, hay nhiều khi thấy tự hào về bản thân. Tất cả những hiện tượng đó, từ cảm
giác đến tư duy từ xúc cảm đến tình cảm là một phần của thế giới tâm lý con
người.
Tâm lý con người cịn có nhiều hiện tượng phức tạp hơn. Nhu cầu sinh
sống của con người không phải chỉ có ăn, ở, mặc, sinh nở. Con người cịn phải
sống bằng niềm tin, lý tưởng, ước mơ. Năng lực làm việc có lợi cho xã hội –
chân giá trị của mỗi con người, phẩm chất đạo đức, tư cách cách mạng là những
nét không thể thiếu được trong mỗi con người xã hội chủ nghĩa.
Cảm giác, tri giác, trí nhớ, tưởng tượng, chú ý, tư duy, xúc cảm, tình cảm,
niềm tin, lý tưởng, ước mơ, tính cách, năng lực… hợp lại thành thế giới tâm lý
– thế giới nội tâm (còn gọi là hoạt động tâm lý) của con người.
- Vấn đề con người lĩnh hội kinh nghiệm xã hội lịch sử



Trong thời đại các quy luật xã hội thống trị, thành tựu trong quá trình phát
triển năng lực và thuộc tính người khơng giữ lại ở những đặc điểm hình thái,
trong những dạng biến đổi theo di truyền mà được giữ lại trong một dạng đặc
biệt-dạng bên ngoài.
Ở người, kinh nghiệm của lồi có thể giữ lại theo kiểu mới đó vì khác với
hoạt động của động vật, hoạt động chun biệt người mang tính chất sản phẩm.
Đó là hoạt động lao động-hoạt động chủ yếu của người.
Năng lực của con người đưa vào hoạt động trong quá trình lao động và được
ghi lại trong sản phẩm. Mác từng khẳng định : “Sự tồn tại đối tượng hố đã hình
thành của công nghiệp là tâm lý con người bày ra trước mắt chúng ta một cách
cảm tính. Tâm lý học-quyển sách ấy, nghĩa là chính cái bộ phận dễ cảm thấy
nhất, dễ tiếp xúc nhất của lịch sử mở ra cho tâm lý học này, không thể trở thành
khoa học thực sự có nội dung phong phú và hiện thực”.
Sự phát triển tâm lý, tinh thần từng người là sản phẩm của một q trình
hồn tồn đặc biệt-q trình tiếp thu. Động vật hồn tồn khơng có q trình này
cũng như khơng có cả q trình ngược lại. Q trình vật thể hoá năng lực của
chúng trong sản phẩm khách quan của hoạt động của chúng. Với con người,
công cụ khơng chỉ là một đồ vật có hình dạng bề ngồi nhất định, có những
thuộc tính cơ học nhất định mà còn là một đồ vật ghi lại những phương thức sử
dụng nó, những động tác lao động do xã hội tạo ra. Con người khi tiếp thu những
động tác ghi trong công cụ, đồng thời phát triển năng lực người ở bản thân mình.
Q trình thích nghi sinh vật là q trình thay đổi cá thuộc tính của lồi, thay
đổi năng lực của cơ thể và hành vi loài của cơ thể, Quá trình tiếp thu là quá trình
mang lại kết quả là cá thể tái tạo lại được những năng lực và chức năng người đã
hình thành trong q trình lịch sử.
Chúng ta có thể khẳng định những năng lực và chức năng hình thành trong
quá trình ấy là các cấu tạo tâm lý mới. Với những cấu tạo này, các cơ chế, các
quá trình bẩm sinh di truyền chỉ là những điều kiện cần thiết bên trong giúp cho



các cấu tạo tâm lý mới có thể xuất hiện, chứ không quy định cả thành phần lẫn
chất lượng chuyên biệt của các cấu tạo tâm lý mới
- Não và hoạt động tâm lý người
Sự phát triển tâm lý người trong suốt lịch sử xã hội của nó khơng tạo ra
những biến đổi hình thái. Cơ quan trong não của những cấu tạo tâm lý mới nảy
sinh là những tập hợp chức năng thần kinh bằng đường mòn đặc biệt mới được
hình thành. Nhờ một quá trình chuyên biệt, quá trình thế hệ người sau tiếp thu
thực tại của lồi người và tồn tại của loài người, các thế hệ sau cứ tiếp tục tái tạo
những tập hợp chức năng ấy. Những biểu hiện cao cấp của bản chất người,
những năng lực và lực lượng tinh thần của nó đã biến đổi như vậy.
Tâm lý người là chức năng của các cấu trúc cấp cao của não được hình thành
trong phát triển cá thể, trong quá trình quan hệ với lồi người xung quanh. Cá thể
nắm lấy những hình thức hoạt động đã hình thành trong lịch sử, khía cạnh phát
triển của con người mà về phương diện sinh lý được biểu đạt trong tái hiện, thay
đổi và làm phức tạp các cấu trúc ở các thế hệ nối tiếp nhau, chính khía cạnh đó là
q trình phát triển lịch sử của tâm lý
Việc nghiên cứu bằng thực nghiệm nguồn gốc và cấu tạo các năng lực, chức
năng tâm lý người hình thành trong quá trình nắm những thành tựu phát triển xã
hội lịch sử loài người gắn với nghiên cứu nguồn gốc, cấu tạo các cơ chế não
tương ứng cũng có nghĩa là đưa quan điểm lịch sử vào cả lĩnh vực nghiên cứu
liên ngành tâm sinh lý.
C. KẾT LUẬN
Tóm lại các hiện tượng tâm lý người đều người có nguồn gốc xã hội, vì
thế phải nghiên cứu mơi trường xã hội, nền văn hoá xã hội, các quan hệ xã hội
trong đó con người sống và hoạt động. Cần phải tổ chức có hiệu quả hoạt động
dạy và học trong giáo dục cũng như các hoạt động chủ đạo ở từng giai đoạn, lứa
tuổi khác nhau để hình thành, phát triển tâm lý con người.
Là người tu hành, chúng ta nên nhớ câu: “Tâm năng sinh vạn pháp”, từ

góc độ của tâm, Phật giáo đã khái quát tất cả vạn sự vạn vật của thế giới vũ trụ,
đồng thời tiến hành tìm tịi giải thích nguồn gốc vấn đề tâm lý hành vi của con
người. Do đó Phật giáo đã sớm kiến tạo nên một hệ thống tri thức tâm lý học


tương đối hoàn chỉnh. Tâm lý học Phật giáo đã chỉ ra tất cả căn nguyên nguồn
gốc của sự thống khổ, nêu lên ý nghĩa giá trị của sinh mạng, hướng dẫn chúng
sinh nhận thức được bí mật của tự tâm, xả bỏ tham sân si, từ đó phịng ngừa
được bệnh tật tâm lý phát sinh, giúp cho nhân loại kiến lập thân tâm kiện toàn
khỏe mạnh, hưởng thụ cuộc sống hạnh phúc an lạc.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trải nghiệm bằng thực tu thực chứng với quá
trình tu dưỡng điều phục thân tâm, đoạn trừ phiền não đạt đến sự giải thoát và
giác ngộ. Người đệ tử Phật muốn điều chỉnh tâm lý, giải trừ phiền não thành
công cũng phải hiểu rõ giáo lý và ứng dụng vào công việc của cuộc sống thường
ngày. Để thực hiện thành công những phương pháp tu, điều chỉnh tâm lý con
người theo Phật giáo, chúng ta cần phải tự mình nghiên cứu, học hỏi giáo lý.
Mặt khác, phải nên tham dự các khóa tu, các lớp bồi dưỡng Phật pháp,... để
được hướng dẫn tu học đúng chính pháp, đúng pháp mơn phù hợp với bản thân,
môi trường và xã hội.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. “Phật giáo và tâm lý học hiện đại” Bồ Đề Học Xã chủ biên, do Thích
Viên Lý (2010) biên dịch
2. Thích Chơn Thiện (2009) “Tâm lý học Phật giáo”
3. David Stafford – Clark, Freud đã thực sự nói gì, Nxb Thế giới, H.2002.
4. Lưu Hồng Khanh, Tâm lý học chuyên sâu, Nxb Trẻ,Tp Hồ Chí Minh.
2005.




×