Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Thực trạng và xu thế phát triển của hệ thống phân phối nông sản an toàn của Việt Nam hiện nay: Kinh nghiệm của Thái Lan và bài học cho Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (513.38 KB, 12 trang )

Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 1 năm 2018

THỰC TRẠNG VÀ XU THẾ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG PHÂN PHỐI NƠNG SẢN
AN TỒN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY. KINH NGHIỆM CỦA THÁI LAN VÀ BÀI HỌC
CHO VIỆT NAM
THE CURRENT SITUATION AND THE DEVELOPMENT TREND OF AGRO-FOOD
DISTRIBUTION IN VIETNAM. EXPERIENCE OF THAILAND AND POLICY
LESSONS FOR VIETNAM
ThS. Đinh Thị Ninh Giang, ThS. Nguyễn Thị Bích Ngọc
ThS. Phạm Thanh Hiền
Viện Chiến lược phát triển
Email: ,
Abstract
Agro-food distribution is an urgent issue in Vietnam as there have no clear system of certifications and
information about safe agro-food which affects the trust of customers and brand names of the products.
Applying the theory of Push and Pull by Bonney et al (1999), the paper analyzes that Vietnamese government
has created strategies and policies to establish a system of modern agro-food distribution with information
about agro-food origins and safety criteria and the distribution enterprises have responsed to the requirements
of globalized and modern market. However, there have been still obstables in fully developing the agro-food
distribution system in Vietnam including: lack of certification system to enhance trust from customers,
dependence on natural conditions to ensure sustainable supply and unpredicted market demands. Studying the
policies and the development of the whole agro-food market of Thailand which affects the distribution system
affectly in the nation, the paper draws out policy lessons for Vietnam.
Keywords: Agro-food distribution, Thailand experience, push and pull, sustainable market
Tóm tắt
Phân phối thực phẩm nơng nghiệp là một vấn đề cấp bách ở Việt Nam do hiện nay Việt Nam chưa có hệ
thống chứng nhận rõ ràng và thơng tin đẩy đủ về thực phẩm nơng nghiệp an tồn ảnh hưởng đến niềm tin của
khách hàng và tên thương hiệu của sản phẩm. Áp dụng lý thuyết Push and Pull của Bonney và cộng sự (1999),
nghiên cứu phân tích rằng chính phủ Việt Nam đã tạo ra các chiến lược và chính sách để thiết lập một hệ thống
phân phối thực phẩm nông nghiệp hiện đại với thông tin về nguồn gốc thực phẩm nơng nghiệp và tiêu chí an
toàn và các doanh nghiệp phân phối đã đáp ứng u cầu của thị trường tồn cầu hóa và hiện đại. Tuy nhiên,


vẫn cịn có những trở ngại trong việc phát triển đầy đủ hệ thống phân phối nông sản thực phẩm ở Việt Nam bao
gồm: thiếu hệ thống chứng nhận để nâng cao lòng tin của khách hàng, phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên để đảm
bảo nguồn cung bền vững và nhu cầu thị trường khơng dự đốn . Nghiên cứu các chính sách và sự phát triển
của tồn bộ thị trường nơng sản thực phẩm của Thái Lan có ảnh hưởng đến hệ thống phân phối có ảnh hưởng
đến quốc gia, nghiên cứu rút ra các bài học chính sách cho Việt Nam.
Từ khóa: Phân phối thực phẩm, Kinh nghiệm Thái Lan, Lực Đẩy và Kéo, Thị trường bền vững

1. Đặt vấn đề
1.1. Lý do thực hiện nghiên cứu
Trong những năm gần đây, Việt Nam ngày càng đối diện với thách thức nghiêm trọng về thực
phẩm không an tồn, đe dọa đến sức khỏe và tính mạng của người tiêu dùng và hệ thống phân phối
nông sản – thực phẩm cịn yếu, chưa có được niềm tin của người tiêu dùng và khai thác được tối đa
tiềm năng nông nghiệp của Việt Nam. Thực phẩm sạch, an toàn đang trở thành nhu cầu cấp thiết của
người tiêu dùng. Trong nhiều năm qua, Việt Nam vẫn chưa lựa chọn được những giải pháp hiệu quả để
phát triển kênh phân phối thực phẩm an toàn thực sự đến tay người tiêu dùng.

80


Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 1 năm 2018

Mặc dù Việt Nam đã có Luật An toàn thực phẩm từ năm 2010 và bắt đầu thực hiện từ tháng
7/2011, tuy nhiên cho đến nay hệ thống thể chế và chính sách về an tồn thực phẩm vẫn đang hồn
thiện và cịn nhiều bất cập. Chính phủ, các bộ, ngành có liên quan đã tăng cường các biện pháp mạnh
nhằm tạo dựng một nền sản xuất sạch, kiểm sốt tốt chất lượng an tồn thực phẩm. Trên thực tế, việc
xây dựng một thị trường nông sản sạch cịn nhiều khó khăn. Người tiêu dùng chỉ có thể nhận biết được
thực phẩm khơng an tồn phần lớn là nhờ vào các cơ quan thanh tra, điều tra của báo chí, hoặc thơng
tin của một số cá nhân, và cũng không thể nhận biết được thực phẩm bẩn ở mức độ nào so với thực
phẩm an toàn. Bên cạnh đó, hiện nay Việt Nam chưa có một chiến lược tổng thể và dài hạn xây dựng
hệ thống phân phối nông sản – thực phẩm hiệu quả, các hệ thống chứng chỉ có uy tín tầm cỡ quốc tế để

thuyết phục người tiêu dùng. Kết nối của kênh phân phối với các đơn vị sản xuất còn bị động, ảnh
hưởng bởi thời tiết mùa vụ. Vì vậy, việc đưa ra những giải pháp đột phá nhằm phát triển kênh phân
phối thực phẩm nơng sản an tồn cho người tiêu dùng là yêu cầu cấp thiết.
1.2. Xác định vấn đề nghiên cứu
Nghiên cứu hiện trạng phân phối nông sản – thực phẩm của Việt Nam và các kinh nghiệm của
Thái Lan, nhóm tác giả xác định câu hỏi nghiên cứu như sau:
(i) Hệ thống phân phối nông sản – thực phẩm của Việt Nam đang có những điểm bất cập nào?
(ii) Kinh nghiệm của Thái Lan có thể áp dụng cho bối cảnh của Việt Nam như thế nào?
2. Tổng quan nghiên cứu
2.1. Tổng quan nghiên cứu và cơ sở lý thuyết
Trên thế giới có nhiều nghiên cứu về hệ thống sản xuất – phân phối – tiêu thụ nơng sản – thực
phẩm dưới góc độ quản lý. Salin (1998) cho rằng phân phối nông sản – thực phẩm là hệ thống phức
tạp do tác động của vòng đời sản phẩm ngắn, thời tiết ảnh hưởng đến nguồn cung sản phẩm và an toàn
thực phẩm và chất lượng thực phẩm tác động lớn đến thị trường tiêu dùng (tr.329-33). Theo T. Heller
(2002), khi tồn cầu hóa gia tăng, với thông tin và lựa chọn về sản phẩm ngày càng phong phú, thị
trường tiêu dùng đòi hỏi hệ thống phân phối nông sản – thực phẩm ngày càng cao về chất lượng, độ
tươi ngon và phong phú. Nhu cầu mua nơng sản – thực phẩm tại các siêu thị có công bố chất lượng sản
phẩm chi tiết hơn ngày càng lớn. Burch, D. và Lawrence, G. (2007) cho rằng quyền lực trong hệ thống
phân phối nông sản – thực phẩm đã từ từ chuyển từ cơ sở sản xuất, thương hiệu thực phẩm sang các
siêu thị bán lẻ lớn. Các tiêu chuẩn và công bố chất lượng dần dần do các siêu thị bán lẻ này áp đặt và
đặt hàng hơn là các nhà sản xuất tự kiểm soát sản phẩm của mình. Hiện tượng này đã xảy ra ở nhiều
nơi như châu Âu, Bắc Mỹ và Ấn Độ. Các nghiên cứu này đã chỉ ra xu hướng phát triển của hệ thống
phân phối nông sản - thực phẩm, tuy nhiên rất ít nghiên cứu xử lý các khó khăn của một thị trường
đang phát triển như Việt Nam cũng như cách để tháo gỡ các vướng mắc của hệ thống phân phối nông
sản – thực phẩm hiện nay trong bối cảnh Việt Nam có nhiều tiềm lực về nơng nghiệp nhưng chưa có
nội lực nguồn nhân lực, khoa học kỹ thuật và chính sách dài hạn cho khu vực này.
Ở Việt Nam, các lý luận về sức ảnh hưởng của các mắt xích trong hệ thống phân phối nơng sản
– thực phẩm chưa được nghiên cứu nhiều. Đặc biệt là đến nay chưa có một hệ thống pháp lý chính
thức và thống nhất về nơng sản sạch, an tồn hay hữu cơ để phân loại chất lượng nông sản – thực
phẩm trên thị trường khiến cho hệ thống phân phối chịu tác động tiêu cực như: thiếu cơ sở cho niềm

tin của người tiêu dùng, giá sản phẩm chưa tương xứng với chất lượng sản phẩm và khó xây dựng
chiến lược tiếp thị nông sản – thực phẩm. Theo Phạm Hải Vũ – Đào Thế Anh (2016), Việt Nam còn
thiếu cơ sở khoa học so với chuẩn thế giới. Theo nghiên cứu này:
“Các kênh phân phối ngắn (Người sản xuất – Người tiêu dùng và Người sản xuất – Người bán
lẻ – Người tiêu dùng) thường diễn ra ngay tại vùng sản xuất hoặc tại các thị trường gần vùng sản xuất.
Những người sản xuất này có quy mơ sản xuất nhỏ, có điều kiện về lao động nên vừa tổ chức được sản
xuất, vừa tổ chức tiêu thụ được sản phẩm.” (tr.26-27)
81


Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 1 năm 2018

Theo Võ Thị Ngọc Thúy (2016), Các nghiên cứu về nhãn mác, đặc biệt là nhãn mác an toàn
xuất hiện ở Mỹ và châu Âu từ cuối thế kỷ XIX. Tuy nhiên, ở Việt Nam chủ đề này vẫn chủ yếu được
nhắc đến trong các bài xã luận, chưa có nghiên cứu hàn lâm (tr.3). Hiện nay tại Việt Nam, có rất nhiều
quan điểm và cơng bố khác nhau về nông sản sạch như rau an tồn, VIETGAP và nơng sản hữu cơ.
Tuy nhiên, sự minh bạch giữa các khái niệm chưa thuyết phục được thị trường tiêu dùng. Ví dụ về tiêu
chuẩn hữu cơ, theo Ngô Minh Hải và Vũ Quỳnh Hoa (2016), hiện nay Việt Nam thiếu hụt nguồn thông
tin về các sản phẩm hữu cơ hay chưa có một hệ thống đảm bảo chất lượng hoạt động hiệu quả
(tr.1467).
Gần đây, cụm từ “nông sản sạch” được hiểu rõ hơn khi Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn ra Quyết định số 738/QĐ-BNN-KHCN ngày 14/3/2017 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thơn về “Tiêu chí xác định chương trình, dự án nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông
nghiệp sạch, danh mục công nghệ cao ứng dụng trong nông nghiệp”, qua đó khái niệm về nơng sản
sạch, an tồn có thể được hiểu là nơng sản an tồn được sản xuất tại các cơ sở sản xuất kinh doanh đủ
điều kiện an tồn thực phẩm; ứng dụng cơng nghệ cao hoặc áp dụng quy trình thực hành sản xuất
nơng nghiệp tốt.
Nhóm tác giả nghiên cứu sử dụng khái niệm hệ thống phân phối nơng sản – thực phẩm an tồn
theo khái niệm nơng sản an tồn được cơng bố của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Y tế
và Bộ Công thương là nông sản được sản xuất theo một quy trình nghiêm ngặt về sản xuất an tồn thực

phẩm được các cơ quan liên quan cấp phép và quản lý, giám sát, ứng dụng các biện pháp công nghệ
cao, đảm bảo an toàn sức khỏe cho người tiêu dùng và khơng gây hại cho mơi trường. Trong đó, các
nhóm tiêu chuẩn cụ thể như Hữu cơ, Khơng biến đổi gen được hiểu là tối thiểu đáp ứng tiêu chuẩn an
tồn sau đó đạt tới các mức chất lượng cao hơn, đáp ứng các nhóm người tiêu dùng có nhu cầu cao.
Phân phối nơng sản an tồn là kênh trung gian kết nối người sản xuất nông sản an toàn tới tay người
tiêu dùng.
2.2. Khung lý thuyết sử dụng trong bài viết
Nhóm tác giả áp dụng lý thuyết Đẩy và Kéo trong chuỗi cung cứng sản phẩm (Push and Pull
của Bonney và cộng sự (1999)) để phân tích các động lực thúc “đẩy” quá trình phát triển của hệ thống
phân phối thực phẩm sạch và lực “kéo” từ đòi hỏi của thị trường hiện đại. Theo Bonney và cộng sự,
với một chuỗi cung ứng sử dụng chiến lược đẩy, sản phẩm của doanh nghiệp sẽ được đẩy từ phía nhà
sản xuất tới nhà bán lẻ qua các kênh phân phối. Nhà sản xuất sẽ thiết kế sản lượng ở mức hợp lí dựa
trên số lượng đơn đặt hàng trước đây từ các nhà bán lẻ. Chính vì thế nên sẽ tốn rất nhiều thời gian khi
phải điều chỉnh lại nếu có sự thay đổi từ nhu cầu của thị trường. Điều này có thể dẫn đến việc quá
nhiều hàng tồn kho dư thừa, gây ra sự tắc nghẽn hoặc chậm trễ, chất lượng dịch vụ xuống dốc và sản
phẩm khơng bắt kịp thị trường. Cịn khi sử dụng chiến lược kéo với chuỗi cung ứng, việc thu mua, sản
xuất và phân phối dựa theo nhu cầu thực tế thay vì phải dự đốn. Trong hệ thống phân phối nơng sản –
thực phẩm Việt Nam hiện nay, nhóm tác giả tích hợp yếu tố chính sách là lực Đẩy với các dự báo về
việc thúc đẩy sản phẩm nông sản – thực phẩm an toàn và các yêu cầu của thị trường hiện nay là lực
“Kéo”. Nhóm nghiên cứu giả định khi lực “Đẩy” và “Kéo” xảy ra ở từng doanh nghiệp/ đơn vị kinh
doanh đồng thời thì cần quan sát hai lực này ở tầm vĩ mô hơn – khu vực phân phối nơng sản – thực
phẩm vì tác động của các chính sách về tiêu chuẩn an tồn và địi hỏi của thị trường tiêu dùng có hiệu
ứng vĩ mơ.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
Nhóm tác giả sử dụng các phương pháp sau:
(i) Tổng hợp và phân tích tài liệu về chính sách hiện nay đối với hệ thống phân phối nơng sản –
thực phẩm an tồn của Việt Nam; các số liệu nghiên cứu về hiệu quả của hệ thống phân phối này phân
tích tác động của chính sách và yêu cầu của thị trường lên hệ thống phân phối nông sản – thực phẩm
Việt Nam theo lý thuyết Đẩy và Kéo của Bonney và Cộng sự (1999)
82



Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 1 năm 2018

(ii) Lựa chọn nghiên cứu trường hợp một số doanh nghiệp phân phối nông sản – thực phẩm của
Việt Nam theo tiêu chí chọn mẫu đại diện. Mẫu đại diện cho đơn vị phân phối nông sản – thực phẩm
có các đặc điểm:
- Có phân phối tỷ lệ lớn trên 50% nông sản – thực phẩm của Việt Nam
- Được cơng bố có đáp ứng các tiêu chuẩn về nơng sản – thực phẩm an tồn của Việt Nam
- Có hợp đồng với các đơn vị cung cấp nông sản – thực phẩm của Việt Nam
- Có tìm đơn vị cơng bố hoặc tự cơng bố riêng các tiêu chuẩn theo xu hướng thị trường
- Có năng lực kinh doanh và đã phân phối nông sản thực phẩm trên năm (05) năm: thời gian
này đủ chứng minh đơn vị phân phối đáp ứng được các yêu cầu của thị trường để tồn tại
(iii) Nghiên cứu kinh nghiệm chính sách và hệ thống phân phối nơng sản – thực phẩm Thái Lan
(iv) So sánh bối cảnh vận dụng chính sách của Thái Lan và Việt Nam để rút ra bài học kinh
nghiệm
3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Thực trạng hệ thống phân phối nông sản sạch tại thị trường Việt Nam
3.1.1. Các hệ thống chính sách liên quan
Nhóm tác giả nghiên cứu các chính sách tác động tới hệ thống phân phối này là một nhóm các
lực “Đẩy” (push) của thị trường nông sản – thực phẩm.
Sơ đồ 1: Lực đẩy từ các chính sách tới hệ thống phân phối nơng sản – thực phẩm

Nguồn: Nhóm tác giả phân tích dựa trên lý thuyết Đẩy và Kéo của Bonney và cộng sự (1999)

Cụ thể các chính sách tác động tới hệ thống phân phối này như sau:
(i) Ban Chỉ đạo liên ngành về Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia
tăng và phát triển bền vững do Thủ tướng Chính phủ thành lập năm 2015. Ban thực hiện chức năng
giúp Thủ tướng Chính phủ trong việc tổ chức, chỉ đạo, điều hành về tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo
hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững giai đoạn 2015 - 2020. Trong đó, việc làm cấp

thiết là phải có một hệ thống phân phối nơng sản hợp lý từ đồng ruộng đến các đại lý phân phối, hạn
chế tối đa các trung gian không cần thiết. Các cơ sở kinh doanh thực phẩm sạch phải đảm bảo đủ các
điều kiện về địa điểm, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, có hợp đồng cung ứng với cơ sở sản xuất
đã được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện; sản phẩm sạch phải có bao bì, nhãn mác và niêm phong
theo quy định.
Lực “Đẩy” này đã tác động tới việc các hệ thống phân phối ưu tiên các sản phẩm đạt quy chuẩn
và làm suy yếu hệ thống phân phối truyền thống tại đơ thị. Từ trước, hình thức phân phối chủ yếu vẫn
là truyền thống, có nghĩa là người tiêu dùng vẫn có thói quen mua hàng nơng sản tại các chợ và từ
người bán rong. Các chợ được phân bố tại khắp các cụm dân cư sinh sống. Chợ có thể được quy hoạch
hoặc tự phát. Trên thực tế, hình thức bán rong vẫn tồn tại mạnh tại Việt Nam bởi sự thuận tiện, song xu
hướng này sẽ ngày càng giảm đi vì người tiêu dùng muốn tìm đến những kênh phân phối có uy tín để
mua được những sản phẩm sạch, an toàn.
(ii) Đề án “Xây dựng và phát triển chuỗi cung ứng thực phẩm nông lâm thủy sản an tồn” đã
được Bộ Nơng nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành Quyết định số 3073/QĐ-BNN-QLCL ngày
27/12/2013 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Nắm bắt được nhu cầu người tiêu
83


Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 1 năm 2018

dùng, hiện nay kênh phân phối hàng nơng sản an tồn của Việt Nam đã phát triển khá mạnh cả về chất
lượng và quy mô, cùng với sự ra đời hàng loạt các cơ sở phân phối hiện đại như trung tâm thương mại,
siêu thị, cửa hàng tiện lợi, cửa hàng phân phối nông sản an tồn và các chương trình kết nối cung cầu
nơng sản sạch do Bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp tổ chức, bước đầu thỏa mãn nhu cầu của người
dân, làm thay đổi tư duy tiêu dùng của đa số người dân. Các địa phương trong cả nước cũng đã đẩy
mạnh triển khai.
Lực “Đẩy” này khiến các đơn vị phân phối phát triển thành hệ thống hiện đại, gây dựng nhãn
hiệu, tiếp thị người tiêu dùng thay đổi thói quen mua sắm thực phẩm. Theo thống kê của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nơng thơn, tính đến nay, cả nước đã có 63/63 tỉnh, thành phố xây dựng thành cơng
746 mơ hình điểm chuỗi cung ứng nơng sản an tồn với sản phẩm chủ yếu là rau, quả, chè, thịt trứng,

gạo và thủy sản các loại..., trong đó có 382 chuỗi được giám sát, xác nhận sản phẩm được kiểm sốt an
tồn thực phẩm theo chuỗi. Theo dự báo đến năm 2020, nơng sản an tồn phân phối tại các kênh phân
phối hiện đại có thể chiếm trên 40% thị phần trong nước và xu thế này sẽ ngày càng tăng lên trong
tương lai bởi yêu cầu ngày càng khắt khe về an toàn thực phẩm cũng như quản lý phân phối nơng sản
an tồn ngày càng chặt để đảm bảo sức khỏe người tiêu dùng.
3.1.2. Hiện trạng các hệ thống phân phối nông sản – thực phẩm Việt Nam
Sơ đồ 2: Tổ chức kênh phân phối hiện nay tại Việt Nam

NHÀ
SẢN
XUẤT
NHÀ
PHÂN
PHỐI,
ĐẠI LÝ

BÁN
BN,
ĐẠI LÝ

BÁN LẺ

NGƯỜI
TIÊU
DÙNG

Nguồn: Nhóm tác giả nghiên cứu, tổng hợp

Trong đó:
+ Kênh gián tiếp:

- Kênh một cấp: Nhà sản xuất bán hàng gián tiếp cho người tiêu dùng qua một trung
gian đó là nhà bán lẻ.
- Kênh nhiều cấp: Gồm có kênh 2 cấp, kênh 3 cấp...
+ Kênh trực tiếp:
Người sản xuất bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng qua các
cửa hàng của mình, qua bưu điện hoặc bán hàng lưu động, bán tại các địa điểm khách hàng,
bán hàng theo hình thức thương mại điện tử.
Chi phí của kênh phân phối được biểu hiện bằng số lượng trung gian ở mỗi cấp phân phối. Như
vậy, nếu càng giảm bớt các chi phí kênh trung gian thì hệ thống phân phối sản phẩm càng có hiệu quả
cao vì khi đó giá sản phẩm khơng bị đẩy lên q nhiều so với giá trị của nó. Tuy vậy, kênh phân phối
hiệu quả hiện tại vẫn chiếm sản lượng tiêu thụ rất thấp.
Sự lớn mạnh của hệ thống các siêu thị khơng chỉ do các lực “Đẩy” các chính sách, mà cịn có
lực Kéo của u cầu thị trường, bao gồm:
(i) Yêu cầu về giá cạnh tranh: các hệ thống này này giảm bớt được các khâu trung gian, từ đó
giảm về giá thành cho người tiêu dùng
84


Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 1 năm 2018

(ii) Yêu cầu về chất lượng minh bạch: Hoạt động của các hệ thống phân phối này đều đảm bảo
tính minh bạch bởi tất cả các hàng hóa bán ra đều có thể thực hiện trên hóa đơn, giá bán được niêm yết
rõ ràng, ngày sản xuất và hạn sử dụng được niêm yết trực tiếp trên bao bì sản phẩm đảm bảo tính minh
bạch trên thị trường hàng hóa.
(iii) Yêu cầu về nhu cầu mua sắm với dịch vụ hiện đại: Các hệ thống phân phối này đều có quy
trình cơng nghệ hiện đại về quản lý chất lượng và vệ sinh, các doanh nghiệp bán buôn hiện đại giúp giảm
tỷ lệ hao hụt hàng hóa và do đó nâng cao hiệu quả kinh doanh cho các kênh bán lẻ, cung cách phục vụ
khách hàng tốt và khách hàng có thể mua cùng một lúc nhiều loại sản phẩm ở cùng một địa điểm.
Kết quả của các lực Đẩy và Kéo, hệ thống siêu thị có cơng bố chất lượng ngày càng phát triển.
Theo thống kê của Liên minh nông nghiệp Việt Nam, tỷ lệ người dân đi chợ truyền thống, chợ cóc,

chợ tạm đã giảm tới 35,5% so với 5 năm trước đây. Người tiêu dùng ngày càng tìm đến các kênh phân
phối nơng sản an toàn để đảm bảo sức khỏe cho bản thân và gia đình.
Tổng hợp tác động của lực “Kéo” có thể tóm tắt trong sơ đồ sau:
Sơ đồ 3: Lực “Kéo” của thị trường tới hệ thống phân phối nơng sản, thực phẩm

Nguồn: Nhóm tác giả phân tích dựa trên lý thuyết Đẩy và Kéo của Bonney và cộng sự (1999)

Dưới tác động của các lực Kéo và Đẩy đã phân tích như trên, Nhóm tác giả liệt kê các trường
hợp (case study viết tắt cs) sau ở Việt Nam:
[cs1] Hệ thống siêu thị của Liên hiệp Hợp tác xã tiêu thụ nơng sản an tồn Việt Nam (UCA
mart) thành lập năm 2016 với mục đích liên kết các Hợp tác xã (HTX) sản xuất, chế biến và tiêu thụ
nơng sản an tồn trên tồn quốc. UCA là nơi phân phối các sản phẩm an tồn, có truy xuất nguồn gốc
như rau, củ, quả và thực phẩm như thịt gà, thịt lợn, thịt bò, cá... của các hợp tác xã uy tín trên tồn
quốc. 100% hợp tác xã tham gia vào chuỗi siêu thị này được cơ quan chức năng kiểm tra, đánh giá
chất lượng thường xuyên, liên tục, nông sản được gắn tem truy xuất nguồn gốc điện tử. Hệ thống chịu
tác động của lực Đẩy chính sách lúc thành lập nhưng sau đó đã chịu thêm tác động lực Kéo của yêu
cầu thị trường khi đa dạng hóa thực phẩm.
[cs2] Hệ thống siêu thị VinMart & chuỗi cửa hàng VinMart+: Đây là hệ thống siêu thị đã được
bình chọn vào Top 2 nhà bán lẻ được người tiêu dùng nghĩ đến nhiều nhất và Top 10 nhà bán lẻ uy tín
nhất (theo thống kê của Vietnam Report). VinMart & Vinmart+ cũng góp phần đưa VinCommerce lên
vị trí thứ 19 trong top 50 thương hiệu giá trị nhất Việt Nam theo bảng xếp hạng do Brand Finance công
bố trong 2 năm liên tiếp 2016, 2017. Tính đến hết ngày 31/12/2017, hệ thống bán lẻ có quy mơ 65 siêu
thị VinMart và hơn 1.000 cửa hàng VinMart+ tại 26 tỉnh, thành phố trên cả nước và trở thành chuỗi
bán lẻ quy mô nhất Việt Nam. VinMart & VinMart+ cũng là kênh phân phối độc quyền các sản phẩm
nông sản an tồn VinEco sản xuất theo cơng nghệ Israel hiện đại hàng đầu thế giới cung cấp đa dạng
85


Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 1 năm 2018


sản phẩm nơng sản an tồn như rau, củ, quả, nấm tươi cao cấp, thịt và hải sản. Đây cũng là chuỗi cửa
hàng tiện lợi, phân bổ giữa các khu dân cư đông đúc, mang đến sự tiện lợi cho người tiêu dùng trên
khắp Việt Nam. Doanh nghiệp phân phối nông sản – thực phẩm này chịu tác động lực Kéo cao, dựa
trên đòi hỏi của thị trường, bắt kịp xu thế về tiêu dùng sản phẩm đa dạng, giá thành tốt, công bố rõ
nguồn gốc.
[cs3] Công ty Trách nhiệm hữu hạn (TNHH) VinaGAP Việt Nam: Được thành lập từ năm
2010, với thương hiệu là Bác Tôm được xem là đi tiên phong trong lĩnh vực rau và thực phẩm sạch ở
Hà Nội, đến nay hệ thống cửa hàng đã phát triển 23 chuỗi cửa hàng trên khắp Hà Nội. Công ty chuyên
phân phối các mặt hàng nông sản - thực phẩm sạch và là địa chỉ uy tín lâu năm đối với người tiêu dùng
Hà Nội. Doanh nghiệp phân phối nông sản – thực phẩm này chịu tác động lực Kéo và hướng tới nhóm
tiêu dùng có nhu cầu truy xuất nguồn gốc cao hơn, yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng cao hơn. Đây là
mẫu tiêu biểu cho nhiều doanh nghiệp phát triển phân phối sản phẩm nông sản – thực phẩm theo xu
hướng tiêu dùng nông sản – thực phẩm cao cấp. Tuy nhiên ở các doanh nghiệp này, các tiêu chuẩn
“hữu cơ”, “không biến đổi gen” mới chịu tác động của lực “Kéo” thị trường, thiếu lực “Đẩy” từ hệ
thống chứng nhận, chính sách ưu đãi của Nhà nước nên minh bạch thơng tin đối với người tiêu dùng
cịn chưa tối ưu.
[cs4] Công ty TNHH một thành viên Phân phối Saigon Co.op (SCD): Là hệ thống bán lẻ uy tín
đối với người tiêu dùng thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và trên toàn quốc với chuỗi siêu thị, cửa hàng
Co.opmart, Co.opXtra, Co.opFood. Tính đến 12/2017, hệ thống Co.op mart có 92 siêu thị và gần 200 cửa
hàng Co.opFood trên toàn quốc. Các điểm bán hàng của hệ thống Co.op đều có chứng nhận an toàn thực
phẩm và đạt tiêu chuẩn VietGAP, VietGAP nhãn xanh. Để có thể cạnh tranh với thị trường bán lẻ trong
nước và nước ngoài tại Việt Nam, Saigon Co.op có chiến lược phát triển mới trong đó tập trung vào ba
lĩnh vực chính là: Phát triển mạng lưới, hàng hóa và logistics, xây dựng lộ trình chuyển đổi phù hợp. Cụ
thể năm 2018, Saigon Co.op sẽ xây dựng mơ hình kinh doanh mới trong đó có một Co.opmart phân khúc
cao (Finelife), kết nối đa phương tiện với các hình thức mua sắm khác. Đẩy mạnh khai thác kinh doanh
các mặt hàng hữu cơ... Tiếp tục hợp tác chặt chẽ với các nhà sản xuất uy tín để phân phối hàng hóa, thực
phẩm chất lượng cao đạt chuẩn an toàn thực phẩm. Đây là một đại diện cho doanh nghiệp chịu tác động
“Kéo” của thị trường qua các giai đoạn phát triển khác nhau, từ các tiêu chuẩn tuân theo lực “Đẩy” chính
sách về nhãn VietGAP đến đi sâu vào yêu cầu cao hơn của thị trường và có chiến lược gây dựng thương
hiệu riêng, tạo ra lực Đẩy mới, đáp ứng lực Kéo của thị trường.

[cs5] Công ty Thực phẩm sạch Biggreen Việt Nam: Được thành lập từ năm 2010, công ty hoạt
động trong lĩnh vực bán buôn, bán lẻ rau, quả thực phẩm sạch và đặc sản vùng miền. Đến nay
Biggreen Việt Nam đã xây dựng thành công chuỗi liên kết từ sản xuất đến cung ứng rau, quả sạch, trở
thành địa chỉ tin cậy của khách hàng ở thị trường Hà Nội. Biggreen Việt Nam đã xây dựng được mối
liên kết với nhiều hợp tác xã, đơn vị sản xuất rau an toàn tại nhiều vùng rau lớn trên cả nước như: Mộc
Châu (tỉnh Sơn La), Bắc Hà (tỉnh Lào Cai), Đà Lạt (tỉnh Lâm Đồng) và Đông Anh (Thành phố Hà
Nội). Công ty cũng đã phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội khai trương
Trung tâm Tư vấn, giới thiệu và bán nơng sản thực phẩm an tồn. Các sản phẩm được trưng bày và
giới thiệu tại trung tâm đều có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, được sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP,
GlobalGAP hay hữu cơ, có sự liên kết tổ chức sản xuất theo chuỗi và được kiểm soát chặt chẽ trong tất
cả các khâu. Đặc biệt, tất cả các sản phẩm được bày bán đều có dán tem QR Code trên bao bì để khách
hàng có thể dễ dàng kiểm tra thông tin và truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Đây là mẫu kết hợp lực Đẩy
chính sách và lực Kéo thị trường liên tục, với mỗi lực Kéo yêu cầu của thị trường, lại có sự phối hợp
lực Đẩychính sách kịp thời hỗ trợ.
Với các trường hợp nghiên cứu như trên, mặc dù đã có vận dụng lực Đẩy và Kéo của chính
sách và yêu cầu thị trường, các doanh nghiệp phân phối nông sản an toàn của Việt Nam chưa phát huy
được tiềm năng, cùng với việc xuất hiện ngày càng nhiều tập đoàn phân phối lớn của nước ngoài với
tiềm lực mạnh và tính chuyên nghiệp cao, đã làm cho một số các doanh nghiệp phân phối Việt Nam
bán lại cho các tập đồn lớn này. Cụ thể có thể thấy:
86


Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 1 năm 2018

(i) Đáp ứng của lực Đẩy chính sách về hệ thống chứng nhận đáp ứng nhu cầu lực Kéo của thị
trường còn yếu, đến nay chỉ có chứng nhận an tồn ở mức tối thiểu, chưa phong phú, đa dạng. Hệ
thống kiểm định còn yếu kém dẫn tới niềm tin suy giảm. Nhiều hệ thống phân phối uy tín muốn đưa
các mặt hàng nơng sản sạch vào hệ thống bán hàng của mình với giá cả hợp lý, cạnh tranh song quy
mô sản xuất các mặt hàng này hiện nay còn nhỏ lẻ, manh mún, nhiều loại nông sản chưa đáp ứng được
yêu cầu về thủ tục giấy tờ đăng ký, kiểm định chất lượng, phương thức thanh toán. Một số các cơ sở

sản xuất hàng nơng sản mặc dù có giấy chứng nhận Vietgap hoặc cơ sở sản xuất an tồn nhưng hệ
thống kiểm sốt chất lượng của kênh phân phối vẫn phát hiện có tồn dư hóa chất, kháng sinh, vi
khuẩn... trong thực phẩm. Chưa có chế tài đủ mạnh để răn đe các cửa hàng phân phối nơng sản khơng
đảm bảo an tồn. Lực lượng cán bộ thanh kiểm tra các cơ sở phân phối hàng nơng sản cịn mỏng về số
lượng và kém trình độ nên nhiều vụ việc vi phạm kinh doanh an toàn thực phẩm chưa được phát hiện.
(ii) Do thiếu phân tích lực Kéo cụ thể về nhu cầu, chủng loại, thời điểm, các doanh nghiệp phân
phối nông sản cịn bị động vì phải phụ thuộc vào mùa vụ, thời tiết, chất lượng của sản phẩm, biến động
giá cả của thị trường trong và ngoài nước.
(iii) Do các phân tích về thị trường cịn yếu, hợp đồng số lượng lớn, ổn định chưa nhiều: Một
số doanh nghiệp phân phối sản phẩm nơng sản an tồn vào siêu thị cịn gặp nhiều khó khăn: thời gian
chờ nhập hàng vào siêu thị, chi phí vận chuyển cao do mỗi lần siêu thị nhập hàng vào với số lượng ít,
việc chiết khấu cho siêu thị cao (từ 23-25% giá sản phẩm), thời gian thanh tốn tiền hàng của siêu thị
cịn chậm so với thực tế ghi trong hợp đồng khiến các doanh nghiệp này gặp khó khăn do khơng có
kinh phí tái đầu tư.
3.2. Kinh nghiệm phát triển hệ thống phân phối nơng sản sạch của Thái Lan
3.2.1. Hệ thống chính sách phát triển thị trường bền vững tác động thuận lợi tới phân phối nông sản thực phẩm
Theo Ngân hàng thế giới (World Bank) (2016), nông nghiệp chiếm 12% Tổng sản phẩm quốc
nội (GDP) Thái Lan và sử dụng 32% lao động tồn quốc. Mặc dù khu vực cơng nghiệp Thái Lan
chiếm 40% GDP song khu vực này có mối quan hệ chặt chẽ với khu vực nông nghiệp do ngành công
nghiệp chế biến thực phẩm chiếm tỷ lệ cao trong khu vực công nghiệp. Khu vực dịch vụ chiếm 45%
GDP, trong đó các dịch vụ vận chuyển và giao nhận thực phẩm giữa các thành phố, bán buôn và bán lẻ
thực phẩm chiếm tỷ trọng cao. Năm 2015, ngành bán lẻ Thái Lan đạt 84,31 tỷ USD. Bán lẻ được chia
thành khu vực thực phẩm và phi thực phẩm, trong đó bán lẻ thực phẩm chiếm 62% tổng mức bán lẻ.
Để mạng lưới phân phối thực phẩm phát triển, Thái Lan đã có các chính sách đồng bộ hỗ trợ
các mắt xích quan trọng trong mạng lưới phân phối như: Khuyến khích phát triển các tập đồn thu mua
nơng sản và phân phối lớn có quy mơ quốc gia; đảm bảo đầu ra cho các hộ nông dân; nâng cao uy tín
các đơn vị kinh doanh bán lẻ, tạo niềm tin cho người tiêu dùng trong nước và khách du lịch; quản lý,
chứng nhận và giám sát chất lượng, tiếp thị thương hiệu thực phẩm. Cụ thể, mạng lưới phân phối thực
phẩm của Thái Lan được hỗ trợ bởi các yếu tố sau:
(i) Hệ thống chứng nhận chất lượng rõ ràng, được người tiêu dùng tin cậy: Thái Lan là một

trong các quốc gia Đông Nam Á đi đầu trong việc tạo ra các chứng nhận chất lượng cụ thể, phù hợp
với u cầu quốc tế và tồn cầu hóa. Chứng nhận nông sản hữu cơ của Thái Lan tạo ra các sản phẩm
có chứng nhận rõ ràng về chất lượng, giúp khẳng định thương hiệu nông sản. Cơ quan cấp chứng nhận
hữu cơ nổi bật của Thái Lan là Actorganic-cert (ACT). ACT tuân theo các tiêu chuẩn và quy định của
các cơ quan chứng nhận quốc tế như: tiêu chuẩn châu Âu số 1235/2008 (điều 10) có từ năm 2011, Tiêu
chuẩn hữu cơ Canada của cơ quan giám sát thực phẩm Canada năm 2009. Hệ thống chứng nhận ACT
có tính linh động cao khi có các hồ sơ khác nhau tùy vào sản phẩm xin cấp chứng nhận để bán ở thị
trường nào giúp tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp.
Theo Hiệp hội Thương mại nông sản hữu cơ Thái Lan (2011), nông nghiệp hữu cơ đã sớm
được xếp vào chương trình quốc gia trọng yếu nhằm thúc đẩy thực phẩm an toàn và xuất khẩu thực
87


Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 1 năm 2018

phẩm của Thái Lan. Từ những năm 1980s, các hộ nơng dân, tổ chức phi chính phủ đã thành lập Mạng
lưới nông nghiệp thay thế (Alternative Agriculture Network - AAN) nhằm củng cố các hoạt động nông
nghiệp bền vững của Thái Lan. Trong gần 40 năm, các sản phẩm hữu cơ ngày càng đa dạng và được
người tiêu dùng đón nhận bởi chất lượng cũng như sự an toàn cho sức khỏe người tiêu dùng. Sự hỗ trợ
của chính phủ Thái Lan đối với các tổ chức và hiệp hội chứng nhận chất lượng đã bắt kịp xu hướng
tiêu dùng thực phẩm sạch, hạn chế hóa chất của người tiêu dùng Thái Lan và quốc tế.
(ii) Đầu tư cho nghiên cứu và phát triển nông sản và tiêu thụ nông sản: Theo Jennifer Phang
(2011), Thái Lan có các cơ quan nghiên cứu về gen và kỹ thuật sản xuất thực phẩm như Viện Thực phẩm
quốc gia (The National Food Institute (NFI)), Vụ Dịch vụ kỹ thuật thực hiện các hệ thống an toàn thực
phẩm theo tiêu chuẩn Thực hành sản xuất tốt (tiếng Anh là Good Manufacturing Practices, viết tắt là
GMP) và Hệ thống phân tích mối nguy hại trong thực phẩm (tiếng Anh là Hazard Analysis and Critical
Control Points, viết tắt là HACCP), Cơ quan phát triển nghiên cứu nông nghiệp (ARDA) phối hợp với
NFI để phát triển thực phẩm chế biến và nguồn nhân lực cho ngành nông sản - thực phẩm.
(iii) Chiến lược của chính phủ Thái Lan về hỗ trợ tiêu thụ nơng sản và thực phẩm ổn định: Thái
Lan có chiến lược nông sản quốc tế mang tên “Thái Lan - Bếp ăn của Thế giới” cho giai đoạn 20122016 nhằm nâng cao chất lượng thực phẩm của Thái Lan bao gồm: nâng cao khoa học công nghệ trong

nông nghiệp, nâng cao kiến thức cho nông dân, tạo ra các ngành cơng nghiệp chế biến nơng sản có giá
trị gia tăng cao. Theo Tổ chức y tế Thế giới (2015), đến nay có hơn 85.000 cửa hàng thực phẩm đường
phố và 50.000 nhà hàng tham gia dự án Thực phẩm sạch, hương vị ngon, được Bộ Sức khỏe cộng
đồng phối hợp Tổng cục Du lịch Thái Lan và Bộ Nội vụ khởi động từ năm 1989. Chiến lược nhằm
đảm bảo thực phẩm vệ sinh an toàn phục vụ du lịch và sự chủ động của các cơ quan quản lý thực phẩm
địa phương. Trong chiến lược tiếp thị nông sản và thực phẩm của Thái Lan, phối hợp tiếp thị nông sản
và du lịch là một nội dung được chú trọng: Tổng cục du lịch Thái Lan sử dụng hình ảnh thực phẩm
Thái Lan như một sản phẩm du lịch. Chiến lược của Tổng cục là khiến người Thái Lan và khách du
lịch cùng biết đến và yêu thích thực phẩm Thái, đặc biệt các thực phẩm chế biến từ nông sản địa
phương. Mục tiêu của Chiến lược không chỉ là tăng thu cho ngành du lịch thông qua khách du lịch
thưởng thức thực phẩm Thái mà còn nâng cao giá trị của thực phẩm Thái, gây dựng hình ảnh quốc gia.
Chiến lược toàn diện Tổng cục du lịch 2018 đảm bảo lượt khách du lịch cao trong bối cảnh cạnh tranh
nhằm tạo nguồn tiêu thụ cho sản phẩm nông nghiệp và phối hợp đảm bảo chất lượng nông sản, thực
phẩm để khách du lịch quay trở lại.
(iv) Chiến lược duy trì và nâng cao chất lượng chợ truyền thống với các doanh nghiệp siêu nhỏ
bán hàng song song với chuỗi siêu thị hiện đại: Mặc dù xu hướng người tiêu dùng mua sắm tại các siêu
thị tăng nhanh chóng trong thập kỷ vừa qua, Thái Lan không bỏ mặc các khu chợ truyền thống mà áp
dụng các tiêu chuẩn chất lượng cho cả các khu chợ và biến chợ truyền thống thành các điểm thu hút
khách du lịch, giới thiệu về nơng sản, thực phẩm địa phương. Việc duy trì các tiểu thương hay các
doanh nghiệp siêu nhỏ kinh doanh nông sản, thực phẩm cùng với các hệ thống siêu thị tạo ra trạng thái
thị trường cân bằng, ổn định, cạnh tranh lành mạnh hơn. Ngoài ra, các hệ thống siêu thị lớn hầu như là
các doanh nghiệp vốn nước ngồi thì các tiểu thương và doanh nghiệp siêu nhỏ tại các chợ truyền
thống là doanh nghiệp Thái Lan, việc duy trì song song cả hai hệ thống giúp duy trì được nội lực cân
bằng cho các doanh nghiệp thương mại kinh doanh nông sản của Thái Lan.
(v) Thương mại điện tử phát triển: Theo báo cáo Kỹ thuật số Đông Nam Á năm 2017 của tổ
chức We are Social, Thái Lan có 85% dân số sử dụng internet ít nhất một lần một ngày. Đây là cơ sở
để tiếp thị thông tin nông sản, thực phẩm và phân phối bán buôn và bán lẻ cùng phát triển.
(vi) Từ khi xây dựng ngành nông nghiệp hiện đại, năng suất cao, Thái Lan chú trọng và ưu tiên
phát triển các tập đồn lớn, có khả năng thu mua trên quy mơ vùng hoặc quốc gia và đảm bảo đầu ra
ổn định. Theo Diễn đàn lãnh đạo kinh doanh (2018), Kinh nghiệm của tập đoàn Central Group là làm

việc chặt chẽ với các hộ nơng dân để có kế hoạch thu mua nông sản thường xuyên theo giá thị trường

88


Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 1 năm 2018

phân phối trong hệ thống Big C. Kế hoạch thu mua giúp các hộ nông dân chú trọng nâng cao chất
lượng nông sản hoặc xem xét khả năng mở rộng sản xuất ổn định.
3.2.2. Tổng hợp mơ hình hệ thống phân phối trong thị trường bền vững từ bài học kinh nghiệm của
Thái Lan
Từ kinh nghiệm của Thái Lan trong việc tạo ra hệ thống chất lượng sản xuất, đảm bảo đầu ra,
tiếp thị hình ảnh, phối hợp du lịch, chứng nhận chất lượng, có thể thấy được việc phân phối nông sản
không đơn thuần là phân phối riêng lẻ. Khâu phân phối này cần đặt trong chiến lược tổng thể để phân
phối được thông suốt và bền vững. Kinh nghiệm của Thái Lan cho thấy một lực “Đẩy” bao quát, đồng
bộ trên mọi phương diện chiến lược dài hạn, chính sách phát triển, tận dụng tối đa mỗi lực “Kéo” của
thị trường. Nhóm tác giả xây dựng mơ hình phân phối nơng sản an tồn như sau:
Sơ đồ 4: Mơ hình phân phối nơng sản an tồn

Nguồn: Nhóm tác giả nghiên cứu tổng hợp mơ hình hệ thống phân phối nơng sản – thực phẩm của Thái Lan

Phân tích sơ đồ trên, nhóm tác giả thấy các yếu tố trên có quan hệ phụ thuộc như sau:
- Nếu hệ thống chứng chỉ, kiểm định không nghiêm ngặt, khơng tạo niềm tin cho người tiêu
dùng thì mắt xích tiếp thị sản phẩm khơng hiệu quả. Ngược lại, nếu chỉ đảm bảo chứng chỉ và chất
lượng cho sản phẩm nhưng cơng tác tiếp thị khơng tốt thì người tiêu dùng không biết đến và không
phân biệt được chất lượng sản phẩm.
- Tổ chức đội ngũ tiếp thị sản phẩm rộng rãi giới thiệu những sản phẩm nông sản an toàn, đảm
bảo sức khỏe cho người tiêu dùng thay vì những thực phẩm bẩn, khơng rõ nguồn gốc tràn lan trên thị
trường, dần dần xây dựng uy tín thương hiệu của mình trên thị trường hàng nơng sản một cách bền vững.
- Có chiến lược thu hút khách du lịch và người tiêu dùng, đảm bảo được đầu ra ổn định mới có

thể ký hợp đồng dài hạn với các doanh nghiệp bán lẻ.
- Hợp đồng đầu ra bền vững mới có thể xây dựng hệ thống thu mua bền vững và ngược lại.
- Hệ thống thu mua bền vững, có doanh số ổn định, đảm bảo chất lượng sản phẩm mới đủ điều
kiện được cấp chứng chỉ.
89


Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 1 năm 2018

4. Một số khuyến nghị và giải pháp thúc đẩy phát triển kênh phân phối nông sản an tồn Việt
Nam
Từ các phân tích hiện trạng và kinh nghiệm Thái Lan, nhóm tác giả đưa ra các khuyến nghị sau
cho Việt Nam:
- Xây dựng cơ quan nghiên cứu thông tin thị trường nông sản – thực phẩm cho doanh nghiệp;
- Có chính sách khuyến khích hình thành các đơn vị chứng nhận độc lập phù hợp yêu cầu của
thị trường;
- Có chiến lược dài hạn xây dựng thị trường tiêu thị nông sản – thực phẩm trong nước bền
vững, thu hút các nhóm tiêu dùng sản phẩm nhập khẩu và khách du lịch sang sử dụng nông sản - thực
phẩm nội địa được chứng nhận chất lượng cao;
- Thúc đẩy chính sách đầu tư hạ tầng, sử dụng đất và hỗ trợ về vốn, chính sách thuế nhằm phát
triển các mơ hình sản xuất quy mơ lớn gắn với thị trường tiêu thụ trong nước cũng như xuất khẩu công
nghệ cao, tạo ra các hợp đồng lớn và dài hạn giúp ổn định các vùng sản xuất chất lượng cao;
- Rà soát thường xuyên phối hợp giữa ba Bộ có liên quan, tránh chồng chéo trong quản lý và
giám. Tăng cường vai trị, trách nhiệm của chính quyền các cấp trong công tác quản lý ATTP trên từng
địa bàn và phối hợp tốt với các đoàn thể chính trị, xã hội, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp trong công
tác tuyên truyền, vận động, giám sát để đảm bảo ATTP. Nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả, tính
răn đe trong cơng tác thanh, kiểm tra ATTP để đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng, người sản xuất
và kinh doanh chân chính cũng như bảo vệ uy tín của nơng sản Việt Nam trên thị trường trong nước và
quốc tế.
5. Kết luận

Hệ thống phân phối nông sản - thực phẩm sạch là một đề tài quan trọng, nghiên cứu vấn đề
thiết thực về thị trường nông sản - thực phẩm hiện nay của Việt Nam, với vị thế một quốc gia đang
phát triển, có tiềm lực về nơng nghiệp và thị trường rộng lớn địi hỏi về chất lượng ngày càng cao.
Nhóm tác giả dựa trên các phân tích, đánh giá về hiện trạng hệ thống phân phối nơng sản an tồn của
Việt Nam và bài học kinh nghiệm của Thái Lan, từ đó rút ra được các luận điểm nghiên cứu quan
trọng: Một là, hệ thống phân phối nông sản - thực phẩm sạch, an tồn của Việt Nam cịn manh mún,
nhỏ lẻ, chủ yếu quy mơ hộ gia đình và phần lớn các doanh nghiệp nhỏ, thiếu về vốn, kỹ thuật và chiến
lược dài hạn. Hai là, hệ thống phân phối nông sản - thực phẩm còn chưa nằm trong một mạng lưới kết
nối các đơn vị chứng nhận có tầm quốc tế, người tiêu dùng, người sản xuất, các kênh bán buôn và bán
lẻ. Sự thiếu kết nối này tạo ra sự bị động cho nhà sản xuất và các doanh nghiệp phân phối cũng như
người tiêu dùng khi sản xuất không dựa trên thông tin thị trường và đầu ra không ổn định.
Nhóm tác giả phân tích các bài học kinh nghiệm của Thái Lan do đặc điểm tương đồng về lợi
thế phát triển nông nghiệp của hai quốc gia cũng như sự thành công nhất định mà Thái Lan đã đạt
được trong việc trở thành thương hiệu Bếp ăn của thế giới. Trong các bài học kinh nghiệm, Việt Nam
nên ưu tiên tham khảo các chính sách có khả năng áp dụng hiệu quả nhất. Một là, khuyến khích hình
thành các đơn vị chứng nhận độc lập có tầm quốc tế và hỗ trợ kết nối đơn vị chứng nhận với doanh
nghiệp phân phối nông sản - thực phẩm để gây dựng niềm tin đối với người tiêu dùng và xây dựng
thương hiệu dài hạn, đem lại giá trị gia tăng cao. Hai là, có chiến lược dài hạn phát triển thị trường ổn
định thơng qua quảng bá hình ảnh nơng nghiệp quốc gia, kết nối nông sản - thực phẩm và du lịch để
tạo đầu ra ổn định cho các doanh nghiệp phân phối, nhờ đó có thể ký được hợp đồng dài hạn bền vững
về số lượng và chất lượng. Trong tương lai, chủ đề nghiên cứu này có thể phát triển thêm về mơ hình
kết hợp sản xuất và phân phối nông sản - thực phẩm từ kinh nghiệm quốc tế của các quốc gia có trình
độ khoa học kỹ thuật cao về sản xuất và phân phối nơng sản - thực phẩm an tồn.

90


Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 1 năm 2018

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

Báo cáo Kỹ thuật số Đông Nam Á năm 2017 của
/>
tổ

chức

We

are

Social

2. Các văn bản luật pháp và chính sách liên quan của Chỉnh phủ
3. J.D. Kinsey, 2001. The new food economy: Consumers, farms, pharms and science. American Journal of
Agricultural Economics, Vol.83 (2001)
4.

Jennifer Phang. 2011. Government boost Organic food industry />
5. Ngô Minh Hải, Vũ Quỳnh Hoa. 2016. Nhận thức của người tiêu dùng Việt Nam về thực phẩm hữu cơ, Tạp
chí KH Nơng nghiệp Việt Nam 2016, tập 14, số 9: 1466-1474
6. Prapimphan Chiengkul. 2017. The Political Economy of the Agri-Food System in Thailand: Hegemony,
Counter
7. T. Heller, Sales grow so does competition, Progressive Grocer, Vol. 81 No. 10 (2002)
8. Thailand’s agriculture plan for 2012-2016 .2012. />9. V. Salin, 1998. Information technology in agri-food supply chains. International Food and Agribusiness
Management Review
10. Võ Thị Ngọc Thúy, Ảnh hưởng của nhãn mác thực phẩm an toàn đến hành vi khách hàng với sản phẩm của
nhãn hàng riêng, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 32, Số 4 (2016) 59-68
11. Website của các đơn vị được lựa chọn làm nghiên cứu trường hợp.


91



×